Bang giao Việt Nam thời nhà Lý - Lịch sử ngoại giao Việt Nam | Học viện Ngoại giao Việt Nam

Sự xuất hiện của các quốc gia, khu vực đã đòi hỏi nhu cầu ngày một lớn trong việc hình thành các mối giao lưu, trao đổi, thiết lập quan hệ qua lại giữa các quốc gia, khu vực. Đứng trước yêu cầu đó, các hoạt động và cơ quan đã chính thức được ra đời và gọi tên nhằm thực hiện nhiệm vụ đối ngoại của một đất nước

Bang giao Việt Nam thời nhà Lý
I. Mở đầu
Sự xuất hiện của các quốc gia, khu vực đã đòi hỏi nhu cầu ngày một lớn trong việc
hình thành các mối giao lưu, trao đổi, thiết lập quan hệ qua lại giữa các quốc gia,
khu vực. Đứng trước yêu cầu đó, các hoạt động và cơ quan đã chính thức được ra
đời và gọi tên nhằm thực hiện nhiệm vụ đối ngoại của một đất nước.
Ngoại giao được hiểu là các hoạt động giao lưu, tiếp xúc với nước ngoài 外交)
nhằm mở rộng mối quan hệ cũng như thương mại trên trường quốc tế. Ngoại giao
giúp các nước tăng cường vai trò của mình đối với thế giới cũng như đẩy mạnh hội
nhập trong tình hình hiện nay.
Trong mỗi thời kì, ngoại giao sẽ có vị trí, vai trò khác biệt nhưng luôn là một phần
thiết yếu của quản lý nhà nước. Ngoại giao được coi là bộ mặt, là thái độ của một
đất nước đối với các quốc gia khác nói riêng và những vấn đề toàn cầu nói chung.
Có những thời kì, ngoại giao được coi là một mặt trậnn riêng, song song với quân
sự, là một tấm lá chắn bảo vệ tổ quốc. Ngoại giao chính là “tuyến phong thủ đầu
tiên” góp phần bảo vệ đất nước từ sớm từ xa. Có thể thấy, ngoại giao có vai trò vô
cùng quan trọng đối với sự phát triển và tồn tại của một quốc gia.
Đối với đất nước ta, ngay từ xa xưa những công tác đối ngoại như vậy đã được chú
trọng và xử lý vô cùng khéo léo. Các hoạt động ngoại giao được chú trọng, vừa
cứng rắn, vừa mềm dẻo, phù hợp với tình hình thời đại để có thể giữ vững nền hòa
bình, chủ quyền của quốc gia, dân tộc. Trong xu thế hòa bình và toàn cầu hóa hiện
nay, Ngoại giao Việt Nam ngày càng được chú trọng hơn và tiếp tục kế thừa và
phát huy những truyền thống, bài học ngoại giao trước đó vào bối cảnh toàn cầu
hiện tại.
1. Dựa vào sử sách, thời kỳ này chúng ta đã có quan hệ ngoại giao tương đối rộng
với rất nhiều quốc gia, một số thì được chép không rõ ràng nên hậu thế về sau sẽ
có những nhận thức mơ hồ và những giả thiết như là sự suy đoán như Xiêm La,
Trảo Oa, Đề Hi, Lộ Hạc,... Các quốc gia đó là: Bắc – Nam Tống, Liêu – Kim, Tây
Hạ, Đại Lí, đế chế Khmer, Chiêm Thành, Ai Lao, La Hộc(Lavo), Tam Phật
Tề(Srivijaya)
00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý
about:blank
1/18
II. Mối bang giao với các nước
- Ngoại giao thời Lý mang tính kế thừa các hoạt động ngoại giao từ các 3 triều đại
trước như Ngô, Đinh, Tiền Lê mà đặc biệt là từ Tiền Lê và dựa trên những nển tảng đó
để ngày càng phát triển.
trong 30 năm tồn tại, nhà Tiền Lê đã sang sứ nhà Bắc Tống 7 lần và 11 lần tiếp đón sứ
nhà Bắc Tống. Trong đó, 2 lần đón sứ và 1 lần sang sứ trong năm 980 Lê Đại Hành
mới lên ngôi, nhân danh vua Đinh Toàn làm ngoại giao. Từ năm 983 tới 1009 nhà
Tiền Lê chỉ sai sứ sang Biện Kinh(Khai Phong) 6 lần, ngược lại các vua Tống có tới 9
lần phái sứ sang Đại Cồ Việt để giữ quan hệ hòa hiếu phía Nam.
Còn với Chiêm Thành(Champa) thì từ sau năm 982, Đại Việt đã có thể nói là nằm trên
cơ khi Minh Càn Ứng Vận Thần Vũ Thăng Bình Chí Nhân Quảng Hiếu Hoàng đế(hay
còn gọi là Lê Hoàn) san phẳng thành trì để răn đe việc Chiêm bắt hai sứ giả Từ Mục,
Ngô Tử Canh sau khi chiến thắng quân Tống thời Thái Tông – Triệu Quỳnh. Năm
992, vua Chiêm mới là Harivarman II sai sứ sang xin lại 360 tù binh bị bắt giữ mang
về châu Ô Lý. Harivarman II sai sứ là Chế Đông sang dâng sản vật địa phương, vua
Lê trách là trái lễ, không nhận. Harivarman II sợ hãi, năm 994 lại sai cháu Chế Cai
sang chầu. Từ đó quan hệ hai bên khá yên ổn không xảy ra xung đột.
1. Với “thiên triểu” Bắc Tống
00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý
about:blank
2/18
Ngay trong năm 1010 khi mới lên ngôi, Lý Thái Tổ đã bắt đầu sai sứ sang nhà Tống.
Sự kiện này mở đầu cho mối quan hệ bang giao trong 2 thế kỷ giữa nhà Lý với nhà
Tống của Trung Quốc. Theo đánh giá của các sử gia, việc tích cực và chủ động quan
hệ với phương Bắc nhằm gián tiếp khẳng định chính thống của nhà Lý và sự tồn tại
của nước Đại Cồ Việt[Nguyễn Quang Ngọc(2010) – Vương Triều Lý – trang 377].
