Bản chất của Nhà nước Việt Nam - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam là nhà nước dân chủ, nhưng tuyệt nhiên nó không phải là “nhà nước toàn dân”, hiểu theo nghĩa là nhà nước phi giai cấp. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

I. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân
1.Bản chất của Nhà nước Việt Nam
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam là nhà nước dân chủ, nhưng tuyệt
nhiên nó không phải là “nhà nước toàn dân”, hiểu theo nghĩa là nhà nước phi giai cấp.
Nhà nước Việt Nam mới - Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, theo quan điểm của
Hồ Chí Minh, là một nhà nước mang bản chất của giai cấp công nhân.
* Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước Việt Nam thể hiện trên những
phương diện sau:
- , Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vị trí và vai trò cầm quyền mà nòng cốt là liênMột là
minh công - nông - trí thức, đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Lời nói đầu của bản Hiến pháp năm 1959 khẳng định: “Nhà nước của ta là Nhà
nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân
lãnh đạo.”
+ Đảng cầm quyền bằng các phương thức:
Bằng đường lối, quan điểm, chủ trương để Nhà nước thể chế hoá thành pháp
luật, chính sách, kế hoạch
Bằng hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng viên của mình trong bộ máy,
cơ quan nhà nước
Bằng công tác kiểm tra
- bản chất giai cấp công nhân thể hiện ở tính định hướng xã hội chủ nghĩa sau Hai là,
khi đất nước giành thắng lợi sẽ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản.
+ Đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là mục tiêu cách mạng
nhất quán của Hồ Chí Minh.
- bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước thể hiện ở nguyên tắc tổ chức và Ba là,
hoạt động của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ.
+ Người nhấn mạnh đến sự cần thiết phải phát huy cao độ dân chủ, đồng thời cũng
nhấn mạnh phải phát huy cao độ tập trung, Nhà nước phải tập trung thống nhất quyền
lực để tất cả mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
* Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân và tính dân tộc thể
hiện cụ thể như sau:
- Một là, Nhà nước Việt Nam ra đời là kết quả đấu tranh lâu dài gian khổ của rất
nhiều thế hệ người Việt Nam, của toàn thể dân tộc
+ Từ giữa thế kỉ XIX, khi đất nước bị ngoại xâm, các tầng lớp nhân dân Việt Nam với
nhiều thế hệ đã chiến đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc.
+ Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trở thành lực lượng lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng của dân tộc: với chiến lược đại đoàn kết đúng đắn, đã chiến thắng giặc ngoại
xâm, giành lại độc lập, tự do, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
- Hai là, Nhà nước Việt Nam ngay từ khi ra đời đã xác định rõ và luôn kiên trì, nhất
quán mục tiêu vì quyền lợi của nhân dân, lấy quyền lợi của dân tộc làm nền tảng.
+ Hồ Chí Minh khẳng định quyền lợi cơ bản của giai cấp công nhân thống nhất với
lợi ích của nhân dân lao động và của toàn dân tộc.
- Ba là, con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đi đến chủ nghĩa cộng sản là con
đường mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định, cũng là sự nghiệp của chính Nhà
nước.
2. Nhà nước của dân
Khái niệm: Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, nhà nước của nhân dân là nhà nước
mà tất cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Người
khẳng định: “Trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà của chúng ta, tất cả mọi quyền
lực đều là của nhân dân”.
Trong nhà nước dân chủ, nhân dân thực thi quyền lực thông qua hai hình thức dân
chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp.
Dân chủ trực tiếp nhân dân trực tiếp quyết định mọi là hình thức dân chủ trong đó
vấn đề liên quan đến vận mệnh của quốc gia, dân tộc và quyền lợi của dân chúng. Hồ
Chí Minh luôn coi trọng hình thức dân chủ trực tiếp và tạo mọi điều kiện thuận lợi để
thực hành dân chủ trực tiếp, bởi đây là hình thức dân chủ hoàn mỹ nhất
.
