Báo cáo về môn triết học - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Lênin đã định nghĩa vật chất như sau: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Vật chất, ý thức, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
KHÁI NIỆM VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Để phân tích được mối quan hệ biện chứng giữa vật chất ý thức thì trước ta phải hiểu và phát
biểu được khái niệm về vật chất và ý thức.
1. Vật chất
Lênin đã định nghĩa vật chất như sau: “Vật chất một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin bao hàm các nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, vật chất thực tại khách quan - cái tồn tại hiện thực bên ngoài ý thức không lệ thuộc
vào ý thức.
Thứ hai, vật chất là cái khi tác động vào các giác quan con người thì đem lại cho con người
cảm giác.
Thứ ba, vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó.
Vận động phương thức tồn tại của vật chất thuộc tính cố hữu của vật chất. Không vận
động ngoài vật chất và không có vật chất không có vận động.
Vật chất có hai hình thức tồn tại là không gian và thời gian. Không gian và thời gian là thuộc tính
chung vốn có của các dạng vật chất cụ thể và là hình thức tồn tại của vật chất.
Về tính thống nhất vật chất của thế giới, bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính
vật chất của nó.
1. Ý thức
Ý thức là một dạng vật chất đặc biệt có tổ chức cao là bộ óc con người. Bộ óc người là cơ quan vật
chất của ý thức còn ý thức là chức năng của bộ óc con người vì vậy không thể tách rời ý thức ra khỏi bộ
óc. Ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức gồm 2 yếu tố: bộ não người thế giới khách quan tác động vào
các giác quan gây nên hiện tượng phản ánh. Hay nói cách khác, bộ óc người mối quan hệ giữa con
người với thế giới khách quan tạo ra quá trình phản ánh năng động, sáng tạo.
nhiều yếu tố cấu thành nguồn gốc xã hội của ý thức, song bản nhất, trực tiếp nhất là: lao động
và ngôn ngữ.
Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình phản ánh tích cực,
sáng tạo hiện thực khách quan của óc người.
Để nhận thức rõ về ý thức, cần nắm vững kết cấu của ý thức, từ các lớp cấu trúc đến các cấp độ của
nó. Về các lớp cấu trúc của ý thức, khi xem xét ý thức với các yếu tố hợp thành các quá trình tâm lý tích
cực đem lại sự hiểu biết của con người về thế giới khách quan, ta có: tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí.
Về các cấp độ của ý thức, theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người, ý thức con người bao gồm các
yếu tố: tự ý thức, tiềm thức, vô thức…
1.MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Theo quan điểm triết học Mác Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, trong đó vật -
chất trước, ý thức có sau, vật chất nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức. Song, ý thức không
hoàn toàn thụ động mà nó có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Vậy nên, vật chất và ý thức có quan hệ hai chiều và tác động qua lại lẫn nhau.
1. Vật chất quyết định ý thức
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức. Ý thức xuất phát từ vật chất códuy chính
là bộ óc người. Song, con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Lẽ tất nhiên, ý thức một thuộc tính -
của bộ phận con người cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Đó nguồn gốc tự nhiên của ý thức. -
Nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động và ngôn ngữ. Trong đó, lao động chính là hoạt động vật chất,
mang tính tất yếu nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển của con người, còn ngôn ngữ hệ thống tín hiệu
vật chất nhưng mang nội dung ý thức. Ngôn ngữ chính là lớp vỏ vật chất của tư duy.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức. Khi thế giới hiện thực vận động, phát triển theo
những quy luật khách quan, những điều đó được phản ánh vào ý thức, tạo nên nội dung của ý thức. Nội
dung của ý thức là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người. Ngắn gọn
hơn, ý thức chỉ là hình ảnh của thế giới khách quan.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức. Bản chất của ý thức gồm 2 thuộc tính không tách
rời phản ánh sáng tạo. Phản ánh của con người phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thông qua
thực tiễn. Mà thực tiễn chính là những hoạt động vật chất của con người là cơ sở hình thành, phát triển -
ý thức, trong đó ý thức con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo, phản ánh để sáng tạo sáng tạo trong
phản ánh.
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức. Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức
đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất; vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải
thay đổi theo. Con người ngày càng phát triển cả thể chất tinh thần; đồng thời, óc người cũng phát
triển. Lẽ tất nhiên, ý thức một hình thức phản ánh của nó cũng phát triển cả về nội dung hình thức -
phản ánh.
1. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
Điều này được thể hiện trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất, ý thức sau khi ra đời sẽ vận động, phát triển theo quy luật riêng của nó, không lệ thuộc
một cách máy móc vào vật chất. Ý thức một khi ra đời thì có tính độc lập tương đối, tác động trở lại thế
giới vật chất.
Thứ hai, thông qua hoạt động thực tiễn, ý thức tác động trở lại vật chất. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý
thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh của vật chất. Tự bản thân ý thức thì không thể biến
đổi hiện thực.
Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện qua việc chỉ đạo hành động của con người. Tác động của ý thức
đối với vật chất có thể tích cực hoặc tiêu cực. Ý thức tác động tích cực lên vật chất khi ý thức phản ánh
đúng hiện thực. Lúc đó, con người có tri thức đúng đắn, có nghị lực, ý chí và tình cảm tích cực thì con
người có khả năng hành động hợp quy luật khách quan, từ đó thúc đẩy điều kiện vật chất phát triển. Còn
khi ý thức phản ánh sai lạc hiện thực, ý thức sẽ tác động tiêu cực đến vật chất. Lúc đó,con người không
tri thức đúng đắn, thiếu tình cảm, ý chí cách mạng sẽ nhận thức sai lầm hành động trái quy luật
khách quan, có thể kéo lùi điều kiện vật chất.
Thứ , xã hội càng phát triển thì ý thức đóng vai trò ngày càng cao, nhất trong thời đại ngày nay,
khi tri thức đã trở thành lực lượng sant xuất trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trò của tri
thức khoa học, của tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng.
1.Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CƠ BẢN
Nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, ta rút ra được ý nghĩa phương pháp luận. Trong
mọi hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta cần phải:
Thứ nhất, xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng quy luật khách quan. Vì vật chất quyết định ý
thức từ nguồn gốc, nội dung, bản chất nên phải bắt nguồn từ thực tế khách quan, tôn trọng thực tế khách
quan. Mọi hành động không xuất phát từ thực tế khách quan đều dẫn đến sai lầm.
Thứ hai, phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức. Vì ý thức tác động tích cực trở lại vật chất
sinh ra cho nên phải biết phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố chủ
quan của con người, luôn chủ động, phát huy khả năng bản thân. Đồng thời, phải thường xuyên rèn luyện,
tu dưỡng và nâng cao trình độ tri thức khoa học, nhất là trong điều kiện nền văn minh trí tuệ, kinh tế tri
thức, toàn cầu hóa hiện nay.
Thứ ba, tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí, tránh lấy ý muốn chủ quan làm điểm
xuất phát; chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, bảo thủ, trì trệ.
1.VẬN DỤNG Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CƠ BẢN VÀO VIỆC HỌC VÀ LÀM VIỆC
1. Vai trò của phương pháp luận trong quá trình học tập và làm việc của sinh viên
Tư duy khoa học, năng lực duy khoa học vai trò quan trọng đối với cả hoạt động nhận thức
lẫn hoạt động thực tiễn. Khả năng duy biện chứng sẽ giúp cho sinh viên trong quá trình học tập
làm việc như sau:
Thứ nhất, luôn tiếp nhận tri thức một cách khoa học, sáng tạo.Có cái nhìn toàn diện, phân biệt tri
thức đúng, sai; chỉ ra nguyên nhân cái sai, và khẳng định, phát triển tri thức đúng đắn. Nhờ đó, sinh viên
tự học, tự nghiên cứu, giải thích thực tiễn biến đổi, đưa ra những giải pháp mà thực tiễn đặt ra…
Thứ hai, có phương pháp học tập, làm việc đúng đắn; sinh viên không còn phải học vẹt, học tủ;
học hiểu, biết vận dụng, biết đánh giá và sáng tạo ra tri thức mới.
Thứ ba, loại bỏ tư duy siêu hình, cứng nhắc, bảo thủ, trì trệ…
1. Vận dụng phương pháp luận biện chứng vào học tập và làm việc của sinh viên
Từ những ý nghĩa cơ bản của phương pháp luận, ta có thể vận dụng chúng vào học tập và làm việc.
Thứ nhất, mọi kế hoạch, phương hướng, mục tiêu phải xuất phát từ thực tế khách quan.
Để có thể đưa ra kế hoạch học tập, làm việc phù hợp và đúng đắn, tối ưu hóa con đường đến mục
tiêu, sinh viên cần đánh giá kiến thức sẵn có và năng lực học tập để xác định khả năng của bản thân một
cách khách quan. Sau đó nhận định xem mục tiêu có phù hợp với khả năng hay không, điều gì cần khắc
phục và điều gì cần phát huy để đạt được điều đó.
Bên cạnh việc chọn kế hoạch học tập làm việc phù hợp thì trong mỗi công việc nhỏ cũng đều
cần phải xuất phát từ thực tế khách quan. Sinh viên phải luôn tích cực suy nghĩ, tìm tòi cách giải quyết
một vấn đề dựa trên những gì đã được nghiên cứu, chứng minh, mang tính khách quan. Như khi giải toán
ta thường áp dụng những định lí, những công thức đã được chứng minh từ các nhà toán học lỗi lạc.
Thứ hai, cần phải phát huy tính năng động và sáng tạo trong học tập và làm việc để đạt hiệu quả
tốt nhất.
Sinh viên cần chủ động tìm tòi, tích cực học tập nghiên cứu, liên tục cập nhật những tri thức mới
của nhân loại, năng động, sáng tạo và phát huy năng lực bản thân. Quan trọng hơn hết, mọi nhiệt tình và
ý chí phấn đấu cần phải gắn liền với tri thức, hiểu biết đặt trên cơ sở khoa học với cái nhìn khách quan,
tổng quát để phân biệt đâu là tri thức đúng, sai, tránh cái nhìn chủ quan, phiến diện.
Thứ ba, cần chống tư tưởng chủ quan duy ý chí, cũng như tránh thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ,
bảo thủ, trì trệ.
tưởng chủ quan duy ý chí tưởng chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, lấy ý chí áp đặt cho
thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực. Muốn phát triển bản thân, học tập và làm việc hiệu quả thì cần
dứt khoát phê phán tưởng chủ quan duy ý chí. Mọi kế hoạch, mục tiêu đặt ra đều phải dựa vào tình
hình thực tế, điều kiện và khả năng thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phê phán tư tưởng chủ quan
duy ý chí là nhằm hướng tới sự tỉnh táo khoa học và tính thực tiễn trong mọi mặt hoạt động chứ không
phải làm nhụt chí tiến tới mục tiêu.
Đồng thời, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo sẽ làm giảm năng
suất học tập và làm việc. Sinh viên tuyệt đối không được thụ động, ỷ lại trong mọi trường hợp để tránh
việc sa vào lười suy nghĩ, lười lao động.
Ngoài ra, dựa trên mối quan hệ “vật chất quyết định ý thức” thì ta cần phải trải nghiệm nhiều để tích
lũy kinh nghiệm của bản thân. Tóm lại, rèn luyện phương pháp biện chứng duy vật cho sinh viên sẽ
góp phần quan trọng vào việc xây dựng năng lực nhận thức biện chứng, nâng cao năng lực tư duy biện
chứng và giải quyết tốt các vấn đề cuộc sống, học tập, làm việc một cách khoa học sau này.
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN TRONG HỌC TẬP DỰ
TRÊN CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VT
II. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
I. Khái niệm phép biện chứng duy vật
V.I. Lenin định nghĩa “phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức
hoàn bị nhất sâu sắc nhất không phiến diện, , học thuyết về tính tương đối của nhận
thức của con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn phát triển không ngừng”.
Biện chứng là quan điểm, phương pháp “xem xét những sự vật và những phản ánh của
chúng trong tư tưởng trong mối quan hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự
vận động, sự phát sinh và tiêu vong của chúng”.
Phương pháp tư duy này cho phép không chỉ nhìn thấy sự vật cá biệt mà còn thấy cả mối
liên hệ qua lại giữa chúng, vừa thấy bộ phận vừa thấy toàn thể.
* Đặc điểm
Hình thành từ sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện
chứng; giữa lý luận nhận thức và logic biện chứng; mỗi nguyên lý, quy luật, phạm trù của
phép biện chứng đều được luận giải trên cơ sở khoa học và được chứng minh bằng toàn bộ
sự phát triển của khoa học tự nhiên.
* Vai trò
Kế thừa và phát triển phép biện chứng từ tự phát đến tự giác, tạo ra chứng năng phương
pháp luận chung nhất giúp định hướng việc đề ra các nguyên tắc tương ứng trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn và là một hình thức tư duy hiệu quả quan trọng đối với khoa học.
* Đối tượng nghiên cứu
Trạng thái tồn tại có tính quy luật phổ biến nhất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới.
II. Cơ sở lý luận và nội dung của phép biện chứng duy vật
Nội dung bao gồm 2 nguyên lý, 6 cặp phạm trù và 3 quy luật cơ bản.
2.1. Cơ sở lý luậ n
Quan điểm toàn diện với quan điểm phát triển và lịch sử cụ thể đều là những quan điểm cơ
bản thuộc về phương pháp luận của phép biện chứng duy vật.
Chúng đều được xây dựng trên cơ sở lý giải theo quan điểm duy vật biện chứng về tính
khách quan, tính phổ biến và tính phong phú, đa dạng của các mối liên hệ và sự phát triển
của tất cả các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy. [2]
Trong nhận thức cũng như thực tiễn cần phải xem xét sự vật trên nhiều mặt và mối quan hệ
của nó. Điều này sẽ giúp chúng ta tránh được hoặc có thể hạn chế được sự phiến diện, siêu
hình, máy móc, một chiều. Đồng thời, xem xét sự vật theo một quá trình không ngừng thay
đổi về chất ở trình độ cao hơn qua sự biểu hiện của nó ở các giai đoạn, các hình thái xác
định, nhờ đó giúp cho chúng ta nhận thức được sự vật theo một quá trình không ngừng phát
triển của nó.
Việc nắm vững 2 nguyên lý cơ bản và cốt lõi trong phép duy vật biện chứng triết học của
Mác - Lênin khi xem xét sự vật, hiện tượng giúp ta xây dựng được cơ sở để vận dụng quan
điểm toàn diện trong cuộc sống.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là nguyên tắc lý luận xem xét sự vật, hiện tượng khách
quan tồn tại trong mối liên hệ, ràng buộc lẫn nhau tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các
sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.
