-
Thông tin
-
Quiz
Báo cáo nghiên cứu lịch sử báo chí chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
“Cụ Huỳnh là một người học hành rất rộng, chí khí rất bền, đạo đức rất cao… là ngườimà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo khổ không nản chí, oai vũ không sờn gan. Cả đời cụ Huỳnh không màng danh vị, không cầu lợi lộc, không thèm làm giàu, không thèm làm quan. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Lịch sử báo chí 6 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.7 K tài liệu
Báo cáo nghiên cứu lịch sử báo chí chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
“Cụ Huỳnh là một người học hành rất rộng, chí khí rất bền, đạo đức rất cao… là ngườimà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo khổ không nản chí, oai vũ không sờn gan. Cả đời cụ Huỳnh không màng danh vị, không cầu lợi lộc, không thèm làm giàu, không thèm làm quan. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Lịch sử báo chí 6 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.7 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:




















Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
Khoa Phát thanh – Truyền hìn h
BÁO CÁO NGHIÊN CỨU LỊCH Ử S Á B O CHÍ
CHÍ SĨ HUỲNH THÚC KHÁNG
GV Hướng dẫn: PGS/ TS Phạm Thị Thanh Tịnh
Sinh viên: Phùng Nhật Anh – 2156080007
Bùi Thị Thu Lan - 2156080018
Lớp: Báo truyền hình CLC K41
Hà Nội, tháng 5 năm 2023 1 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ..........................................................................................................3
1. HUỲNH THÚC KHÁNG – CON ĐƯỜNG DUY TÂN ................................5
2. MỘT CHÍ SĨ YÊU NƯỚC, MỘT NHÀ BÁO CAN TRƯỜNG .................12
3. NGƯỜI CẦM ĐUỐC SOI ĐƯỜNG .............................................................27
4. VỤ ÁN “ÔN NHƯ HẦU” ...............................................................................37
LỜI KẾT ................................................................................................................40 2 LỜI MỞ ĐẦU
Lời mở đầu, em xin được chân thành cảm ơn PSG/ Ts. Thanh Tịnh đã đồng hành
cùng K41 báo Truyền hình CLC một học kì bổ ích và lí thú. Những kiến thức, kĩ
năng được cô trang bị trong hành trình trở thành những cây bút tương lai là vô cùng
quý giá và đáng trân trọng. Để đào tạo ra những cán bộ có chuyên môn, không chỉ
cần kiến thức trên sách vở mà còn phải trau dồi cho bản thân kỹ năng kinh nghiệm
nghề nghiệp. Học phải đi đôi với hành, lý luận phải gắn với thực tiễn, vì vậy chúng
em rất thích thú với buổi ngoại khóa tham quan bảo tàng Báo chí Việt Nam. Tại đây
chúng em được chiêm ngưỡng những tác phẩm báo chí đầu tiên của đất nước, những
tác phẩm mang tầm vóc của Tổ quốc, của tự do. Dưới sự hướng dẫn của cô dẫn đoàn:
PGS/ TS. Phạm Thị Thanh Tịnh, chúng em đã tìm được cho mình một câu chuyện
về người chí sĩ hết lòng vì nước, vì dân – HUỲNH THÚC KHÁNG. 3
HUỲNH THÚC KHÁNG - OAI VŨ KHÔNG LÀM SỜN GAN
“Cụ Huỳnh là một người học hành rất rộng, chí khí rất bền, đạo đức rất cao… là
ngườimà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo khổ không nản chí, oai vũ không
sờn gan. Cả đời cụ Huỳnh không màng danh vị, không cầu lợi lộc, không thèm làm
giàu, không thèm làm quan. Cả đời cụ Huỳnh chỉ phấnd dấu cho dân được tự do,
nước được độc lập” - Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Cụ Huỳnh Thúc Kháng (1875 – 1947) 4
1. HUỲNH THÚC KHÁNG – CON ĐƯỜNG DUY TÂN
Huỳnh Thúc Kháng tên thật là Huỳnh Hanh, tự giới Sanh, hiệu Mính Viên, sinh năm
1876 (Bính Tý), người làng Thạnh Bình, tổng Tiên Giang thượng, huyện Hà Đông,
phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam nay là làng Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng
Nam, con của ông Huỳnh Tấn Hữu, làm nông và bà Nguyễn Thị Tình. Bà Tình là
em của phó bảng Nguyễn Đình Tựu.