Cùng với dân chủ trực tiếp, hay dân chủ đại diện là hình thức dân dân chủ gián tiếp
chủ được . Đó là hình thức sử dụng rộng rãi nhằm thực thi quyền lực của nhân dân
dân chủ mà trong đó nhân dân thực thi quyền lực của mình thông qua các đại diện mà
họ lựa chọn, bầu ra và những thiết chế quyền lực mà họ lập nên.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, trong hình thức dân chủ gián tiếp:
- Quyền lực nhà nước là “thừa ủy quyền” của nhân dân. Tự bản thân nhà nước không
có quyền lực. Quyền lực của nhà nước là do nhân dân ủy thác. Do vậy, các cơ quan
quyền lực nhà nước cùng với đội ngũ cán bộ “đều là công bộc của dân, nghĩa là để
gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân”.
Ở dây, Hồ Chí Minh đã xác định rõ vị thế và mối quan hệ giữa nhân dân với cán bộ
nhà nước trên cơ sở nhân dân là chủ thể nắm giữ mọi quyền lực. Theo Hồ Chí Minh:
“Dân làm chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này ủy viên khác là làm gì?
Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng”;
“Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách
mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước đều là phán công làm đày
tớ cho dân”
- Nhân dân có quyền kiểm soát, phê bình nhà nước, có quyền bãi miền những đại biểu
mà họ đã lựa chọn, bầu ra và có quyền giải tán những thiết chế quyền lực mà họ đã
lập nên.
- Luật pháp dân chủ và là công cụ quyền lực của nhân dân : nó phản ảnh được ý
nguyện và bảo vệ quyền lợi của dân chúng. Luật pháp đó là của nhân dân, là công cụ
thực thi quyền lực của nhân dân, là phương tiện để kiểm soát quyền lực nhà nước
3.Nhà nước do dân
* Khái niệm
- Nhà nước do nhân dân trước hết là nhà nước do nhân dân lập nên sau thắng lợi của
sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Nhân dân “cử ra”, “tổ chức nên” nhà nước dựa trên nền tảng pháp của một
chế độ dân chủ và theo các trình tự dân chủ với các quyền bầu cử, phúc quyết, v.v..
- . “Dânchủ xác định vị thế củaNhà nước do nhân dân còn có nghĩa “dân làm chủ”
nhân dân đối với quyền lực nhà nước, còn “dân làm chử” nhấn mạnh quyền lợi
nghĩa vụ của nhân dân với tư cách là người chủ.
*Chủ trương:
- Trong nhà nước do nhân dân làm chủ, nhà nước phải tạo mọi điều kiện để nhân dân
được thực hiện những quyền mà Hiến pháp và pháp luật đã quy định, hưởng dụng đầy
đủ quyền lợi làm tròn nghĩa vụ làm chủ của mình. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ,
đảng viên phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
- Nhà nước do nhân dân cần coi trọng việc giáo dục nhân dân, đồng thời nhân dân
cũng phải tự giác phấn đấu để đủ năng lực thực hiện quyền dân chủ của mình. Hồ
Chí Minh nói: “Chúng ta những người lao động làm chủ nước nhà. Muốn làm chủ
được tốt, phải có năng lực làm chủ". Nhà nước do nhân dân không chỉ tuyên bố quyển
làm chủ của nhân dân, cũng không chỉ đưa nhân dân tham gia công việc nhà nước, mà
còn chuẩn bị và động viên nhân dân chuẩn bị tốt năng lực làm chủ, quan điểm đó thể
hiện tư tưởng dân chủ triệt để của Hồ Chí Minh khi nói về nhà nước do nhân dân.
4 Nhà nước vì dân
* Khái niệm :Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân
dân, không có quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần, kiệm, liêm, chính.
Người nói : “các công việc của Chính Phủ làm phải nhằm vào mục đích duy nhất là
mưu tự do hạnh phúc cho mọi người”
* Chủ trương
- Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy:
+) Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh.