Nguyên lý này biểu hiện thông qua 06 cặp phạm trù cơ bản. [3]
Nguyên lý về sự phát triển là nguyên tắc lý luận mà trong đó khi xem xét sự vật, hiện
tượng khách quan phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn luôn vận động phát triển
(vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn của sự vật). Nguyên lý này biểu hiện thông qua ba quy luật cơ bản. [3]
2.2. Hai nguyên lý
a. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
Các tính chất của mối liên hệ phổ biến:
Tính khách quan: Các mối liên hệ, tác động đều là sự quy định, tác động qua lại, chuyển
hóa và phụ thuộc lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng.
Tính phổ biến: Thể hiện ở chỗ bất kỳ nơi đâu, trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy
đều có vô vàn các mối liên hệ, giữ vai trò, vị trí khác nhau trong sự vận động, chuyển hóa
của các sự vật, hiện tượng.
Tính đa dạng, phong phú: Có mối liên hệ về không gian và cũng có mối liên hệ về thời
gian giữa các sự vật, hiện tượng. Có mối liên hệ trực tiếp và cũng có mối liên hệ gián
tiếp,... chúng giữ những vai trò khác nhau trong quy định sự vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng.
Nguyên tắc toàn diện:
Thứ nhất, khi nghiên cứu, xem xét đối tượng cụ thể, cần đặt nó trong chỉnh thể thống
nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, các mối liên hệ của chỉnh
thể đó.
Thứ hai, chủ thể phải rút ra được các mặt, các mối liên hệ tất yếu của đối tượng đó và
nhận thức chúng trong sự thống nhất hữu cơ nội tại > Phản ảnh đầy đủ sự tồn tại khách -
quan với nhiều thuộc tính, mối liên hệ, quan hệ và tác động qua lại của đối tượng.
Thứ ba, cần xem xét đối tượng này trong mối liên hệ với đối tượng khác và với môi
trường xung quanh, cần nghiên cứu cả những mối liên hệ của đối tượng trong quá khứ,
hiện tại và tương lai.
Thứ tư, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, một chiều, chỉ thấy mặt
này mà không thấy mặt khác, không thấy mặt bản chất của đối tượng nên dễ rơi vào thuật
ngụy biện và chủ nghĩa chiết trung (lắp ghép vô nguyên tắc các mối liên hệ trái ngược
nhau vào một mối liên hệ phổ biến).
a. Nguyên lý về sự phát triển:
Các tính chất:
Tính khách quan: Nguồn gốc của nó nằm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng, chứ
không phải do tác động từ bên ngoài và đặc biệt không phụ thuộc vào ý thích, ý muốn
chủ quan của con người.
Tính phổ biến: Nó có mặt ở khắp mọi nơi trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.
Tính kế thừa: Sự vật, hiện tương mới ra đời không thể là sự phủ định tuyệt đối, sạch trơn,
đoạn tuyệt một cách siêu hình đối với sự vật, hiện tượng cũ.
Tính đa dạng, phong phú: Mỗi sự vật, hiện tượng có quá trình phát triển không giống
nhau, nó còn phụ thuộc vào không gian và thời gian, vòa các yếu tố, điều kiện tác động
lên sự phát triển đó...
Nguyên tắc phát triển:
Thứ nhất, khi nghiên cứu, cần đặt đối tượng vào sự vận động, phát hiện xu hướng biến
đổi của nó để khong chỉ nhận thức nó ở trạng thái hiện tại, mà còn dự báo được huynh
hướng phát triển của nó trong tương lai.
Thứ hai, cần thận thức được rằng, phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai
đoạn có đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm hình thức, phương pháp tác
động phù hợp để thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển đó.
Thứ ba, phải sớm phát hiện và ủng hộ đối tượng mới hợp quy luật; chống lại quan điểm
bảo thủ, trì trệ, định kiến.
Thứ tư, trong quá tình thay thế đối tượng cũ bằng đối tượng mới phải biết kế thừa các yếu
tố tích cực và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới.
B. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN
I. Vì sao con người cần phải thực hiện quan điểm toàn diện, tránh phiến diện?
1.1. Quan điểm phi n diế ện [4]
Phiến diện có nghĩa là 1 chiều, một phương diện, không đầy đủ. Khi nhìn nhận hoặc bàn
luận về 1 vấn đề nào đó theo phiến diện có nghĩa là chỉ xét về 1 khía cạnh thay vì bao quát
toàn diện.
Đứng trước lối tư duy phiến diện, cả cách nhìn, cách suy nghĩ và giải quyết vấn đề đều
không toàn vẹn. Điều này dễ dẫn đến những sai lầm cũng như hiệu quả kém trong học tập,
công việc.
1.2. V n d ụng quan điểm toàn diện, tránh phiến diện [5] [6]
Chủ đề: Lao động tình dục (sex worker), hoặc mại dâm (prostitution).
Định kiến: mại dâm là một tệ nạn xã hội, và những thành viên trong hệ thống mại dâm này
được xem là những kẻ biến chất, sống sai lệch đạo đức. Họ biến mại dâm trở thành một vụ
làm ăn và nhiều người cảm thấy khó chịu về hành động này. Họ đã bị vấy bẩn, họ không
chung thủy và xem xét đời sống tình dục một cách hời hợt. Có những người còn tận hưởng
và vui đùa, những thành phần không thể kiểm soát bản thân và không được xem là thích hợp
với xã hội.
Chúng ta không thể phủ định những điều đáng lo ngại về những hậu quả xoay quanh việc
kinh doanh mại dâm. Tình trạng người mại dâm sử dụng ma túy có xu hướng gia tăng, các tụ
điểm mại dâm khu vực công cộng tác động xấu đến môi trường văn hóa, thuần phong mỹ
tục, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội, nguy cơ lây lan các bệnh xã hội, HIV/AIDS qua
đường tình dục do quan hệ tình dục không an toàn, người hoạt động mại dâm thường bị bạo
lực, chiếm đoạt tài sản, tiền bạc, bóc lột tình dục; bị kỳ thị, xa lánh, khó tiếp cận với các dịch
vụ xã hội...
Lao động tình dục, hay mại dâm, đã có nhiều cuộc tranh luận, các cuộc thỏa luận diễn ra với
nhiều ý kiến và cách trình bày khác nhau. Một phần xem việc lao đông tình dục là tình
nguyện, và những hoạt động này nên được kiểm soát có hệ thng hơn nhằm bảo vệ họ, sức
khỏe của họ, và trấn áp các hoạt đông tội phạm có thể xảy ra. Một cách nhìn khác đối lập với
ý kiến trên, rằng họ đơn thuần bị vướng vào mại dâm và là sai trái khi nói việc làm của họ
là tình nguyện khi xét tới vấn đề tâm lý và hoàn cảnh từng cá nhân.
Với 2 ý kiến trái chiều, ta hoàn toàn có thể vận dụng quan điểm toàn diện để khai thác mặt
đối lập còn lại.
Có nghiên cứu về dịch vụ “Trải nghiệm cùng Bạn gái”, một loại dịch vụ xa xỉ để đổi lấy
những khoảng thời gian gần gũi và những tình cảm thân mật, và đã làm thay đổi về quan
điểm “Đàn ông chỉ ham muốn tình dục”, và nó hoàn toàn sai.
Sau các cuộc phỏng vấn và họ nhận được những phản hồi như, “tôi đang mang lại cảm giác
muốn âu yếm, tôi cho đi nhiều hơn cả bản thân tôi”, “Thực sự, điều này cũng chỉ là sự đối
xử dịu dàng giữa đôi bên vì nó đem lại cảm tưởng về buổi dạo chơi lãng mạn cùng với người
bạn đặt hoàn toàn sự quan tâm vào chỉ mình tôi.”, “mọi lời nói và cử chỉ của tôi – sự vuốt ve
âu yếm – mọi cảm giác đều rất chân thật chỉ trong khoản khắc ấy”.
Đôi lúc những người đàn ông họ chỉ chọn duy nhất cô gái họ ưu ái. Và khi những cô gái
nghỉ việc, họ thật sự suy sụp vì điều đó. Thâm chí, một trong những vị khác còn khen người
“Bạn gái” của họ rằng, “Em đem lại những trải nghiệm giống như vợ anh đã từng khi bọn
anh còn trẻ vậy.”
Đây chỉ là một trong những mặt đối lập được nêu ra, nhưng nhìn chung, sự khởi đầu và phát
triển của lao động tình dục từng tìm được ý nghĩa của nó. Ta không thể tiếp tục giữ những
quan điểm phiến diện để đánh giá sai lệch giá trị của từng vấn đề, nhưng phải tìm kiếm được
sự lắng nghe và hiểu sâu sắc để có thể đưa ra được giải pháp lâu dài.
II. Vận dụng quan điểm toàn diện trong học tập, rèn luyện hiện nay [8] [9]
Để nhận thức đúng bản chất của sự vật, hiện tượng cần phải xem xét sự vật, hiện tượng trong
mối liên hệ, vì bản chất của sự vật, hiện tượng được bộc lộ thông qua mối liên hệ giữa chúng
với các sự vật, hiện tượng khác.
Sự vật tồn tại trong mối liên hệ phổ biến, nhưng vị trí, vai trò của các mối liên hệ không “ngang
bằng” nhau. Vì vậy, cần xác định được những mối liên hệ cơ bản, chủ yếu, trọng tâm thì mới
nhận thức được sâu sắc bản chất của sự vật, mới thấy được khuynh hướng vận động, phát triển
của nó.
2.1. So sánh quan ểm toàn diệđi n
Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn. Quan điểm phiến diện chỉ thấy mặt này, mối liên hệ này mà không thấy mặt khác, mối
liên hệ khác; nhận thức sự vật trong trạng thái cô lập, giải quyết công việc không đảm bảo
tính đồng bộ.
Ví dụ: Những người chống vaccine chỉ thấy được rằng vaccine chứa những mầm bệnh gây
hại mà lại được đưa vào cơ thể con người chứ họ không thấy được rằng tỉ lệ người chết (c
thể là covid 19) của người tiêm vaccine so với không tiêm vaccine là rất bé: trong 10 người -
không tiêm vaccine thì có 5 người chết, trong khi đó 50 người tiêm vaccine thì chỉ có 5
người chết. [7]
Quan điểm toàn diện cũng hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện:
Chiết trung là kết hợp một cách vô nguyên tắc, chủ quan những cái không thể kết hợp được
với nhau hoặc coi những mối liên hệ là “ngang bằng” nhau, không có sự phân biệt về vai trò
của chúng.
Ngụy biện là lối tư duy đánh tráo một cách có chủ đích vị trí, vai trò của các mối liên hệ, lấy
mối liên hệ không cơ bản thay cho mối liên hệ cơ bản, mối liên hệ không bản chất thay cho
mối liên hệ bản chất...
2.2. V n d ụng quan điểm toàn diện trong học tập, rèn luyện
- Nếu thiếu quan điểm toàn diện trong học tập, rèn luyện thì sinh viên hiện nay sẽ chỉ có thể
biết được 1 vấn đề từ một khía cạnh nhất định, và khi rời khỏi khía cạnh đó thì kiến thức mà
sinh viên đó học được sẽ không thể áp dụng được.
- Để có thể thành công trong học tập, rèn luyện, cần cả yếu tố khách quan và chủ quan tác
động. Kiến thức cần phải được trau dồi từ cả lý thuyết và thực tiễn thì mới có thể hoàn
thiện.
VD: Sinh viên chỉ học những gì được dạy trên trường lớp mà không tự học và tìm hiểu thêm
thì khó có thể thành công.
Ví dụ: Một sinh viên y khoa ngoại mà chỉ đọc những kiến thức trong sách mà không áp dụng
vào thực tiễn thì những kiến thức đó sẽ khó có thể giúp cho sinh viên đó sau này.
Để có thể đạt được kết quả như mong đợi trong học tập và rèn luyện thì sinh viên cần phải
vận dụng quan điểm toàn diện. Cụ thể: Khi áp dụng quan điểm toàn diện, ta có thể nắm bắt
được một cách toàn diện những điều mà ta có thể và đã học được. Khi học ta cần phải nhìn
sâu vào thứ mà mình học: Chúng ta học cái gì? Học để làm gì? Học như thế nào? Học ở
đâu? Học lúc nào?..v.v từ đó ta có thể rút ra được những kiến thức mình mong muốn. Sau đó
chúng ta cần phải áp dụng những kiến thức đó vào thực tiễn càng sớm càng tốt để tạo mối
liên kết giữa lý thuyết và thực tiễn, kể từ đó chúng ta mới có thể hoàn thiện bản thân mình
thông quá quá trình học tập và rèn luyện.
Cơ sở lý luận về mâu thuẫn của triết học Mác-Lênin và
thực tiễn quá trình đổi mới ở Việt Nam, nêu và phân tích
mâu thuẫn biện chứng đang tồn tại trong xã hội hiện nay
và phương hướng giải quyết.
I. Cơ sở lý luận về mâu thuẫn và thực tiển quá trình đổi mới.
1. Học thuyết Mác nin về mâu thuẫn:- -
Lịch sử tưởng nhân loại đã sớm phát hiện ra mâu thuẫn và tìm cách giải quyết mâu
thuẫn theo những hướng tiếp cận khác nhau. Song, phải cho đến khi triết học mác xít -
ra đời mới tạo ra bước phát triển vượt bậc cho luận về mâu thuẫn. C. Mác và Ph.
Ăng-ghen đã tách phép biện chứng ra khỏi cái vỏ duy tâm thần bí trong triết học -
ghen khi khẳng định: “Sai lầm chủ yếu của Hê ghen là ở chỗ ông hiểu mâu thuẫn của -
hiện tượng sự thống nhất trong bản chất, trong ý niệm, kỳ thực bản chất của mâu
thuẫn ấy cố nhiên là một cái gì đó sâu sắc hơn, cụ thể mâu thuẫn bản chất”. C. Mác
và Ph. Ăng ghen đã xác định mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản chủ nghĩa và đề ra -
nhiệm vụ của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ph. Ăng ghen viết: “Mâu thuẫn giữa -
sản xuất hội sự chiếm hữu bản chủ nghĩa biểu hiện ra thành sự đối kháng
giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản”.
Tuy nhiên, sinh thời C. Mác và Ph. Ăng ghen, vấn đề quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên -
chủ nghĩa hội trên thực tế chưa trở nên cấp thiết phải đến sau này thời kỳ -
cách mạng xã hội chủ nghĩa với sự kế tục của V. I. nin, chủ nghĩa Mác nói chung -
và học thuyết mác xít về mâu thuẫn nói riêng không những được bổ sung, phát triển -
mà còn từ lý luận trở thành hiện thực.
V. I. Lê-nin tiếp tục phát triển lý luận mâu thuẫn khi chỉ rõ sự phát triển xã hội trong
thời đại đế quốc chủ nghĩa nổi lên hai hình thức mâu thuẫn bản. Hình thức thứ
nhất các mâu thuẫn đối kháng, điển hình mâu thuẫn của các giai cấp bản trong
xã hội có giai cấp, giữa một bên bảo thủ, phản động với một bên tiến bộ, cách mạng;
giữa bản với lao động, chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc bị áp bức. Giải quyết
mâu thuẫn này chỉ có thể thông qua đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng xã
hội. Hình thức thứ hai các mâu thuẫn không đối kháng, tiêu biểu mâu thuẫn giữa
giai cấp vô sản với giai cấp nông dân và các tầng lớp nghèo khổ khác... Người viết:
“Ở Nga, giai cấp sản chỉ thể giành được thắng lợi trong một tương lai rất gần
nếu ngay từ bước đầu của thắng lợi đó, công nhân đã nhận được sự ủng hộ của đại đa
số nông dân...” .