Huỳnh Thúc Kháng bắt đầu học chữ Nho tại nhà ông Tự năm 1883 (quý mùi), khi
ông Tựu giữ chức đốc học Quảng Nam lần thứ nhất. Năm 1877 (Đinh Hợi), Huỳnh
Thúc Kháng được gia đình gởi vào núi học võ để chuẩn bị hưởng ứng phong trào
Cần Vương chống Pháp. Năm 1888, vua Hàm Ngị bị Pháp bắt tại Hà Tĩnh, phong
trào Cần Vương xuống dần, Huỳnh Thúc Kháng trở lại học chữ năm 1890 (canh
dần). Ông đỗ đầu kỳ thi hương tại trường thi Thừa Thiên năm 1900 (canh tý) trên
Nguyễn Đình Hiến, Phan Chu Trinh, Lê Bá Trinh… Năm 1904 (giáp thìn), 28 tuổi
đỗ Tam giáp Tiến sĩ hội nguyên khoa Giáp Thìn 1904 tại trường thi Thừa Thiên,
được xếp vào hàng "ngũ phụng" của đất Quảng Nam.
Khác với nhiều vị đại khoa cùng thời, sau khi đỗ đạt cao, Huỳnh Thúc Kháng dứt
khoát không ra làm quan, trở về Quảng Nam, cùng với Phan Chu Trinh, Trần Quý
Cáp mở cuộc vận động duy tân. Năm 1905, cả ba ông đi về phương nam để tìm hiểu tình hình.
Trong khi Phan Chu Trinh đi vận động khắp nước thì Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc
Kháng ở lại Quảng Nam, tổ chức trường học, hội buôn, nông hội, hội cắt tóc ngắn,
hội mặc đồ tây… Tốt nhất có lẽ nên nghe chính đương sự kể lại trong “Niên phổ”
của mình: “…Tôi cùng các thân hào bằng hữu đề xướng chung vốn lập thương cuộc 5
tại Phố (Faifoo tức Hội An) cùng lập trường học, hội nông trồng quế… tùy theo
phong khí biến đổi trong nước, nào ăn mặc theo Âu tây, cúp tóc… Tôi lại cùng các
thân sĩ trong huyện lập một thư xã tại nhà túc thất của Văn Miếu mới (tại làng Chiên
Đàn) mua nhiều sách báo mới, ngày rằm mỗi tháng họp diễn thuyết một lần, người
đến nghe rất đông, lại cùng đệ tử trong làng mở nhà học, rước thầy về dạy chữ Tây
và quốc ngữ cho con em… Nhiều làng trong hương thôn có trường quốc ngữ…
phong khi đổi khác…”
Tuy không thấy sách nào ghi lại, dường như hai ông Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc
Kháng thỏa thuận chia địa bàn hoạt động: Trần Quý Cáp phụ trách phần phía Bắc và
Huỳnh Thúc Kháng đảm nhận phần phía nam tỉnh Quảng Nam. Cũng như Trần Quý
Cáp, trong giai đoạn này, Huỳnh Thúc Kháng sáng tác nhiều thơ văn cổ động phong
trào Duy Tân như bài thơ sau đây ông làm mừng ngày khai trương hội buôn Thăng
Bình ở làng Phú Lâm do xã Sáu Lê Cơ chủ trì:
“ Người trong Đông Á rõ ràng,
Một dòng một giống Hồng Bàng là đây.
Nay biết đổi quê ngây tục cũ,
Hiệp Bầy nhau chung của mà buôn.
Đuổi theo tân hóa bôn chôn,
Thói hư ta bỏ, túi khôn ta bày.
Chúng tôi vui thấy hội nầy,
Mở lời kính chúc quý thầy đôi câu:
Một chúc thương cục được lâu,
Lợi quyền giữ lại của mình hầu sanh.
Hai chúc học hành cho giỏi,
Theo người hay tìm tỏi cho nên.
Ba chúc tấm lòng cho bền, 6
Ai ai cũng quyết đứng lên vũ đài.
Bốn chúc đạo khai dân trí,
Dạy con em nghĩa lý cho mình.
Năm chcú khuyến dụ người mình,
Bỏ câu thành bại mới nên việc đời.
Sáu chúc khuyên người trong nước,
Khuyên anh em sau trước gần xa.
Bảy chúc thương nước thương nhà,
Ta là đân nước, nước là nhà ta.
Tám chúc bước qua đường sáng,
Mở mang cho tỏ rạng lẽ côcng.
