Bản chất con người - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Theo Các Mác, con người là một sinh vật có tính xã hội ở trình độ phát triểncao nhất của giới tự nhiên và của lịch sử xã hội, đồng thời cũng là chủ thể củalịch sử. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ BẢN
CHẤT CON NGƯỜI.
Theo Các Mác, con người là một sinh vật có tính xã hội ở trình độ phát triển
cao nhất của giới tự nhiên của lịch sử hội, đồng thời cũng chủ thể của
lịch sử, sáng tạo nên tất cả các thành tựu của văn minh văn hóa tồn tại trong
đời sống nhân loại cho tới ngày nay.
Xét theo khía cạnh thực thể tự nhiên, con người là kết quả của quá trình tiến
hóa phát triển lâu dài của giới tự nhiên. sở khoa học của kết luận này đã
được chứng minh bằng toàn bộ những quan điểm tiến bộ trong lịch sử Triết học
của chủ nghĩa duy vật và các thành tựu khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết
của Đácuyn về sự tiến hóa của các loài. Hơn thế nữa, con người cũng một bộ
phận của giới tự nhiên đồng thời giới tự nhiên cũng “là thân thể của
con người”. Do đó, sự tồn tại của con người hội loài người thường xuyên
được quy định bởi những biến đổi của giới tự nhiên tác động của quy luật tự
nhiên theo một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Ngược lại, môi trường tự nhiên
cũng chịu sự tác động của sự biến đổi hoạt động của con người, hội loài
người, khiến tính chất vốn có môi trường đó thay đổi. Đây chính là mối quan hệ
biện chứng giữa sự tồn tại của con người, hội loài người các tồn tại khác
của giới tự nhiên.
Ngoài ra, Triết học Mác – Lênin cũng phân tích khái niệm con người xét theo
khía cạnh thực thể hội. Mỗi con người với cách “người” chính xét
trong mối quan hệ của các cộng đồng hội, đó là: gia đình, giai cấp, quốc gia,
dân tộc nhân loại. Loài người không phải chỉ nguồn gốc từ sự tiến hóa,
phát triển của vật chất tự nhiên còn nguồn gốc hội của nó, trong đó
trước hếtcơ bản nhất là nhân tố lao động. Chính nhờ lao độngcon người
khả năng vượt qua loài động vật để tiến hóa phát triển thành người. Bên
cạnh đó, sự tồn tại của loài người luôn luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và
các quy luật hội. nghĩa rằng, khi hội biến đổi, mỗi con người cũng do
đó cũng sự thay đổi tương ứng. cũng như vòng lặp tương tự khía
1
cạnh thực thể tự nhiên, sự phát triển của mỗi cá nhân là tiền đề cho sự phát triển
của toàn xã hội.
Thế nên, thể thấy, hai khía cạnh tự nhiên hội của con người không
thể tách rời nhau để trở thành hai phương diện độc lập, chúng phải tồn tại
với tính thống nhất, quy định tác động lẫn nhau, nhờ đó tạo nên khả năng
sáng tạo của con người trong chính quá trình làm ra lịch sử.
Qua quan điểm trên, ta thể suy ra được chủ nghĩa duy vật biện chứng
trong chủ nghĩa Mác Lênin không chỉ thừa nhận bản tính tự nhiên của con
người, mà còn lý giải con người từ giác độ các quan hệ lịch sử xã hội, từ đó phát
hiện bản tính hội của nó. Các Mác cho rằng tiền đề của luận duy vật biện
chứng những con người hiện thực đang hoạt động, lao động sản xuất làm
ra lịch sử của chính mình, khiến cho họ trở thành những con người đang sống và
tồn tại. [6] ông cũng rút ra được, bản tính hội của con người phản ánh
phương diện bản chất nhất của con người với cách “người”, phân biệt con
người với các giống loài khác của giới tự nhiên. Con người một thực thể tự
nhiên mang đặc tính xã hội,hình thành thông qua các mối quan hệ xã hội thể
hiện giá trị vai trò của mình với những tính chất đặc tính xã hội. Vậy nên, có thể
nói, con người là sản phẩm của lịch sử và của bản thân con người, bởi con người
đã tạo ra con người thông qua xuyên suốt quá trình sáng tạo lịch sử.
Hơn nữa, con người không thụ động để lịch sử làm mình thay đổi, bởi thế mà
con người còn là chủ thể của lịch sử. Lịch sử sản xuất ra con người như thế nào
thì con người cũng sáng tạo ra lịch sử tương ứng. Từ khi con người tạo ra lịch sử
cho đến nay con người luôn là chủ thể của lịch sử, nhưng cũng luôn là sản phẩm
của lịch sử. [8] Xét trên phương diện tính hiện thực, bản chất của con người
chính là “tổng hòa các quan hệ xã hội”, bởi xã hội chính là xã hội của con người,
được tạo nên từ toàn bộ các quan hệ giữa người với người trên các mặt kinh tế,
chính trị, văn hóa… Các quan hệ hội này tạo nên bản chất của con người,
nhưng không phải là sự kết hợp giản đơn mà là sự tổng hòa chúng; mỗi quan hệ
xã hội có vị trí, vai trò khác nhau,tác động qua lại, không tách rời nhau. Các
2
mối quan hệ đạo đức, kinh tế, chính trị, văn hóa trong những điều kiện lịch sử
khác nhau, bản chất và giá trị con người sẽ có biến đổi khác nhau. Nghĩa là, khi
muốn giải phóng bản chất con người thì cần phải giải phóng những quan hệ kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nó, từ đó có thể phát huy khả năng sáng tạo lịch
sử của con người. [9]
3
| 1/3

Preview text:

PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI.