Khi đất nước bước vào thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội đặt ra
yêu cầu phải nhận thức mới về các mâu thuẫn hội. Một điều hợp quy luật
trong thời kỳ ấy luôn chứa đựng cái cũ và cái mới, diễn ra cuộc đấu tranh của các giai
cấp dưới các hình thức khác nhau. Bên cạnh đó, đã xuất hiện những mầm mống,
những yếu tố của tính thống nhất sự thuần nhất về mặt hội bộc lộ những quy
luật vận động hoàn toàn khác so với hội bản chủ nghĩa. Do vậy, V. I. -nin
vừa chú ý đến các mâu thuẫn, vừa xem xét các mối quan hệ giữa chúng với sự thống
nhất hội đang phôi thai. Đó sự phát triển mới của V. I. nin được thể hiện trên -
một số khía cạnh như sau:
Một là, Người chỉ ra tính cấp thiết của việc nghiên cứu về các mâu thuẫn xã hội trong
thời kỳ qđộ. Phát hiện ra những mâu thuẫn quyết định sự hiểu biết khoa học về
hiện thực và không thể lãnh đạo bước quá độ nếu không phân tích các mâu thuẫn.
“Mâu thuẫn của cuộc sống sinh động: đó toàn bộ then chốt của vấn đề” “vậy
thì danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, phải nó có nghĩa là trong
chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư
bản và chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có. Song không phải
mỗi người thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu kinh tế -
hội khác nhau... chính như thế nào” . Trong thời kỳ quá độ, V.I. nin chỉ ra -
nhiều thành phần kinh tế còn tồn tại gắn với các giai cấp, tầng lớp mục đích và
lợi ích khác nhau. Điều đó làm cho tính chất mâu thuẫn càng thêm phức tạp và biểu
hiện tính đặc thù.
Hai là, V. I. nin đã vạch ra hệ thống các kiểu mâu thuẫn mới nảy sinh trong thời -
kỳ quá độ như: mâu thuẫn chủ yếu thứ yếu, mâu thuẫn cơ bản và không bản,
mâu thuẫn bên trong bên ngoài, đồng thời xác định vai trò của chúng trong sự phát
triển của hội. Đặc biệt, Người đã chú trọng cụ thể hóa mâu thuẫn bên trong và mâu
thuẫn bên ngoài trong điều kiện nước Cộng hòa viết giữa vòng vây của các -
nước bản, nhận thức đúng kẻ thù bên trong, kthù bên ngoài nhằm xác định
phương thức đấu tranh phù hợp. Mối quan hệ ấy cũng chính một trong những
sở quan trọng cho V. I. Lê nin phát triển lý luận về cách mạng xã hội. Người chỉ rõ: -
các cuộc cách mạng “chín muồi trong quá trình phát triển lịch sử và nó bùng nổ vào
lúc mà toàn bộ hàng loạt những nguyên nhân ở trong và ngoài nước quyết định” .
Ba là, V. I. Lê nin đã phát hiện ra mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa -
tư bản lên chủ nghĩa hội mâu thuẫn giữa chủ nghĩa cộng sản với chủ nghĩa
bản: “... Không thể nghi ngờ được rằng giữa chủ nghĩa bản và chủ nghĩa cộng
sản, một thời kquá độ nhất định. Thời kỳ đó không thể không bao gồm những
đặc điểm hoặc đặc trưng của cả hai kết cấu kinh tế hội ấy. Thời kỳ quá độ ấy -
không thể nào lại không phải một thời kỳ đấu tranh giữa chnghĩa bản đang
giãy chết và chủ nghĩa cộng sản đang phát sinh...” . Hơn nữa, V. I. nin còn vạch -
ra mâu thuẫn của toàn bộ lịch sử thời đại mới. Người viết: “Chúng ta không thể biết
những phong trào lịch sử biệt của một thời đại nào đó sẽ phát triển nhanh chóng
đến mức nào... Nhưng chúng ta có thể biết chúng ta biết giai cấp nào đứng trung
tâm thời đại này hay thời đại khác và xác định nội dung căn bản, phương hướng phát
triển chính của thời đại ấy, những đặc điểm chủ yếu của bối cảnh lịch sử của thời đại
ấy, v.v.” “việc xóa bỏ chủ nghĩa bản các tàn tích của nó, việc thiết lập những
cơ sở của chế độ cộng sản là nội dung của cái thời đại mới vừa mới bắt đầu của lịch
sử toàn thế giới” .
Bốn là, trong khi phát hiện và luận chứng một cách khoa học những kiểu mâu thuẫn
mới, V.I. nin đã phân tích một cách sâu sắc về mâu thuẫn đối kháng, mâu thuẫn -
không đối kháng chra: mâu thuẫn không đối kháng một kiểu mâu thuẫn đặc
thù của chủ nghĩa xã hội. Người chỉ ra sự đối kháng và mâu thuẫn hoàn toàn không
phải là một, cái thứ nhất sẽ mất đi, cái thứ hai vẫn còn trong chủ nghĩa xã hội.
2. Sự vận dụng trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay:
Đối với Việt Nam, thực hiện bước quá độ gián tiếp là một con đường hoàn toàn mới
nhưng “phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử” (16). Do
đó, cần sự vận dụng một cách sáng tạo học thuyết mác xít về mâu thuẫn nói chung -
và những tư tưởng của V. I. Lê nin về nhận định và giải quyết các mâu thuẫn xã hội -
trong thời kỳ qđộ lên chủ nghĩa hội nói riêng vào điều kiện nước ta để tạo ra
động lực nội tại to lớn, thúc đẩy nhanh quá trình cải tạo hội cũ, xây dựng hội
mới phát triển vững chắc theo định hướng hội chủ nghĩa. Cụ thể trên một số vấn
đề sau đây:
Trước hết, cần khẳng định sự tồn tại của các mâu thuẫn trong thời kỳ quá độ ở Việt
Nam là một tất yếu khách quan. Chối bỏ mâu thuẫn hiện thực, nuôi ảo tưởng về một
thế giới không mâu thuẫn là xa rời thực tiễn. V. I. nin đã dạy: “tính chất biện -
chứng của sự phát triển xã hội, diễn ra trong mâu thuẫn và thông qua các mâu thuẫn”
(17). Những mâu thuẫn tồn tại trong nội bộ nhân dân là những xung lực trực tiếp để
hội luôn luôn vận động và phát triển đòi hỏi chúng ta cần phải hiểu đúng bản chất,
phân tích cụ thể. Thái đđúng đắn đối với mâu thuẫn không phải phnhận, tìm
cách xóa bỏ một cách chủ quan phải nghiên cứu, phát huy mặt tích cực, hạn
chế mặt tiêu cực, giải quyết kịp thời để thúc đẩy sự phát triển. Mâu thuẫn xã hội chỉ
thể được giải quyết khi đã đến độ chín muồi những điều kiện tồn tại của
không còn trong hội. Đó một quá trình khách quan không phụ thuộc ý muốn
chủ quan của con người. Mâu thuẫn chỉ trở thành động lực thực sự của sự phát triển
khi con người nhận thức được nó và có cách giải quyết đúng đắn.
Thứ hai, cần nhận thức ràng mâu thuẫn bản ở nước ta hiện nay. Đó là mâu thuẫn
giữa khuynh hướng tư bản chủ nghĩa với khuynh hướng xã hội chủ nghĩa. mặt đối
lập với khuynh hướng xã hội chủ nghĩa, khuynh hướng tư bản chủ nghĩa vừa tồn tại
trong tàn của hội cũ, vừa tồn tại trong các yếu tố mới hình thành trong công
cuộc đổi mới. Mâu thuẫn bản nước ta hiện nay biểu hiện tập trung lĩnh vực
chính trị mâu thuẫn giữa chủ thuyết độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
và khuynh hướng tư bản chủ nghĩa; giữa những nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta trong xây dựng bảo vệ Tquốc với âm mưu các thủ đoạn chống phá
của các thế lực thù địch...
Trên - lĩnh vực văn hóa xã hội, mâu thuẫn cơ bản được biểu hiện tập trung giữa quá
trình hoàn thiện nền văn hóa tiên tiến, đàm đà bản sắc dân tộc với tình trạng tha hóa,
xuống cấp về văn hóa, đạo đức, lối sống trong xã hội; mâu thuẫn giữa truyền thống
và hiện đại, giữa tăng trưởng kinh tế và mục tiêu tiến bộ công bằng xã hội;...
Mâu thuẫn cơ bản ở nước ta hiện nay, nổi bật nhất là trên lĩnh vực kinh tế, đó là mâu
thuẫn giữa quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự lỗi thời, thiếu hoàn thiện
của hệ thống tổ chức, quản lý tương ứng; giữa mục tiêu từng bước thoát khỏi nghèo
nàn, lạc hậu với tình trạng phát triển còn thấp của lực lượng sản xuất; giữa đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa với nguy cơ hủy hoại môi trường sinh thái. Cùng với
đó, Việt Nam hiện nay còn tồn tại đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần
kinh tế lợi ích khác biệt. Tất nhiên, sự đối lập đó chỉ tính chất cục bộ, còn sự
thống nhất là cơ bản, thể hiện ở tính chỉnh thể của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế thị trường “có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chđạo, kinh tế nhân một
động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình
đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật...” (18).
Những nhận thức đó chính sự vận dụng sáng tạo tưởng của V. I. nin về -
phương pháp kết hợp các mặt đối lập. Thừa nhận sự tồn tại khách quan của kinh tế
nhân trong suốt thời kỳ quá độ Việt Nam, vbản chất, thừa nhận sự đối lập
với kinh tế xã hội chủ nghĩa. Song, do nó vẫn còn nhiều tiềm năng phát triển nên vẫn
được xem là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Trên thực tế, sự vận dụng ấy
đã và đang đem lại hiệu quả tích cực, góp phần to lớn vào thành tựu của 30 năm đổi
mới ở Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, vận dụng tưởng của V. I. nin phải phân biệt giữa mâu thuẫn đối -
kháng và mâu thuẫn không đối kháng trong hội đxác định phương hướng giải
quyết đúng đắn.
Trong hội nước ta hiện nay, các mâu thuẫn phổ biến thuộc về mâu thuẫn không
đối kháng. Đó mâu thuẫn giữa c giai tầng, các nhóm hội lợi ích cục bộ,
tạm thời khác biệt. Để giải quyết các mâu thuẫn ấy chủ yếu phải thông qua các biện
pháp giáo dục, thuyết phục, thỏa thuận, hợp tác... mà không cần đến sự trấn áp bằng
sức mạnh bạo lực. Đặc biệt, đối với vấn đề xây dựng liên minh công nhân - nông dân
- trí thức, việc nhận thức giải quyết các mâu thuẫn không đối kháng trên sở
thống nhất chung về lợi ích là một phương hướng hữu hiệu, góp phần hoàn thiện nền
tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc một động lực to lớn để phát triển xã hội.-
Bên cạnh đó, những mâu thuẫn đối kháng trong xã hội ta không phải đã mất đi. Kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội hoàn toàn đối lập “một
mất, một còn” với khuynh hướng tư bản chủ nghĩa; sự chống phá quyết liệt của các
thế lực thù địch cũng hoàn toàn mâu thuẫn với sự nghiệp cách mạng nước ta. Do vậy,
trong suốt thời kỳ quá độ, cuộc đấu tranh quyết liệt, không khoan nhượng giữa các
lực lượng đối kháng này chính quá trình giải quyết một cách triệt để các mâu thuẫn
đối kháng.
Nhận thức sâu sắc các thuộc tính hợp thành mâu thuẫn biện chứng trong đời sống xã
hội là thành tựu khoa học vĩ đại của tri thức nhân loại gắn liền với sự ra đời của chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Cùng với những cống hiến của V. I. nin, học thuyết mác- -
xít về mâu thuẫn được bồi đắp, phát triển lên một tầm cao mới. Việc vận dụng, nhận
định, phân tích, làm rõ các mâu thuẫn xã hội ở Việt Nam là một vấn đề có ý nghĩa to
lớn, góp phần làm sâu sắc lý luận chủ nghĩa Mác về mâu thuẫn trong đời sống xã hội,
đặc biệt trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
II. Vận dụng.
1. Một số các mâu thuẫn biện chứng còn tồn tại trong xã hội ta hiện nay:
- Trong lĩnh vực kinh tế: tranh chấp đất đai (giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân
với tập thể, giữa cá nhân với các quan quản nhà nước, giữa các cộng đồng,
nhóm người với nhau về giải tỏa, đền bù); tranh chấp hợp đồng kinh tế; phân chia i
sản, . . . .
- Trong lĩnh vực hội: chính sách, chế độ hội thực hiện chính sách. Những
xung đột này thường xảy ra giữa các cá nhân, các nhóm dân cư, các nhóm xã hội với
các quan thực thi chính sách, pháp luật địa phương. Sự đòi hỏi của người dân
không được giải quyết một cách thỏa đáng các vấn đề của mình cũng có thể dẫn tới
xung đột xã hội.
- Trong lĩnh vực y tế (giữa bệnh nhân, người nhà bệnh nhân với bác sĩ, với cơ quan
y tế). Nhiều xung đột cũng xảy ra giữa các cộng đồng dân cư (làng, xóm, dòng họ…)
với các cơ quan thực thi quyền lực.
- Trong lĩnh vực giao thông, xung đột xảy ra khá phbiến, nhất các đô thị lớn
(do mật độ giao thông đông, người sử dụng phương tiện giao thông chưa có ý thức,
văn hóa thấp kém của người tham gia giao thông, tình trạng tắc đường); thu phí BOT;
đền bù giải phóng mặt bằng, . . .
- Trong lĩnh vực giáo dục: dạy thêm học thêm; các khoản phí; trường công trường tư;
chi phí và chất lượng; chất lượng và bằng cấp;
- Trong lĩnh vực văn hóa, các xung đột diễn ra trong các lễ hội (như lễ hội đền Trần,
lễ hội đền Gióng…). Những vụ việc tranh chấp, xô xát liên quan đến các di tích lịch
sử văn hóa, cơ sở thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo không phải là ít.
- Trong lĩnh vực tôn giáo: tranh chấp về đất đai, xây dựng sthờ tự, truyền đạo
trái pháp luật, vi phạm luật pháp hiện hành về tôn giáo, chứ không phải do nguyên
nhân xung đột về niềm tin tôn giáo.
