ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
BÀI KIỂM TRA THƯỜNG KỲ
O CÁO
HỌC PHẦN
HÌNH PHẦN VÀ PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG MỀN
HỌC PHẦN
KINH TẾ VĨ MÔ
SVTH: Võ Hồng Ngân
NHÓM
MSS: 0020410504
: 1
Lớp: DHKT20B
LỚP HỌC PHẦN: FR02
Lớp: DHKT20B
Đồng Tháp, 12/2020 - Đồng Tháp, 5/2021
THÀNH VIÊN NHÓM 1:
- Nguyễn Thị ng
- Đặng Thái Xuân Vy
- Võ Hồng Ngân (Nhóm trưởng)
- Võ Thị Minh Thư
Nội dung báo cáo: Đầu tư công
Kết cấu gồm:
Tính cấp thiết của nội dung nghiên cứu
Chương 1: Lý thuyết lien quan tới vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Thực trạng (số liệu cập nhật, có sự so sánh qua các
năm…)
Chương 3: Giải pháp và Kết luận
1
MỞ ĐU
Tính cấp thiết của đầu tư công
Đầu tư công là một trong những yếu tố đóng vai trò quan trọng và quyết
định đối với tăng trưởng kinh tế. Đầu tư công được tập trung chủ yếu vào xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật, giáo dục, y tế, xóa đói giảm nghèo…Vn
đầu tư công từ ngân sách nhà nước là nguồn lực quan trọng thúc đầy tăng
trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện
nay, khi nguồn vốn ngân sách nhà nước càng hạn hẹp thì việc nâng cao hiệu quả
đầu tư công từ vốn ngân sách nhà nước càng trở nên quan trọng.
Hòa Bình là tỉnh miền núi vùng Tây Bắc, điểm xuất phát thấp, 72% dân số là
dân tộc thiểu số; trình độ dân trí không cao, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao,
địa hình đồi núi hiểm trở, kinh tế khó khăn. Vì vậy, nguồn lực tài chính dành cho
đầu tư công là rất ít. Điều này dẫn đến kết cấu hạ tầng của tỉnh còn thiếu, đòi hỏi
phải có nhiều hơn nữa các dự án đầu tư công để xây dựng kết cấu hạ tầng kinh
tếxã hội, giúp nâng cao đời sống người dân, từ đó thực hiện hiệu quả các mục
êu phát triển bền vững của tỉnh.
Hơn nữa, từ năm 2006, hầu hết dự án đầu tư công đã phân cấp về địa
phương quản lý, nên hiệu quả đầu tư công mang lại phụ thuộc rất lớn vào năng
lực và quyết định đầu tư của địa phương. Tuy nhiên, với nguồn lực Nhà nước có
hạn, hiệu quả đầu tư công chưa cao, nên rất cần có những giải pháp để nâng cao
hiệu quả đầu tư công ở tỉnh Hòa Bình, giúp tỉnh phát triển kinh tế-xã hội.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động đầu tư công, sự hạnhp của
nguồn vốn ngân sách nhà nước, cũng như nhìn nhận thực ễn
khách quan tại tỉnh Hòa Bình, nghiên cứu sinh chọn đề tài: 2 “Nâng cao hiệu quả
đầu tư công từ vốn ngân sách nhà nước tại tỉnh Hòa Bình”.
2
CHƯƠNG 1: Lý thuyết liên quan tới đầu tư công
Đầu tư công đóng vai trò quan trọng với tăng trưởng và phát triển kinh tế
bền vững ở các quốc gia. Đầu tư công được đầu tư tập trung vào xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế xã hội giúp cải thiện kết cấu hạ tầng, thu hút đầu tư tư nhân
trong nước và nước ngoài, tạo việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng phúc
lợi xã hội. Bài viết này bàn về khái niệm đầu tư công.
Khái niệm đầu tư công có nhiều quan điểm đang tranh luận khác nhau của
nhiều nhà nghiên cứu kinh tế trong nước và trên thế giới. Có nhà nghiên cứu cho
rằng khái niệm đầu tư công là đề cập tới lĩnh vực đầu tư mà đầu tư tư nhân
không thể và không muốn tham gia như kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội. Có nhà
nghiên cứu thì cho rằng đầu tư công là hoạt động đầu tư sử dụng Nguồn vốn của
Nhà nước… Dù thực tế rằng đa phần nguồn vốn sử dụng cho hoạt động đầu tư
công chủ yếu là nguồn vốn của Nhà nước. Do cách nhìn nhận khác nhau dẫn tới
đánh giá và quản lý hoạt động đầu tư công, vốn đầu tư công không thống nhất
ảnh hưởng tới huy động nguồn vốn cho đầu tư công và hiệu quả của hoạt động
đầu tư. Đơn giản là có công trình nghiên cứu về đầu tư công sử dụng nguồn vốn
Nhà nước có thể bị đánh giá hiểu sai bản chất nếu người đánh giá quan niệm đầu
tư công chú trọng vào lĩnh vực đầu tư.
Do đó, cần thống nhất khái niệm đầu tư công làm cơ sở cho việc nghiên cứu về
đầu tư công và quản lý hoạt động đầu tư công hiệu quả.
Theo điều 4 Luật Đầu tư Công (2013), “Đầu tư công là hoạt động đầu tư của
Nhà nước vào các chương trình, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và
đầu tư vào các chương trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Với khái niệm đầu tư công đưa ra ở Lut Đầu tư Công gồm 2 phần: thứ nhất,
khẳng định là đầu tư của Nhà nước và thứ hai là đầu tư vào các chương trình, d
án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và đầu tư vào các chương trình, dự án phục vụ
phát triển kinh tế - xã hội. Phần thứ hai gồm cả chương trình, dự án phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội coi như bao hàm hết mọi dự án mà Nhà nước đầu tư vì các
dự án đều không trực ếp cũng gián ếp phục vụ phát triển kinh tế xã hội. Vậy,
thuật ngữ Đầu tư công theo điều 4 Luật Đầu tư có thể hiểu là đầu tư của Nhà
c.
Theo Luật Đầu tư Công tại điều 1 về phạm vi điều chỉnh, “Luật này quy định
việc quản lý và sử dụng vốn đầu tư công; quản lý nhà nước về đầu tư công;
quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân liên quan
đến hoạt động đầu tư công.
“Vốn đầu tư công quy định tại Luật này gồm: vốn ngân sách nhà nước, vốn
công trái quốc gia, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn trái phiếu chính quyền địa
phương, vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của các nhà tài
trớc ngoài, vốn n dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn từ nguồn thu
để lại cho đầu tư nhưng chưa đưa vào cân đối ngân sách nhà nước, các khoản
vốn vay khác của ngân sách địa phương để đầu tư.