Dưới thời Lý Thái Tổ và Lý Thái Tông, việc triều cống nhà Tống diễn ra đều đặn. Mỗi
khi Đại Cồ Việt có vua mới, nhà Tống đều sai sứ sang phong vương. Trong vòng 46
năm thời 3 vị vua đầu tiên của nhà Lý, sử sách chỉ ghi nhận 3 lần nhà Tống sai sứ
sang phong vương cho nhà Lý khi các vua mới lên ngôi, không có những hoạt động
ngoại giao trong thời các vua cai trị như thời Đinh và Tiền Lê.
00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý
about:blank
3/18
Sang thời Lý Thánh Tông, năm 1057 nhà Lý sai sứ sang cống thú lạ cho nhà Tống,
bảo là con lân. Vua Tống nghe lời Tư Mã Quang (sợ không chắc là con lân thì các
nước khác chê cười), liền thưởng cho sứ Đại Việt rồi sai mang con thú về. Lý Thánh
Tông giận nhà Tống, cho là phản phúc, năm 1059 bèn mang quân đánh vào Khâm
châu để thị uy rồi rút về . Sau lần hòa đàm năm [Đại việt sử ký toàn thư – Quyển 3]
1060, hoạt động ngoại giao được nối lại. Năm 1067, nhà Tống sai sứ sang gia phong
Lý Thánh Tông làm Nam Bình vương và Khai phủ Nghi đồng tam ty. Điểm mới đó là
lần đầu tiên nhà Tống cử sứ sang Đại Việt không vì việc thay ngôi vua của nhà Lý.
Ngoài mục đích báo tang, mừng vua mới, kết hiếu, các vua Lý còn sai sứ sang nhà
Tống khi đánh thắng Chiêm Thành, nhằm gián tiếp thể hiện cho nhà Tống biết Chiêm
Thành là thuộc quốc của mình[Kỷ yếu hội thảo khoa học”1000 năm vương triều Lý và
kinh đô Thăng Long, tr 395]. Nhà Tống không thể hiện sự phản đối việc đó và giữ thái
độ mềm mỏng. Năm 1078 khi sứ Đại Việt là Đào Tông Nguyên chạm trán sứ Chiêm
Thành thời Harivarman IV ở Biện Kinh, nhà Tống lo ngại, sai người bố trí thu xếp nơi
ăn ở và thời gian và địa điểm vào chầu cố tỏ ra có sự phân biệt giữa hai nước nhằm
xoa dịu phía Đại Việt[Kỷ yếu hội thảo khoa học"1000 năm vương triều Lý và kinh đô
Thăng Long, tr 396]
Theo thống kê của Hoàng Xuân Hãn, trong 63 năm đầu thời Lý, nhà Lý đã cử 23 đoàn
sứ bộ sang nhà Tống, trong đó 13 lần với mục đích kết hiếu và tạ ơn, 3 lần báo tin
thắng trận khi vừa đánh Chiêm Thành, 7 lần là các mục đích khác (báo tang, mừng
vua Tống lên ngôi, xin kinh Phật...[ Hoàng Xuân Hãn (1996), Lý Thường Kiệt lịch sử
ngoại giao và tông giáo triều Lý].
Sang thời Lý Nhân Tông, chỉ vài năm sau khi nhà Lý tiếp nhận chức Giao Chỉ quận
vương của vua Tống, chiến tranh Tống-Lý nổ ra. Sau khi chiến tranh chấm dứt, việc
ngoại giao giữa 2 nước tập trung vào vấn đề đất đai biên giới Tống và Đại Việt. Lê
Văn Thịnh – thủ khoa đầu tiên của Đại Việt năm 1075 – được giao đi đàm phán với
nhà Tống, kết quả tới năm 1084, phần lớn đất đai bị Tống chiếm đóng trong chiến
tranh được trả lại cho Đại Việt. Tiếc đất, vì biết rằng nơi ấy có vàng, người Tống đặt
thơ chữ Hán rằng: "Nhân tham Giao Chỉ tượng/ Khướt thất Quảng Nguyên kim",
Nghĩa là "tham voi Giao Chỉ/ mất vàng Quảng Nguyên" (Quảng Nguyên là những
vùng đất nay thuộc tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn)
Cuối năm 1126, đoàn sứ bộ Đại Việt sang nhà Tống, nhưng chỉ đến Quế Châu (Quảng
Tây) thì được quan chức tại đó đề nghị quay về, vì quân các trấn xung quanh đã được
điều hết đi chống quân Kim đang đánh Biện Kinh, ngựa trạm và phu trạm không đủ
00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý
about:blank
4/18
phục vụ sứ đoàn Đại Việt. Kết quả sứ đoàn mang lễ vật trở về nước[ Đại Việt sử ký
toàn thư, Bản kỷ quyển 3].
1.1 Với Nam Tống
Từ năm 1127, nhà Tống bị mất phương bắc về tay người Kim, phải chạy xuống Lâm
An (Hàng Châu) đóng đô. Quan hệ ngoại giao giữa nhà Lý với Nam Tống vẫn được
duy trì, thậm chí có lần năm 1156 thời Lý Anh Tông, cống phẩm cho nhà Tống có giá
trị khá lớn.
Đổi lại việc nhà Lý giữ quan hệ hữu hảo khi nhà Tống đã suy, năm 1164 khi sứ thần
Doãn Tử Tư, Lý Bang Chính sang Lâm An, vua Tống Hiếu Tông tiếp đón và ban lệnh
đổi tên"Giao Chỉ"thành"An Nam", phong Lý Anh Tông làm"An Nam quốc
vương[“Khâm định Việt sử thông giám cương mục, trang 173 bản dịch tiếng Việt
dạng pdf] nhằm “nhắc nhở” về lòng trung thành của nhà Lý đối “thiên triều” trong bối
cảnh đang bị ngoại bang uy hiếp(Kim, Tây Hạ và sau này là Mông Cổ). nghĩa là trong
quan hệ ngoại giao giữa Tống và Việt từ đó, Đại Việt không còn là một quận mà chính
00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý
about:blank
5/18
thức được coi là một nước phiên thuộc, mang tên An Nam[Hoàng Xuân Hãn (1996),
Lý Thường Kiệt lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý trang 119], điều này phản ánh
đúng vì tiềm lực quốc gia và tình hình chính trị đương thời, là những điều chi phối các
hoạt động đối ngoại. hai nước có nhiều sự qua lại hơn.