- Trong lĩnh vực môi trường: xung đột giữa các cộng đồng dân với các công ty,
doanh nghiệp hủy hoại môi trường. Trong thời gian tới, dưới tác động của ô nhiễm
môi trường, biến đổi khí hậu, các thảm họa môi trường, thảm họa do thiên tai mang
lại sẽ có nhiều hơn các cuộc xung đột xã hội trong lĩnh vực môi trường.
- Trong gia đình: xung đột giữa vợ chồng, giữa cha mẹ con cái, giữa các anh
chị em. Những xung đột hội ở cấp độ cá nhân, gia đình đang ngày càng mở rộng
và phức tạp.
- Trong quan hệ lao động giữa người lao động chủ sử dụng lao động: tranh chấp
lao động nhân, tranh chấp lao động tập thể liên quan đến HĐLĐ, tiền công, thời
gian làm thêm, điều kiện lao động, BHXH, phúc lợi xã hội; vấn đề đình công
=> Có thể thấy các mâu thuẫn và xung đột ở nước ta đều liên quan đến quyền và lợi
ích của các bên. Trình độ nhận thức của người dân được nâng cao, thông tin được
minh bạch hơn, Nhà nước tăng cường đẩy mạnh dân chủ, người dân ngày càng
phát huy vai trò làm chủ của mình, tham gia nhiều hơn vào quá trình giám sát hội,
phản biện xã hội cũng làm lộ ra nhiều mâu thuẫn và xung đột xã hội.
Đặc biệt, những xung đột hội nội dung đấu tranh, đòi hỏi về dân chủ, công khai,
công bằng trong thực hiện các quyền, nghĩa vụ và chống quan liêu, tham nhũng, làm
sai chính sách, pháp luật của một bộ phận cán bộ trong các tổ chức Đảng, chính quyền
có chiều hướng tăng.
2. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn biện chứng trong xã hội:
- Những mâu thuẫn về lợi ích kinh tế (xuất hiện nhiều hơn với mức độ, quy mô khác
nhau, tính chất khác nhau) đã dẫn đến những xung đột hội không thể tránh khỏi.
Đây là nguyên nhân phổ biến của các xung đột xã hội ở nước ta thời gian gần đây.
- Sự biến đổi về mặt hội như tình trạng phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo, bất
bình đẳng xã hội. Sự phát triển kinh tế xã hội, sự gia tăng quá trình đô thị hóa, hiện
đại hóa đã phá vỡ những cấu trúc xã hội truyền thống (như cấu trúc làng, xã, cấu trúc
gia đình…) cũng nguyên nhân gây nên xung đột hội. Tâm hội khủng hoảng,
bức xúc xã hội, các vấn đề an ninh phi truyền thống. Đạo đức xuống cấp, lối sống
thực dụng, chủ nghĩa khủng bố.
- Môi trường tự nhiên (như ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên
thiên nhiên, phá rừng) cũng chứa đựng những mầm mống gây xung đột xã hội.
- Một số chính sách, pháp luật trong lĩnh vực đất đai, kinh doanh, lao động, an sinh
xã hội, quản lý xã hội và bảo đảm quyền lợi cho người dân chưa được đồng bộ, nhất
quán, còn bất cập, gây bức xúc trong cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân.
- Thiếu hệ thống các chuẩn mực đạo đức dể làm thước đo: đạo đức công vụ; đạo đức
trong chính trị; đạo đức trong kinh doanh; chuẩn mực ứng xử trong gia đình, quan,
xã hội để giáo dục và xử lý các mẫu thuẫn xã hội.
- Một số cuộc xung đột hội còn sự tham gia, xúi giục, tổ chức của các thế lực
thù địch trong và ngoài nước, m cách kích động biểu tình, bạo loạn, tạo cớ gây xung
đột xã hội để can thiệp.
3. Cách thức giải quyết mâu thuẫn và xung đột:
- Sự yếu kém của hệ thống chính trị ở cơ sở tại một số địa phương; sự thoái hóa biến
chất của một số cán bộ, cả cán bộ lãnh đạo, quản lý; tình trạng chính quyền quan liêu,
tham nhũng, mất dân chủ, cố ý làm sai chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước;
cách giải quyết những đòi hỏi, bức xúc, nguyện vọng của nhân dân không hợp tình,
không hợp lý, không dứt điểm; sự sai sót trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
và tranh chấp trong nội bộ nhân dân; sự bất cập trong việc thực thi pháp luật, . . .
- Hình sự hoá quan hệ kinh tế, hành chính, dân sự. Thực hiện truy tố quan hệ kinh tế,
dân sự không đúng bản chất khách quan của hành vi, đã xảy ra trên khắp cả nước như
vụ chủ quán phê Xin Chào Nguyễn Văn Tấn TP.HCM, doanh nhân Hoàng Minh
Tiến (Hà Nội), Phùng Thị Thu (Thái Bình), Nguyễn Văn Lượng (Nam Định),... bị
"khép" các tội danh trốn thuế, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản oan
khuất, gây hoang mang, sợ hãi trong không chỉ giới doanh nghiệp. Việc hình sự hóa
quan hệ dân sự, kinh tế tại Ngân hàng Nam Á (Nam A Bank) tại TP.HCM.
- Cách tiếp cận không hợp như giải quyết đình ng tại các doanh nghiệp (hành
chính thay vì thương lượng); cai nghiện ma túy (tội phạm hay con bệnh); người trực
tiếp xử lý thiếu chuyên nghiệp, thiếu hiểu biết, . . . dẫn đến một tỷ lệ lớn mâu thuẫn,
xung đột chỉ được giải quyết phần nào (chủ yếu là phần ngọn) chứ không giải quyết
được triệt để, điều này đã tạo ra những nhân tố gây mất ổn định xã hội. Ngoài ra, vai
trò của các tổ chức đoàn thể trong giải quyết mâu thuẫn, xung đột xã hội còn rất hạn
chế.
4. Giải pháp giải quyết, hạn chế, giảm nhẹ mâu thuẫn, xung đột xã hội trong
giai đoạn mới:
Khi nói đến giải quyết mâu thuẫn xung đột hội, tức nói đến vai trò quyết định
của nhà nước, của chính quyền; sự tham gia của các tổ chức xã hội chỉ vai trò hỗ
trợ.
- Các mâu thuẫn và xung đột xã hội đều có nguyên nhân gốc rễ, do đó các mâu thuẫn
xung đột xã hội chỉ thể được giải quyết triệt để khi xử được vấn đề gốc rễ
của nó. Điều này đòi hỏi phải cách tiếp cận, phương pháp và bộ công cụ giải quyết
phù hợp với từng loại mâu thuẫn và xung đột xã hội cụ thể;
- Cần xây dựng một hệ thống chuẩn mực đạo đức được thực hành rộng rãi quy
phạm pháp lý chặt chẽ được tôn trọng, đồng thời nâng cao năng lực và hiệu quả của
bộ máy nhà nước trong xây dựng và thực thi những nguyên tắc đạo đức và pháp luật.
- Yếu tố con người. Cần thực thi đạo đức công vụ, văn hóa trong chính trị, văn hóa
trong kinh tế và đảm bảo thượng tôn luật pháp. Xây dựng đạo đức và pháp luật trong
sự thấm nhuần bản sắc văn hóa dân tộc.
- Thực hiện đúng nguyên tắc tiến bộ và công bằng xã hội trong giải quyết, hạn chế,
giảm nhẹ mâu thuẫn, xung đột xã hội.
- Cần xây dựng hệ thống kiểm soát quyền lực và phát hiện xung đột lợi ích hiệu quả,
tránh chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa tập thể. Quy định trách nhiệm cá nhân khi xử lý
các mâu thẫn và xung đột xã hội.
- Không hình sự hoá quan hệ kinh tế, hành chính, dân sự.
- Cần làm tốt ng tác dự báo nguy xuất hiện xung đột hội đsớm hóa giải
những mầm mống gây xung đột xã hội..
Cái chung, cái riêng và cái đơn nhất
“Trước con người, có màng lưới những hiện tượng tự nhiên. Con người bản năng người man rợ, không tự tách
khỏi giới tự nhiên, những phạm trù những giai đoạn của sự tách khỏi đó, tức của sự nhận thức thế giới. Chúng
những điểm nút của màng lưới, giúp ta nhận thức nắm vững màng lưới.” Các cặp phạm trù là những bậc
thang của quá trình nhận thức, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Trong số các cặp phạm trù triết học,
cặp phạm trù cái riêng cái chung cặp phạm trù cơ bản đặc trưng trong hệ thống phạm trù của phép biện chứng.
Mối quan hệ của chúng một trong những vấn đề quan trọng nhất của triết học nói riêng sự nhận thức bậc
thang của nhân loại nói chung.
Thế giới vật chất xung quanh con người tồn tại bằng muôn vàn các sự vật, hiện tượng rất khác nhau về màu
sắc, trạng thái, tính chất, hình dáng, kích thước,… nhưng đồng thời giữa chúng cũng có rất nhiều những đặc điểm,
thuộc tính chung giống nhau. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường tiếp xúc với một số sự vật hiện tượng
quá trình khác nhau. Mỗi sự vật hiện tượng đó được gọi một “cái riêng”, đồng thời chúng ta cũng thấy giữa
chúng lại có mặt giống nhau tức là tồn tại “cái chung” giữa chúng.
Với tư cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, phép biện chứng khái quát những mối liên hệ
phổ biến nhất, bao quát các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy vào các cặp phạm trù cơ bản như: “cái riêng”
“cái chung”, nguyên nhân kết quả, tất nhiên và ngẫu nhiên, nội dung hình thức, bản chất và hiện tượng,
khả năng và hiện thực.
“Cái chung” “cái riêng” là hai phạm trù xuất phát của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Mối quan hệ của nó biểu
hiện vấn đề cơ bản của Triết học trong lịch sử. Để tìm hiểu về mối quan hệ “cái chung” và “cái riêng” trước hết
chúng ta cần tìm hiểu về khái niệm của chúng.
“Cái riêng” phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định trong
thế giới khách quan. Ví dụ, một hành tinh nào đấy hay một thực vật, động vật nào đấy là cái đơn nhất trong giới
tự nhiên. Còn “Cái riêng” trong lịch sử xã hội là một sự kiện riêng lẻ nào đó, như là cuộc Cách mạng tháng Tám
của Việt Nam chẳng hạn. Nói một cách đơn giản một con người nào đó: Huệ, Trang,... cũng là “cái riêng”. “Cái
riêng” còn có thể hiểu là một nhóm sự vật gia nhập vào một nhóm các sự vật rộng hơn, phổ biến hơn. Sự tồn tại
cá biệt đó của “cái riêng” cho thấy nó chứa đựng trong bản thân những thuộc tính không lặp lại ở những cấu trúc
sự vật khác. Tính chất này được diễn đạt bằng khái niệm “cái đơn nhất”.
Tuy nhiên, ta cần phân biệt “cái riêng” và “cái đơn nhất”. “Cái đơn nhất” phạm trù được dùng để chỉ những
nét, những mặt, những thuộc tính… chỉ một kết cấu vật chất định và được lặp lại bất cứ một nhất không
kết cấu vật chất nào khác. Về mặt ngữ nghĩa, “cái đơn nhất” gần giống với biệt. cái dụ, đều cây nhưng
sao mỗi loại cây lại có những đặc điểm khác nhau. Chẳng hạn đều là hoa hồng nhưng tại sao hồng nhung lại có
mùi hương quyến rũ, hoa hồng vàng lại nhẹ nhàng, hồng xanh kiêu sa. Đó chính đặc điểm riêng “cái đơn
nhất” của nó.
Mặt khác, giữa những “cái riêng” có thể chuyển hóa qua lại với nhau, chứng tỏ giữa chúng có một số đặc điểm
chung nào đó. Những đặc điểm chung đó được triết học khái quát thành khái niệm “cái chung”.
“Cái chung” là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung không những có ở một
kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác, những
mối liên hệ giống nhau, hay lặp lại ở nhiều cái riêng. Ví dụ, “cái chung” của người Việt Nam là có một lòng nồng
nàn yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, sẵn sàng hi sinh tất cả để bảo vệ nền độc lập của nước nhà. Bên cạnh
đó, “cái chung” của chủ nghĩa tư bản là bóc lột giá trị thặng dư của công nhân làm thuê. Căn cứ từ trình độ nhận
thức, có thể được chia thành “cái chung không bản chất” và “cái chung bản chất”.
Thứ nhất, “cái chung không bản chất” là cái chung thường do sự ngẫu hợp mà có. Chẳng hạn “cái chung bản
chất” với phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật là vật chất luôn vận động. Như vậy, tính lặp lại đặc trưng
của của cái chung. Tính chất này cho thấy những mặt, những mối liên hệ cơ bản chi phối nhiều quá trình vật chất
khác nhau. Nó cho ta một cách nhìn sự vật trong mối liên hệ qua lại, gắn liền với nhau. Điển hình cho khái niệm
này là cuộc cách mạng. Nó chính là “cái chung”, đó là sự thay đổi từ cái này sang cái khác tiến bộ hơn. Nhưng
trong các cuộc cách mạng thì nhiều loại (cách mạng sản, cách mạng dân tộc dân chủ), đó những “cái
riêng”.
Thứ hai, “cái chung bản chất” lại là cái chung giống nhau của rất nhiều sự vật hiện tượng mang tính cơ bản
đặc trưng để nhận dạng một sự vật hiện tượng nào đó. Chẳng hạn, “cái chung” của các loại cây quá trình
quang hợp, hô hấp, trao đổi chất với môi trường xung quanh. Nếu một cái cây nào mà không có những đặc điểm
đấy sao con gọi là cây nữa. Hay như ở con người cái chung bản chất chính là tình cảm, mối quan hệ với gia đình,
xã hội.
Như vậy, từ những yếu tố cấu thành nên “cái chung”, có thể khái quát rằng “cái chung” thường chứa đựng
trong nó tính quy luật, sự lặp lại.
Những nhà nghiên cứu triết học Mác-Lênin đề cập đến có hai quan điểm trái ngược nhau về mối quan hệ giữa
"cái riêng" "cái chung", đó là phái duy thực phái duy danh. Triết học Mác Lênin cho rằng, cả quan niệm -
của phái duy thực và phái duy danh đều sai lầm ở chỗ họ đã tách rời “cái riêng” khỏi “cái chung”, tuyệt đối hóa
cái riêng, phủ nhận cái chung, hoặc ngược lại. Họ không thấy sự tồn tại khách quan mối liên hệ khăng khít
giữa chúng. Thấy được và khắc phục hạn chế của hai quan niệm trên, triết học duy vật biện chứng cho rằng “cái
chung” và” cái riêng” có mối liên hệ biện chứng mật thiết với nhau, và cả hai đều tồn tại một cách khách quan.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy thực”, họ cho rằng "cái riêng" chỉ tồn tại tạm thời, thoáng qua, không
phải là cái tồn tại vĩnh viễn, chỉ có "cái chung" mới tồn tại vĩnh viễn, thật sự độc lập với ý thức của con người.