Chín chúc người nước tâm đồng,
Người hay trí xảo gánh đồng giang san
Mười chúc chớ sờn tâm trí,
Hiệp bầy nhau mà thử gan chơi
Lẻ hai mươi triệu con người,
Đồng lòng dễ có thua người nước mô.”
Công cuộc vận động Duy Tân đang phát triển tốt đẹp thì xảy ra các cuộc biểu tình
cự sưu chống thuế phát khởi tại Quảng Nam vào tháng 3 – 1908. Lúc đó, Huỳnh
Thúc Kháng đang ở Hội An lo việc lập thương hội, trông thấy các cuộc tuần hành
phản kháng, lại nghe Pháp đang lùng bắt các thân sĩ, ông tự biết thế nào mình cũng
bị chú ý, liền trở về nhà đợi lính đến bắt. Ngày 26 – 3 – 1908 ( 24 – 2 Mậu Thân),
Pháp cho người đến bắt ông đưa về Hội An.
Sau đây là cuộc “đấu lý” kỳ thú giữa Huỳnh Thúc Kháng và viên đại lý Pháp ở Tam
Kỳ khi ông ghé tại Tam Kỳ ăn cơm tối trên đường bị áp tải về Hội An: 7
“…Dẫn vào phòng giấy, quan đại lý gọi tôi nói: “Ông đã biết quan công sứ gọi về việc gì chăng?”
“Tôi nói một cách thản nhiên: “không biết gì cả.”
“Ông nói: “Ông là hàng khoa giáp của An Nam, sĩ dân trong tỉnh đều suy phục.
Ông thường đi các nơi diễn thuyết, đề xướng dân quyền. Nay hạt dân dấy loạn, kéo
nhau cự sưu, trong đó có đồ đệ của ông theo xúi giục, quan sứ triệu ông vì cớ ấy.”
“Tôi nói: “Việc diễn thuyết là việc trước tai mắt trăm ngàn người. vấn đề diễn giảng
không ngoài việc tỉnh xa sùng kiệm, khai trí trị sinh, cùng bỏ cái hoa khoa học cử,
cổ kệ Âu hóa, tuyệt không có việc dẫn người làm việc phạm thượng vi pháp. Ngày
nay, nhân dân xin xâu chỉ vì bần khổ bức xúc cùng bị quan lại tham nhũng bức hiếp,
không nơi kêu thấu, họ làm thế chỉ là kêu oan, tôi có dự vào việc ấy làm gì?”
“Ông nói: “Đúng rồi, ông diễn thuyết đều là việc khai hóa mà có bọn nghe lầm làm
sai, nay thành ra việc không hay như thế; ở Điện Bàn, Thăng Bình đều có tấn bi kịch
tụ tập vây phủ bức bách quan, chính phủ hiện đã dùng quân pháp trị tội, nay bọn
ông lại mở ra các vụ thương quán, học đường, không chút nào tấn bộ, lại theo đó mà thụt lùi.”
“Tôi nói: “Việc ấy do nhà đương đạo chính trị lưu tâm mình sát, nghiêm trị kẻ xướng
loạn, bằng cứ nhân đó mà làm hại tới các việc thương, việc học, thế chẳng phải sai
tôn chỉ khai hóa của chính phủ lắm sao?”
“Ông nói: “Tôi chẳng phải nhà diễn thuyết và đây chẳng phải nơi diễn đàn, ông đến
gặp quan sử Hội An bày tỏ thì hơn…”
Nhưng hôm sau vừa tới Hội An, Huỳnh Thúc Kháng bị đưa thẳng vào nhà lao tống
giam. Tháng 6 – 1908, ông về nhà lao tỉnh Quảng Nam ở Điện Bản, rồi trở lại Hội
An, lên xe hỏa ra Đà Nẵng để xuống tàu vào Sài Gòn đi đày cũng một số chiến hữu
như Than Thúc Duyện, Lê Bá Trinh, Dương Thạc… Trong Thi tù tùng thoại, Huỳnh
Thúc Kháng cho biết trong tù ông chỉ bị buộc khai hai chuyện: thứ nhất trên Ngụy 8
Tác Hạ ở Nghệ An vu áo ông cùng Phan Chu Trinh mật hội với Phan Bội Châu khi
Phan Bội Châu vào Quảng Nam gặp Nguyễn Thành; thứ nhì Nguyễn Tư Trực ở
Khánh Hòa khai rằng Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng đã làm
hai bài Chí thành thông thánh thi và Danh sơn lương ngọc phú, đồng thời ghé Cam
Ranh xuống tàu Nga định trốn ra nước ngoài. Trong các việc trên, Huỳnh Thúc
Kháng xác nhận việc làm thư phú là đúng và phủ nhận các việc còn lại. Nhưng ông
vẫn bị buộc tội rất nặng là “thông với người bội quốc, xướng thuyết dân quyền cùng
các cuộc khai thương lập học,” và bị kết án “xử tử phát Côn Lôn ngộ xá bất
nguyên”. Huỳnh Thúc Kháng biết được việc nầy là nhờ một người quen làm việc
trong “ty niết” (tòa án Nam triều) lén sao cho biết, chứ không có tòa án nào tuyên
bố kết án ông cả. Nhân đó, ông đã làm thơ cảm tác:
“Vô quốc năm hà bội,
Ngu dân khởi hữu quyền.
