Bạn đến chơi nhà thuộc thể thơ gì? Ai là tác giả bài thơ này?

Hướng dẫn soạn bài Bạn đến chơi nhà sẽ giúp các em có thêm những gợi ý hay khi tìm hiểu và chuẩn bị trước nội dung bài thơ Bạn đến chơi nhà. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Môn:

Lịch Sử & Địa Lí 5 131 tài liệu

Thông tin:
4 trang 1 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Bạn đến chơi nhà thuộc thể thơ gì? Ai là tác giả bài thơ này?

Hướng dẫn soạn bài Bạn đến chơi nhà sẽ giúp các em có thêm những gợi ý hay khi tìm hiểu và chuẩn bị trước nội dung bài thơ Bạn đến chơi nhà. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

50 25 lượt tải Tải xuống
Bạn đến chơi nhà thuộc thể thơ gì? Ai là tác giả bài thơ này?
Hướng dẫn soạn bài Bạn đến chơi nhà sẽ giúp các em có thêm những gợi ý hay khi tìm hiểu và chuẩn bị
trước nội dung bài thơ Bạn đến chơi nhà. Các em hãy cùng tham khảo để nắm được những đặc sắc về nội
dung và nghệ thuật của bài thơ.
1. Bài thơ "Bạn đến chơi nhà"
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa
Ao sâu nước cả, khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra cây, cà mới nụ
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa
Đầu trò tiếp khách, trầu không có
Bác đến chơi đây, ta với ta.
Bài thơ Bạn đến chơi nhà được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú đường luật, có đặc điểm:
-Số câu: 8 câu (bát cú)
- Số chữ: 7 chữ trong mỗi dòng thơ (thất ngôn)
- Hiệp vần: chữ cuối của các dongf-2-4-6-8: nhà -xa - gà - hoa - ta (vần a)
- Phép đối: câu 3 đối với câu 4 (Ao sâu nước cả khôn chài cá >< Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà); câu 5
đối với câu 6 (Cải chửa ra cây, cà mới nụ >< Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa),
2. Tác giả Nguyễn Khuyến
Tam Nguyên Tên Đổ Nguyễn Khuyến tên khai sinh là Nguyễn Thắng hiệu là Quế Sơn, tự Miễu Chi, sinh
ngày 15 tháng 2 năm 1835, tại Phú Yên. Quê nội của ông ở làng Vị Hạ (tục gọi là làng Và), xã Yên Đỗ (nay
là xã Trung Lương), huyện Bình Lục, tỉnh Hà nam. Mất ngày 5 tháng 2 năm 1909 tại Yên Đổ. Bản thân tri kỷ
của ông là Dương Khuê (1839 - 1902).
Xuất thân : Cha Nguyễn Khuyến là Nguyễn Tông Khởi (1796 - 1853), thường gọi là Mền Khởi, đỗ ba khóa tú
tài, dạy học. Mẹ là Trần Thị Thoan (1799 -1874), nguyên là con của Trần Công Trạc từng đỗ tú tài thời Lê
Mạc.
Thuở nhỏ, ông cùng Trần Bích San (người làng Vị Xuyên, đỗ Tam Nguyên năm 1864 -1865) ở trường
Hoàng Giáp cùng bạn học Phạm Văn Nghị. Nguyễn khuyến nổi tiếng là một người thông minh, hiếu học.
Năm 1864, Nguyễn Khuyến đỗ đầu cử nhân (tức Giải nguyên) trường Hà Nội.
Năm sau (1865), ông trượt thi Hội nên tu chí, ở lại kinh đô học trường Quốc Tử Giám và đổi từ Nguyễn
Thắng thành Nguyễn Khuyến, với hàm ý phải nỗ lực hơn nữa (chữ Thắng có chữ lực nhỏ, chữ Khuyến có
chữ lực lớn hơn).
Đến năm 1871, ông mới đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên (Hoàng Giáp). Từ đó, Nguyễn Khuyến thường
được gọi là Tam Nguyên Yến Đổ.