“Cái chung” không phụ thuộc vào "cái riêng", còn sinh ra “cái riêng”. “Cái chung” là những ý niệm tồn tại
vĩnh viễn bên cạnh những cái riêng chỉ có tính chất tạm thời, cái riêng do cái chung sinh ra. Chẳng hạn, con người
là một khái niệm chung và chỉ có khái niệm con người mới tồn tại mãi mãi, còn những con người cụ thể là khái
niệm tạm thời vì những con người cụ thể (cá nhân) này có thể mất đi (chết đi).
- 1142), Đối lập lại chủ nghĩa duy thực, các nhà triết học thuộc “chủ nghĩa duy danh” như P. Abơla (1079
Đumxcot (1265 1308) cho rằng chỉ có “cái riêng” tồn tại thực sự, còn “cái chung” là những tên gọi trống rỗng, -
do con người đặt ra, không phản ánh cái gì trong hiện thực. Quan điểm này không thừa nhận nội dung khách quan
của các khái niệm. Những khái niệm cụ thể đôi khi không ý nghĩa trong cuộc sống của con người, chỉ là
những từ trống rỗng, không cần thiết phải bận tâm tìm hiểu. Ranh giới giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm bị xóa nhòa và con người không cần phải quan tâm đến cuộc đấu tranh giữa các quan điểm triết học nữa. Ví
dụ, Không thể nhận thấy, nắm bắt một "con người" chung chung mà "con người" chỉ có thể được nhận thấy, nắm
bắt qua những con người thực thể cụ thể, thông qua các cá nhân cụ thể.
Như vậy ranh giới giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm bị xóa nhòa và con người không cần phải quan
tâm đến cuộc đấu tranh giữa các quan điểm triết học. Phép biện chứng duy vật của Triết học Marx Lenin cho rằng -
cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau; phạm trù
cái riêng được dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định, còn phạm trù cái chung
được dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn
được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
Chính vậy, phép biện chứng duy vật cho rằng cái riêng, “cái chung” “cái đơn nhấtđều tồn tại khách
quan, giữa chúng mối liên hệ hữu với nhau. Điều đó đã được thể hiện trong tác phẩm Bút Triết học,
Lênin đã viết rằng:
“Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái
chung. Bất cứ cái riêng [nào cũng] là cái chung. Bất cứ cái chung nào cũng là [một bộ phận, một khía cạnh, hay
một bản chất] của cái riêng. Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất cả mọi vật riêng lẻ.
Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái chung”.
Cụ thể là:
Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Nghĩa
là không có cái chung thuần túy tồn tại bên ngoài cái riêng, cái chung tồn tại thực sự, nhưng không tồn tại ngoài
cái riêng mà phải thông qua cái riêng. Chẳng hạn, không có con “động vật” chung tồn tại bên cạnh con trâu, con
bò, con gà cụ thể. Trong bất cứ con trâu, con bò, con gà riêng lẻ nào cũng đều bao hàm trong nó thuộc tính chung
của động vật, đó quá trình trao đổi chất giữa cơ thể sống môi trường. Không cái cây nói chung tồn tại
bên cạnh cây cam, cây quýt, cây đào cụ thể. Nhưng cây cam, cây quýt, cây đào... nào cũng có rễ, có thân, có lá,
có quá trình đồng hoá, dị hoá để duy trì sự sống. Những đặc tính chung này lặp lại ở những cái cây riêng lẻ,
được phản ánh trong khái niệm "cây". Đó là cái chung của những cái cây cụ thể.
ai, Thứ h cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Không có cái riêng nào tồn tại tuyệt đối
độc lập, không có liên hệ với cái chung, sự vật, hiện tượng riêng nào cũng bao hàm cái chung. Nền kinh tế của
mỗi quốc gia có những đặc điểm riêng phong phú là những cái riêng. Nhưng bất cứ nền kinh tế nào cũng bị chi
phối bởi các quy luật chung như quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng v.v.. Mỗi con
người là một cái riêng, nhưng mỗi con người không thể tồn tại ngoài mối liên hệ với xã hội và tự nhiên. Không
nhân nào không chịu sự tác động của các quy luật sinh học và các quy luật xã hội. Đó là những cái chung trong
mỗi con người.
Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung cái bộ phận, nhưng sâu sắc hơn
cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài những đặc điểm chung, cái riêng còn có cái đơn nhất. Cái
chung sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại
ở nhiều cái riêng cùng loại. Do vậy cái chung là cái gắn liền với cái bản chất, quy định phương hướng tồn tại và
phát triển của cái riêng. Ví dụ, Người nông dân Việt Nam bên cạnh cái chung với nông dân của các nước trên thế
giới là có tư hữu nhỏ, sản xuất nông nghiệp, sống ở nông thôn v.v., còn có đặc điểm riêng là chịu ảnh hưởng của
văn hoá làng xã, của các tập quán lâu đời của dân tộc, của điều kiện tự nhiên của đất nước, nên rất cần lao
động, có khả năng chịu đựng được những khó khăn trong cuộc sống.
Thứ tư, . Cái cái đơn nhất và cái chung thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật
đơn nhất là phạm trù để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính... chỉ có ở một sự vật, một kết cấu vật chất,
không lặp lại sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất khác. Trong hiện thực cái mới không bao giờ xuất hiện
đầy đủ ngay, mà lúc đầu xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất.
Về sau theo quy luật, cái mới hoàn thiện dần và thay thế cái cũ, trở thành “cái chung”, cái phổ biến, nhưng về
sau nữa, khi không phù hợp với điều kiện mới bị mất dần đitrở thành cái đơn nhất. Như vậy sự chuyển
hóa từ “cái đơn nhất” thành “cái chung” biểu hiện của quá trình cái mới ra đời thay thế cái cũ. Ngược lại s
chuyển hoá từ “cái chung” thành “cái đơn nhất” là biểu hiện của quá trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định. Ví dụ,
sự thay đổi một đặc tính nào đấy của sinh vật trước sự thay đổi của môi trường diễn ra bằng cách, ban đầu xuất
hiện một đặc tính ở mộtthể riêng biệt. Do phù hợp với điều kiện mới, đặc tính đó được bảo tồn, duy trì ở nhiều
thế hệ và trở thành phố biến của nhiều cá thể. Những đặc tính không phù hợp với điều kiện mới, sẽ mất dần đi và
trở thành “cái đơn nhất”.
Từ cơ sở lý luận trên, V.I.Lênin từng viết: “Người nào bắt tay vào những vấn đề riêng trước khi giải quyết các
vấn đề chung, thì kẻ đó, trên mỗi bước đi, sẽ không sao tránh khỏi “vấp phải” những vấn đề chung đó một cách
không tự giác. Mà mù quáng vấp phải những vấn đề đó trong từng trường hợp riêng, thì nghĩa là đưa chính
sách của mình đến chỗ những sự dao động tồi tệ nhất và mất hẳn tính nguyên tắc”.
Trong đó, “những vấn đề riêng” là những vấn đề bức bách do cuộc sống, do hoạt động thực tiễn đặt ra bao
giờ cũng là những vấn đề hết sức cụ thể. Để giải quyết những vấn đề cụ thể ấy những vấn đề riêng của cuộc -
sống một cách có hiệu quả thì ta phải giải quyết “Những vấn đề chung” có liên quan ấy. “Những vấn đề chung”
hay là những vấn đề “có tính chất lý luận”, tức là những vấn đề không có liên hệ trực tiếp với một nhiệm vụ thực
tế nhất định nào đó. Tuy nhiên “Những vấn đề chung” phản ánh bản chất sâu xa hơn của “Những vấn đề riêng”
và là chìa khóa để giải quyết được “Những vấn đề riêng” có liên quan đến nhau. “Những vấn đề chung” là những
vấn đề khó nắm bắt hơn, khó nhận ra hơn nên ta thường mắc sai lầm, chỉ đi theo “Những vấn đề riêng” trước mắt.
“Vấn đề chung” và “Vấn đề riêng” là hai phạm trù không thể tách rời nhau, có quan hệ mật thiết với nhau. Cho
nên việc chỉ quáng đi theo “Vấn đề riêng” không suy nghĩ thấu đáo, từ “Vấn đề riêng” không phân
tích, tìm ra “Vấn đề chung”, thì ta sẽ không thể tìm ra “Vấn đề chung” cần giải quyết. “Những vấn đề riêng” mà
chúng ta đang giải quyết trước mắt cũng sẽ trở nên bế tắc, không thể giải quyết nếu ta chưa giải quyết được
“Những vấn đề chung”. Về lâu dài, Lenin cho rằng đấy là một sai lầm tai hại, sẽ dẫn chúng ta đến “những sự dao
động tồi tệ nhất” và “mất hẳn tính nguyên tắc”, khiến chúng ta trở nên trì trệ, bị động, không có trật tự khi xử lý
các vấn đề được đặt ra, khi giải quyết các vấn đề mà không có “tính nguyên tắc” thì lại xa rời các quy luật của
hội. Đỉnh điểm của các sai lầm sẽ dẫn đến khủng hoảng, đưa vấn đề vào cảnh khó khăn chồng khó khăn, không
ổn định tệ nhất dẫn đến những thiệt hại nặng nề nhất. Trong những khoảnh khắc khó khăn nhất ấy, sẽ khó đảm
bảo được “tính nguyên tắc” điều giúp cho chúng ta có thể xử lý vấn đề đúng hướng, có trật tự và ổn định trở lại.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của ông cha ta là một ví dụ gần gũi và sinh động cho luận điểm trên. Suốt
lịch sử ngàn năm văn hiến của dân tộc, từ vua Hùng dựng nước đến ngày nay xây dựng đất nước tiến lên Chủ
nghĩa xã hội, là một chặng đường dài. Để mỗi bước đi trên chặng đường ấy thành công, người lãnh đạo cần quan
tâm đến một thứ, đó là “lòng dân”. Những chiến thắng của ta trước giặc ngoại xâm từ các triều đại phương Bắc
đến các thế lực phương Tây, đều phải dựa vào “lòng dân”. Đó là một “vấn đề chung” quan trọng có tính sống còn,
là chìa khóa vàng và điều kiện tiên quyết cho sự thành công rực rỡ của chúng ta. Còn “Vấn đề riêng” chúng ta
thường gặp phải như làm sao để có công nghệ mạnh, người tài giỏi, đất nước giàu có tài nguyên,… “Những vấn
đề riêng” này thì dễ thấy, cũng cần giải quyết, nhưng cũng khiến ta mù quáng chạy theo mà từ đó lại không nhận
ra để giải quyết được lòng dân – “vấn đề chung”.
Trong lịch sử, những vị lãnh đạo và chính nhân dân chúng ta từng xa rời nó, không giải quyết được “vấn
đề chung” mang tính sống còn là “lòng dân”, không cùng nhau đồng lòng tin tưởng, thì ắt không thể tồn tại
lâu, không thể thành công, đưa chính bản thân và đất nước vào thế hiểm nghèo, khó khăn, loạn lạc, thậm chí phải
chịu mất nước. Như trường hợp cha con vua nhà Hồ tuy tài, tầm nhìn, cố gắng chuẩn bị tốt mọi thứ cho
chiến tranh chống lại quân Minh xâm lược. Nhưng những chuẩn bị đó là chưa đủ, chỉ có thể giải quyết “vấn đề
riêng”. Chiến tranh mà “lòng dân” không phục, thì có chuẩn bị được vũ khí mạnh đến mấy, lãnh đạo giỏi đến đâu
cũng không thể thắng được. Ông đã không nhận ra kịp và không giải quyết được “vấn đề chung”, không thể làm
cho dân tin tưởng, nên cuộc chiến với quân Minh đã thất bại, mọi sự chuẩn bị cho “vấn đề riêng” đều thất bại và
không còn giá trị, đất nước loạn lạc, phải chịu ách đô hộ tàn bạo của giặc Minh.
Như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Được lòng dân, thì việc cũng làm được. Trái ý dân, thì chạy
ngược chạy xuôi”. “Vấn đề chung” khi ta đã tìm ra được rồi, thì mọi sự sẽ trở nên dễ dàng hơn, sẽ giải quyết được
“Vấn đề riêng” tốt hơn, ta có thể viết tiếp những trang sử hào hùng, đưa đất nước lên thịnh vượng, ổn định. Còn
nếu ta xa rời “vấn đề chung”, chỉ chăm chăm giải quyết “vấn đề riêng” vặt vãnh, không nhìn được “vấn đề chung”
sâu xa trong nó, thì lịch sử đã chứng minh, ta chỉ có thể bị dẫn đến “dao động”, hao công vô ích và thất bại.
Từ đó ta thấy luận điểm của Lênin về việc cần chú trọng và giải quyết trước tiên “vấn đề chung”, nhìn từ
“vấn đề riêng” để tìm ra “vấn đề chung” cần xử lý là quan điểm hết sức phù hợp và đúng đắn trong suốt lịch sử
của ta, áp dụng được cho các vấn đề ta gặp phải cũng như đóng vai trò quan trọng cho công cuộc công nghiệp
hóa – hiện đại hóa của đất nước ta hiện nay.
Về áp dụng luận điểm của Lênin vào công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, theo Cố GS
Nguyễn Đức Bình, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng
luận TW cho rằng: “Chính vì công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, tính phức tạp và đa dạng của các quá trình và quan hệ kinh tế - xã hội ngày càng tăng; chính vì
thế giới đầy biến động, không yên, lại sắp bước vào thế kỷ XXI, chính vì tất cả điều đó nên càng phải ra sức cố
gắng để có được quan niệm đúng đắn, vững chắc, thấu suốt về con đường đi lên của đất nước. Coi nhẹ lý luận,
làm đến đâu hay đến đấy, chỉ thấy hôm nay không thấy ngày mai, thấy hiện tượng mà không hiểu sâu bản chất,
quy luật, thấy bộ phận mà không hiểu đại cục thì thể dẫn đến những vấp váp lớn. Nếu không ý thức con
đường lớn, sẽ dẫn đến tình hình là trong khi làm "được" một cái gì đó lại có thể làm "mất" đi nhiều, thậm chí dần
dà mất hết mà không tự biết, đến khi biết ra thì đã quá muộn! Mặt khác, không tự ý thức được thật sáng rõ con
đường lớn phải đi thì cũng dễ sinh ra bị động, bảo thủ, thiếu tự tin, không dám chịu trách nhiệm, làm gì cũng sợ
sai, sợ trật!”.
Nhận xét này đã làm hơn vai trò luận điểm của Lênin với công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa
của đất nước ta hiện nay. Việc phát triển đất nước không thể chỉ mù quáng chạy theo những “vấn đề riêng” mà ta
cần phải tìm hiểu thấu đáo và tìm ra những “vấn đề chung” đểthể đưa đất nước ổn định và tiến đến thành công
thật sự. Đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng quang vinh, được dân tin tưởng, “vấn đề chung” mang tính sống
còn là “lòng dân” đã tạm được củng cố và luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, coi trọng hàng đầu.