Với phạm vi điều chỉnh và thuật ngữ vốn đầu tư đề cập trong Luật thì vốn
đầu tư công là nguồn vốn của Nhà nước và do Nhà nước quản lý. Tổng hợp cả
khái niệm đầu tư công và vốn đầu tư công, chúng ta có thhiểu Đầu tư công theo
Luật đầu tư công là hoạt động đầu tư của Nhà nước, sử dụng nguồn vốn đầu tư
của Nhà nước và do Nhà nước quản lý. Với cách hiểu này, Luật Đầu tư công đang
đồng nhất khái niệm nguồn vốn đầu tư công với Nguồn vốn do Nhà nước quản lý,
từ đó hạn chế vic thu hút các nguồn vốn khác cho hoạt động đầu tư công. Hơn
nữa, hoạt động đầu tư công là hoạt động đầu tư của Nhà nước thì các chủ th
kinh tế khác của nền kinh tế sẽ bị hạn chế làm chủ thể của hoạt động đầu tư
công, vô hình chung cũng ảnh hưởng tới việc thu hút các nguồn lực xã hội và
nguồn vốn khác cho hoạt động đầu tư công.
Một số tài liệu nước ngoài cũng cho rằng đầu tư công là đầu tư của nhà
ớc, của chính phủ và đồng nhất khái niệm đầu tư công với khái niệm đầu tư
của chính phủ, của Nhà nước. Theo Cambridge diconary, đầu tư công là số ền
mà chính phủ chi cho các dịch vụ công cộng, chẳng hạn như giáo dục và y tế.
Theo Simon Lee, đầu tư công là đầu tư của nhà nước vào các tài sản cụ thđưc
thực hiện bởi chính phủ trung ương hoặc địa phương hoặc các ngành công
nghiệp hoặc tập đoàn thuộc sở hữu công. Đầu tư công đã phát sinh trong lịch sử
từ nhu cầu cung cấp một số hàng hóa, cơ sở hạ tầng hoặc dịch vụ được coi là vì
lợi ích quốc gia quan trọng. Đầu tư công có xu hướng tăng là kết quả của công
nghiệp hóa và nhu cầu tương ứng đối với cơ sở hạ tầng mới để thúc đẩy sự phát
triển của cộng đồng đô thị. Vào đầu thế kỷ 21, việc tư nhân hóa các ngành công
nghiệp nhà nước đã dẫn đến sự tăng trưởng của chi êu công cho hàng hóa và
dịch vụ được cung cấp bởi các khu vực tư nhân và khu vực phi lợi nhuận, chủ yếu
thông qua sự phát triển của hình thức đối tác công tư.
CHƯƠNG 2: Thực trạng (số liu cập nhật, có sự so sánh qua các năm…)
Tái cấu trúc, nâng cao hiệu quđầu tư công là giải pháp căn bản cần thực hiện
nhằm khai thác và sử dụng nguồn lực một cách hiệu qunhất, để có nền tài chính
công mạnh, bảo đảm an toàn tài chính quốc gia. Tái cấu đầu công là trục
bản của tái cấu kinh tế chứa đựng yếu tố thchế cốt lõi của nền kinh tế
chuyển đổi.
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương tái cấu trúc đầu công, tỷ trọng
chi đầu tư công Việt Nam đang có xu hướng giảm dần theo sự dịch chuyển trong
cấu đầu công giữa Trung ương và địa phương, với mức độ phân cấp ngày
càng tăng. Song, việc đầu của Trung ương giảm sẽ ảnh hưởng đến việc tập trung
nguồn lực để thực hiện các dự án mục êu quan trọng quốc gia, đặc biệt trong bối
cảnh sự phối hợp vùng còn hạn chế. Bên cạnh đó, tỷ trọng đầu tư của địa phương
cao có thể dẫn đến rủi ro đầu tư dàn trải và giảm hiệu suất đầu tư.
Quy đầu tư công tăng, nhưng hiệu quả không tương xứng. Điều này đặt
ra yêu cầu thực hiện các giải pháp ng cường năng lực thực thi nhiệm vụ để góp
phần nâng cao hiệu quả, giảm thất thoát, lãng phí và chống tham nhũng trong đầu
tư công… Theo các số liệu thống kê, tổng vn đầu tư trong xã hội liên tục tăng cao.
Tính theo giá so sánh năm 1994, tổng số vốn đầu tư đã tăng từ 115 nghìn tỷ đồng
năm 2000 lên hơn 400 nghìn tđồng năm 2010, gấp gần 3,5 lần, nh quân mỗi
năm tăng 13,9%. Còn nh tm 1995 cho đến m 2010 tổng số vốn đầu công
nh theo giá so sánh năm 1994 đã tăng từ 27.185 tỉ đồng lên đến 179.813 tỉ đồng
gấp 6,6 lần, năm 2015.
Báo cáo của Bộ Kế hoạch - Đầu tư, năm 2012, Việt Nam đã triển khai đầu
công với tổng số vốn 123.029,1 tỷ cho 20.529 dự án, tức là đáp ứng khoảng 1/3 dự
án và 1/2 nhu cầu vốn đầu tư. Trong giai đoạn 2000-2009, đầu tư cho lĩnh vực kinh
tế luôn chiếm trên 73% vốn đầu tư của Nhà nước, đầu tư vào các ngành thuộc lĩnh
vực xã hội liên quan trực ếp đến sự phát triển của con người (khoa học, giáo dục
và đào tạo, y tế cứu trợ xã hội, văn hóa, thể thao, phục vụ nhân và cộng đồng)
còn rất khiêm tốn, giảm từ 17,6% năm 2000 xuống còn 15,2% năm 2009, trong đó
đầu cho khoa học, giáo dục đào tạo giảm tỷ trọng t8,5% năm 2000 xuống
còn 5,1% năm 2009; y tế cứu trợ xã hội từ 2,4% những năm 20002003 lên 3,2-
3,9% những năm 2004-2008 giảm còn 2,8% năm 2009; đầu tư cho lĩnh vực quản
nhà nước những m gần đây chiếm khoảng 8%. Năm 2012, bắt dầu thực hiện
Chth1792 về tăng cường quản đầu tvốn ngân sách nhà nước vốn trái
phiếu chính phủ, đã tạo ra những chuyển biến mới trong nhận thức về đầu công,
nhằm khắc phục căn bệnh đầu tư tràn lan, kém hiệu quả chúng ta đã nói đến
hơn một, hai chục năm qua.
Năm 2013, được đánh giá m bản ltrong quản đầu tvốn ngân
sách nhà nước vốn trái phiếu chính phủ bởi việc phân bổ vốn được công bố theo
giai đoạn từ 2013-2015. Phần vốn giao cho các bngành, địa phương minh bạch,
không phải đi “xin-cho” từng năm như trước kia, các doanh nghiệp đẩy nhanh ến
độ để hoàn thành sớm và hiệu quả của đầu tư tăng cao hơn.