Từ thế kỉ 13 vì loạn lạc trong nước và cũng bị ngoại bang quấy phá: năm 1203, 1204,
1205 trong nước loạn lạc liên miên; năm 1203 quân Chiêm Thành đến cướp phá; liên
tiếp 2 năm 1203, 1204 loạn tại vùng ngã ba sông Đáy và sông Hoàng Long tỉnh Ninh
Bình, triều đình mang quân tiếp viện nhưng không thắng[Đại Việt sử ký, bản kỷ toàn
thư, quyển IV Anh Tông Hoàng Đế] nên việc sang sứ tiến cống nhà Tống không được
thực hiện cho tới hết thời Lý(1225).
Các sử gia đã thống kê được trong thời gian tồn tại 216 năm, nhà Lý đã 57 lần sai sứ
sang nhà Tống[Nguyễn Quang Ngọc (2010), Vương triều Lý, tr 378-379]. Những lần
cử sứ sang phương Bắc, nhà Lý đều chọn người có học thức, có tài ứng đối, biết làm
thơ. Các sứ đoàn luôn thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc, giữ thể diện quốc gia[Nguyễn
Quang Ngọc (2010), Vương triều Lý, tr 379].
Việc triều cống nhà Tống chỉ nhằm đạt được sự công nhận bên ngoài của triều đình
phương Bắc, giảm bớt xung đột biên giới, tạo ra môi trường ổn định để phát triển kinh
tế - xã hội trong nước[Kỷ yếu hội thảo khoa học"1000 năm vương triều Lý và kinh đô
Thăng Long, tr 390]. Bên trong, các vua Lý vẫn thể hiện sự tự tôn, độc lập tự chủ. Các
vua Lý tuy nhận tước phong của nhà Tống nhưng vẫn có niên hiệu riêng, ấn tín riêng
trong quá trình cai trị đất nước, không bao giờ dùng các chức vụ do nhà Tống phong
(Giao Chỉ quận vương, Tĩnh Hải tiết độ sứ, Nam Bình vương…)[[Kỷ yếu hội thảo
khoa học"1000 năm vương triều Lý và kinh đô Thăng Long, tr 389]
-> Xuyên suốt chiều dài lịch sử Ngoại giao Việt Nam nói chung cũng như thời nhà Lý
nói riêng chúng ta luôn có xung đột với Trung Quốc nhưng vẫn luôn giữ một thái độ
nể trọng, hòa hiếu vừa đủ để tránh gây xung đột nhất có thể nhưng luôn giữ cho mình
những bản sắc dân tộc(Núi sông bờ cõi đã chia / Phong tục Bắc – Nam cũng khác –
Bình Ngô Đại Cáo). Đặc biệt là không ép họ vào đường cùng để gây ra sự xung đột
không đáng có cho cả 2 phía. Lý Thường Kiệt đã chủ động hòa hoãn với tướng Tống -
Quách Quỳ ở trận Như Nguyệt trong khi đang thắng thế để mối quan hệ hai nước tốt
đẹp trở lại.
2. Với nhà Kim
00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý
about:blank
6/18
Nước Kim (nhà Kim) khi đó đang rất hùng mạnh ở miền bắc Trung Hoa, uy hiếp nước
Nam Tống thường xuyên nhưng cũng rất tôn trọng Đại Việt. Sau khi đã có hòa bình
với Nam Tống, năm 1168, Kim Thế Tông sai sứ giả vượt qua lãnh thổ Nam Tống đến
nước Đại Việt[Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên quyển 5]. Cùng
với sứ nhà Kim, sứ Nam Tống cũng đến Đại Việt lúc đó. Vua Lý Anh Tông sai các
quan đón tiếp sứ giả cả hai nước chu đáo nhưng không cho đoàn sứ giả hai nước gặp
nhau, chứng tỏ Đại Việt có những chính sách ngoại giao khôn ngoan. Đủ khả năng để
có thể đứng ra làm trung gian với hai nước không đội trời trung nhưng lại có quan hệ
tốt đẹp với cả 2(Liên hệ cuộc gặp thượng đỉnh mỹ triều lần 2 ở Hà Nội), có quan hệ
tốt với những đối thủ không đội trời chung của nhau: Hàn – Triều, Mỹ - Nga…
Ngoại giao cây tre được hiểu là một phương thức ngoại giao.
Đây là những thành tựu ngoại giao của Việt Nam sau 1986, và có thể coi đây là
một bài học giành cho các quốc gia nhỏ từ cuộc xâm lược Nga- Ukraine hiện nay.
Chính sách ngoại giao của Việt Nam mang hình ảnh của cây tre “ uốn mình theo
gió” tuy nhiên vẫn mang trong đó cơ sở là độc lập và lợi ích của quốc gia, dân tộc.
Đây là chính sách nỗ lực duy trì độc lập và duy trì ứng xử bình đẳng với tất cả các
cường quốc nhằm tối đa hóa lợi thế và phòng ngừa các nguy cơ từ bên ngoài.
Giữa tình hình quốc tế hiện đang bị phân thành 2 phe bởi ảnh hưởng của cuộc
chiến Nga- Ukraine, Việt Nam nhấn mạnh rằng tất cả các bên nên tuân thủ các
nguyên tắc của Luật Pháp Quốc Tế và Hiến Chương Liên Hợp Quốc, từ chối đứng
về phía phương Tây trong việc lên Án Nga. Trong tháng 3 năm 2022, khi “Chiến
dịch quân sự đặc biệt” của Nga đã được tiến hành 1 tháng, Bộ trưởng Bộ Ngoại
giao Việt Nam lần lượt có các cuộc điện đamg với người đồng cấp Nga và Ukraine,
00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý
about:blank
7/18
đây có thể coi là một động thái cố gắng cân bằng của Việt Nam trong mối quan hệ
“ bạ bè truyền thống gần gũi” với cả Nga và Ukraine.