Hiệp thương thành họa sủy,
Giảng học bị châu liên.
Bàn quận danh sơn phú,
Cam Ranh ngoại quốc thuyền.
Viên thơ như phát bố,
Đáng tác tiểu biên niên.”
Huỳnh Thúc Kháng tự dịch:
“Không nước sao rằng bội?
Dân ngu há có quyền.
Hiệp thương gây mối họa,
Giảng học cũng can liên.
Bình Định cùng làm phú,
Cam Ranh muốn vượt thuyền. 9
Án văn như phát bố,
Truyện tớ có đời truyền.”
Nhóm Huỳnh Thúc Kháng bị đi đày vào tháng 8 – 1908. Trong cuộc tiệc tiễn đưa
do các bạn tù tổ chức, Huỳnh Thúc Kháng đã cảm khái làm bài “Lưu Biệt” theo thể hát nói như sau:
“Trăng trên trời có khi tròn khi khuyết,
Người ở đời sao khỏi tiết gian nan.
Đấng trượng phu tùy ngộ nhi an,
Tố hoạn nạn, hành hồ hoạn nạn.
Tiền lộ định tri thiên hữu nhãn,
Thâm tiêu du hứa mông hoàn gia.
Mấy nhiêu năm cũng vấn chửa già,
Nọ núi Ấn, nầy sông Đà,
Non sống ấy còn chờ ta thêu dệt.
Kìa tụ tán chẳng qua là tiểu biệt,
Ngựa Tái ông họa phúc biết về đâu?
Một mai kia con tạo khéo cơ cầu,
Thảy bốn bể cũng trong bầu trời đất cả.
Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Dầu đến lúc núi sụp, biển lồi
trời nghiên, đất ngả
Tấm lòng vàng, tạc đã vẫn chưa mòn.
Trăng kia khuyết đó lại tròn!”
Khi bị đưa xuống tàu vào nam,huỳnh thúc kháng gặp thêm các sĩ phu mới bị bắt ở
Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên như Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cẩn, Lê Văn 10
Huân… Tàu còn ghé cảng Bình Định đón các tù nhân khác là các thân sĩ lãnh đạo
công cuộc biểu tình các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, tổng cộng thành 27 người.
Nhóm này ra đến Côn Lôn vào cuối tháng 8 năm 1908.
Trong số tù nhân bị bắt đày ra Côn Lôn sau vụ trung Kỳ dân biến 1908, người trở về
sớm nhất là Phan Chu Trinh (năm 1911), do ông được hội Nhân Quyền Pháp can
thiệp thẳng với chính phủ Paris. Ngược lại những người trở về sau cùng là Huỳnh
Thúc Kháng, Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế, Trần Kỳ Phong (năm 1921). Sau đầu
là bài ngũ ngôn Huỳnh Thúc Kháng đã cảm tác khi ra khỏi tù:
“Cùng đảo tam thiên lý,
Ky tù thập nhị xuân.
Đồng khứ nhị thập thất,
Đồng quy duy tứ nhân.
Đỗ vũ thanh trung quốc,
Sa trùn khiếp hậu thân. Tu mi do lạc nhật,
Hà dĩ báo ngô nhân.”
Huỳnh Thúc Kháng tự dịch:
“Mười hai năm tù ngục,
Ba ngàn dặm bể khơi.
Cùng đi hai mươi bảy,
Cùng về chỉ bốn người.
Tiếng quốc hồn đương bận,
Mình sâu cát chửa vùi.
Nợ bầy sao trả đặng, 11
Mày râu khỏi hổ ngươi.”