Đầu tư công trong giai đoạn 2014 - 2015 được siết chặt bằng các nguyên tắc
cụ thể. Trong giai đoạn y, chỉ tập trung bố trí vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước
để hoàn thành đy nhanh ến độ các dự án quan trọng quốc gia, các chương
trình mục êu quốc gia, các dự án trọng điểm có ý nghĩa lớn đối với phát triển kinh
tế-xã hội của đất nước, của các ngành, các địa phương.
Trong từng ngành, lĩnh vực, sẽ ưu ên bố trí vốn:
- Các dự án, công trình đã hoàn thành và đã n giao đưa vào sdụng trước
năm2013 nhưng chưa bố trí đủ vốn;
- Các dự án dự kiến hoàn thành m 2014-2015 (theo ến độ trong quyết định
đầutư, khả năng cân đối vốn và khả năng thực hiện);
- Vốn đối ứng cho các dự án ODA theo ến độ thực hiện dự án; các dự án sử dụng
vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2012-2015 nhưng chưa được bố trí đủ vốn
đểhoàn thành, để đưa vào sử dụng, phát huy hiệu quả.
Ngân sách cũng được dùng để bố trí đủ vốn để thanh toán nợ đọng xây dựng
cơ bản và thu hồi các khoản vốn ứng trước đúng thời hạn quy định.
Số vốn còn lại bố trí cho các dự án chuyển ếp thực hiện theo ến độ đã phê
duyt. Đối với các dự án chuyển ếp cần rà soát phạm vi, quy đầu phù hợp
với mục êu và khả năng cân đối vốn. Việc bố trí vốn phải đảm bảo dự án nhóm C
hoàn thành trong 3 năm, nhóm B hoàn thành trong 5 năm.
Đối với các dự án khởi công mới, phải cân nhắc kỹ ỡng, chbố tvốn khởi
công mới các dự án thật sự cấp bách và có đầy đủ các điều kiện như:
- Dự án nằm trong quy hoạch đã được duyệt, thuộc nhiệm vụ ngân sách nhà c;
- Xác định rõ nguồn vốn và khả năng cân đối vốn ở từng cấp ngân sách;
- Thẩm định nguồn vốn cân đối vốn, phê duyệt quyết định theo đúng quy địnhtại
Chthị số 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011 của Thủ ớng Chính phủ.
- Dự án phải hoàn thành các thtục đầu theo quy định trước ngày 31/10 năm
trước;
- Đã bố trí đủ vốn để xử nợ đọng xây dựng bản theo quy định tại Chỉ thsố
27/CT-TTg ngày 10/10/2012 của Thủ ớng Chính phủ.
Điều đáng lo ngại là, quyết định chấp thuận đầu thường được dựa trên các
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội (có thể coi là không có giới hạn) và khả năng huy
động vốn (do chủ đầu tự đề xuất thường chưa được kiểm chứng) trong khi
các êu chí về hiệu quả kinh tế - xã hội, trách nhiệm thu hồi vốn ... chưa được quy
định chặt chẽ và chưa có hiệu lực ràng buộc pháp lý.
Hiện, nền kinh tế ớc ta có quy mô GDP khoảng 130 tỷ USD. Để sản xuất ra
130 tỷ USD đó, trong nền kinh tế có: 100 cảng biển, trong đó có 20 cảng “quốc tế
những chưa một cảng biển nước sâu đủ êu chuẩn quốc tế; 22 sân bay dân
dụng, trong đó 8 sân bay quc tế; đang xây dựng 18 khu kinh tế biển, 30 khu
kinh tế cửa khẩu, 260 khu công nghiệp, 650 cụm công nghip.
Trong thời gian 10 năm (2001 đến 2010) đã quyết định thành lập mới
307trường đại học, học viện. Đến năm 2015, Việt Nam tổng cộng 409 trường
đại học, học viện, trường cao đẳng, bình quân mỗi tỉnh có 6 trường. Năm 2015,
khoảng 550 trường đại học và cao đẳng, theo kế hoạch cần đầu tư 10 tỷ USD/năm
(chưa kể giáo dục, y tế).
Theo thống kê, trong 10 năm (2001 đến 2010), mỗi tháng ớc thêm 1
khu đô thmới. Với hệ thống quá nhiều ngân hàng, quá nhiều công ty tài chính
chứng khoán, quá nhiều sân bay, cảng biển, khu kinh tế và khu công nghiệp, tất cả
đều “đang trỗi dậy, đang được xây dựng dở dang và cần rất nhiều vốn.
CHƯƠNG 3: Giải pháp và Kết luận - Giải pháp:
Thnhất, cần thay đổi quan điểm đầu công. Nhà ớc chỉ đầu vào những
công trình công cộng kinh tế nhân không hay chưa đầu tư, không đầu vào
những lĩnh vực thương mại, chạy theo lợi nhuận (chứng khoán, khách sạn, nhà
hàng). Thu hút nguồn vốn từ khu vực nhân cùng đầu với nhà nước theo
nguyên tắc công tư kết hợp.
Thứ hai, để thực hiện tái cơ cấu đầu tư công phải sửa đổi tthchế, bộ máy,
luật pháp liên quan như Luật đất đai, Luật đấu thầu, trách nhiệm của bộ máy nhà
ớc và người ra quyết định, trách nhiệm của công chức, viên chức nhà nước.
Đồng thời, chủ độnghội nhập quốc tế, Việt Nam phải tuân thủ những luật chơi
chung và các điều khoản đã cam kết, trong đó cải cách tài chính công sao cho
phù hợp với những quy định và cam kết quốc tế, bảo đảm nâng cao năng lực quản
nhà ớc về kinh tế và ng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nền kinh tế.
Luật đầu công ra đời và có hiệu lực từ 2015 là một yếu tố quan trọng nâng
cao hiệu quả đầu công. Cùng với thực hiện Luật Đầu công, Luật mua sắm
công, thực hiện triệt để nguyên tắc công khai, minh bạch, giám sát độc lập, quy chế
độ trách nhiệm cá nhân trong từng khâu của quá trình đầu tư, thiết kế, thẩm định,
thi công, giám sát, quyết toán ... Nâng cao vai trò, trách nhiệm của o chí trong
việc phát hiện, giám sát đầu công. Nâng cao vai trò của Kiểm toán Nhà c
trong toàn bộ quá trình thực hiện đầu tư công.
Khuyến nghị của giới chuyên gia là, để tăng cường mức độ toàn diện và minh
bạch của ngân sách, cần bảo đảm nhất quán từ khâu dự toán đến quyết toán cho
cả chi thường xuyên lẫn chi đầu tư; hợp nhất dliệu kế toán của các đơn vị khu
vực công trong báo cáo tài chính hợp nhất của Chính phủ, để tạo ra bức tranh toàn
diện về hoạt động của khu vực công. Theo đó, cần chế tăng cường trách
nhiệm giải trình báo cáo theo hiệu quả hoạt động; từng bước triển khai lập ngân
sách theo đầu ra tại các cơ quan, đơn vị phù hợp.