Năm 1873, ông được bổ làm Đốc học, rồi thăng Ân Sát tại tỉnh Thanh Hóa. Năm 1877, ông thăng Bố Chính
tỉnh Quảng Ngãi. Sang năm sau, ông bị giáng chức và điều về Huế, giữ một chức quan nhỏ với nhiệm vụ
toản tu Quốc Sử Quán. Nguyễn Khuyến cáo quan về Yên Đổ vào mùa thu năm 884 và qua đời tai đây,
Hoàn cảnh lịch sử
Nguyễn Khuyến ra làm quan giữa lúc nước mất nhà tan, cơ đồ nhà Nguyễn như sụp đổ hoàn toàn nên giấc
mơ trị quốc bình thiên hạ của ông không thực hiện được.
Lúc này, Nam Kỳ rơi vào tay thực dân Pháp. Năm 1862, quân Pháp bắt đầu đánh ra Hà Nội. Năm 1885,
chúng tấn công kinh thành Huế. Kinh thành thất thủ, Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi xuống chiếu
Cần Vương, nhân dân hưởng ứng khắp nơi. Nhưng cuối cùng, phong trào Cần Vương tan rã. Có thể nói,
sống giữa thời kì các phong trào đấu tranh yêu nước bị dập tắt, Nguyễn Khuyến bất lực vì không làm được
gì để thay đổi thời cuộc nên ông xin cáo quan về ở ẩn. Từ đó dẫn đến tâm trạng bất mãn, bế tắc của ông.
Tác phẩm
Các tác phẩm gồm có Quế Sơn Thi Tập, Yên Đỗ Thi Tập, Bách Liêu Thi Văn Tập, Bạn Đến Chơi Nhà, Cẩm
Ngữ, cùng nhiều bài ca, hát ả đảo, văn tế, câu đối truyền miêng.
Quế Sơn thi tập khoảng 200 bài thơ bằng chữ hán và 100 bài thơ bằng chữ nôm với nhiều thể loại khác
nhau. Có bài Nguyễn khuyến viết bằng chữ Hán rồi dịch ra tiếng Việt, ví dụ Bạn đến chơi nhà, hoặc ông viết
bằng chữ Việt rồi dịch sang chữ Hán. Cả hai loại đều khó xác định vị chúng rất điêu luyện.
Trong bộ phận thơ Nôm, Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng vừa là nhà thơ trữ tình, nhuốm đậm tư
tưởng Lão Trang và triết lý Đông Phương. Thơ chữ hán của ông hầu hết là thơ trữ tình. Có thể nói cả trên
hai lĩnh vực, Nguyễn Khuyến đều thành công.
3. Phân tích bài thơ
Nguyến Khuyến sinh năm 1835, mất năm 1909, lúc còn nhỏ tên Thắng, quê ơ thôn Vị Hạ, làng Và, xã Yên
Đổ, nay thuộc Trung Lương, Bình Lục, Hà Nam, thuở nhỏ nhà nghèo, thông minh, học giỏi, sau đi thi đỗ đầu
cả ba kì thi: Hương, Hội, Đình, do đó có tên là Tam Nguyên Yên Đổ. Ông làm quan khoảng mười năm,
nhưng đến khi thực dân Pháp xâm chiếm xong Bắc Bộ, ông cáo quan về quê ở ẩn.
Nguyễn Khuyến - một vị quan về ở ẩn mang nỗi cô đơn, u hoài sống hiu quạnh nơi nông thôn đã có những
vần thơ với cảm xúc dạt dào khi gặp lại bạn cũ. Chúng ta hãy lắng nghe những cảm xúc ấy:
" Đã bấy lâu nay, bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi ga.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây ta với ta!"
Bài thơ khơi dậy trong ta niềm xúc động trước tấm lòng chân tình của nhà thơ Nguyễn Khuyến.
Mở đầu bài thơ là một lời chào, lời chào rất đỗi tự nhiên, hóm hỉnh: " Đã bấy lâu nay, bác tới nhà". Câu thơ
như lời chào thân mật hồ hởi của Nguyễn Khuyến khi có bạn tới thăm.