Tù ngục không làm cho Huỳnh Thúc Kháng nản chí. Trong tù, ông luôn luôn điềm
tĩnh, giữ vững tinh thần, xem đầy là một “trường học thiên nhiên” rèn đúc ý chí của
mà “mùi cay đắng trong ấy, làm trai giữa thế kỷ XX này không thể không nếm cho
biết”. 13 năm trong ngục tù (1908 – 1921) của bọn thực dân, ông đã dùng thơ cả
như một vũ khí đấu tranh, khích lệ tinh thần yêu nước của nhân dân, đồng thời cũng
để bày tỏ khí tiết bất khuất của mình như : “Đập đá ở Côn Lôn”, “Đi đày khẩu
chiếm”, “Khóc Trần Quý Cáp”, “Kỷ niệm ba năm đến Côn Lôn”… Thơ văn của cụ
có sức thuyết phục lay động nhân dân rất lớn.
“Một tay thề quyết vạc trời con
Gọi dậy bà con tình mộng hồn
Gươm tách núi chiều xua bóng xế
Thuyền phăng biển sớm rước vầng tròn…”
Tương truyền rằng để có thể tiếp tục tranh đấu với người Pháp sau này, Huỳnh Thúc
Kháng bắt đầu học chữ Pháp ở trong tù và để có đủ ngữ vựng đối thoại, Huỳnh Thúc
Kháng đã học thuộc lòng nguyên cả một quyển tự điển Pháp Việt.
Giữ trọn tiết tháo của một kẻ sĩ, chỉ biết tận tâm tận lực với quốc gia.
2. MỘT CHÍ SĨ YÊU NƯỚC, MỘT NHÀ BÁO CAN TRƯỜNG
Mãn hạn tù, cụ Huỳnh Thúc Kháng trở về lao vào cuộc đấu tranh quyết liệt với bọn
thực dân Pháp và triều đình thối nát trên mặt trận nghị trường và công luận. Năm 12
1923, khâm sứ Pháp tại Huế là Pierre Pasquier mời ông ra làm việc với viện Bác Cổ
Huế nhưng Huỳnh Thúc Kháng đã trả lời: “…Tôi chỉ có một cái tội là đậu tiến sĩ mà
không đi làm quan cho nên mới bị tù. Trước đã thế huống chi bây giờ, xin ngài miễn
nói đến việc ấy…”
Năm 1924, tại Pháp, liên minh tả phái đắc thắng trong cuộc bầu cử quốc hội. Chính
sách thuộc địa của tân chính phủ Pháp tương đối cởi mở. Tháng 6 – 1925, Phan Chu
Trinh về nước; tháng 12 năm đó, tân toàn quyền Pháp tại Đông Dương là nghị sĩ xã
hội Alexandre Varene (cầm quyền từ 18 – 11 – 1925 đến 22 – 8 – 1928) ân xá Phan
Bội Châu. Cũng cuối năm đó, tại Huế, Pháp thành lập “Viện Nhân Dân Đại Biểu”
(Viện Dân Biểu Trung Kỳ) bên cạnh triều đình Việt Nam. Vốn tự cho mình là nhà
hoạt động “cách mạng công khai”, tranh đấu ôn hòa, Huỳnh Thúc Kháng thường
luôn tìm cơ hội bày tỏ quan điểm của mình một cách hợp pháp, dù chỉ là hợp pháp
dưới thể chế chính trị Pháp thuộc. Nên nhân việc Pháp tổ chức Viện nhân dân đại
biểu, ông ra ứng cử tại đơn vị huyện Tam Kỳ, và đắc cử không mấy khó khăn. Trong
phiên học thứ nhất của viện Nhân dân đại biểu tháng 10 – 1926, Huỳnh Thúc Kháng
được bầu làm viện trưởng. Nhưng chỉ 2 năm sau, cụ rút khỏi nghị trường sau bài
diễn văn nổi tiếng đọc tại Viện Dân biểu Trung Kỳ ngày 01/10/1928, mà dư luận lúc
bấy giờ cho đó là một bản cáo trạng công khai lên án chế độ thực dân tàn bạo và lỗi thời.