Thứ ba, cần cải thiện năng lực phối hợp vùng; tập trung ng cao hiệu suất và
sắp xếp lại nguồn lực trong lĩnh vực tài chính; gắn kết tốt hơn giữa chi sự nghiệp
với chi đầu tư, đặc biệt trong giao thông nông nghiệp để kéo dài vòng đời đầu
tư. Nghiên cứu chế để các địa phương nghèo nâng cao khảng huy động thu
và giảm phụ thuộc vào số bổ sung từ ngân sách trung ương thông qua cơ chế phân
chia nguồn thu công bằng minh bạch.
Thtư, bảo đảmết kiệm hiệu qucác khoản chi tài chính của khu vực
công. Các khoản chi tài chính của khu vực công đa phần là do NSNN đảm nhận, có
đặc điểm không hoàn trả trực ếp, không nh chất ngang giá, lại phạm vi
rộng, khối lượng chi lớn. Vì vậy, cần coi trọng thực hiện mục êu ết kiệm
hiệu quả các khoản chi của khu vực công trong quá trình cải cách, đổi mới tài chính
công.
Thnăm, đổi mới đầu công phải hướng tới mục êu thúc đẩy mạnh mẽ cải
cách nh chính nhà nước, bảo đảm cho bộ máy hành chính hoạt động tốt hơn,
chuyên nghiệp hơn, điều hành hiệu quả hơn hoạt động kinh tế-xã hội của đất
ớc. Đầu tư công không chtác dụng cung cấp nguồn lực cho bộ máy công
quyền hoạt động, điều quan trọng phải thông qua đó có tác động mạnh mẽ
đến việc điều chỉnh tổ chức và nh hiệu quả của hoạt động bmáy. Vì vy, gắn việc
đổi mới đầu công với y dựng bộ máy trong sạch vững mạnh được coi một
trong những mục êu quan trọng.
Thsáu, thông qua cải cách, đổi mới hoạt động đầu tư công bảo đảm cho việc
sản xuất và cung cấp hàng hóa dịch vụ công cộng công bằng và hiệu quả hơn.
Hầu hết việc sản xuất và cung cấp hàng hóa dịch vụ công cộng đều do bộ máy công
quyền từ trung ương đến địa phương đảm nhận. Nếu bộ máy công quyền thiếu
trung thực, không minh bạch, nạn tham nhũng diễn ra tràn lan, thì việc sản xuất
cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cộng khó đạt được yêu cầu công bằng hiệu quả.
Do đó, vấn đề đặt ra việc cải cách, đổi mới hoạt động đầu công phải hướng
vào mục êu bảo đảm công bằng và hiệu quả.
Thứ bảy, ếp tục đẩy mạnh thực hiện các nghị quyết, chủ trương của Đảng và
Nhà nước về đổi mới, sắp xếp lại hệ thống doanh DNNN; đặc biệt là cơ chế quản lý
vốn, tách bạch tài chính doanh nghiệp với tài chính nhà nước.Đối với tài chính của
các cơ quan công quyền và các đơn vị sự nghiệp công lập, nội dung đổi mới tập
trung nâng cao quyền tch, tự chịu trách nhiệm gắn việc đổi mới với công cuc
cải cách nh chính việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cộng công bằng
hiệu quả…
Thtám, nâng cao năng lực hiệu lực hoạt động của các quan nhiệm
vụ kiểm tra, giám sát kết ququản sử dụng đầu công. Quy định ràng
trách nhiệm vật chất của những người đứng đầu quan chính quyền nhà nước
mỗi cấp trước kết quả quản lý đầu tư công của cấp đó. Đổi mới công tác thanh tra,
giám sát tài chính trong toàn bộ quá trình quản lý tài chính công.
-Kết luận:
Đầu tư công nói chung, đầu tư từ ngân sách nhà nước nói riêng đã và đang khẳng
định vai trò quan trọng, nh quyết định trong phát triển hệ thống kết cấu hạ
tầng cho nền kinh tế - xã hội. Công tác đầu vai trò quyết định trong việc tạo
dựng sở vật chất để nâng cao chất lượng quy đào tạo, nghiên cứu phục
vụ cho thực hiện các nhiệm vụ chính trị trong hiện tại tương lai. Để hot động
đầu được hiệu quả, tránh dàn trải, lãng phí nguồn lực, cần hoàn thiện quản lý
đầu theo ớng ên ến, hiện đại, đúng pháp luật. Nhà nước cần coi hoàn thin
quản lý đầu tư là một trong những nhiệm vụ hàng đầu trong giai đoạn tới sao cho
phù hợp với nhu cầu đầu tư thực tế tăng cao của các giai đoạn phát triển sắp tới.
Những phân ch cho thấy, bên cạnh những thành ch đáng ghi nhận về quản lý
đầu tư, Nhà nước cũng còn buông lỏng quản lý trong một số khâu và tồn tại một
số sai sót, hạn chế trong quản lý đầu tư xây dựng. Cụ thể là quy hoạch đầu tư xây
dựng có chất lượng chưa cao, chưa có điều kiện quy hoạch mới theo hướng hiện
đại, đồng thời chưa cải cách, đổi mới những cơ sở đã quy hoạch trước đây để
đáp ứng hội nhập, ứng dụng công nghệ thông n vào việc lập, thẩm định, phê
duyt chủ trương đầu tư, lập, thẩm định, quyết định dự án đầu tư thiếu chặt chẽ,
phải điều chỉnh, phê duyệt lại tổng mức đầu tư, tổng dự toán công trình nhiều
lần. Công tác kế hoạch đầu tư công nói chung bộc lộ yếu kém, thiếu đồng bộ đặc
biệt là kế hoạch vốn đầu tư; nh trạng đầu tư dàn trải, phân tán là phổ biến; ến
độ hầu hết các dự án kéo dài, dẫn tới chí phí đầu tư tăng cao, hiệu quả các dự án
đầu tư còn thấp. Việc quản lý vốn đầu tư, quản lý chi phí dự án đầu tư còn có
thiếu sót, hầu hết công trình thanh toán khối lượng hoàn thành, giải ngân chậm,
vi phạm quy định của nhà nước về tạm ứng vốn và thu hồi tạm ứng vốn đầu tư.
Công tác lập báo cáo quyết toán và phê duyệt báo cáo quyết toán dự án đầu tư
hoàn thành đều rất chậm trễ so với quy định làm giảm hiệu quả vốn đầu tư, gây
lãng phí cho ngân sách nhà nước.