Theo Các Mác, con người là một sinh vật có tính xã hội ở trình độ phát triển
cao nhất của giới tự nhiên và của lịch sử xã hội, đồng thời cũng là chủ thể của
lịch sử, sáng tạo nên tất cả các thành tựu của văn minh và văn hóa tồn tại trong
đời sống nhân loại cho tới ngày nay.
Xét theo khía cạnh thực thể tự nhiên, con người là kết quả của quá trình tiến
hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Cơ sở khoa học của kết luận này đã
được chứng minh bằng toàn bộ những quan điểm tiến bộ trong lịch sử Triết học
của chủ nghĩa duy vật và các thành tựu khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết
của Đácuyn về sự tiến hóa của các loài. Hơn thế nữa, con người cũng là một bộ
phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng “là thân thể vô cơ của
con người”. Do đó, sự tồn tại của con người và xã hội loài người thường xuyên
được quy định bởi những biến đổi của giới tự nhiên và tác động của quy luật tự
nhiên theo một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Ngược lại, môi trường tự nhiên
cũng chịu sự tác động của sự biến đổi và hoạt động của con người, xã hội loài
người, khiến tính chất vốn có môi trường đó thay đổi. Đây chính là mối quan hệ
biện chứng giữa sự tồn tại của con người, xã hội loài người và các tồn tại khác của giới tự nhiên.
Ngoài ra, Triết học Mác – Lênin cũng phân tích khái niệm con người xét theo
khía cạnh thực thể xã hội. Mỗi con người với tư cách là “người” chính là xét
trong mối quan hệ của các cộng đồng xã hội, đó là: gia đình, giai cấp, quốc gia,
dân tộc và nhân loại. Loài người không phải chỉ có nguồn gốc từ sự tiến hóa,
phát triển của vật chất tự nhiên mà còn có nguồn gốc xã hội của nó, trong đó
trước hết và cơ bản nhất là nhân tố lao động. Chính nhờ lao động mà con người
có khả năng vượt qua loài động vật để tiến hóa và phát triển thành người. Bên
cạnh đó, sự tồn tại của loài người luôn luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và
các quy luật xã hội. Có nghĩa rằng, khi xã hội biến đổi, mỗi con người cũng do
đó mà cũng có sự thay đổi tương ứng. Và cũng như vòng lặp tương tự ở khía 1
cạnh thực thể tự nhiên, sự phát triển của mỗi cá nhân là tiền đề cho sự phát triển của toàn xã hội.
Thế nên, có thể thấy, hai khía cạnh tự nhiên và xã hội của con người không
thể tách rời nhau để trở thành hai phương diện độc lập, mà chúng phải tồn tại
với tính thống nhất, quy định và tác động lẫn nhau, nhờ đó tạo nên khả năng
sáng tạo của con người trong chính quá trình làm ra lịch sử.
Qua quan điểm trên, ta có thể suy ra được chủ nghĩa duy vật biện chứng
trong chủ nghĩa Mác – Lênin không chỉ thừa nhận bản tính tự nhiên của con
người, mà còn lý giải con người từ giác độ các quan hệ lịch sử xã hội, từ đó phát
hiện bản tính xã hội của nó. Các Mác cho rằng tiền đề của lý luận duy vật biện
chứng là những con người hiện thực đang hoạt động, lao động sản xuất và làm
ra lịch sử của chính mình, khiến cho họ trở thành những con người đang sống và
tồn tại. [6] Và ông cũng rút ra được, bản tính xã hội của con người phản ánh
phương diện bản chất nhất của con người với tư cách “người”, phân biệt con
người với các giống loài khác của giới tự nhiên. Con người là một thực thể tự
nhiên mang đặc tính xã hội, nó hình thành thông qua các mối quan hệ xã hội thể
hiện giá trị vai trò của mình với những tính chất đặc tính xã hội. Vậy nên, có thể
nói, con người là sản phẩm của lịch sử và của bản thân con người, bởi con người
đã tạo ra con người thông qua xuyên suốt quá trình sáng tạo lịch sử.
Hơn nữa, con người không thụ động để lịch sử làm mình thay đổi, bởi thế mà
con người còn là chủ thể của lịch sử. Lịch sử sản xuất ra con người như thế nào
thì con người cũng sáng tạo ra lịch sử tương ứng. Từ khi con người tạo ra lịch sử
cho đến nay con người luôn là chủ thể của lịch sử, nhưng cũng luôn là sản phẩm
của lịch sử. [8] Xét trên phương diện tính hiện thực, bản chất của con người
chính là “tổng hòa các quan hệ xã hội”, bởi xã hội chính là xã hội của con người,
được tạo nên từ toàn bộ các quan hệ giữa người với người trên các mặt kinh tế,
chính trị, văn hóa… Các quan hệ xã hội này tạo nên bản chất của con người,
nhưng không phải là sự kết hợp giản đơn mà là sự tổng hòa chúng; mỗi quan hệ
xã hội có vị trí, vai trò khác nhau, có tác động qua lại, không tách rời nhau. Các 2
mối quan hệ đạo đức, kinh tế, chính trị, văn hóa trong những điều kiện lịch sử
khác nhau, bản chất và giá trị con người sẽ có biến đổi khác nhau. Nghĩa là, khi
muốn giải phóng bản chất con người thì cần phải giải phóng những quan hệ kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nó, từ đó có thể phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của con người. [9] 3