" Đã bấy lâu nay" là biểu hiện một khoảng thời gian dài nhà thơ không gặp bạn, giờ đây có dịp dặp lại nhau
lòng không khỏi vui lòng khôn xiết. Từ lúc quan về ở ẩn, suốt ngày chỉ núi làng giếng, chim bầu bạn
(Nguyễn Trãi), lấy ai mà tâm sự giãi bày nôi lòng mình. Những lúc như vậy, tác giả luôn muốn có người tâm
sự, tâm giao để trò chuyện. Người bạn đó đã đến với ông, có vui mừng nào hơn.
Mới nghe ta như thấy rằng nhà thơ tỏ ý lấy làm tiếc về việc bạn mới đến thăm mà chẳng có gì để tiếp bạn.
Đây chính là cách nói cường điệu hóa, thi vị hóa cuộc sống vật chất trong gia đình Nguyễn Khuyến. Nói như
vậy là đang đùa với bạn, trong lời nói ấy mang nụ cười ý vị vừa tỏ thái độ "mong chờ" những dịp bạn đến
thăm như thế này. Hay chính trong lời phân trần ấy, bộc lộ cảm xúc bất ngờ thăm hỏi của bạn. Hoàn cảnh
sống của tác giả nơi miền quê kiểng rất đạm bạc, thanh bạc, giản dị gắn bó với làng xóm quê hương.
Nhịp thơ đều đặn nhẹ nhàng em ái như một lời thủ thỉ, kèm theo là nụ cười bông đùa vui tươi của nhà thơ.
Trong rất nhiều bài thơ Nguyễn Khuyến đã từng thể hiện sâu sắc tình cảm với bạn bè, bằng hữu:
" Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua không phải, không tiền không mua
Câu thơ nghĩ đắn đo muốn viết
Viết đưua ai, ai biết mà đưa?
Giường kia, treo những hững hờ
Đàn kia, gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn"
Với Nguyễn Khuyến và Dương Khuê qua đoạn thơ trên ta thấy rằng tình bạn của họ thật gắn bó bao nhiêu.
Chén rượu kia sẽ ngọt ngào nếu hai người cùng đối, ẩm, dạo đàn, bình thơ ,... Cũng chỉ có hai người. thiếu
một trong hai thì "Giường kia, treo những hững hờ / Đàn kia cũng ngẩn nga tiếng đan".
Không chỉ tình bạn của Nguyến Khuyến trong bài thơ này mà trong dân gian chúng ta còn xúc động trước
tình bằng hữu của Lưu Bình và Dương Lễ. Tình cảm cảu Nguyễn Khuyến và bạn mình không phân biệt tuổi
tác, hoàn cảnh, ở họ sự kết nối là niềm cảm thông chia sẻ cùng nhau.
Câu thơ cuối đã bộc lộ cảm xúc tình cảm chân thành của Nguyễn Khuyến với bạn. Đó là tình cảm thiêng
liêng và cao quý, những nghi thức xã giao dần bị bóc còn lại là tình bằng hữu thâm giao. Quan hệ bạn bè ở
đây được xây dựng trên nền tảng của tình cảm. "Bác đến chơi đây" - không có mọi giá trị vật chất chỉ còn ta
với ta.
Đại từ ta sử dụng rất độc đáo, ta là nhân xưng, và cũng là bác và tôi, là hai chúng ta. Tôi và bác đã quá hiểu
nhau rồi. Hoàn cảnh của tôi bác biết, tôi sống thế nào bác hay. Những điều tôi nói ra với bác chẳng qua là
bày tỏ nôi niềm tâm can. Cả hai người không ai đặt vấn đề vật chất, mà ở họ có quan điểm coi thường vật
chất, đề cao tình cảm.
Cũng là ta với ta nhưng trong bài thơ Qua Đèo Ngang thì đó chính là sự đối diện, bắt gặp tâm trạng của tác
giả Thanh Quan với chính mình. Còn ta với ta ở đây là nói về ha người họ gắn bó không gì chia cắt được.
Tình bạn giữa họ mới cao quý đẹp đe làm sao. Ta thấy rằng nghệ thuật trào lộng của Nguyenx Khuyến thật
hóm hỉnh, nhẹ nhàng tinh tế.