Tài liệu tham khảo
hps://hcma.vn/content/ntuc/lists/news/Aachments
hps://tcnn.vn/news/detail/33683/
Dau_tu_cong_thuc_trang_va_motso_giai_phap_nang_cao_hieu_quaall.html
hp://lapphap.vn/Pages/ntuc/nchiet.aspx?ntucid=210211
hps://khoahoc.neu.edu.vn/

Preview text:

ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
BÀI KIỂM TRA THƯỜNG KỲ BÁO CÁO HỌC PHẦN
HÌNH PHẦN VÀ PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG MỀN HỌC PHẦN
KINH TẾ VĨ MÔ SVTH: Võ Hồng Ngân
NHÓMMSS: 0020410504: 1 Lớp: DHKT20B
LỚP HỌC PHẦN: FR02 Lớp: DHKT20B
Đồng Tháp, 12/2020 - Đồng Tháp, 5/2021 THÀNH VIÊN NHÓM 1:
- Nguyễn Thị Hường
- Đặng Thái Xuân Vy
- Võ Hồng Ngân (Nhóm trưởng) - Võ Thị Minh Thư
Nội dung báo cáo: Đầu tư công Kết cấu gồm:
Tính cấp thiết của nội dung nghiên cứu
Chương 1: Lý thuyết lien quan tới vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Thực trạng (số liệu cập nhật, có sự so sánh qua các năm…)
Chương 3: Giải pháp và Kết luận 1 MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đầu tư công
Đầu tư công là một trong những yếu tố đóng vai trò quan trọng và quyết
định đối với tăng trưởng kinh tế. Đầu tư công được tập trung chủ yếu vào xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật, giáo dục, y tế, xóa đói giảm nghèo…Vốn
đầu tư công từ ngân sách nhà nước là nguồn lực quan trọng thúc đầy tăng
trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện
nay, khi nguồn vốn ngân sách nhà nước càng hạn hẹp thì việc nâng cao hiệu quả
đầu tư công từ vốn ngân sách nhà nước càng trở nên quan trọng.
Hòa Bình là tỉnh miền núi vùng Tây Bắc, điểm xuất phát thấp, 72% dân số là
dân tộc thiểu số; trình độ dân trí không cao, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao,
địa hình đồi núi hiểm trở, kinh tế khó khăn. Vì vậy, nguồn lực tài chính dành cho
đầu tư công là rất ít. Điều này dẫn đến kết cấu hạ tầng của tỉnh còn thiếu, đòi hỏi
phải có nhiều hơn nữa các dự án đầu tư công để xây dựng kết cấu hạ tầng kinh
tếxã hội, giúp nâng cao đời sống người dân, từ đó thực hiện hiệu quả các mục
tiêu phát triển bền vững của tỉnh.
Hơn nữa, từ năm 2006, hầu hết dự án đầu tư công đã phân cấp về địa
phương quản lý, nên hiệu quả đầu tư công mang lại phụ thuộc rất lớn vào năng
lực và quyết định đầu tư của địa phương. Tuy nhiên, với nguồn lực Nhà nước có
hạn, hiệu quả đầu tư công chưa cao, nên rất cần có những giải pháp để nâng cao
hiệu quả đầu tư công ở tỉnh Hòa Bình, giúp tỉnh phát triển kinh tế-xã hội.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động đầu tư công, sự hạnhẹp của
nguồn vốn ngân sách nhà nước, cũng như nhìn nhận thực tiễn
khách quan tại tỉnh Hòa Bình, nghiên cứu sinh chọn đề tài: 2 “Nâng cao hiệu quả
đầu tư công từ vốn ngân sách nhà nước tại tỉnh Hòa Bình”. 2
CHƯƠNG 1: Lý thuyết liên quan tới đầu tư công
Đầu tư công đóng vai trò quan trọng với tăng trưởng và phát triển kinh tế
bền vững ở các quốc gia. Đầu tư công được đầu tư tập trung vào xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế xã hội giúp cải thiện kết cấu hạ tầng, thu hút đầu tư tư nhân
trong nước và nước ngoài, tạo việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng phúc
lợi xã hội. Bài viết này bàn về khái niệm đầu tư công.
Khái niệm đầu tư công có nhiều quan điểm đang tranh luận khác nhau của
nhiều nhà nghiên cứu kinh tế trong nước và trên thế giới. Có nhà nghiên cứu cho
rằng khái niệm đầu tư công là đề cập tới lĩnh vực đầu tư mà đầu tư tư nhân
không thể và không muốn tham gia như kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội. Có nhà
nghiên cứu thì cho rằng đầu tư công là hoạt động đầu tư sử dụng Nguồn vốn của
Nhà nước… Dù thực tế rằng đa phần nguồn vốn sử dụng cho hoạt động đầu tư
công chủ yếu là nguồn vốn của Nhà nước. Do cách nhìn nhận khác nhau dẫn tới
đánh giá và quản lý hoạt động đầu tư công, vốn đầu tư công không thống nhất
ảnh hưởng tới huy động nguồn vốn cho đầu tư công và hiệu quả của hoạt động
đầu tư. Đơn giản là có công trình nghiên cứu về đầu tư công sử dụng nguồn vốn
Nhà nước có thể bị đánh giá hiểu sai bản chất nếu người đánh giá quan niệm đầu
tư công chú trọng vào lĩnh vực đầu tư.
Do đó, cần thống nhất khái niệm đầu tư công làm cơ sở cho việc nghiên cứu về
đầu tư công và quản lý hoạt động đầu tư công hiệu quả.
Theo điều 4 Luật Đầu tư Công (2013), “Đầu tư công là hoạt động đầu tư của
Nhà nước vào các chương trình, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và
đầu tư vào các chương trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.”
Với khái niệm đầu tư công đưa ra ở Luật Đầu tư Công gồm 2 phần: thứ nhất,
khẳng định là đầu tư của Nhà nước và thứ hai là đầu tư vào các chương trình, dự
án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và đầu tư vào các chương trình, dự án phục vụ
phát triển kinh tế - xã hội. Phần thứ hai gồm cả chương trình, dự án phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội coi như bao hàm hết mọi dự án mà Nhà nước đầu tư vì các
dự án đều không trực tiếp cũng gián tiếp phục vụ phát triển kinh tế xã hội. Vậy,
thuật ngữ Đầu tư công theo điều 4 Luật Đầu tư có thể hiểu là đầu tư của Nhà nước.
Theo Luật Đầu tư Công tại điều 1 về phạm vi điều chỉnh, “Luật này quy định
việc quản lý và sử dụng vốn đầu tư công; quản lý nhà nước về đầu tư công;
quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân liên quan
đến hoạt động đầu tư công.”
“Vốn đầu tư công quy định tại Luật này gồm: vốn ngân sách nhà nước, vốn
công trái quốc gia, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn trái phiếu chính quyền địa
phương, vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của các nhà tài
trợ nước ngoài, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn từ nguồn thu
để lại cho đầu tư nhưng chưa đưa vào cân đối ngân sách nhà nước, các khoản
vốn vay khác của ngân sách địa phương để đầu tư.”