Rời bỏ chính trường, thấy rõ được sức mạnh của báo chí trong sự nghiệp cứu nước,
cứu dân,, nhà yêu nước Huỳnh Thúc Kháng đã can đảm chọn “làm cách mạng công
khai” trên mặt trận báo chí. Cụ tuyên bố: “Tôi là nhà cách mạng công khai, tôi đấu
tranh cho quyền lợi của dân tộc Việt Nam một cách công khai”. 13
Tháng 4/1927, cụ Huỳnh Thúc Kháng thành lập một công ty chuyên về xuất bản báo
để chuẩn bị nguồn tài chính, có trụ sở tại Đà Nẵng: “Bảo Đại năm thứ 2 (Đinh Mão
– 1927), ngày tháng 4, Huỳnh Thúc Kháng công ty thành lập. Ngày công ty mới tổ
chức, tôi cho Đà Nẵng làm nơi trung tâm điểm giao thông, ngụ tại nhà Nguyễn quân
Xương Thái… Về việc cổ phần tôi với Trần quân Đình Phiên, Đào quân Duy Anh
chia nhau đi các tỉnh Nam Bắc kêu gọi, còn trung gian có Nguyễn quân Xương Thái
gánh lấy. Kể từ ngày tháng 12 năm 1926 và đến tháng 2 năm 1927 đình chỉ việc kêu
gọi, cổ động đã được tới trên ba vạn bạc...”
Bàn về chuyện xuất bản báo chí thời kỳ này, chúng ta biết rằng, từ tháng 7/1881,
Quốc hội Pháp đã thông qua đạo luật thừa nhận quyền tự do báo chí, cho phép áp
dụng tại chính quốc cũng như tại các xứ thuộc địa. Mặt khác chính phủ Pháp lại đưa
Sắc lệnh ngày 30/12/1898, buộc tất cả các tờ báo chữ Việt, chữ Trung Hoa và các
thứ chữ khác phải có giấy phép trước khi xuất bản. Và việc xin cấp phép cho một tờ
báo tại Việt Nam lúc bấy giờ không hề đơn giản. Nhờ vai trò là Viện trưởng Viện
Dân biểu Trung kỳ, ngày 08/10/1926, cụ Huỳnh có đơn gửi Toàn quyền P. Pasquier
xin phép xuất bản một tờ báo bằng chữ Quốc ngữ. Đến ngày 12/02/1927, Toàn quyền
Đông Dương Pasquier mới ký quyết định cho phép báo được ra đời nhưng với những
quy định khắt khe và phải dời trụ sở ra Huế.
Việc tìm địa điểm đặt tòa soạn, Cụ Huỳnh giao nhiệm vụ cho ông Trần Đình Phiên
ra Huế tìm một ngôi nhà vừa làm trụ sở, vừa làm nơi in báo, và địa điểm đó là ngôi
nhà số 123 đường Đông Ba, phố Hàng Bè (nay là số 193 đường Huỳnh Thúc Kháng).
Ngày 10/8/1927, báo Tiếng Dân ra số đầu tiên, Huỳnh Thúc Kháng là Chủ nhiệm
kiêm Chủ bút, quản lý là Trần Đình Phiên, chính thức khởi phát cuộc đấu tranh công
khai bằng ngôn luận. Đây là tờ báo chữ quốc ngữ đầu tiên ở khu vực miền Trung.
Với phương châm “Nếu không có quyền nói tất cả những điều mình muốn nói, thì ít
ra cũng giữ cái quyền không nói những điều người ta ép buộc nói”. Tuy có ra trễ so 14
với báo chí ở hai miền Nam, Bắc nhưng gần 16 năm tồn tại (1927-1943), Báo Tiếng
Dân đã góp phần quan trọng tuyên truyền, giáo dục quần chúng tích cực đấu tranh
chống thực dân, phong kiến; đòi quyền lợi cho dân, cho nước; làm cho chính quyền
thực dân phải dè chừng, không dám ngang ngược ức hiếp dân lành. Đồng thời, có ý
nghĩa tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân theo con đường cách mạng của Nguyễn Ái Quốc.
Ảnh buổi lễ kỷ niệm Đệ T ập Châu h Niên báo T ế
i ng Dân H ế tháng 10/1937 do cụ u H ỳ u nh làm
Chủ nhiệm (người ngồi giữa cầm quạt) c ụp tại tòa h
soạn báo Tiếng Dân, cũng là t ụ sở công r ty H uỳnh T húc Kháng
Rõ ràng, đó là mẫu người nhà nho, cửa Khổng sân Trình. Thế nhưng khi làm báo, ta
thấy cụ thể hiện rất rõ ràng bản lĩnh của tất cả nhà báo chân chính là đã sử dụng ngòi 15
bút lẫn tấm lòng quả cảm, trung thực nhằm “trừ gian diệt bạo, cứu khổ phò nguy”,
tôn trọng công lý, chống lại cái xấu, giúp mọi người bằng tấm lòng hào hiệp, biết
sống quên mình, không gì có thể mua chuộc, bẻ cong ngòi bút…
Chính cụ Huỳnh Thúc Kháng là người đầu tiên đã đóng một cột mốc quan trọng
trong lịch sử báo chí Việt Nam: Thời thuộc Pháp, ở Trung kỳ mãi đến năm 1927 mới
có một tờ báo định kỳ.