3. Với Chiêm Thành
00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý
about:blank
8/18
(chú thích: bản đồ chỉ mang tính tương đối)
Cùng việc củng cố quan hệ với phương Bắc, nhà Lý chú trọng tới biên giới phía nam.
Sau khi bị Lê Đại Hành đánh bại năm 982, Chiêm Thành đã tỏ ra thần phục. Từ thập
kỷ 90 của thế kỷ X, Chiêm Thành đã vài lần sai sứ sang Đại Cồ Việt, quan hệ hòa
thuận của hai bên được giữ tới hết thời Tiền Lê. Sau khi Lý Thái Tổ lên ngôi, Chiêm
Thành sai sứ sang dâng sư tử năm 1011[Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ quyển 2].
(Trans: tôi cũng không biết họ kiếm ở đâu :v chắc bê từ Ấn Độ sang.)
00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý
about:blank
9/18
Trong giai đoạn quan hệ tốt đẹp, vua Chiêm là Jaya Harivarman đã cho con gái sang
làm cung phi cho Lý Anh Tông. Sử sách cũng ghi lại lần duy nhất vua Chiêm Thành
tới Đại Việt xin sắc phong là Suryavarman (1192-1203), do vị vua này đã cắt đứt quan
hệ với Chân Lạp nên muốn dựa vào Đại Việt[[Kỷ yếu hội thảo khoa học"1000 năm
vương triều Lý và kinh đô Thăng Long, tr 395]. Năm sau, Lý Cao Tông sai sứ sang
phong vương cho Suryavarman. Thậm chí cuối năm 1077 còn Giúp Chiêm Thành
đánh bại Khmer và chiến thắng vang dội.
Tuy triều cống khá đều đặn nhưng Chiêm Thành không hoàn toàn thần phục Đại Việt,
mà vẫn thi thoảng mang quân cướp phá vùng biên giới khiến nhà Lý phải dùng tới
biện pháp quân sự để ngăn chặn, qua 2 chiến dịch “phạt Chiêm” năm 1044 và 1069
dưới hai thời vua Lý Thái Tông và Lý Thánh Tông, lãnh thổ của Đại Việt được mở
rộng khi vua Chiêm Chế Củ dâng đất cầu hòa 3 châu: Bố Chính, Ma Linh và Địa
Lý(tương ứng với Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế ngày nay) để chuộc tội.
Nhà Lý giữ quan hệ với Chiêm Thành bằng biện pháp vừa cương vừa nhu nhằm bảo
vệ biên giới, gây thanh thế ở phía nam nhằm kiềm chế âm mưu xâm lược của nhà
Tống ở phương Bắc [Kỷ yếu hội thảo khoa học"1000 năm vương triều Lý và kinh đô
Thăng Long, tr 394]. Có một số thời gian gián đoạn trong quan hệ 2 bên, như khi Lý
Thái Tông mới lên ngôi, Chiêm Thành suốt 16 năm không tiến cống, dẫn đến việc
Thái Tông thân chinh đánh Chiêm hoặc giai đoạn chiến tranh giữa nhà Lý với nhà
Tống.
Các sử gia thống kê được trong thời Lý, Chiêm Thành đã 43 lần sai sứ sang
cống[Nguyễn Quang Ngọc(2010), Vương triều Lý tr393]. Sang đầu thế kỷ XIII, trong
nước Đại Việt xảy ra loạn lạc, nhà Lý ngày càng suy yếu, Chiêm Thành không thực
hiện ngoại giao và tiến cống nữa.
Một trong những bài học Ngoại giao từ quốc gia cổ Champa mà người Việt Nam
chúng ta học được là không ngại cạnh tranh trên mọi lĩnh vực nhưng hãy mềm dẻo
đúng lúc(nhất là khi thua thế hoặc để đàm phán bằng con đường hòa bình để tránh
căng thẳng leo thang), luôn giữ vững bản sắc dân tộc cũng như chung sống hòa bình,
“thống nhất trong đa dạng” là một trong những khẩu hiệu phổ biến ở nhiều nơi trên
thế giới trong đó có liên minh Châu Âu(EU). Ví dụ như năm 1946 Việt Nam đã kí
hiệp định Sơ bộ và tạm ước ngày 14/9 để đẩy Trung Hoa Dân Quốc về nước thực hiện
chính sách “thêm bạn bớt thù” đồng thời để có thêm thời gian chuẩn bị lực lượng tiến
lên “Toàn Quốc Kháng Chiến”. Hơn nữa, với hai bản hiệp định được kí kết,Việt Nam
đã tỏ rõ thiện chí hòa bình, mong muốn hòa bình với bạn bè quốc tế, qua đó, tranh thủ
sự đồng tình, ủng hộ của dư luận tiến bộ thế giới.
00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý
about:blank
10/18
4. Với Chân Lạp(Đế chế Khmer) nay là Campuchia
Khi nhà Lý thành lập và phát triển cũng là thời kỳ vương triều Angkor đang phồn
thịnh, thậm chí hai bên đã từng đụng độ nhau ít nhất 8 lần và Đại Việt đã nhiều lần
đẩy lui, thậm chí đại thắng đế chế hùng bá Đông Nam Á thời đó – Đế chế Khmer vào
những năm 1128(2 lần), 1132, 1137, 1149, 1150, 1216, 1218. Chân Lạp cũng là nước
cướp phá vùng biên giới của Đại Việt nhiều nhất so với các nước khác. Chúng ta đã
giành chiến thắng nhiều lần một trong những đế chế lớn mạnh nhất lịch sử nhân loại.