Với phạm vi điều chỉnh và thuật ngữ vốn đầu tư đề cập trong Luật thì vốn
đầu tư công là nguồn vốn của Nhà nước và do Nhà nước quản lý. Tổng hợp cả
khái niệm đầu tư công và vốn đầu tư công, chúng ta có thể hiểu Đầu tư công theo
Luật đầu tư công là hoạt động đầu tư của Nhà nước, sử dụng nguồn vốn đầu tư
của Nhà nước và do Nhà nước quản lý. Với cách hiểu này, Luật Đầu tư công đang
đồng nhất khái niệm nguồn vốn đầu tư công với Nguồn vốn do Nhà nước quản lý,
từ đó hạn chế việc thu hút các nguồn vốn khác cho hoạt động đầu tư công. Hơn
nữa, hoạt động đầu tư công là hoạt động đầu tư của Nhà nước thì các chủ thể
kinh tế khác của nền kinh tế sẽ bị hạn chế làm chủ thể của hoạt động đầu tư
công, vô hình chung cũng ảnh hưởng tới việc thu hút các nguồn lực xã hội và
nguồn vốn khác cho hoạt động đầu tư công.
Một số tài liệu nước ngoài cũng cho rằng đầu tư công là đầu tư của nhà
nước, của chính phủ và đồng nhất khái niệm đầu tư công với khái niệm đầu tư
của chính phủ, của Nhà nước. Theo Cambridge dictionary, đầu tư công là số tiền
mà chính phủ chi cho các dịch vụ công cộng, chẳng hạn như giáo dục và y tế.
Theo Simon Lee, đầu tư công là đầu tư của nhà nước vào các tài sản cụ thể được
thực hiện bởi chính phủ trung ương hoặc địa phương hoặc các ngành công
nghiệp hoặc tập đoàn thuộc sở hữu công. Đầu tư công đã phát sinh trong lịch sử
từ nhu cầu cung cấp một số hàng hóa, cơ sở hạ tầng hoặc dịch vụ được coi là vì
lợi ích quốc gia quan trọng. Đầu tư công có xu hướng tăng là kết quả của công
nghiệp hóa và nhu cầu tương ứng đối với cơ sở hạ tầng mới để thúc đẩy sự phát
triển của cộng đồng đô thị. Vào đầu thế kỷ 21, việc tư nhân hóa các ngành công
nghiệp nhà nước đã dẫn đến sự tăng trưởng của chi tiêu công cho hàng hóa và
dịch vụ được cung cấp bởi các khu vực tư nhân và khu vực phi lợi nhuận, chủ yếu
thông qua sự phát triển của hình thức đối tác công tư.
CHƯƠNG 2: Thực trạng (số liệu cập nhật, có sự so sánh qua các năm…)
Tái cấu trúc, nâng cao hiệu quả đầu tư công là giải pháp căn bản cần thực hiện
nhằm khai thác và sử dụng nguồn lực một cách hiệu quả nhất, để có nền tài chính
công mạnh, bảo đảm an toàn tài chính quốc gia. Tái cơ cấu đầu tư công là trục cơ
bản của tái cơ cấu kinh tế vì nó chứa đựng yếu tố thể chế cốt lõi của nền kinh tế chuyển đổi.
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương tái cấu trúc đầu tư công, tỷ trọng
chi đầu tư công ở Việt Nam đang có xu hướng giảm dần theo sự dịch chuyển trong
cơ cấu đầu tư công giữa Trung ương và địa phương, với mức độ phân cấp ngày
càng tăng. Song, việc đầu tư của Trung ương giảm sẽ ảnh hưởng đến việc tập trung
nguồn lực để thực hiện các dự án mục tiêu quan trọng quốc gia, đặc biệt trong bối
cảnh sự phối hợp vùng còn hạn chế. Bên cạnh đó, tỷ trọng đầu tư của địa phương
cao có thể dẫn đến rủi ro đầu tư dàn trải và giảm hiệu suất đầu tư.
Quy mô đầu tư công tăng, nhưng hiệu quả không tương xứng. Điều này đặt
ra yêu cầu thực hiện các giải pháp tăng cường năng lực thực thi nhiệm vụ để góp
phần nâng cao hiệu quả, giảm thất thoát, lãng phí và chống tham nhũng trong đầu
tư công… Theo các số liệu thống kê, tổng vốn đầu tư trong xã hội liên tục tăng cao.
Tính theo giá so sánh năm 1994, tổng số vốn đầu tư đã tăng từ 115 nghìn tỷ đồng
năm 2000 lên hơn 400 nghìn tỷ đồng năm 2010, gấp gần 3,5 lần, bình quân mỗi
năm tăng 13,9%. Còn tính từ năm 1995 cho đến năm 2010 tổng số vốn đầu tư công
tính theo giá so sánh năm 1994 đã tăng từ 27.185 tỉ đồng lên đến 179.813 tỉ đồng gấp 6,6 lần, năm 2015.
Báo cáo của Bộ Kế hoạch - Đầu tư, năm 2012, Việt Nam đã triển khai đầu tư
công với tổng số vốn 123.029,1 tỷ cho 20.529 dự án, tức là đáp ứng khoảng 1/3 dự
án và 1/2 nhu cầu vốn đầu tư. Trong giai đoạn 2000-2009, đầu tư cho lĩnh vực kinh
tế luôn chiếm trên 73% vốn đầu tư của Nhà nước, đầu tư vào các ngành thuộc lĩnh
vực xã hội liên quan trực tiếp đến sự phát triển của con người (khoa học, giáo dục
và đào tạo, y tế và cứu trợ xã hội, văn hóa, thể thao, phục vụ cá nhân và cộng đồng)
còn rất khiêm tốn, giảm từ 17,6% năm 2000 xuống còn 15,2% năm 2009, trong đó
đầu tư cho khoa học, giáo dục và đào tạo giảm tỷ trọng từ 8,5% năm 2000 xuống
còn 5,1% năm 2009; y tế và cứu trợ xã hội từ 2,4% những năm 20002003 lên 3,2-
3,9% những năm 2004-2008 và giảm còn 2,8% năm 2009; đầu tư cho lĩnh vực quản
lý nhà nước những năm gần đây chiếm khoảng 8%. Năm 2012, bắt dầu thực hiện
Chỉ thị 1792 về tăng cường quản lý đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước và vốn trái
phiếu chính phủ, đã tạo ra những chuyển biến mới trong nhận thức về đầu tư công,
nhằm khắc phục căn bệnh đầu tư tràn lan, kém hiệu quả mà chúng ta đã nói đến
hơn một, hai chục năm qua.
Năm 2013, được đánh giá là năm bản lề trong quản lý đầu tư từ vốn ngân
sách nhà nước và vốn trái phiếu chính phủ bởi việc phân bổ vốn được công bố theo
giai đoạn từ 2013-2015. Phần vốn giao cho các bộ ngành, địa phương minh bạch,
không phải đi “xin-cho” từng năm như trước kia, các doanh nghiệp đẩy nhanh tiến
độ để hoàn thành sớm và hiệu quả của đầu tư tăng cao hơn.