+) Phải làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho
dân được học hành.
+) Theo HCM , thước đo một Nhà nước vì nhân dân là phải được lòng dân.Người
chỉ rõ với cán bộ Nhà nước :” muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, trước
hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân lên hết thảy, phải có một tinh thần
chí công vô tư “
- Cán bộ vừa là đày tớ, nhưng đồng thời phải vừa là người lãnh đạo nhân dân:
+) Hai đòi hỏi này tưởng chừng như mâu thuẫn, nhưng đó là những phẩm chất
cần có ở người cán bộ Nhà nước vì dân.
+) Là người đày tớ thì phải trung thành, tận tụy, cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ.
+) Là người lãnh đạo thì phải có trí tuệ hơn người, minh mẫn, sáng suốt, nhìn xa
trông rộng, gần gũi nhân dân, trọng dụng hiền tài.
Như vậy, để làm người thay mặt nhân dân phải gồm cả đức và tài, phải vừa
hiền lại vừa minh.
- Nhà nước có trách nhiệm và đảm chịu trách nhiệm trước nhân dân
Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm, nhắc nhở các quan của Đảng, Nhà nước
phải hết sức chăm lo đến đời sống của nhân dân, lãnh đạo tổ chức, giáo dục nhân dân
tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm…
Mặt khác, Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh trách nhiệm pháp của nhà nước, cán bộ,
công chức nhà nước nếu không làm tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Người chỉ rõ: “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính
phủ lỗi; nếu dân dốt Đảng Chính phủ lỗi; nếu dân ốm Đảng Chính
phủ có lỗi”.
II. Vận dụng tu tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng nhà nước hiện nay
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”
=> Do vậy, trong thực hiện cần tiếp tục quán triệt và vận dụng linh hoạt, sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân.
Trước hết, nắm vững mục tiêu là tôn trọng, bảo vệ, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, tất cả vì độc lập dân tộc, dân chủ, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Nội dung này
có ý nghĩa rất quan trọng, nhất là khi các thế lực thù địch đang lợi dụng chiêu bài
“dân chủ” và “nhân quyền” cũng như các thủ đoạn khác để vu cáo, xuyên tạc chế độ
dân chủ, chống phá cách mạng nước ta. Vì vậy, phải nâng cao dân trí, động viên, giáo
dục và tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân sử dụng quyền làm chủ, quyền lực của
mình tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhiệm vụ
trọng tâm của hệ thống chính trị. Củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước
với nhân dân. Thực sự thấm nhuần lời dạy của Bác: “không được rời xa dân chúng.
Thể chế hóa đầy đủ và thực hiện đúng đắn, hiệu quả cơ chế nhân dân thực hiện quyền
lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện. Rời xa dân chúng là cô độc. Cô
độc thì nhất định thất bại”. Phát huy hơn nữa vai trò của nhân dân trong thực hành dân
chủ và xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, hiệu lực, hiệu quả.
Thứ ba, xây dựng nhà nước luôn đi đôi khắc phục được những căn bệnh cố hữu của
các nhà nước kiểu cũ. Tuyệt đối không mơ hồ trước những luận điệu xuyên tạc của
các thế lực thù địch đối với các giá trị văn hóa dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời,
kiên quyết chống luận điệu xuyên tạc, mị dân, núp dưới chiêu bài “tự do”, “dân chủ”,
“nhân quyền” tư sản để xuyên tạc những giá trị dân chủ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và
nhân dân ta đã xây dựng.
Thứ tư, tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức. Theo Hồ Chí
Minh, để xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả phải kết hợp chặt chẽ
giữa “đức trị” và “pháp trị”, kết hợp giữa “xây” và “chống”, không được coi nhẹ mặt
nào. Cán bộ các cấp trong bộ máy công quyền nhà nước từ Trung ương đến cơ sở
phải thực sự gần dân, biết lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, làm việc gì
cũng phải bàn bạc kỹ và học hỏi kinh nghiệm của nhân dân, thực sự yêu dân, kính
dân, tin cậy và trọng dân.