từ các vua Suryavarman (1002-1050), Hasharvarman (1066-1089), Suryavarman II
00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý
about:blank
11/18
00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý
about:blank
12/18
00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý
about:blank
13/18
00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý
about:blank
14/18
00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý
about:blank
15/18
00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý
about:blank
16/18
00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý
about:blank
17/18
00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý
about:blank
18/18
| 1/18

Preview text:

00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý I. Mở đầu
Sự xuất hiện của các quốc gia, khu vực đã đòi hỏi nhu cầu ngày một lớn trong việc
hình thành các mối giao lưu, trao đổi, thiết lập quan hệ qua lại giữa các quốc gia,
khu vực. Đứng trước yêu cầu đó, các hoạt động và cơ quan đã chính thức được ra
đời và gọi tên nhằm thực hiện nhiệm vụ đối ngoại của một đất nước. Ngoại giao(
được hiểu là các hoạt động giao lưu, tiếp xúc với nước ngoài 外交)
nhằm mở rộng mối quan hệ cũng như thương mại trên trường quốc tế. Ngoại giao
giúp các nước tăng cường vai trò của mình đối với thế giới cũng như đẩy mạnh hội
nhập trong tình hình hiện nay.
Trong mỗi thời kì, ngoại giao sẽ có vị trí, vai trò khác biệt nhưng luôn là một phần
thiết yếu của quản lý nhà nước. Ngoại giao được coi là bộ mặt, là thái độ của một
đất nước đối với các quốc gia khác nói riêng và những vấn đề toàn cầu nói chung.
Có những thời kì, ngoại giao được coi là một mặt trậnn riêng, song song với quân
sự, là một tấm lá chắn bảo vệ tổ quốc. Ngoại giao chính là “tuyến phong thủ đầu
tiên” góp phần bảo vệ đất nước từ sớm từ xa. Có thể thấy, ngoại giao có vai trò vô
cùng quan trọng đối với sự phát triển và tồn tại của một quốc gia.
Đối với đất nước ta, ngay từ xa xưa những công tác đối ngoại như vậy đã được chú
trọng và xử lý vô cùng khéo léo. Các hoạt động ngoại giao được chú trọng, vừa
cứng rắn, vừa mềm dẻo, phù hợp với tình hình thời đại để có thể giữ vững nền hòa
bình, chủ quyền của quốc gia, dân tộc. Trong xu thế hòa bình và toàn cầu hóa hiện
nay, Ngoại giao Việt Nam ngày càng được chú trọng hơn và tiếp tục kế thừa và
phát huy những truyền thống, bài học ngoại giao trước đó vào bối cảnh toàn cầu hiện tại.
1. Dựa vào sử sách, thời kỳ này chúng ta đã có quan hệ ngoại giao tương đối rộng
với rất nhiều quốc gia, một số thì được chép không rõ ràng nên hậu thế về sau sẽ
có những nhận thức mơ hồ và những giả thiết như là sự suy đoán như Xiêm La,
Trảo Oa, Đề Hi, Lộ Hạc,... Các quốc gia đó là: Bắc – Nam Tống, Liêu – Kim, Tây
Hạ, Đại Lí, đế chế Khmer, Chiêm Thành, Ai Lao, La Hộc(Lavo), Tam Phật Tề(Srivijaya)
about:blank 1/18 00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý
II. Mối bang giao với các nước
- Ngoại giao thời Lý mang tính kế thừa các hoạt động ngoại giao từ các 3 triều đại
trước như Ngô, Đinh, Tiền Lê mà đặc biệt là từ Tiền Lê và dựa trên những nển tảng đó
để ngày càng phát triển.
trong 30 năm tồn tại, nhà Tiền Lê đã sang sứ nhà Bắc Tống 7 lần và 11 lần tiếp đón sứ
nhà Bắc Tống. Trong đó, 2 lần đón sứ và 1 lần sang sứ trong năm 980 Lê Đại Hành
mới lên ngôi, nhân danh vua Đinh Toàn làm ngoại giao. Từ năm 983 tới 1009 nhà
Tiền Lê chỉ sai sứ sang Biện Kinh(Khai Phong) 6 lần, ngược lại các vua Tống có tới 9
lần phái sứ sang Đại Cồ Việt để giữ quan hệ hòa hiếu phía Nam.
Còn với Chiêm Thành(Champa) thì từ sau năm 982, Đại Việt đã có thể nói là nằm trên
cơ khi Minh Càn Ứng Vận Thần Vũ Thăng Bình Chí Nhân Quảng Hiếu Hoàng đế(hay
còn gọi là Lê Hoàn) san phẳng thành trì để răn đe việc Chiêm bắt hai sứ giả Từ Mục,
Ngô Tử Canh sau khi chiến thắng quân Tống thời Thái Tông – Triệu Quỳnh. Năm
992, vua Chiêm mới là Harivarman II sai sứ sang xin lại 360 tù binh bị bắt giữ mang
về châu Ô Lý. Harivarman II sai sứ là Chế Đông sang dâng sản vật địa phương, vua
Lê trách là trái lễ, không nhận. Harivarman II sợ hãi, năm 994 lại sai cháu Chế Cai
sang chầu. Từ đó quan hệ hai bên khá yên ổn không xảy ra xung đột.
1. Với “thiên triểu” Bắc Tống about:blank 2/18 00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý
Ngay trong năm 1010 khi mới lên ngôi, Lý Thái Tổ đã bắt đầu sai sứ sang nhà Tống.
Sự kiện này mở đầu cho mối quan hệ bang giao trong 2 thế kỷ giữa nhà Lý với nhà
Tống của Trung Quốc. Theo đánh giá của các sử gia, việc tích cực và chủ động quan
hệ với phương Bắc nhằm gián tiếp khẳng định chính thống của nhà Lý và sự tồn tại
của nước Đại Cồ Việt[Nguyễn Quang Ngọc(2010) – Vương Triều Lý – trang 377].