Đầu tư công trong giai đoạn 2014 - 2015 được siết chặt bằng các nguyên tắc
cụ thể. Trong giai đoạn này, chỉ tập trung bố trí vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước
để hoàn thành và đẩy nhanh tiến độ các dự án quan trọng quốc gia, các chương
trình mục tiêu quốc gia, các dự án trọng điểm có ý nghĩa lớn đối với phát triển kinh
tế-xã hội của đất nước, của các ngành, các địa phương.
Trong từng ngành, lĩnh vực, sẽ ưu tiên bố trí vốn:
- Các dự án, công trình đã hoàn thành và đã bàn giao đưa vào sử dụng trước
năm2013 nhưng chưa bố trí đủ vốn;
- Các dự án dự kiến hoàn thành năm 2014-2015 (theo tiến độ trong quyết định
đầutư, khả năng cân đối vốn và khả năng thực hiện);
- Vốn đối ứng cho các dự án ODA theo tiến độ thực hiện dự án; các dự án sử dụng
vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2012-2015 nhưng chưa được bố trí đủ vốn
đểhoàn thành, để đưa vào sử dụng, phát huy hiệu quả.
Ngân sách cũng được dùng để bố trí đủ vốn để thanh toán nợ đọng xây dựng
cơ bản và thu hồi các khoản vốn ứng trước đúng thời hạn quy định.
Số vốn còn lại bố trí cho các dự án chuyển tiếp thực hiện theo tiến độ đã phê
duyệt. Đối với các dự án chuyển tiếp cần rà soát phạm vi, quy mô đầu tư phù hợp
với mục tiêu và khả năng cân đối vốn. Việc bố trí vốn phải đảm bảo dự án nhóm C
hoàn thành trong 3 năm, nhóm B hoàn thành trong 5 năm.
Đối với các dự án khởi công mới, phải cân nhắc kỹ lưỡng, chỉ bố trí vốn khởi
công mới các dự án thật sự cấp bách và có đầy đủ các điều kiện như:
- Dự án nằm trong quy hoạch đã được duyệt, thuộc nhiệm vụ ngân sách nhà nước;
- Xác định rõ nguồn vốn và khả năng cân đối vốn ở từng cấp ngân sách;
- Thẩm định nguồn vốn và cân đối vốn, phê duyệt quyết định theo đúng quy địnhtại
Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011 của Thủ tướng Chính phủ.
- Dự án phải hoàn thành các thủ tục đầu tư theo quy định trước ngày 31/10 năm trước;
- Đã bố trí đủ vốn để xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản theo quy định tại Chỉ thị số
27/CT-TTg ngày 10/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ.
Điều đáng lo ngại là, quyết định chấp thuận đầu tư thường được dựa trên các
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội (có thể coi là không có giới hạn) và khả năng huy
động vốn (do chủ đầu tư tự đề xuất và thường chưa được kiểm chứng) trong khi
các tiêu chí về hiệu quả kinh tế - xã hội, trách nhiệm thu hồi vốn ... chưa được quy
định chặt chẽ và chưa có hiệu lực ràng buộc pháp lý.
Hiện, nền kinh tế nước ta có quy mô GDP khoảng 130 tỷ USD. Để sản xuất ra
130 tỷ USD đó, trong nền kinh tế có: 100 cảng biển, trong đó có 20 cảng “quốc tế”
những chưa có một cảng biển nước sâu đủ tiêu chuẩn quốc tế; 22 sân bay dân
dụng, trong đó có 8 sân bay quốc tế; đang xây dựng 18 khu kinh tế biển, 30 khu
kinh tế cửa khẩu, 260 khu công nghiệp, 650 cụm công nghiệp.
Trong thời gian 10 năm (2001 đến 2010) đã quyết định thành lập mới
307trường đại học, học viện. Đến năm 2015, Việt Nam có tổng cộng 409 trường
đại học, học viện, trường cao đẳng, bình quân mỗi tỉnh có 6 trường. Năm 2015, có
khoảng 550 trường đại học và cao đẳng, theo kế hoạch cần đầu tư 10 tỷ USD/năm
(chưa kể giáo dục, y tế).
Theo thống kê, trong 10 năm (2001 đến 2010), mỗi tháng nước có thêm 1
khu đô thị mới. Với hệ thống quá nhiều ngân hàng, quá nhiều công ty tài chính và
chứng khoán, quá nhiều sân bay, cảng biển, khu kinh tế và khu công nghiệp, tất cả
đều “đang trỗi dậy”, đang được xây dựng dở dang và cần rất nhiều vốn.
CHƯƠNG 3: Giải pháp và Kết luận - Giải pháp:
Thứ nhất, cần thay đổi quan điểm đầu tư công. Nhà nước chỉ đầu tư vào những
công trình công cộng mà kinh tế tư nhân không hay chưa đầu tư, không đầu tư vào
những lĩnh vực thương mại, chạy theo lợi nhuận (chứng khoán, khách sạn, nhà
hàng). Thu hút nguồn vốn từ khu vực tư nhân cùng đầu tư với nhà nước theo
nguyên tắc công tư kết hợp.
Thứ hai, để thực hiện tái cơ cấu đầu tư công phải sửa đổi từ thể chế, bộ máy,
luật pháp liên quan như Luật đất đai, Luật đấu thầu, trách nhiệm của bộ máy nhà
nước và người ra quyết định, trách nhiệm của công chức, viên chức nhà nước.
Đồng thời, chủ độnghội nhập quốc tế, Việt Nam phải tuân thủ những luật chơi
chung và các điều khoản đã cam kết, trong đó có cải cách tài chính công sao cho
phù hợp với những quy định và cam kết quốc tế, bảo đảm nâng cao năng lực quản
lý nhà nước về kinh tế và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế.
Luật đầu tư công ra đời và có hiệu lực từ 2015 là một yếu tố quan trọng nâng
cao hiệu quả đầu tư công. Cùng với thực hiện Luật Đầu tư công, Luật mua sắm
công, thực hiện triệt để nguyên tắc công khai, minh bạch, giám sát độc lập, quy chế
độ trách nhiệm cá nhân trong từng khâu của quá trình đầu tư, thiết kế, thẩm định,
thi công, giám sát, quyết toán ... Nâng cao vai trò, trách nhiệm của báo chí trong
việc phát hiện, giám sát đầu tư công. Nâng cao vai trò của Kiểm toán Nhà nước
trong toàn bộ quá trình thực hiện đầu tư công.
Khuyến nghị của giới chuyên gia là, để tăng cường mức độ toàn diện và minh
bạch của ngân sách, cần bảo đảm nhất quán từ khâu dự toán đến quyết toán cho
cả chi thường xuyên lẫn chi đầu tư; hợp nhất dữ liệu kế toán của các đơn vị khu
vực công trong báo cáo tài chính hợp nhất của Chính phủ, để tạo ra bức tranh toàn
diện về hoạt động của khu vực công. Theo đó, cần có cơ chế tăng cường trách
nhiệm giải trình và báo cáo theo hiệu quả hoạt động; từng bước triển khai lập ngân
sách theo đầu ra tại các cơ quan, đơn vị phù hợp.