Ban đầu, cụ Huỳnh dự tính lấy tên “Trung Thanh” - tiếng nói ngay thẳng, trung thực;
chưa ưng ý lắm, cụ đổi Dân Thanh - tiếng nói của dân. Cũng còn phân vân. Hỏi ý
kiến cụ Phan Bội Châu. Sau một hồi ngẫm nghĩ, cụ Phan bảo cụ Huỳnh: “Đã làm
báo quốc ngữ thì để Tiếng Dân không rõ ràng hơn sao?”.
Về ý nghĩa tên gọi của báo, ngay từ số đầu tiên đã thể hiện qua câu đối:
Tiếng như sấm đất vang, mấy mươi năm gió Mỹ mưa Âu, mấy cuộc bể dâu, ngọn
sóng nhảy tràn bờ cõi cũ;
Dân là con trời cả, riêng một cõi mầm Hồng chồi Lạc, ngàn trùng non nước, khí
thiêng xin hộ giống nòi chung.
Nhà báo họ Huỳnh đã giải thích từ “Tiếng Dân” trên tờ La Tribune Indochinoise số
ra ngày 24/12/1926 như sau: “Đó là sự vui mừng, sự buồn tủi và sự chờ đợi ấp ủ
trong lòng hàng triệu đồng bào. Dân là đầu mối của nước. Tiếng Dân đi sát với
những vấn đề trong nước. Nếu chánh phủ biết rõ những nguyện vọng sâu xa của
dân thì cần gì đối xử bất công với Tiếng Dân như đã từng đối xử với vài tờ báo đã
ra mắt gần đây và đã bị đóng cửa. Tờ báo này thật xứng đáng để mang tên là Tiếng
Dân, vì trong thực tế, phải nhờ đến báo chí thì Tiếng Dân mới bộc lộ ra được”. 16
Tên báo ra đời, số nào cũng như số nào, chữ “Tiếng Dân” in to, đậm nét; bên dưới
là tên báo bằng tiếng Pháp “La Voix du Peuple”. Chỉ cần nhìn vào tên của tờ báo,
người đọc sẽ dễ dàng thấy được mục đích của nó cũng như tư cách của người chủ trương.
Về mặt hình thức, tờ báo có hai trang, nhiều số 4 trang rồi 6 trang. Mặc dù ít trang
nhưng báo có khuôn khổ tương đối rộng (58 x 42cm) nên dung lượng bài báo khá
phong phú. Nội dung của một tờ báo gồm các phần: Bình luận tình hình thế giới,
trong nước, chuyện đời, vịnh sử, thơ văn, tin tức. Có phần dịch thuật tiểu thuyết cả
Trung Hoa lẫn Pháp. Ngoài ra còn đăng các truyện dài, tiểu thuyết có tính cách giáo 17
dục. Các nội dung của tờ báo được duy trì từ khi mới ra đời cho đến khi đóng cửa vẫn không thay đổi.
Ngay trên trang đầu các tờ báo, khung ở góc trên cùng bên phải đều có một câu cách
ngôn, danh ngôn hoặc tư tưởng Đông – Tây. Các danh ngôn này bao giờ cũng phù
hợp với mục đích của tờ báo và nhất là phải tùy trường hợp cũng như chủ đề mà các
bài viết đang đề cập. Giá báo được niêm yết ở khung ở góc trên cùng bên trái trang
đầu tờ báo. Phần cuối nội dung báo sẽ đăng những tin bài quảng cáo và tất cả nội
dung đều được quản lý và kiểm duyệt kỹ càng. Từ đầu cho đến ngày 29/01/1936,
Tiếng Dân phát hành tuần hai kỳ vào thứ Tư và thứ Bảy. Từ ngày 01/02/1936 đến
30/12/1939, trong thời kỳ vận động dân chủ, báo ra mỗi tuần ba số: thứ Ba, thứ Năm
và thứ Bảy. Từ đầu năm 1940 trở về sau báo trở lại mỗi tuần hai số như trước.