Thứ năm, luôn đề phòng và chủ động khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của
Nhà nước, kiên quyết chống ba thứ giặc nội xâm là tham ô, lãng phí, quan liêu. Theo
Hồ Chí Minh, sức mạnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước phụ thuộc vào
tính nghiêm minh của việc thi hành pháp luật và sự trong sạch, gương mẫu về đạo đức
của những người cầm quyền. Vì vậy, phải luôn nêu cao cảnh giác với những biểu hiện
tha hóa, biến chất của đội ngũ cán bộ, công chức, giữ cho Nhà nước luôn trong sạch,
vững mạnh.
Thứ sáu, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong
các cơ quan quyền lực của Nhà nước về phẩm chất chính trị, đạo đức, phong cách,
năng lực lãnh đạo, quản lý để họ thực sự là “người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân”, toàn tâm, toàn ý phục vụ lợi ích của nhân dân. Cùng với nâng cao bản lĩnh
chính trị, giáo dục đạo đức cách mạng, phải đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức nhà
nước có đủ tri thức về chính trị học, xã hội học, về hệ thống chính trị, pháp luật, quản
lý hành chính nhà nước, về tổ chức lao động khoa học và tâm lý quản lý, v.v.
Thứ bảy, tăng cường vai trò lãnh đạo và đổi mới phương thức cầm quyền, lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, đáp ứng đòi hỏi
của sự nghiệp đổi mới đất nước. Bởi, thực tiễn đã chỉ rõ: sự lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước và xã hội là nhân tố quyết định để bảo đảm Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, bảo đảm cho hệ thống
chính trị có đủ khả năng đưa đất nước ta từng bước vượt qua nguy cơ, thách thức,
vững vàng đi theo con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa.
=> Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì
dân vẫn mãi có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn sâu sắc. Ngày nay, trước yêu cầu của
sự nghiệp đổi mới và hội nhập, Đảng ta tiếp tục kế thừa tư tưởng của Người để xây
dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là điều vô
cùng cần thiết và đúng đắn.
| 1/5

Preview text:

I. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân
1.Bản chất của Nhà nước Việt Nam
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam là nhà nước dân chủ, nhưng tuyệt
nhiên nó không phải là “nhà nước toàn dân”, hiểu theo nghĩa là nhà nước phi giai cấp.
Nhà nước Việt Nam mới - Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, theo quan điểm của
Hồ Chí Minh, là một nhà nước mang bản chất của giai cấp công nhân.
* Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước Việt Nam thể hiện trên những phương diện sau:
- Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vị trí và vai trò cầm quyền mà nòng cốt là liên
minh công - nông - trí thức, đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Lời nói đầu của bản Hiến pháp năm 1959 khẳng định: “Nhà nước của ta là Nhà
nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo.”
+ Đảng cầm quyền bằng các phương thức: 
Bằng đường lối, quan điểm, chủ trương để Nhà nước thể chế hoá thành pháp
luật, chính sách, kế hoạch 
Bằng hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng viên của mình trong bộ máy, cơ quan nhà nước  Bằng công tác kiểm tra
- Hai là, bản chất giai cấp công nhân thể hiện ở tính định hướng xã hội chủ nghĩa sau
khi đất nước giành thắng lợi sẽ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
+ Đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là mục tiêu cách mạng
nhất quán của Hồ Chí Minh.
- Ba là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước thể hiện ở nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ.