Thứ ba, cần cải thiện năng lực phối hợp vùng; tập trung nâng cao hiệu suất và
sắp xếp lại nguồn lực trong lĩnh vực tài chính; gắn kết tốt hơn giữa chi sự nghiệp
với chi đầu tư, đặc biệt trong giao thông và nông nghiệp để kéo dài vòng đời đầu
tư. Nghiên cứu cơ chế để các địa phương nghèo nâng cao khả năng huy động thu
và giảm phụ thuộc vào số bổ sung từ ngân sách trung ương thông qua cơ chế phân
chia nguồn thu công bằng minh bạch.
Thứ tư, bảo đảmtiết kiệm và hiệu quả các khoản chi tài chính của khu vực
công. Các khoản chi tài chính của khu vực công đa phần là do NSNN đảm nhận, có
đặc điểm không hoàn trả trực tiếp, không có tính chất ngang giá, lại có phạm vi
rộng, khối lượng chi lớn. Vì vậy, cần coi trọng và thực hiện mục tiêu tiết kiệm và
hiệu quả các khoản chi của khu vực công trong quá trình cải cách, đổi mới tài chính công.
Thứ năm, đổi mới đầu tư công phải hướng tới mục tiêu thúc đẩy mạnh mẽ cải
cách hành chính nhà nước, bảo đảm cho bộ máy hành chính hoạt động tốt hơn,
chuyên nghiệp hơn, điều hành có hiệu quả hơn hoạt động kinh tế-xã hội của đất
nước. Đầu tư công không chỉ có tác dụng cung cấp nguồn lực cho bộ máy công
quyền hoạt động, mà điều quan trọng là phải thông qua đó có tác động mạnh mẽ
đến việc điều chỉnh tổ chức và tính hiệu quả của hoạt động bộ máy. Vì vậy, gắn việc
đổi mới đầu tư công với xây dựng bộ máy trong sạch vững mạnh được coi là một
trong những mục tiêu quan trọng.
Thứ sáu, thông qua cải cách, đổi mới hoạt động đầu tư công bảo đảm cho việc
sản xuất và cung cấp hàng hóa dịch vụ công cộng công bằng và hiệu quả hơn.
Hầu hết việc sản xuất và cung cấp hàng hóa dịch vụ công cộng đều do bộ máy công
quyền từ trung ương đến địa phương đảm nhận. Nếu bộ máy công quyền thiếu
trung thực, không minh bạch, nạn tham nhũng diễn ra tràn lan, thì việc sản xuất và
cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cộng khó đạt được yêu cầu công bằng và hiệu quả.
Do đó, vấn đề đặt ra là việc cải cách, đổi mới hoạt động đầu tư công phải hướng
vào mục tiêu bảo đảm công bằng và hiệu quả.
Thứ bảy, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các nghị quyết, chủ trương của Đảng và
Nhà nước về đổi mới, sắp xếp lại hệ thống doanh DNNN; đặc biệt là cơ chế quản lý
vốn, tách bạch tài chính doanh nghiệp với tài chính nhà nước.Đối với tài chính của
các cơ quan công quyền và các đơn vị sự nghiệp công lập, nội dung đổi mới là tập
trung nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm gắn việc đổi mới với công cuộc
cải cách hành chính và việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cộng công bằng và hiệu quả…
Thứ tám, nâng cao năng lực và hiệu lực hoạt động của các cơ quan có nhiệm
vụ kiểm tra, giám sát kết quả quản lý và sử dụng đầu tư công. Quy định rõ ràng
trách nhiệm vật chất của những người đứng đầu cơ quan chính quyền nhà nước
mỗi cấp trước kết quả quản lý đầu tư công của cấp đó. Đổi mới công tác thanh tra,
giám sát tài chính trong toàn bộ quá trình quản lý tài chính công. -Kết luận:
Đầu tư công nói chung, đầu tư từ ngân sách nhà nước nói riêng đã và đang khẳng
định vai trò quan trọng, có tính quyết định trong phát triển hệ thống kết cấu hạ
tầng cho nền kinh tế - xã hội. Công tác đầu tư có vai trò quyết định trong việc tạo
dựng cơ sở vật chất để nâng cao chất lượng và quy mô đào tạo, nghiên cứu phục
vụ cho thực hiện các nhiệm vụ chính trị trong hiện tại và tương lai. Để hoạt động
đầu tư được hiệu quả, tránh dàn trải, lãng phí nguồn lực, cần hoàn thiện quản lý
đầu tư theo hướng tiên tiến, hiện đại, đúng pháp luật. Nhà nước cần coi hoàn thiện
quản lý đầu tư là một trong những nhiệm vụ hàng đầu trong giai đoạn tới sao cho
phù hợp với nhu cầu đầu tư thực tế tăng cao của các giai đoạn phát triển sắp tới.
Những phân tích cho thấy, bên cạnh những thành tích đáng ghi nhận về quản lý
đầu tư, Nhà nước cũng còn buông lỏng quản lý trong một số khâu và tồn tại một
số sai sót, hạn chế trong quản lý đầu tư xây dựng. Cụ thể là quy hoạch đầu tư xây
dựng có chất lượng chưa cao, chưa có điều kiện quy hoạch mới theo hướng hiện
đại, đồng thời chưa cải cách, đổi mới những cơ sở đã quy hoạch trước đây để
đáp ứng hội nhập, ứng dụng công nghệ thông tin vào việc lập, thẩm định, phê
duyệt chủ trương đầu tư, lập, thẩm định, quyết định dự án đầu tư thiếu chặt chẽ,
phải điều chỉnh, phê duyệt lại tổng mức đầu tư, tổng dự toán công trình nhiều
lần. Công tác kế hoạch đầu tư công nói chung bộc lộ yếu kém, thiếu đồng bộ đặc
biệt là kế hoạch vốn đầu tư; tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán là phổ biến; tiến
độ hầu hết các dự án kéo dài, dẫn tới chí phí đầu tư tăng cao, hiệu quả các dự án
đầu tư còn thấp. Việc quản lý vốn đầu tư, quản lý chi phí dự án đầu tư còn có
thiếu sót, hầu hết công trình thanh toán khối lượng hoàn thành, giải ngân chậm,
vi phạm quy định của nhà nước về tạm ứng vốn và thu hồi tạm ứng vốn đầu tư.
Công tác lập báo cáo quyết toán và phê duyệt báo cáo quyết toán dự án đầu tư
hoàn thành đều rất chậm trễ so với quy định làm giảm hiệu quả vốn đầu tư, gây
lãng phí cho ngân sách nhà nước.
Tài liệu tham khảo
https://hcma.vn/content/tintuc/lists/news/Attachments
https://tcnn.vn/news/detail/33683/
Dau_tu_cong_thuc_trang_va_motso_giai_phap_nang_cao_hieu_quaall.html
http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210211
https://khoahoc.neu.edu.vn/