Bài thơ thể hiện khá thành công nghệ thuật trào phúng, ngôn ngữ được sử dụng một cách đặc sắc. Tuy
nhiên một bài thơ Đường với khuôn mẫu bó buộc nhưng lại rất bình dị như lời ăn tiếng nói hằng ngày.
Những sản vật đồng quê được đưa vào thơ rất tự nhiên, sự kết hợp nhuần nhuyễn ngôn ngữ làm cho bài
thơ đặc sắc thân mật như chính tình cảm của họ vậy.
| 1/4

Preview text:

Bạn đến chơi nhà thuộc thể thơ gì? Ai là tác giả bài thơ này?
Hướng dẫn soạn bài Bạn đến chơi nhà sẽ giúp các em có thêm những gợi ý hay khi tìm hiểu và chuẩn bị
trước nội dung bài thơ Bạn đến chơi nhà. Các em hãy cùng tham khảo để nắm được những đặc sắc về nội
dung và nghệ thuật của bài thơ.
1. Bài thơ "Bạn đến chơi nhà"
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa
Ao sâu nước cả, khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra cây, cà mới nụ
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa
Đầu trò tiếp khách, trầu không có
Bác đến chơi đây, ta với ta.
Bài thơ Bạn đến chơi nhà được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú đường luật, có đặc điểm: -Số câu: 8 câu (bát cú)
- Số chữ: 7 chữ trong mỗi dòng thơ (thất ngôn)
- Hiệp vần: chữ cuối của các dongf-2-4-6-8: nhà -xa - gà - hoa - ta (vần a)
- Phép đối: câu 3 đối với câu 4 (Ao sâu nước cả khôn chài cá >< Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà); câu 5
đối với câu 6 (Cải chửa ra cây, cà mới nụ >< Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa),
2. Tác giả Nguyễn Khuyến
Tam Nguyên Tên Đổ Nguyễn Khuyến tên khai sinh là Nguyễn Thắng hiệu là Quế Sơn, tự Miễu Chi, sinh
ngày 15 tháng 2 năm 1835, tại Phú Yên. Quê nội của ông ở làng Vị Hạ (tục gọi là làng Và), xã Yên Đỗ (nay
là xã Trung Lương), huyện Bình Lục, tỉnh Hà nam. Mất ngày 5 tháng 2 năm 1909 tại Yên Đổ. Bản thân tri kỷ
của ông là Dương Khuê (1839 - 1902).
Xuất thân : Cha Nguyễn Khuyến là Nguyễn Tông Khởi (1796 - 1853), thường gọi là Mền Khởi, đỗ ba khóa tú
tài, dạy học. Mẹ là Trần Thị Thoan (1799 -1874), nguyên là con của Trần Công Trạc từng đỗ tú tài thời Lê Mạc.
Thuở nhỏ, ông cùng Trần Bích San (người làng Vị Xuyên, đỗ Tam Nguyên năm 1864 -1865) ở trường
Hoàng Giáp cùng bạn học Phạm Văn Nghị. Nguyễn khuyến nổi tiếng là một người thông minh, hiếu học.
Năm 1864, Nguyễn Khuyến đỗ đầu cử nhân (tức Giải nguyên) trường Hà Nội.
Năm sau (1865), ông trượt thi Hội nên tu chí, ở lại kinh đô học trường Quốc Tử Giám và đổi từ Nguyễn
Thắng thành Nguyễn Khuyến, với hàm ý phải nỗ lực hơn nữa (chữ Thắng có chữ lực nhỏ, chữ Khuyến có chữ lực lớn hơn).
Đến năm 1871, ông mới đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên (Hoàng Giáp). Từ đó, Nguyễn Khuyến thường
được gọi là Tam Nguyên Yến Đổ.
Năm 1873, ông được bổ làm Đốc học, rồi thăng Ân Sát tại tỉnh Thanh Hóa. Năm 1877, ông thăng Bố Chính
tỉnh Quảng Ngãi. Sang năm sau, ông bị giáng chức và điều về Huế, giữ một chức quan nhỏ với nhiệm vụ
toản tu Quốc Sử Quán. Nguyễn Khuyến cáo quan về Yên Đổ vào mùa thu năm 884 và qua đời tai đây,
Hoàn cảnh lịch sử
Nguyễn Khuyến ra làm quan giữa lúc nước mất nhà tan, cơ đồ nhà Nguyễn như sụp đổ hoàn toàn nên giấc
mơ trị quốc bình thiên hạ của ông không thực hiện được.