+ Người nhấn mạnh đến sự cần thiết phải phát huy cao độ dân chủ, đồng thời cũng
nhấn mạnh phải phát huy cao độ tập trung, Nhà nước phải tập trung thống nhất quyền
lực để tất cả mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
* Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân và tính dân tộc thể hiện cụ thể như sau:
- Một là, Nhà nước Việt Nam ra đời là kết quả đấu tranh lâu dài gian khổ của rất
nhiều thế hệ người Việt Nam, của toàn thể dân tộc
+ Từ giữa thế kỉ XIX, khi đất nước bị ngoại xâm, các tầng lớp nhân dân Việt Nam với
nhiều thế hệ đã chiến đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc.
+ Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trở thành lực lượng lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng của dân tộc: với chiến lược đại đoàn kết đúng đắn, đã chiến thắng giặc ngoại
xâm, giành lại độc lập, tự do, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
- Hai là, Nhà nước Việt Nam ngay từ khi ra đời đã xác định rõ và luôn kiên trì, nhất
quán mục tiêu vì quyền lợi của nhân dân, lấy quyền lợi của dân tộc làm nền tảng.
+ Hồ Chí Minh khẳng định quyền lợi cơ bản của giai cấp công nhân thống nhất với
lợi ích của nhân dân lao động và của toàn dân tộc.
- Ba là, con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đi đến chủ nghĩa cộng sản là con
đường mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định, cũng là sự nghiệp của chính Nhà nước. 2. Nhà nước của dân
Khái niệm
: Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, nhà nước của nhân dân là nhà nước
mà tất cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Người
khẳng định: “Trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà của chúng ta, tất cả mọi quyền
lực đều là của nhân dân”.
Trong nhà nước dân chủ, nhân dân thực thi quyền lực thông qua hai hình thức dân
chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Dân chủ trực tiếp
là hình thức dân chủ trong đó nhân dân trực tiếp quyết định mọi
vấn đề liên quan đến vận mệnh của quốc gia, dân tộc và quyền lợi của dân chúng. Hồ
Chí Minh luôn coi trọng hình thức dân chủ trực tiếp và tạo mọi điều kiện thuận lợi để
thực hành dân chủ trực tiếp, bởi đây là hình thức dân chủ hoàn mỹ nhất .
Cùng với dân chủ trực tiếp, dân chủ gián tiếp hay dân chủ đại diện là hình thức dân chủ được . Đó là hình thức
sử dụng rộng rãi nhằm thực thi quyền lực của nhân dân
dân chủ mà trong đó nhân dân thực thi quyền lực của mình thông qua các đại diện mà
họ lựa chọn, bầu ra và những thiết chế quyền lực mà họ lập nên.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, trong hình thức dân chủ gián tiếp:
- Quyền lực nhà nước là “thừa ủy quyền” của nhân dân.
Tự bản thân nhà nước không
có quyền lực. Quyền lực của nhà nước là do nhân dân ủy thác. Do vậy, các cơ quan
quyền lực nhà nước cùng với đội ngũ cán bộ “đều là công bộc của dân, nghĩa là để
gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân”.
Ở dây, Hồ Chí Minh đã xác định rõ vị thế và mối quan hệ giữa nhân dân với cán bộ
nhà nước trên cơ sở nhân dân là chủ thể nắm giữ mọi quyền lực. Theo Hồ Chí Minh:
“Dân làm chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này ủy viên khác là làm gì?
Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng”;
“Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách
mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước đều là phán công làm đày tớ cho dân” -
Nhân dân có quyền kiểm soát, phê bình nhà nước, có quyền bãi miền những đại biểu
mà họ đã lựa chọn, bầu ra và có quyền giải tán những thiết chế quyền lực mà họ đã lập nên.
- Luật pháp dân chủ và là công cụ quyền lực của nhân dân : nó phản ảnh được ý
nguyện và bảo vệ quyền lợi của dân chúng. Luật pháp đó là của nhân dân, là công cụ
thực thi quyền lực của nhân dân, là phương tiện để kiểm soát quyền lực nhà nước 3.Nhà nước do dân * Khái niệm
- Nhà nước do nhân dân trước hết là nhà nước do nhân dân lập nên sau thắng lợi của
sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Nhân dân “cử ra”, “tổ chức nên” nhà nước dựa trên nền tảng pháp lý của một
chế độ dân chủ và theo các trình tự dân chủ với các quyền bầu cử, phúc quyết, v.v..