Dưới thời Lý Thái Tổ và Lý Thái Tông, việc triều cống nhà Tống diễn ra đều đặn. Mỗi
khi Đại Cồ Việt có vua mới, nhà Tống đều sai sứ sang phong vương. Trong vòng 46
năm thời 3 vị vua đầu tiên của nhà Lý, sử sách chỉ ghi nhận 3 lần nhà Tống sai sứ
sang phong vương cho nhà Lý khi các vua mới lên ngôi, không có những hoạt động
ngoại giao trong thời các vua cai trị như thời Đinh và Tiền Lê. about:blank 3/18 00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý
Sang thời Lý Thánh Tông, năm 1057 nhà Lý sai sứ sang cống thú lạ cho nhà Tống,
bảo là con lân. Vua Tống nghe lời Tư Mã Quang (sợ không chắc là con lân thì các
nước khác chê cười), liền thưởng cho sứ Đại Việt rồi sai mang con thú về. Lý Thánh
Tông giận nhà Tống, cho là phản phúc, năm 1059 bèn mang quân đánh vào Khâm
châu để thị uy rồi rút về[Đại việt sử ký toàn thư – Quyển 3]. Sau lần hòa đàm năm
1060, hoạt động ngoại giao được nối lại. Năm 1067, nhà Tống sai sứ sang gia phong
Lý Thánh Tông làm Nam Bình vương và Khai phủ Nghi đồng tam ty. Điểm mới đó là
lần đầu tiên nhà Tống cử sứ sang Đại Việt không vì việc thay ngôi vua của nhà Lý.
Ngoài mục đích báo tang, mừng vua mới, kết hiếu, các vua Lý còn sai sứ sang nhà
Tống khi đánh thắng Chiêm Thành, nhằm gián tiếp thể hiện cho nhà Tống biết Chiêm
Thành là thuộc quốc của mình[Kỷ yếu hội thảo khoa học”1000 năm vương triều Lý và
kinh đô Thăng Long, tr 395]. Nhà Tống không thể hiện sự phản đối việc đó và giữ thái
độ mềm mỏng. Năm 1078 khi sứ Đại Việt là Đào Tông Nguyên chạm trán sứ Chiêm
Thành thời Harivarman IV ở Biện Kinh, nhà Tống lo ngại, sai người bố trí thu xếp nơi
ăn ở và thời gian và địa điểm vào chầu cố tỏ ra có sự phân biệt giữa hai nước nhằm
xoa dịu phía Đại Việt[Kỷ yếu hội thảo khoa học"1000 năm vương triều Lý và kinh đô Thăng Long, tr 396]
Theo thống kê của Hoàng Xuân Hãn, trong 63 năm đầu thời Lý, nhà Lý đã cử 23 đoàn
sứ bộ sang nhà Tống, trong đó 13 lần với mục đích kết hiếu và tạ ơn, 3 lần báo tin
thắng trận khi vừa đánh Chiêm Thành, 7 lần là các mục đích khác (báo tang, mừng
vua Tống lên ngôi, xin kinh Phật...[ Hoàng Xuân Hãn (1996), Lý Thường Kiệt lịch sử
ngoại giao và tông giáo triều Lý].
Sang thời Lý Nhân Tông, chỉ vài năm sau khi nhà Lý tiếp nhận chức Giao Chỉ quận
vương của vua Tống, chiến tranh Tống-Lý nổ ra. Sau khi chiến tranh chấm dứt, việc
ngoại giao giữa 2 nước tập trung vào vấn đề đất đai biên giới Tống và Đại Việt. Lê
Văn Thịnh – thủ khoa đầu tiên của Đại Việt năm 1075 – được giao đi đàm phán với
nhà Tống, kết quả tới năm 1084, phần lớn đất đai bị Tống chiếm đóng trong chiến
tranh được trả lại cho Đại Việt. Tiếc đất, vì biết rằng nơi ấy có vàng, người Tống đặt
thơ chữ Hán rằng: "Nhân tham Giao Chỉ tượng/ Khướt thất Quảng Nguyên kim",
Nghĩa là "tham voi Giao Chỉ/ mất vàng Quảng Nguyên" (Quảng Nguyên là những
vùng đất nay thuộc tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn)
Cuối năm 1126, đoàn sứ bộ Đại Việt sang nhà Tống, nhưng chỉ đến Quế Châu (Quảng
Tây) thì được quan chức tại đó đề nghị quay về, vì quân các trấn xung quanh đã được
điều hết đi chống quân Kim đang đánh Biện Kinh, ngựa trạm và phu trạm không đủ about:blank 4/18 00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý
phục vụ sứ đoàn Đại Việt. Kết quả sứ đoàn mang lễ vật trở về nước[ Đại Việt sử ký
toàn thư, Bản kỷ quyển 3]. 1.1 Với Nam Tống
Từ năm 1127, nhà Tống bị mất phương bắc về tay người Kim, phải chạy xuống Lâm
An (Hàng Châu) đóng đô. Quan hệ ngoại giao giữa nhà Lý với Nam Tống vẫn được
duy trì, thậm chí có lần năm 1156 thời Lý Anh Tông, cống phẩm cho nhà Tống có giá trị khá lớn.
Đổi lại việc nhà Lý giữ quan hệ hữu hảo khi nhà Tống đã suy, năm 1164 khi sứ thần
Doãn Tử Tư, Lý Bang Chính sang Lâm An, vua Tống Hiếu Tông tiếp đón và ban lệnh
đổi tên"Giao Chỉ"thành"An Nam", phong Lý Anh Tông làm"An Nam quốc
vương[“Khâm định Việt sử thông giám cương mục, trang 173 bản dịch tiếng Việt
dạng pdf] nhằm “nhắc nhở” về lòng trung thành của nhà Lý đối “thiên triều” trong bối
cảnh đang bị ngoại bang uy hiếp(Kim, Tây Hạ và sau này là Mông Cổ). nghĩa là trong
quan hệ ngoại giao giữa Tống và Việt từ đó, Đại Việt không còn là một quận mà chính about:blank 5/18 00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý
thức được coi là một nước phiên thuộc, mang tên An Nam[Hoàng Xuân Hãn (1996),
Lý Thường Kiệt lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý trang 119], điều này phản ánh
đúng vì tiềm lực quốc gia và tình hình chính trị đương thời, là những điều chi phối các
hoạt động đối ngoại. hai nước có nhiều sự qua lại hơn.