Lúc này, Nam Kỳ rơi vào tay thực dân Pháp. Năm 1862, quân Pháp bắt đầu đánh ra Hà Nội. Năm 1885,
chúng tấn công kinh thành Huế. Kinh thành thất thủ, Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi xuống chiếu
Cần Vương, nhân dân hưởng ứng khắp nơi. Nhưng cuối cùng, phong trào Cần Vương tan rã. Có thể nói,
sống giữa thời kì các phong trào đấu tranh yêu nước bị dập tắt, Nguyễn Khuyến bất lực vì không làm được
gì để thay đổi thời cuộc nên ông xin cáo quan về ở ẩn. Từ đó dẫn đến tâm trạng bất mãn, bế tắc của ông. Tác phẩm
Các tác phẩm gồm có Quế Sơn Thi Tập, Yên Đỗ Thi Tập, Bách Liêu Thi Văn Tập, Bạn Đến Chơi Nhà, Cẩm
Ngữ, cùng nhiều bài ca, hát ả đảo, văn tế, câu đối truyền miêng.
Quế Sơn thi tập khoảng 200 bài thơ bằng chữ hán và 100 bài thơ bằng chữ nôm với nhiều thể loại khác
nhau. Có bài Nguyễn khuyến viết bằng chữ Hán rồi dịch ra tiếng Việt, ví dụ Bạn đến chơi nhà, hoặc ông viết
bằng chữ Việt rồi dịch sang chữ Hán. Cả hai loại đều khó xác định vị chúng rất điêu luyện.
Trong bộ phận thơ Nôm, Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng vừa là nhà thơ trữ tình, nhuốm đậm tư
tưởng Lão Trang và triết lý Đông Phương. Thơ chữ hán của ông hầu hết là thơ trữ tình. Có thể nói cả trên
hai lĩnh vực, Nguyễn Khuyến đều thành công.
3. Phân tích bài thơ
Nguyến Khuyến sinh năm 1835, mất năm 1909, lúc còn nhỏ tên Thắng, quê ơ thôn Vị Hạ, làng Và, xã Yên
Đổ, nay thuộc Trung Lương, Bình Lục, Hà Nam, thuở nhỏ nhà nghèo, thông minh, học giỏi, sau đi thi đỗ đầu
cả ba kì thi: Hương, Hội, Đình, do đó có tên là Tam Nguyên Yên Đổ. Ông làm quan khoảng mười năm,
nhưng đến khi thực dân Pháp xâm chiếm xong Bắc Bộ, ông cáo quan về quê ở ẩn.
Nguyễn Khuyến - một vị quan về ở ẩn mang nỗi cô đơn, u hoài sống hiu quạnh nơi nông thôn đã có những
vần thơ với cảm xúc dạt dào khi gặp lại bạn cũ. Chúng ta hãy lắng nghe những cảm xúc ấy:
" Đã bấy lâu nay, bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi ga.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây ta với ta!"
Bài thơ khơi dậy trong ta niềm xúc động trước tấm lòng chân tình của nhà thơ Nguyễn Khuyến.
Mở đầu bài thơ là một lời chào, lời chào rất đỗi tự nhiên, hóm hỉnh: " Đã bấy lâu nay, bác tới nhà". Câu thơ
như lời chào thân mật hồ hởi của Nguyễn Khuyến khi có bạn tới thăm.
" Đã bấy lâu nay" là biểu hiện một khoảng thời gian dài nhà thơ không gặp bạn, giờ đây có dịp dặp lại nhau
lòng không khỏi vui lòng khôn xiết. Từ lúc quan về ở ẩn, suốt ngày chỉ núi làng giếng, chim bầu bạn
(Nguyễn Trãi), lấy ai mà tâm sự giãi bày nôi lòng mình. Những lúc như vậy, tác giả luôn muốn có người tâm
sự, tâm giao để trò chuyện. Người bạn đó đã đến với ông, có vui mừng nào hơn.