- Nhà nước do nhân dân còn có nghĩa “dân làm chủ”. “Dân là chủ xác định vị thế của
nhân dân đối với quyền lực nhà nước, còn “dân làm chử” nhấn mạnh quyền lợi và
nghĩa vụ của nhân dân với tư cách là người chủ. *Chủ trương:
- Trong nhà nước do nhân dân làm chủ, nhà nước phải tạo mọi điều kiện để nhân dân
được thực hiện những quyền mà Hiến pháp và pháp luật đã quy định, hưởng dụng đầy
đủ quyền lợi và làm tròn nghĩa vụ làm chủ của mình. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ,
đảng viên phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
- Nhà nước do nhân dân cần coi trọng việc giáo dục nhân dân, đồng thời nhân dân
cũng phải tự giác phấn đấu để có đủ năng lực thực hiện quyền dân chủ của mình. Hồ
Chí Minh nói: “Chúng ta là những người lao động làm chủ nước nhà. Muốn làm chủ
được tốt, phải có năng lực làm chủ". Nhà nước do nhân dân không chỉ tuyên bố quyển
làm chủ của nhân dân, cũng không chỉ đưa nhân dân tham gia công việc nhà nước, mà
còn chuẩn bị và động viên nhân dân chuẩn bị tốt năng lực làm chủ, quan điểm đó thể
hiện tư tưởng dân chủ triệt để của Hồ Chí Minh khi nói về nhà nước do nhân dân. 4 Nhà nước vì dân
* Khái niệm
:Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân
dân, không có quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần, kiệm, liêm, chính.
Người nói : “các công việc của Chính Phủ làm phải nhằm vào mục đích duy nhất là
mưu tự do hạnh phúc cho mọi người” * Chủ trương
-
Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy:
+) Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh.
+) Phải làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân được học hành.
+) Theo HCM , thước đo một Nhà nước vì nhân dân là phải được lòng dân.Người
chỉ rõ với cán bộ Nhà nước :” muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, trước
hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân lên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư “
- Cán bộ vừa là đày tớ, nhưng đồng thời phải vừa là người lãnh đạo nhân dân:
+) Hai đòi hỏi này tưởng chừng như mâu thuẫn, nhưng đó là những phẩm chất
cần có ở người cán bộ Nhà nước vì dân.
+) Là người đày tớ thì phải trung thành, tận tụy, cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ.
+) Là người lãnh đạo thì phải có trí tuệ hơn người, minh mẫn, sáng suốt, nhìn xa
trông rộng, gần gũi nhân dân, trọng dụng hiền tài.
 Như vậy, để làm người thay mặt nhân dân phải gồm cả đức và tài, phải vừa hiền lại vừa minh.
- Nhà nước có trách nhiệm và đảm chịu trách nhiệm trước nhân dân
Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm, nhắc nhở các cơ quan của Đảng, Nhà nước
phải hết sức chăm lo đến đời sống của nhân dân, lãnh đạo tổ chức, giáo dục nhân dân
tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm…
Mặt khác, Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh trách nhiệm pháp lý của nhà nước, cán bộ,
công chức nhà nước nếu không làm tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Người chỉ rõ: “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính
phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”.
II. Vận dụng tu tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng nhà nước hiện nay
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”
=> Do vậy, trong thực hiện cần tiếp tục quán triệt và vận dụng linh hoạt, sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Trước hết, nắm vững mục tiêu là tôn trọng, bảo vệ, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, tất cả vì độc lập dân tộc, dân chủ, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Nội dung này
có ý nghĩa rất quan trọng, nhất là khi các thế lực thù địch đang lợi dụng chiêu bài
“dân chủ” và “nhân quyền” cũng như các thủ đoạn khác để vu cáo, xuyên tạc chế độ
dân chủ, chống phá cách mạng nước ta. Vì vậy, phải nâng cao dân trí, động viên, giáo
dục và tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân sử dụng quyền làm chủ, quyền lực của
mình tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhiệm vụ
trọng tâm của hệ thống chính trị. Củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước
với nhân dân. Thực sự thấm nhuần lời dạy của Bác: “không được rời xa dân chúng.