Trong công cuộc này dưới sự lãnh đạo và dẫn dắt của Đảng và Nhà nước, ta đã dần tìm ra và giải quyết
các “vấn đề chung” có liên quan một cách khoa học và hiệu quả, tuân theo các quy luật xã hội và đạt được nhiều
thành tựu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. CNH HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện -
các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang
sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên
sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Lại nói đến quá trình CNH HĐH ở nước ta, Việt Nam được coi mắt xích quan trọng trong hệ thống -
các nước Xã hội chủ nghĩa bấy giờ. Do đó, tại Đại hội lần thứ III (Tháng 9 - 1960), Đảng quyết định chọn lựa con
đường công nghiệp hóa hội chủ nghĩa kiểu Liên Xô, coi “nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ miền
Bắc nước ta là công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, mà mấu chốt là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng”. “Vì vậy
chủ trương của Đảng ta về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là: xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa cân đối hiện đại kết hợp công nghiệp với nông nghiệp lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm
biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại”.
Chủ trương ''ưu tiên phát triển công nghiệp nặng'' đó của đại hội đã được đôn đốc thực thi ráo riết trong thực tế
suốt hàng chục năm, tuy có đạt được một số kết quả khiêm tốn, song trong điều kiện chiến tranh kéo dài, đường
lối công nghiệp hóa kiểu Liên ưu tiên phát triển công nghiệp nặng tỏ ra không phù hợp với đặc điểm, điều
kiện tình hình ở Việt Nam. Vì quá chú trọng đến quy mô, đến mặt lượng, đến nhanh, nhiều, rẻ mà không dựa vào
khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới cho nên hiệu quả không cao, năng suất thấp, lãng phí nguyên vật
liệu, sản phẩm kém chất lượng, đã đẩy cả nền kinh tế và xã hội vào rất nhiều khó khăn và kéo dài.
Đại hội lần thứ IV của Đảng (Tháng 12 1976), khi đề ra đường lối để phát triển đất nước sau khi đã -
thống nhất, một mặt, tiếp tục khẳng định ''phải thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa'', mặt khác, đã có sự
điều chỉnh nhất định, coi trọng hơn việc phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, cụ thể là ''ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”. Vì vậy tại Đại hội VI
(1986), Đảng đã quyết định điều chỉnh chiến lược, lúc này thay vì ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, chúng ta
chuyển hướng xác định công nghiệp hóa phải thực hiện qua nhiều giai đoạn. Giai đoạn đầu cần tập trung vào
nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, để đẩy lùi khủng hoảng kinh tế, giai đoạn sau là đẩy mạnh công nghiệp, nâng
cao tỷ trọng của ngành công nghiệp. Đến đầu thập kỉ 90, Liên Xô tan rã, nhiều nước phát triển trên thế giới từng
bước hiện đại hóa nền sản xuất. Nhân loại bước sang cuộc chạy đua về trình độ khoa học, kỹ thuật, công nghệ
hiện đại. Để tránh tụt hậu, một lần nữa Việt Nam phải nhìn nhận lại, chiến lược công nghiệp hóa của mình. Để
rút ngắn khoảng cách với các nước công nghiệp đi trước, Việt Nam không chỉ công nghiệp a đơn thuần
chuyển thành công nghiệp hóa, hiện đại hóa như Đại hội lần thứ VII của Đảng (Tháng 6 - 1991) đã xác định ''công
nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung
tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội''. Với khái niệm công nghiệp hóa, -
hiện đại hóa đã sự điều chỉnh trong Đại hội VII (1991), công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa chứ
không là công nghiệp hóa tách rời, chúng ta không thực hiện công nghiệp hóa xong mới hiện đại hóa mà chúng
ta thực hiện gắn liền hai nội dung công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Từ một nền kinh tế nông nghiệp đi lên CNXH, trong bối cảnh toàn cầu hóa, chúng ta phải tiến thành đồng
thời hai quá trình: Chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp (CNH HĐH); chuyển từ kinh tế -
nông-công nghiệp lên kinh tế thị trường. Trong khi các nước đi trước, đó hai quá trình kế tiếp nhau, thì
nước ta, tận dụng cơ hội là nước đi sau, hai quá trình này được lồng ghép với nhau, kết hợp các bước đi tuần tự
với các bước phát triển nhảy vọt, tức là gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế thị trường. Đất
nước dần ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, mọi lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước
phát triển khá, đặc biệt là sự phát triển ổn định của ngành nông nghiệp. Sự phục hồi và đạt mức tăng trưởng khá
này đã tạo cơ sở vững chắc để quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm (2011 - 2015) trong những năm sau đạt kết quả
vững chắc hơn.Thêm vào đó, cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn
sản xuất với thị trường cùng với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng
và hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hóa thành luật pháp, cơ chế, chính
sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các
loại thị trường tiếp tục hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát triển mạnh mẽ. Đời sống
của đại bộ phận dân cư được cải thiện rõ rệt nhờ thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Tóm lại, sau gần 30 năm thực hiện đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, toàn diện.
Cùng với tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, các mặt: chính trị, xã hội, quốc phòng và
an ninh được bảo đảm và ổn định. Thành tựu đó ngày càng khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân
tố quyết định thành công của đổi mới, khích lệ, động viên nhân dân tiếp tục hưởng ứng, góp phần quan trọng
vào việc giữ vững ổn định chính trị xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước với những -
bước tiến cao hơn.
Thêm vào đó, cuộc cách mạng công nghiệp lần th4 được cho đã bắt đầu từ vài năm gần đây, tập trung
chủ yếu vào sản xuất thông minh dựa trên các thành tựu đột phá trong công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,
công nghệ nano. Ngày 27 tháng 9 năm 2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52 NQ/TW về một số chủ -
trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với mục tiêu tổng quát: “Tận dụng
có hiệu quả các cơ hội do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại để thúc đẩy quá trình đổi mới mô hình
tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với thực hiện các đột phá chiến lược và hiện đại hoá đất nước; phát triển
mạnh mẽ kinh tế số, phát triển nhanh và bền vững dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và nhân lực -
chất lượng cao; nâng cao chất lượng cuộc sống, phúc lợi của người dân; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh,
bảo vệ môi trường sinh thái”. Nghị quyết số 52 NQ/TW đã đề ra 06 nhiệm vụ cho các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ -
Công Thương triển khai thực hiện, cụ thể:
(1) Hoàn thiện thể chế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư và quá trình chuyển đổi số;
(2) Xây dựng hoàn thiện sở hạ tầng thiết yếu phục vụ quá trình chuyển đổi số phát triển của
ngành Công Thương;
(3) Nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo phục vụ phát triển
công nghiệp 4.0;
(4) Tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao;
(5) Tăng cường hợp tác quốc tế;
(6) Tuyên truyền phổ biến, quán triệt đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức, tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng, cấp ủy, lãnh đạo các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ trong triển khai thực hiện Nghị quyết.
Sau một năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 52 NQ/TW của Bộ Chính trị, các nội dung về kinh tế số -
và chuyển đổi số đều đã được đưa vào chương trình làm việc với các đối tác quốc tế; đẩy mạnh hợp tác quốc tế
với các quốc gia, tổ chức, doanh nghiệp có thể mạnh, kinh nghiệm trong việc thực hiện chuyển đổi số, phát triển
công nghiệp 4.0 như: Tập đoàn Siemens, Hội đồng phát triển kinh tế của Singapore, Tổ chức phát triển công
| 1/53

Preview text:

Vật chất, ý thức, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
KHÁI NIỆM VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Để phân tích được mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức thì trước ta phải hiểu và phát
biểu được khái niệm về vật chất và ý thức. 1. Vật chất
Lênin đã định nghĩa vật chất như sau: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin bao hàm các nội dung cơ bản sau:
• Thứ nhất, vật chất là thực tại khách quan - cái tồn tại hiện thực bên ngoài ý thức và không lệ thuộc vào ý thức.
• Thứ hai, vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan con người thì đem lại cho con người cảm giác.
• Thứ ba, vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó.
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố hữu của vật chất. Không có vận
động ngoài vật chất và không có vật chất không có vận động.
Vật chất có hai hình thức tồn tại là không gian và thời gian. Không gian và thời gian là thuộc tính
chung vốn có của các dạng vật chất cụ thể và là hình thức tồn tại của vật chất.
Về tính thống nhất vật chất của thế giới, bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó. 1. Ý thức
Ý thức là một dạng vật chất đặc biệt có tổ chức cao là bộ óc con người. Bộ óc người là cơ quan vật
chất của ý thức còn ý thức là chức năng của bộ óc con người vì vậy không thể tách rời ý thức ra khỏi bộ
óc. Ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức gồm 2 yếu tố: bộ não người và thế giới khách quan tác động vào
các giác quan gây nên hiện tượng phản ánh. Hay nói cách khác, bộ óc người và mối quan hệ giữa con
người với thế giới khách quan tạo ra quá trình phản ánh năng động, sáng tạo.
Có nhiều yếu tố cấu thành nguồn gốc xã hội của ý thức, song cơ bản nhất, trực tiếp nhất là: lao động và ngôn ngữ.
Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình phản ánh tích cực,
sáng tạo hiện thực khách quan của óc người.
Để nhận thức rõ về ý thức, cần nắm vững kết cấu của ý thức, từ các lớp cấu trúc đến các cấp độ của
nó. Về các lớp cấu trúc của ý thức, khi xem xét ý thức với các yếu tố hợp thành các quá trình tâm lý tích
cực đem lại sự hiểu biết của con người về thế giới khách quan, ta có: tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí.
Về các cấp độ của ý thức, theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người, ý thức con người bao gồm các
yếu tố: tự ý thức, tiềm thức, vô thức…
1.MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, trong đó vật
chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức. Song, ý thức không
hoàn toàn thụ động mà nó có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Vậy nên, vật chất và ý thức có quan hệ hai chiều và tác động qua lại lẫn nhau.
1. Vật chất quyết định ý thức
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức. Ý thức xuất phát từ vật chất có tư duy chính
là bộ óc người. Song, con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Lẽ tất nhiên, ý thức - một thuộc tính
của bộ phận con người - cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động và ngôn ngữ. Trong đó, lao động chính là hoạt động vật chất,
mang tính tất yếu nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển của con người, còn ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu
vật chất nhưng mang nội dung ý thức. Ngôn ngữ chính là lớp vỏ vật chất của tư duy.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức. Khi thế giới hiện thực vận động, phát triển theo
những quy luật khách quan, những điều đó được phản ánh vào ý thức, tạo nên nội dung của ý thức. Nội
dung của ý thức là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người. Ngắn gọn
hơn, ý thức chỉ là hình ảnh của thế giới khách quan.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức. Bản chất của ý thức gồm 2 thuộc tính không tách
rời là phản ánh và sáng tạo. Phản ánh của con người là phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thông qua
thực tiễn. Mà thực tiễn chính là những hoạt động vật chất của con người - là cơ sở hình thành, phát triển
ý thức, trong đó ý thức con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo, phản ánh để sáng tạo và sáng tạo trong phản ánh.
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức. Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức
đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất; vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải
thay đổi theo. Con người ngày càng phát triển cả thể chất và tinh thần; đồng thời, óc người cũng phát
triển. Lẽ tất nhiên, ý thức - một hình thức phản ánh của nó cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh.
1. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
Điều này được thể hiện trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất, ý thức sau khi ra đời sẽ vận động, phát triển theo quy luật riêng của nó, không lệ thuộc
một cách máy móc vào vật chất. Ý thức một khi ra đời thì có tính độc lập tương đối, tác động trở lại thế giới vật chất.
Thứ hai, thông qua hoạt động thực tiễn, ý thức tác động trở lại vật chất. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý
thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh của vật chất. Tự bản thân ý thức thì không thể biến đổi hiện thực.
Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện qua việc chỉ đạo hành động của con người. Tác động của ý thức
đối với vật chất có thể tích cực hoặc tiêu cực. Ý thức tác động tích cực lên vật chất khi ý thức phản ánh
đúng hiện thực. Lúc đó, con người có tri thức đúng đắn, có nghị lực, ý chí và tình cảm tích cực thì con
người có khả năng hành động hợp quy luật khách quan, từ đó thúc đẩy điều kiện vật chất phát triển. Còn
khi ý thức phản ánh sai lạc hiện thực, ý thức sẽ tác động tiêu cực đến vật chất. Lúc đó,con người không
có tri thức đúng đắn, thiếu tình cảm, ý chí cách mạng sẽ nhận thức sai lầm và hành động trái quy luật
khách quan, có thể kéo lùi điều kiện vật chất.
Thứ tư, xã hội càng phát triển thì ý thức đóng vai trò ngày càng cao, nhất là trong thời đại ngày nay,
khi mà tri thức đã trở thành lực lượng sant xuất trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trò của tri
thức khoa học, của tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng.
1.Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CƠ BẢN
Nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, ta rút ra được ý nghĩa phương pháp luận. Trong
mọi hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta cần phải:
Thứ nhất, xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng quy luật khách quan. Vì vật chất quyết định ý
thức từ nguồn gốc, nội dung, bản chất nên phải bắt nguồn từ thực tế khách quan, tôn trọng thực tế khách
quan. Mọi hành động không xuất phát từ thực tế khách quan đều dẫn đến sai lầm.
Thứ hai, phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức. Vì ý thức có tác động tích cực trở lại vật chất
sinh ra nó cho nên phải biết phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố chủ
quan của con người, luôn chủ động, phát huy khả năng bản thân. Đồng thời, phải thường xuyên rèn luyện,
tu dưỡng và nâng cao trình độ tri thức khoa học, nhất là trong điều kiện nền văn minh trí tuệ, kinh tế tri
thức, toàn cầu hóa hiện nay.
Thứ ba, tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí, tránh lấy ý muốn chủ quan làm điểm
xuất phát; chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, bảo thủ, trì trệ.
1.VẬN DỤNG Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CƠ BẢN VÀO VIỆC HỌC VÀ LÀM VIỆC
1. Vai trò của phương pháp luận trong quá trình học tập và làm việc của sinh viên
Tư duy khoa học, năng lực tư duy khoa học có vai trò quan trọng đối với cả hoạt động nhận thức
lẫn hoạt động thực tiễn. Khả năng tư duy biện chứng sẽ giúp cho sinh viên trong quá trình học tập và làm việc như sau:
Thứ nhất, luôn tiếp nhận tri thức một cách khoa học, sáng tạo.Có cái nhìn toàn diện, phân biệt tri
thức đúng, sai; chỉ ra nguyên nhân cái sai, và khẳng định, phát triển tri thức đúng đắn. Nhờ đó, sinh viên
tự học, tự nghiên cứu, giải thích thực tiễn biến đổi, đưa ra những giải pháp mà thực tiễn đặt ra…
Thứ hai, có phương pháp học tập, làm việc đúng đắn; sinh viên không còn phải học vẹt, học tủ; mà
học hiểu, biết vận dụng, biết đánh giá và sáng tạo ra tri thức mới.