Mới nghe ta như thấy rằng nhà thơ tỏ ý lấy làm tiếc về việc bạn mới đến thăm mà chẳng có gì để tiếp bạn.
Đây chính là cách nói cường điệu hóa, thi vị hóa cuộc sống vật chất trong gia đình Nguyễn Khuyến. Nói như
vậy là đang đùa với bạn, trong lời nói ấy mang nụ cười ý vị vừa tỏ thái độ "mong chờ" những dịp bạn đến
thăm như thế này. Hay chính trong lời phân trần ấy, bộc lộ cảm xúc bất ngờ thăm hỏi của bạn. Hoàn cảnh
sống của tác giả nơi miền quê kiểng rất đạm bạc, thanh bạc, giản dị gắn bó với làng xóm quê hương.
Nhịp thơ đều đặn nhẹ nhàng em ái như một lời thủ thỉ, kèm theo là nụ cười bông đùa vui tươi của nhà thơ.
Trong rất nhiều bài thơ Nguyễn Khuyến đã từng thể hiện sâu sắc tình cảm với bạn bè, bằng hữu:
" Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua không phải, không tiền không mua
Câu thơ nghĩ đắn đo muốn viết
Viết đưua ai, ai biết mà đưa?
Giường kia, treo những hững hờ
Đàn kia, gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn"
Với Nguyễn Khuyến và Dương Khuê qua đoạn thơ trên ta thấy rằng tình bạn của họ thật gắn bó bao nhiêu.
Chén rượu kia sẽ ngọt ngào nếu hai người cùng đối, ẩm, dạo đàn, bình thơ ,... Cũng chỉ có hai người. thiếu
một trong hai thì "Giường kia, treo những hững hờ / Đàn kia cũng ngẩn nga tiếng đan".
Không chỉ tình bạn của Nguyến Khuyến trong bài thơ này mà trong dân gian chúng ta còn xúc động trước
tình bằng hữu của Lưu Bình và Dương Lễ. Tình cảm cảu Nguyễn Khuyến và bạn mình không phân biệt tuổi
tác, hoàn cảnh, ở họ sự kết nối là niềm cảm thông chia sẻ cùng nhau.
Câu thơ cuối đã bộc lộ cảm xúc tình cảm chân thành của Nguyễn Khuyến với bạn. Đó là tình cảm thiêng
liêng và cao quý, những nghi thức xã giao dần bị bóc còn lại là tình bằng hữu thâm giao. Quan hệ bạn bè ở
đây được xây dựng trên nền tảng của tình cảm. "Bác đến chơi đây" - không có mọi giá trị vật chất chỉ còn ta với ta.
Đại từ ta sử dụng rất độc đáo, ta là nhân xưng, và cũng là bác và tôi, là hai chúng ta. Tôi và bác đã quá hiểu
nhau rồi. Hoàn cảnh của tôi bác biết, tôi sống thế nào bác hay. Những điều tôi nói ra với bác chẳng qua là
bày tỏ nôi niềm tâm can. Cả hai người không ai đặt vấn đề vật chất, mà ở họ có quan điểm coi thường vật chất, đề cao tình cảm.
Cũng là ta với ta nhưng trong bài thơ Qua Đèo Ngang thì đó chính là sự đối diện, bắt gặp tâm trạng của tác
giả Thanh Quan với chính mình. Còn ta với ta ở đây là nói về ha người họ gắn bó không gì chia cắt được.
Tình bạn giữa họ mới cao quý đẹp đe làm sao. Ta thấy rằng nghệ thuật trào lộng của Nguyenx Khuyến thật
hóm hỉnh, nhẹ nhàng tinh tế.
Bài thơ thể hiện khá thành công nghệ thuật trào phúng, ngôn ngữ được sử dụng một cách đặc sắc. Tuy
nhiên một bài thơ Đường với khuôn mẫu bó buộc nhưng lại rất bình dị như lời ăn tiếng nói hằng ngày.
Những sản vật đồng quê được đưa vào thơ rất tự nhiên, sự kết hợp nhuần nhuyễn ngôn ngữ làm cho bài
thơ đặc sắc thân mật như chính tình cảm của họ vậy.