Thể chế hóa đầy đủ và thực hiện đúng đắn, hiệu quả cơ chế nhân dân thực hiện quyền
lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện. Rời xa dân chúng là cô độc. Cô
độc thì nhất định thất bại”. Phát huy hơn nữa vai trò của nhân dân trong thực hành dân
chủ và xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, hiệu lực, hiệu quả.
Thứ ba, xây dựng nhà nước luôn đi đôi khắc phục được những căn bệnh cố hữu của
các nhà nước kiểu cũ. Tuyệt đối không mơ hồ trước những luận điệu xuyên tạc của
các thế lực thù địch đối với các giá trị văn hóa dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời,
kiên quyết chống luận điệu xuyên tạc, mị dân, núp dưới chiêu bài “tự do”, “dân chủ”,
“nhân quyền” tư sản để xuyên tạc những giá trị dân chủ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và
nhân dân ta đã xây dựng. Thứ tư,
tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức. Theo Hồ Chí
Minh, để xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả phải kết hợp chặt chẽ
giữa “đức trị” và “pháp trị”, kết hợp giữa “xây” và “chống”, không được coi nhẹ mặt
nào. Cán bộ các cấp trong bộ máy công quyền nhà nước từ Trung ương đến cơ sở
phải thực sự gần dân, biết lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, làm việc gì
cũng phải bàn bạc kỹ và học hỏi kinh nghiệm của nhân dân, thực sự yêu dân, kính
dân, tin cậy và trọng dân.
Thứ năm, luôn đề phòng và chủ động khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của
Nhà nước, kiên quyết chống ba thứ giặc nội xâm là tham ô, lãng phí, quan liêu. Theo
Hồ Chí Minh, sức mạnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước phụ thuộc vào
tính nghiêm minh của việc thi hành pháp luật và sự trong sạch, gương mẫu về đạo đức
của những người cầm quyền. Vì vậy, phải luôn nêu cao cảnh giác với những biểu hiện
tha hóa, biến chất của đội ngũ cán bộ, công chức, giữ cho Nhà nước luôn trong sạch, vững mạnh.
Thứ sáu, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong
các cơ quan quyền lực của Nhà nước về phẩm chất chính trị, đạo đức, phong cách,
năng lực lãnh đạo, quản lý để họ thực sự là “người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân”, toàn tâm, toàn ý phục vụ lợi ích của nhân dân. Cùng với nâng cao bản lĩnh
chính trị, giáo dục đạo đức cách mạng, phải đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức nhà
nước có đủ tri thức về chính trị học, xã hội học, về hệ thống chính trị, pháp luật, quản
lý hành chính nhà nước, về tổ chức lao động khoa học và tâm lý quản lý, v.v.
Thứ bảy, tăng cường vai trò lãnh đạo và đổi mới phương thức cầm quyền, lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, đáp ứng đòi hỏi
của sự nghiệp đổi mới đất nước. Bởi, thực tiễn đã chỉ rõ: sự lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước và xã hội là nhân tố quyết định để bảo đảm Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, bảo đảm cho hệ thống
chính trị có đủ khả năng đưa đất nước ta từng bước vượt qua nguy cơ, thách thức,
vững vàng đi theo con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa.
=> Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì
dân vẫn mãi có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn sâu sắc. Ngày nay, trước yêu cầu của
sự nghiệp đổi mới và hội nhập, Đảng ta tiếp tục kế thừa tư tưởng của Người để xây
dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là điều vô
cùng cần thiết và đúng đắn.