Thứ ba, loại bỏ tư duy siêu hình, cứng nhắc, bảo thủ, trì trệ…
1. Vận dụng phương pháp luận biện chứng vào học tập và làm việc của sinh viên
Từ những ý nghĩa cơ bản của phương pháp luận, ta có thể vận dụng chúng vào học tập và làm việc.
• Thứ nhất, mọi kế hoạch, phương hướng, mục tiêu phải xuất phát từ thực tế khách quan.
Để có thể đưa ra kế hoạch học tập, làm việc phù hợp và đúng đắn, tối ưu hóa con đường đến mục
tiêu, sinh viên cần đánh giá kiến thức sẵn có và năng lực học tập để xác định khả năng của bản thân một
cách khách quan. Sau đó nhận định xem mục tiêu có phù hợp với khả năng hay không, điều gì cần khắc
phục và điều gì cần phát huy để đạt được điều đó.
Bên cạnh việc chọn kế hoạch học tập và làm việc phù hợp thì trong mỗi công việc nhỏ cũng đều
cần phải xuất phát từ thực tế khách quan. Sinh viên phải luôn tích cực suy nghĩ, tìm tòi cách giải quyết
một vấn đề dựa trên những gì đã được nghiên cứu, chứng minh, mang tính khách quan. Như khi giải toán
ta thường áp dụng những định lí, những công thức đã được chứng minh từ các nhà toán học lỗi lạc.
• Thứ hai, cần phải phát huy tính năng động và sáng tạo trong học tập và làm việc để đạt hiệu quả tốt nhất.
Sinh viên cần chủ động tìm tòi, tích cực học tập nghiên cứu, liên tục cập nhật những tri thức mới
của nhân loại, năng động, sáng tạo và phát huy năng lực bản thân. Quan trọng hơn hết, mọi nhiệt tình và
ý chí phấn đấu cần phải gắn liền với tri thức, hiểu biết đặt trên cơ sở khoa học với cái nhìn khách quan,
tổng quát để phân biệt đâu là tri thức đúng, sai, tránh cái nhìn chủ quan, phiến diện.
• Thứ ba, cần chống tư tưởng chủ quan duy ý chí, cũng như tránh thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ.
Tư tưởng chủ quan duy ý chí là tư tưởng chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, lấy ý chí áp đặt cho
thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực. Muốn phát triển bản thân, học tập và làm việc hiệu quả thì cần
dứt khoát phê phán tư tưởng chủ quan duy ý chí. Mọi kế hoạch, mục tiêu đặt ra đều phải dựa vào tình
hình thực tế, điều kiện và khả năng thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phê phán tư tưởng chủ quan
duy ý chí là nhằm hướng tới sự tỉnh táo khoa học và tính thực tiễn trong mọi mặt hoạt động chứ không
phải làm nhụt chí tiến tới mục tiêu.
Đồng thời, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo sẽ làm giảm năng
suất học tập và làm việc. Sinh viên tuyệt đối không được thụ động, ỷ lại trong mọi trường hợp để tránh
việc sa vào lười suy nghĩ, lười lao động.
Ngoài ra, dựa trên mối quan hệ “vật chất quyết định ý thức” thì ta cần phải trải nghiệm nhiều để tích
lũy kinh nghiệm của bản thân. Tóm lại, rèn luyện phương pháp biện chứng duy vật cho sinh viên sẽ
góp phần quan trọng vào việc xây dựng năng lực nhận thức biện chứng, nâng cao năng lực tư duy biện
chứng và giải quyết tốt các vấn đề cuộc sống, học tập, làm việc một cách khoa học sau này.
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN TRONG HỌC TẬP DỰ
TRÊN CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
II. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
I. Khái niệm phép biện chứng duy vật
V.I. Lenin định nghĩa “phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất, s
âu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận
thức của con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn phát triển không ngừng”.
Biện chứng là quan điểm, phương pháp “xem xét những sự vật và những phản ánh của
chúng trong tư tưởng trong mối quan hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự
vận động, sự phát sinh và tiêu vong của chúng”.
Phương pháp tư duy này cho phép không chỉ nhìn thấy sự vật cá biệt mà còn thấy cả mối
liên hệ qua lại giữa chúng, vừa thấy bộ phận vừa thấy toàn thể. * Đặc điểm
Hình thành từ sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện
chứng; giữa lý luận nhận thức và logic biện chứng; mỗi nguyên lý, quy luật, phạm trù của
phép biện chứng đều được luận giải trên cơ sở khoa học và được chứng minh bằng toàn bộ
sự phát triển của khoa học tự nhiên. * Vai trò
Kế thừa và phát triển phép biện chứng từ tự phát đến tự giác, tạo ra chứng năng phương
pháp luận chung nhất giúp định hướng việc đề ra các nguyên tắc tương ứng trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn và là một hình thức tư duy hiệu quả quan trọng đối với khoa học.
* Đối tượng nghiên cứu
Trạng thái tồn tại có tính quy luật phổ biến nhất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới.
II. Cơ sở lý luận và nội dung của phép biện chứng duy vật
Nội dung bao gồm 2 nguyên lý, 6 cặp phạm trù và 3 quy luật cơ bản. 2.1. Cơ sở lý luận
Quan điểm toàn diện với quan điểm phát triển và lịch sử cụ thể đều là những quan điểm cơ
bản thuộc về phương pháp luận của phép biện chứng duy vật.
Chúng đều được xây dựng trên cơ sở lý giải theo quan điểm duy vật biện chứng về tính
khách quan, tính phổ biến và tính phong phú, đa dạng của các mối liên hệ và sự phát triển
của tất cả các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy. [2]
Trong nhận thức cũng như thực tiễn cần phải xem xét sự vật trên nhiều mặt và mối quan hệ
của nó. Điều này sẽ giúp chúng ta tránh được hoặc có thể hạn chế được sự phiến diện, siêu
hình, máy móc, một chiều. Đồng thời, xem xét sự vật theo một quá trình không ngừng thay
đổi về chất ở trình độ cao hơn qua sự biểu hiện của nó ở các giai đoạn, các hình thái xác
định, nhờ đó giúp cho chúng ta nhận thức được sự vật theo một quá trình không ngừng phát triển của nó.
Việc nắm vững 2 nguyên lý cơ bản và cốt lõi trong phép duy vật biện chứng của triết học
Mác - Lênin khi xem xét sự vật, hiện tượng giúp ta xây dựng được cơ sở để vận dụng quan
điểm toàn diện trong cuộc sống. •
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là nguyên tắc lý luận xem xét sự vật, hiện tượng khách
quan tồn tại trong mối liên hệ, ràng buộc lẫn nhau tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các
sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.
Nguyên lý này biểu hiện thông qua 06 cặp phạm trù cơ bản. [3]
Nguyên lý về sự phát triển là nguyên tắc lý luận mà trong đó khi xem xét sự vật, hiện
tượng khách quan phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn luôn vận động và phát triển
(vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn của sự vật). Nguyên lý này biểu hiện thông qua ba quy luật cơ bản. [3] 2.2. Hai nguyên lý a.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
Các tính chất của mối liên hệ phổ biến: •
Tính khách quan: Các mối liên hệ, tác động đều là sự quy định, tác động qua lại, chuyển
hóa và phụ thuộc lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng. •
Tính phổ biến: Thể hiện ở chỗ bất kỳ nơi đâu, trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy
đều có vô vàn các mối liên hệ, giữ vai trò, vị trí khác nhau trong sự vận động, chuyển hóa
của các sự vật, hiện tượng. •
Tính đa dạng, phong phú: Có mối liên hệ về không gian và cũng có mối liên hệ về thời
gian giữa các sự vật, hiện tượng. Có mối liên hệ trực tiếp và cũng có mối liên hệ gián
tiếp,... chúng giữ những vai trò khác nhau trong quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Nguyên tắc toàn diện: •
Thứ nhất, khi nghiên cứu, xem xét đối tượng cụ thể, cần đặt nó trong chỉnh thể thống
nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, các mối liên hệ của chỉnh thể đó. •
Thứ hai, chủ thể phải rút ra được các mặt, các mối liên hệ tất yếu của đối tượng đó và
nhận thức chúng trong sự thống nhất hữu cơ nội tại -> Phản ảnh đầy đủ sự tồn tại khách
quan với nhiều thuộc tính, mối liên hệ, quan hệ và tác động qua lại của đối tượng. •
Thứ ba, cần xem xét đối tượng này trong mối liên hệ với đối tượng khác và với môi
trường xung quanh, cần nghiên cứu cả những mối liên hệ của đối tượng trong quá khứ, hiện tại và tương lai. •
Thứ tư, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, một chiều, chỉ thấy mặt
này mà không thấy mặt khác, không thấy mặt bản chất của đối tượng nên dễ rơi vào thuật
ngụy biện và chủ nghĩa chiết trung (lắp ghép vô nguyên tắc các mối liên hệ trái ngược
nhau vào một mối liên hệ phổ biến). a.
Nguyên lý về sự phát triển: Các tính chất: •
Tính khách quan: Nguồn gốc của nó nằm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng, chứ
không phải do tác động từ bên ngoài và đặc biệt không phụ thuộc vào ý thích, ý muốn
chủ quan của con người. •
Tính phổ biến: Nó có mặt ở khắp mọi nơi trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. •
Tính kế thừa: Sự vật, hiện tương mới ra đời không thể là sự phủ định tuyệt đối, sạch trơn,
đoạn tuyệt một cách siêu hình đối với sự vật, hiện tượng cũ. •
Tính đa dạng, phong phú: Mỗi sự vật, hiện tượng có quá trình phát triển không giống
nhau, nó còn phụ thuộc vào không gian và thời gian, vòa các yếu tố, điều kiện tác động
lên sự phát triển đó... Nguyên tắc phát triển: •
Thứ nhất, khi nghiên cứu, cần đặt đối tượng vào sự vận động, phát hiện xu hướng biến
đổi của nó để khong chỉ nhận thức nó ở trạng thái hiện tại, mà còn dự báo được huynh
hướng phát triển của nó trong tương lai. •
Thứ hai, cần thận thức được rằng, phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai
đoạn có đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm hình thức, phương pháp tác
động phù hợp để thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển đó. •
Thứ ba, phải sớm phát hiện và ủng hộ đối tượng mới hợp quy luật; chống lại quan điểm
bảo thủ, trì trệ, định kiến. •
Thứ tư, trong quá tình thay thế đối tượng cũ bằng đối tượng mới phải biết kế thừa các yếu
tố tích cực và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới.
B. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN
I. Vì sao con người cần phải thực hiện quan điểm toàn diện, tránh phiến diện?
1.1. Quan điểm phiến diện [4]
Phiến diện có nghĩa là 1 chiều, một phương diện, không đầy đủ. Khi nhìn nhận hoặc bàn
luận về 1 vấn đề nào đó theo phiến diện có nghĩa là chỉ xét về 1 khía cạnh thay vì bao quát toàn diện.
Đứng trước lối tư duy phiến diện, cả cách nhìn, cách suy nghĩ và giải quyết vấn đề đều
không toàn vẹn. Điều này dễ dẫn đến những sai lầm cũng như hiệu quả kém trong học tập, công việc.
1.2. Vận dụng quan điểm toàn diện, tránh phiến diện [5] [6]
Chủ đề: Lao động tình dục (sex worker), hoặc mại dâm (prostitution).
Định kiến: mại dâm là một tệ nạn xã hội, và những thành viên trong hệ thống mại dâm này
được xem là những kẻ biến chất, sống sai lệch đạo đức. Họ biến mại dâm trở thành một vụ
làm ăn và nhiều người cảm thấy khó chịu về hành động này. Họ đã bị vấy bẩn, họ không
chung thủy và xem xét đời sống tình dục một cách hời hợt. Có những người còn tận hưởng
và vui đùa, những thành phần không thể kiểm soát bản thân và không được xem là thích hợp với xã hội.
Chúng ta không thể phủ định những điều đáng lo ngại về những hậu quả xoay quanh việc
kinh doanh mại dâm. Tình trạng người mại dâm sử dụng ma túy có xu hướng gia tăng, các tụ
điểm mại dâm khu vực công cộng tác động xấu đến môi trường văn hóa, thuần phong mỹ
tục, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội, nguy cơ lây lan các bệnh xã hội, HIV/AIDS qua
đường tình dục do quan hệ tình dục không an toàn, người hoạt động mại dâm thường bị bạo
lực, chiếm đoạt tài sản, tiền bạc, bóc lột tình dục; bị kỳ thị, xa lánh, khó tiếp cận với các dịch vụ xã hội...
Lao động tình dục, hay mại dâm, đã có nhiều cuộc tranh luận, các cuộc thỏa luận diễn ra với
nhiều ý kiến và cách trình bày khác nhau. Một phần xem việc lao đông tình dục là tình
nguyện, và những hoạt động này nên được kiểm soát có hệ thống hơn nhằm bảo vệ họ, sức
khỏe của họ, và trấn áp các hoạt đông tội phạm có thể xảy ra. Một cách nhìn khác đối lập với
ý kiến trên, rằng họ đơn thuần bị vướng vào mại dâm và nó là sai trái khi nói việc làm của họ
là tình nguyện khi xét tới vấn đề tâm lý và hoàn cảnh từng cá nhân.
Với 2 ý kiến trái chiều, ta hoàn toàn có thể vận dụng quan điểm toàn diện để khai thác mặt đối lập còn lại.
Có nghiên cứu về dịch vụ “Trải nghiệm cùng Bạn gái”, một loại dịch vụ xa xỉ để đổi lấy
những khoảng thời gian gần gũi và những tình cảm thân mật, và đã làm thay đổi về quan
điểm “Đàn ông chỉ ham muốn tình dục”, và nó hoàn toàn sai.
Sau các cuộc phỏng vấn và họ nhận được những phản hồi như, “tôi đang mang lại cảm giác
muốn âu yếm, tôi cho đi nhiều hơn cả bản thân tôi”, “Thực sự, điều này cũng chỉ là sự đối
xử dịu dàng giữa đôi bên vì nó đem lại cảm tưởng về buổi dạo chơi lãng mạn cùng với người
bạn đặt hoàn toàn sự quan tâm vào chỉ mình tôi.”, “mọi lời nói và cử chỉ của tôi – sự vuốt ve
âu yếm – mọi cảm giác đều rất chân thật chỉ trong khoản khắc ấy”.
Đôi lúc những người đàn ông họ chỉ chọn duy nhất cô gái họ ưu ái. Và khi những cô gái
nghỉ việc, họ thật sự suy sụp vì điều đó. Thâm chí, một trong những vị khác còn khen người
“Bạn gái” của họ rằng, “Em đem lại những trải nghiệm giống như vợ anh đã từng khi bọn anh còn trẻ vậy.”