Báo Tiến Dân g
số 675 ra ngày 21/3/1934 18
Trong số đầu tiên của báo, tên báo được in hoa quốc ngữ kèm chữ Hán và chữ Pháp.
Trang đầu tiên bên góc trái có bài “Báo Tiếng dân ra đời” của cụ Huỳnh với lời mở
đầu là lời rao kèm tiếng khóc rất thú vị (trích nguyên văn chính tả thời ấy):
“Báo Tiếng Dân ra đời!
Báo Tiếng Dân ra đời!
Báo Trung Kỳ ra đời!
Muộn màng thay! Tủi buồn thay! Song cũng gắng gượng thay! Ốm đau mang nặng,
ngậm đắng nuốt cay đã mấy mươi năm mà nay mới lọt lòng mẹ ra thấy chút bóng
sáng trong trời đất!
Oe! Oe! Oe! Rời đất một tiếng khóc!”…
Tôn chỉ, mục đích cho sự ra đời và hoạt động của báo Tiếng dân cũng được thể hiện
rõ trong lời phi lộ này sau khi đã lược thuật đôi điều về lịch sử nước Việt, về sự thay
đổi danh phận của nước Nam, về vận mạng dân tộc:
“Tóm lại một câu, tờ báo TIẾNG DÂN nầy ở trong báo giới nước ta, nói rộng ra cả
nước thì về phần em út, đào đường vỡ núi, cái công khó nhọc đã nhờ có các bậc đàn
anh, mà nói riêng về phần Trung Kỳ lại là phần ảnh cã, ăn trước bước đầu, cái trách
nhiệm chỉ ngã đem đường, không thể nhường cho ai được. Ấy một tiếng khóc trên là
một tiếng Bản báo trước xin chào anh em đồng bào trong nước, xin chào Chính phủ
bảo hộ, Chính phủ Nam Triều cùng bạn đồng nghiệp, sau bày tỏ lược lược cái mục
đích của Bản báo sau này: 19
“Mục đích của Bản báo là theo tâm lý chân chính của quốc dân mà phô bày trên tờ
giấy, cốt giữ gìn cái nền đạo đức sẵn có của ông bà, mà dung hợp với học thuật tư
tưởng mới, để mở mang đường trí thức, đường kinh tế trong nước, công lý là hướng
đường đi, công lợi là nơi quy túc, không thiên vị về đảng phái riêng, không cổ động
về ảnh hưởng trống, cùng quốc dân làm bạn mà có hơi trái tai đắng miệng, đem
lòng thành mà can lại quốc dân, lấy dư luận làm thầy mà cũng có hồi vạch lối tìm
phương, nêu lẽ phải để đem đường cho dư luận. Đối với đồng bào xin làm vị thuốc
đắng, mong rằng bỏ lòng ghen ghét mà dốc dạ thương yêu; đối với Chính phủ xin
làm người bạn ngay, mong rằng theo trình độ dân mà thật lòng cải cách. “Trăm vạn
quân không bằng một tờ báo”, Bản báo không dám mượn câu ấy mà tự cao, “Một
việc thực hơn trăm điều nói không”, Bản báo xin ghi câu nầy mà gắng sức”.
Với vai trò chủ nhiệm kiêm chủ bút, nhiều bài viết trên Tiếng Dân thể hiện rõ quan
điểm cách mạng của cụ Huỳnh Thúc Kháng. Trên manchette của tờ báo, cụ lý giải:
“Đức Khổng Tử có nói: “Đặt tên ra cốt nói được; nói cốt làm được, nên người quân
tử không khi nào nói xằng” (Danh chi tất khả ngôn dã, ngôn chi tất khả hành dã,
quân tử ư kỳ ngôn vô sở cầu nhi dĩ hỷ). Bản báo đã đặt tên là TIẾNG DÂN, thì tiếng
dân là cái chân sắc của bản báo”. Đúng như cách ví von của cụ Huỳnh “có thể nghe
cái tên mà hiểu được nửa phần”, các bài viết trên tờ báo là tiếng nói của những
người lao động nghèo khổ, đó là câu chuyện của phu xe, của công nhân, của thị dân,
hay của y tá hộ lý, của binh lính… Những năm 1927 - 1928, khi còn là Viện trưởng
Viện Dân biểu Trung kỳ, thông qua Tiếng Dân, cụ Huỳnh ra sức đấu tranh đòi ban
hành hiến pháp, đòi giảm thuế điền, thuế đinh, bỏ độc quyền muối rượu, mở thêm
trường học, công trình thủy lợi… 20