Từ thế kỉ 13 vì loạn lạc trong nước và cũng bị ngoại bang quấy phá: năm 1203, 1204,
1205 trong nước loạn lạc liên miên; năm 1203 quân Chiêm Thành đến cướp phá; liên
tiếp 2 năm 1203, 1204 loạn tại vùng ngã ba sông Đáy và sông Hoàng Long tỉnh Ninh
Bình, triều đình mang quân tiếp viện nhưng không thắng[Đại Việt sử ký, bản kỷ toàn
thư, quyển IV Anh Tông Hoàng Đế] nên việc sang sứ tiến cống nhà Tống không được
thực hiện cho tới hết thời Lý(1225).
Các sử gia đã thống kê được trong thời gian tồn tại 216 năm, nhà Lý đã 57 lần sai sứ
sang nhà Tống[Nguyễn Quang Ngọc (2010), Vương triều Lý, tr 378-379]. Những lần
cử sứ sang phương Bắc, nhà Lý đều chọn người có học thức, có tài ứng đối, biết làm
thơ. Các sứ đoàn luôn thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc, giữ thể diện quốc gia[Nguyễn
Quang Ngọc (2010), Vương triều Lý, tr 379].
Việc triều cống nhà Tống chỉ nhằm đạt được sự công nhận bên ngoài của triều đình
phương Bắc, giảm bớt xung đột biên giới, tạo ra môi trường ổn định để phát triển kinh
tế - xã hội trong nước[Kỷ yếu hội thảo khoa học"1000 năm vương triều Lý và kinh đô
Thăng Long, tr 390]. Bên trong, các vua Lý vẫn thể hiện sự tự tôn, độc lập tự chủ. Các
vua Lý tuy nhận tước phong của nhà Tống nhưng vẫn có niên hiệu riêng, ấn tín riêng
trong quá trình cai trị đất nước, không bao giờ dùng các chức vụ do nhà Tống phong
(Giao Chỉ quận vương, Tĩnh Hải tiết độ sứ, Nam Bình vương…)[[Kỷ yếu hội thảo
khoa học"1000 năm vương triều Lý và kinh đô Thăng Long, tr 389]
-> Xuyên suốt chiều dài lịch sử Ngoại giao Việt Nam nói chung cũng như thời nhà Lý
nói riêng chúng ta luôn có xung đột với Trung Quốc nhưng vẫn luôn giữ một thái độ
nể trọng, hòa hiếu vừa đủ để tránh gây xung đột nhất có thể nhưng luôn giữ cho mình
những bản sắc dân tộc(Núi sông bờ cõi đã chia / Phong tục Bắc – Nam cũng khác –
Bình Ngô Đại Cáo). Đặc biệt là không ép họ vào đường cùng để gây ra sự xung đột
không đáng có cho cả 2 phía. Lý Thường Kiệt đã chủ động hòa hoãn với tướng Tống -
Quách Quỳ ở trận Như Nguyệt trong khi đang thắng thế để mối quan hệ hai nước tốt đẹp trở lại.
2. Với nhà Kim about:blank 6/18 00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý
Nước Kim (nhà Kim) khi đó đang rất hùng mạnh ở miền bắc Trung Hoa, uy hiếp nước
Nam Tống thường xuyên nhưng cũng rất tôn trọng Đại Việt. Sau khi đã có hòa bình
với Nam Tống, năm 1168, Kim Thế Tông sai sứ giả vượt qua lãnh thổ Nam Tống đến
nước Đại Việt[Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên quyển 5]. Cùng
với sứ nhà Kim, sứ Nam Tống cũng đến Đại Việt lúc đó. Vua Lý Anh Tông sai các
quan đón tiếp sứ giả cả hai nước chu đáo nhưng không cho đoàn sứ giả hai nước gặp
nhau, chứng tỏ Đại Việt có những chính sách ngoại giao khôn ngoan. Đủ khả năng để
có thể đứng ra làm trung gian với hai nước không đội trời trung nhưng lại có quan hệ
tốt đẹp với cả 2(Liên hệ cuộc gặp thượng đỉnh mỹ triều lần 2 ở Hà Nội), có quan hệ
tốt với những đối thủ không đội trời chung của nhau: Hàn – Triều, Mỹ - Nga…
Ngoại giao cây tre được hiểu là một phương thức ngoại giao.
Đây là những thành tựu ngoại giao của Việt Nam sau 1986, và có thể coi đây là
một bài học giành cho các quốc gia nhỏ từ cuộc xâm lược Nga- Ukraine hiện nay.
Chính sách ngoại giao của Việt Nam mang hình ảnh của cây tre “ uốn mình theo
gió” tuy nhiên vẫn mang trong đó cơ sở là độc lập và lợi ích của quốc gia, dân tộc.
Đây là chính sách nỗ lực duy trì độc lập và duy trì ứng xử bình đẳng với tất cả các
cường quốc nhằm tối đa hóa lợi thế và phòng ngừa các nguy cơ từ bên ngoài.
Giữa tình hình quốc tế hiện đang bị phân thành 2 phe bởi ảnh hưởng của cuộc
chiến Nga- Ukraine, Việt Nam nhấn mạnh rằng tất cả các bên nên tuân thủ các
nguyên tắc của Luật Pháp Quốc Tế và Hiến Chương Liên Hợp Quốc, từ chối đứng
về phía phương Tây trong việc lên Án Nga. Trong tháng 3 năm 2022, khi “Chiến
dịch quân sự đặc biệt” của Nga đã được tiến hành 1 tháng, Bộ trưởng Bộ Ngoại
giao Việt Nam lần lượt có các cuộc điện đamg với người đồng cấp Nga và Ukraine, about:blank 7/18 00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý
đây có thể coi là một động thái cố gắng cân bằng của Việt Nam trong mối quan hệ
“ bạ bè truyền thống gần gũi” với cả Nga và Ukraine.
3. Với Chiêm Thành about:blank 8/18 00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý
(chú thích: bản đồ chỉ mang tính tương đối)
Cùng việc củng cố quan hệ với phương Bắc, nhà Lý chú trọng tới biên giới phía nam.
Sau khi bị Lê Đại Hành đánh bại năm 982, Chiêm Thành đã tỏ ra thần phục. Từ thập
kỷ 90 của thế kỷ X, Chiêm Thành đã vài lần sai sứ sang Đại Cồ Việt, quan hệ hòa
thuận của hai bên được giữ tới hết thời Tiền Lê. Sau khi Lý Thái Tổ lên ngôi, Chiêm
Thành sai sứ sang dâng sư tử năm 1011[Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ quyển 2].
(Trans: tôi cũng không biết họ kiếm ở đâu :v chắc bê từ Ấn Độ sang.) about:blank 9/18 00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý
Trong giai đoạn quan hệ tốt đẹp, vua Chiêm là Jaya Harivarman đã cho con gái sang
làm cung phi cho Lý Anh Tông. Sử sách cũng ghi lại lần duy nhất vua Chiêm Thành
tới Đại Việt xin sắc phong là Suryavarman (1192-1203), do vị vua này đã cắt đứt quan
hệ với Chân Lạp nên muốn dựa vào Đại Việt[[Kỷ yếu hội thảo khoa học"1000 năm
vương triều Lý và kinh đô Thăng Long, tr 395]. Năm sau, Lý Cao Tông sai sứ sang
phong vương cho Suryavarman. Thậm chí cuối năm 1077 còn Giúp Chiêm Thành
đánh bại Khmer và chiến thắng vang dội.
Tuy triều cống khá đều đặn nhưng Chiêm Thành không hoàn toàn thần phục Đại Việt,
mà vẫn thi thoảng mang quân cướp phá vùng biên giới khiến nhà Lý phải dùng tới
biện pháp quân sự để ngăn chặn, qua 2 chiến dịch “phạt Chiêm” năm 1044 và 1069
dưới hai thời vua Lý Thái Tông và Lý Thánh Tông, lãnh thổ của Đại Việt được mở
rộng khi vua Chiêm Chế Củ dâng đất cầu hòa 3 châu: Bố Chính, Ma Linh và Địa
Lý(tương ứng với Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế ngày nay) để chuộc tội.
Nhà Lý giữ quan hệ với Chiêm Thành bằng biện pháp vừa cương vừa nhu nhằm bảo
vệ biên giới, gây thanh thế ở phía nam nhằm kiềm chế âm mưu xâm lược của nhà
Tống ở phương Bắc [Kỷ yếu hội thảo khoa học"1000 năm vương triều Lý và kinh đô
Thăng Long, tr 394]. Có một số thời gian gián đoạn trong quan hệ 2 bên, như khi Lý
Thái Tông mới lên ngôi, Chiêm Thành suốt 16 năm không tiến cống, dẫn đến việc
Thái Tông thân chinh đánh Chiêm hoặc giai đoạn chiến tranh giữa nhà Lý với nhà Tống.
Các sử gia thống kê được trong thời Lý, Chiêm Thành đã 43 lần sai sứ sang
cống[Nguyễn Quang Ngọc(2010), Vương triều Lý tr393]. Sang đầu thế kỷ XIII, trong
nước Đại Việt xảy ra loạn lạc, nhà Lý ngày càng suy yếu, Chiêm Thành không thực
hiện ngoại giao và tiến cống nữa.
Một trong những bài học Ngoại giao từ quốc gia cổ Champa mà người Việt Nam
chúng ta học được là không ngại cạnh tranh trên mọi lĩnh vực nhưng hãy mềm dẻo
đúng lúc(nhất là khi thua thế hoặc để đàm phán bằng con đường hòa bình để tránh
căng thẳng leo thang), luôn giữ vững bản sắc dân tộc cũng như chung sống hòa bình,
“thống nhất trong đa dạng” là một trong những khẩu hiệu phổ biến ở nhiều nơi trên
thế giới trong đó có liên minh Châu Âu(EU). Ví dụ như năm 1946 Việt Nam đã kí
hiệp định Sơ bộ và tạm ước ngày 14/9 để đẩy Trung Hoa Dân Quốc về nước thực hiện
chính sách “thêm bạn bớt thù” đồng thời để có thêm thời gian chuẩn bị lực lượng tiến
lên “Toàn Quốc Kháng Chiến”. Hơn nữa, với hai bản hiệp định được kí kết,Việt Nam
đã tỏ rõ thiện chí hòa bình, mong muốn hòa bình với bạn bè quốc tế, qua đó, tranh thủ
sự đồng tình, ủng hộ của dư luận tiến bộ thế giới. about:blank 10/18 00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý
4. Với Chân Lạp(Đế chế Khmer) nay là Campuchia
Khi nhà Lý thành lập và phát triển cũng là thời kỳ vương triều Angkor đang phồn
thịnh, thậm chí hai bên đã từng đụng độ nhau ít nhất 8 lần và Đại Việt đã nhiều lần
đẩy lui, thậm chí đại thắng đế chế hùng bá Đông Nam Á thời đó – Đế chế Khmer vào
những năm 1128(2 lần), 1132, 1137, 1149, 1150, 1216, 1218. Chân Lạp cũng là nước
cướp phá vùng biên giới của Đại Việt nhiều nhất so với các nước khác. Chúng ta đã
giành chiến thắng nhiều lần một trong những đế chế lớn mạnh nhất lịch sử nhân loại.
từ các vua Suryavarman (1002-1050), Hasharvarman (1066-1089), Suryavarman II about:blank 11/18 00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý about:blank 12/18 00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý about:blank 13/18 00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý about:blank 14/18 00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý about:blank 15/18 00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý about:blank 16/18 00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý about:blank 17/18 00:39 7/8/24
Bang giao Việt Nam thời nhà Lý about:blank 18/18