Đây chỉ là một trong những mặt đối lập được nêu ra, nhưng nhìn chung, sự khởi đầu và phát
triển của lao động tình dục từng tìm được ý nghĩa của nó. Ta không thể tiếp tục giữ những
quan điểm phiến diện để đánh giá sai lệch giá trị của từng vấn đề, nhưng phải tìm kiếm được
sự lắng nghe và hiểu sâu sắc để có thể đưa ra được giải pháp lâu dài.
II. Vận dụng quan điểm toàn diện trong học tập, rèn luyện hiện nay [8] [9]
Để nhận thức đúng bản chất của sự vật, hiện tượng cần phải xem xét sự vật, hiện tượng trong
mối liên hệ, vì bản chất của sự vật, hiện tượng được bộc lộ thông qua mối liên hệ giữa chúng
với các sự vật, hiện tượng khác.
Sự vật tồn tại trong mối liên hệ phổ biến, nhưng vị trí, vai trò của các mối liên hệ không “ngang
bằng” nhau. Vì vậy, cần xác định được những mối liên hệ cơ bản, chủ yếu, trọng tâm thì mới
nhận thức được sâu sắc bản chất của sự vật, mới thấy được khuynh hướng vận động, phát triển của nó.
2.1. So sánh quan điểm toàn diện
Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn. Quan điểm phiến diện chỉ thấy mặt này, mối liên hệ này mà không thấy mặt khác, mối
liên hệ khác; nhận thức sự vật trong trạng thái cô lập, giải quyết công việc không đảm bảo tính đồng bộ.
Ví dụ: Những người chống vaccine chỉ thấy được rằng vaccine chứa những mầm bệnh gây
hại mà lại được đưa vào cơ thể con người chứ họ không thấy được rằng tỉ lệ người chết (cụ
thể là covid-19) của người tiêm vaccine so với không tiêm vaccine là rất bé: trong 10 người
không tiêm vaccine thì có 5 người chết, trong khi đó 50 người tiêm vaccine thì chỉ có 5 người chết. [7]
Quan điểm toàn diện cũng hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện:
Chiết trung là kết hợp một cách vô nguyên tắc, chủ quan những cái không thể kết hợp được
với nhau hoặc coi những mối liên hệ là “ngang bằng” nhau, không có sự phân biệt về vai trò của chúng.
Ngụy biện là lối tư duy đánh tráo một cách có chủ đích vị trí, vai trò của các mối liên hệ, lấy
mối liên hệ không cơ bản thay cho mối liên hệ cơ bản, mối liên hệ không bản chất thay cho
mối liên hệ bản chất..
2.2. Vận dụng quan điểm toàn diện trong học tập, rèn luyện
- Nếu thiếu quan điểm toàn diện trong học tập, rèn luyện thì sinh viên hiện nay sẽ chỉ có thể
biết được 1 vấn đề từ một khía cạnh nhất định, và khi rời khỏi khía cạnh đó thì kiến thức mà
sinh viên đó học được sẽ không thể áp dụng được.
- Để có thể thành công trong học tập, rèn luyện, cần cả yếu tố khách quan và chủ quan tác
động. Kiến thức cần phải được trau dồi từ cả lý thuyết và thực tiễn thì mới có thể hoàn thiện.
VD: Sinh viên chỉ học những gì được dạy trên trường lớp mà không tự học và tìm hiểu thêm
thì khó có thể thành công.
Ví dụ: Một sinh viên y khoa ngoại mà chỉ đọc những kiến thức trong sách mà không áp dụng
vào thực tiễn thì những kiến thức đó sẽ khó có thể giúp cho sinh viên đó sau này.
Để có thể đạt được kết quả như mong đợi trong học tập và rèn luyện thì sinh viên cần phải
vận dụng quan điểm toàn diện. Cụ thể: Khi áp dụng quan điểm toàn diện, ta có thể nắm bắt
được một cách toàn diện những điều mà ta có thể và đã học được. Khi học ta cần phải nhìn
sâu vào thứ mà mình học: Chúng ta học cái gì? Học để làm gì? Học như thế nào? Học ở
đâu? Học lúc nào?..v.v từ đó ta có thể rút ra được những kiến thức mình mong muốn. Sau đó
chúng ta cần phải áp dụng những kiến thức đó vào thực tiễn càng sớm càng tốt để tạo mối
liên kết giữa lý thuyết và thực tiễn, kể từ đó chúng ta mới có thể hoàn thiện bản thân mình
thông quá quá trình học tập và rèn luyện.
Cơ sở lý luận về mâu thuẫn của triết học Mác-Lênin và
thực tiễn quá trình đổi mới ở Việt Nam, nêu và phân tích
mâu thuẫn biện chứng đang tồn tại trong xã hội hiện nay
và phương hướng giải quyết.
I. Cơ sở lý luận về mâu thuẫn và thực tiển quá trình đổi mới.
1. Học thuyết Mác - -nin về mâu thuẫn:
Lịch sử tư tưởng nhân loại đã sớm phát hiện ra mâu thuẫn và tìm cách giải quyết mâu
thuẫn theo những hướng tiếp cận khác nhau. Song, phải cho đến khi triết học mác-xít
ra đời mới tạo ra bước phát triển vượt bậc cho lý luận về mâu thuẫn. C. Mác và Ph.
Ăng-ghen đã tách phép biện chứng ra khỏi cái vỏ duy tâm thần bí trong triết học Hê-
ghen khi khẳng định: “Sai lầm chủ yếu của Hê-ghen là ở chỗ ông hiểu mâu thuẫn của
hiện tượng là sự thống nhất trong bản chất, trong ý niệm, kỳ thực bản chất của mâu
thuẫn ấy cố nhiên là một cái gì đó sâu sắc hơn, cụ thể là mâu thuẫn bản chất”. C. Mác
và Ph. Ăng-ghen đã xác định mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản chủ nghĩa và đề ra
nhiệm vụ của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ph. Ăng-ghen viết: “Mâu thuẫn giữa
sản xuất xã hội và sự chiếm hữu tư bản chủ nghĩa biểu hiện ra thành sự đối kháng
giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản”.
Tuy nhiên, sinh thời C. Mác và Ph. Ăng-ghen, vấn đề quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội trên thực tế chưa trở nên cấp thiết mà phải đến sau này - thời kỳ
cách mạng xã hội chủ nghĩa với sự kế tục của V. I. Lê-nin, chủ nghĩa Mác nói chung
và học thuyết mác-xít về mâu thuẫn nói riêng không những được bổ sung, phát triển
mà còn từ lý luận trở thành hiện thực.
V. I. Lê-nin tiếp tục phát triển lý luận mâu thuẫn khi chỉ rõ sự phát triển xã hội trong
thời đại đế quốc chủ nghĩa nổi lên hai hình thức mâu thuẫn cơ bản. Hình thức thứ
nhất là các mâu thuẫn đối kháng, điển hình là mâu thuẫn của các giai cấp cơ bản trong
xã hội có giai cấp, giữa một bên bảo thủ, phản động với một bên tiến bộ, cách mạng;
giữa tư bản với lao động, chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc bị áp bức. Giải quyết
mâu thuẫn này chỉ có thể thông qua đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng xã
hội. Hình thức thứ hai là các mâu thuẫn không đối kháng, tiêu biểu là mâu thuẫn giữa
giai cấp vô sản với giai cấp nông dân và các tầng lớp nghèo khổ khác... Người viết:
“Ở Nga, giai cấp vô sản chỉ có thể giành được thắng lợi trong một tương lai rất gần
nếu ngay từ bước đầu của thắng lợi đó, công nhân đã nhận được sự ủng hộ của đại đa số nông dân...” .
Khi đất nước bước vào thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội đặt ra
yêu cầu phải có nhận thức mới về các mâu thuẫn xã hội. Một điều hợp quy luật là
trong thời kỳ ấy luôn chứa đựng cái cũ và cái mới, diễn ra cuộc đấu tranh của các giai
cấp dưới các hình thức khác nhau. Bên cạnh đó, đã xuất hiện những mầm mống,
những yếu tố của tính thống nhất và sự thuần nhất về mặt xã hội bộc lộ những quy
luật vận động hoàn toàn khác so với xã hội tư bản chủ nghĩa. Do vậy, V. I. Lê-nin
vừa chú ý đến các mâu thuẫn, vừa xem xét các mối quan hệ giữa chúng với sự thống
nhất xã hội đang phôi thai. Đó là sự phát triển mới của V. I. Lê-nin được thể hiện trên
một số khía cạnh như sau:
Một là, Người chỉ ra tính cấp thiết của việc nghiên cứu về các mâu thuẫn xã hội trong
thời kỳ quá độ. Phát hiện ra những mâu thuẫn quyết định sự hiểu biết khoa học về
hiện thực và không thể lãnh đạo bước quá độ nếu không phân tích các mâu thuẫn.
“Mâu thuẫn của cuộc sống sinh động: đó là toàn bộ then chốt của vấn đề” và “vậy
thì danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong
chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư
bản và chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có. Song không phải
mỗi người thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu kinh tế -
xã hội khác nhau... chính là như thế nào” . Trong thời kỳ quá độ, V.I. Lê-nin chỉ ra
nhiều thành phần kinh tế còn tồn tại gắn với các giai cấp, tầng lớp mà mục đích và
lợi ích khác nhau. Điều đó làm cho tính chất mâu thuẫn càng thêm phức tạp và biểu hiện tính đặc thù.
Hai là, V. I. Lê-nin đã vạch ra hệ thống các kiểu mâu thuẫn mới nảy sinh trong thời
kỳ quá độ như: mâu thuẫn chủ yếu và thứ yếu, mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản,
mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, đồng thời xác định vai trò của chúng trong sự phát
triển của xã hội. Đặc biệt, Người đã chú trọng cụ thể hóa mâu thuẫn bên trong và mâu
thuẫn bên ngoài trong điều kiện nước Cộng hòa Xô-viết ở giữa vòng vây của các
nước tư bản, nhận thức đúng kẻ thù bên trong, kẻ thù bên ngoài nhằm xác định
phương thức đấu tranh phù hợp. Mối quan hệ ấy cũng chính là một trong những cơ
sở quan trọng cho V. I. Lê-nin phát triển lý luận về cách mạng xã hội. Người chỉ rõ:
các cuộc cách mạng “chín muồi trong quá trình phát triển lịch sử và nó bùng nổ vào
lúc mà toàn bộ hàng loạt những nguyên nhân ở trong và ngoài nước quyết định” .
Ba là, V. I. Lê-nin đã phát hiện ra mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa cộng sản với chủ nghĩa tư
bản: “... Không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng
sản, có một thời kỳ quá độ nhất định. Thời kỳ đó không thể không bao gồm những
đặc điểm hoặc đặc trưng của cả hai kết cấu kinh tế - xã hội ấy. Thời kỳ quá độ ấy
không thể nào lại không phải là một thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang
giãy chết và chủ nghĩa cộng sản đang phát sinh...” . Hơn nữa, V. I. Lê-nin còn vạch
ra mâu thuẫn của toàn bộ lịch sử thời đại mới. Người viết: “Chúng ta không thể biết
những phong trào lịch sử cá biệt của một thời đại nào đó sẽ phát triển nhanh chóng
đến mức nào... Nhưng chúng ta có thể biết và chúng ta biết giai cấp nào đứng ở trung
tâm thời đại này hay thời đại khác và xác định nội dung căn bản, phương hướng phát
triển chính của thời đại ấy, những đặc điểm chủ yếu của bối cảnh lịch sử của thời đại
ấy, v.v.” và “việc xóa bỏ chủ nghĩa tư bản và các tàn tích của nó, việc thiết lập những
cơ sở của chế độ cộng sản là nội dung của cái thời đại mới vừa mới bắt đầu của lịch sử toàn thế giới” .
Bốn là, trong khi phát hiện và luận chứng một cách khoa học những kiểu mâu thuẫn
mới, V.I. Lê-nin đã phân tích một cách sâu sắc về mâu thuẫn đối kháng, mâu thuẫn
không đối kháng và chỉ ra: mâu thuẫn không đối kháng là một kiểu mâu thuẫn đặc
thù của chủ nghĩa xã hội. Người chỉ ra sự đối kháng và mâu thuẫn hoàn toàn không
phải là một, cái thứ nhất sẽ mất đi, cái thứ hai vẫn còn trong chủ nghĩa xã hội.
2. Sự vận dụng trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay:
Đối với Việt Nam, thực hiện bước quá độ gián tiếp là một con đường hoàn toàn mới
nhưng “phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử” (16). Do
đó, cần có sự vận dụng một cách sáng tạo học thuyết mác-xít về mâu thuẫn nói chung
và những tư tưởng của V. I. Lê-nin về nhận định và giải quyết các mâu thuẫn xã hội
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói riêng vào điều kiện nước ta để tạo ra
động lực nội tại to lớn, thúc đẩy nhanh quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới phát triển vững chắc theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cụ thể trên một số vấn đề sau đây:
Trước hết, cần khẳng định sự tồn tại của các mâu thuẫn trong thời kỳ quá độ ở Việt
Nam là một tất yếu khách quan. Chối bỏ mâu thuẫn hiện thực, nuôi ảo tưởng về một
thế giới không có mâu thuẫn là xa rời thực tiễn. V. I. Lê-nin đã dạy: “tính chất biện
chứng của sự phát triển xã hội, diễn ra trong mâu thuẫn và thông qua các mâu thuẫn”
(17). Những mâu thuẫn tồn tại trong nội bộ nhân dân là những xung lực trực tiếp để
xã hội luôn luôn vận động và phát triển đòi hỏi chúng ta cần phải hiểu đúng bản chất,
phân tích cụ thể. Thái độ đúng đắn đối với mâu thuẫn không phải là phủ nhận, tìm
cách xóa bỏ nó một cách chủ quan mà phải nghiên cứu, phát huy mặt tích cực, hạn
chế mặt tiêu cực, giải quyết kịp thời để thúc đẩy sự phát triển. Mâu thuẫn xã hội chỉ
có thể được giải quyết khi đã đến độ chín muồi và những điều kiện tồn tại của nó
không còn trong xã hội. Đó là một quá trình khách quan không phụ thuộc ý muốn
chủ quan của con người. Mâu thuẫn chỉ trở thành động lực thực sự của sự phát triển
khi con người nhận thức được nó và có cách giải quyết đúng đắn.
Thứ hai, cần nhận thức rõ ràng mâu thuẫn cơ bản ở nước ta hiện nay. Đó là mâu thuẫn
giữa khuynh hướng tư bản chủ nghĩa với khuynh hướng xã hội chủ nghĩa. Là mặt đối
lập với khuynh hướng xã hội chủ nghĩa, khuynh hướng tư bản chủ nghĩa vừa tồn tại
trong tàn dư của xã hội cũ, vừa tồn tại trong các yếu tố mới hình thành trong công
cuộc đổi mới. Mâu thuẫn cơ bản ở nước ta hiện nay biểu hiện tập trung ở lĩnh vực
chính trị là mâu thuẫn giữa chủ thuyết độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
và khuynh hướng tư bản chủ nghĩa; giữa những nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với âm mưu và các thủ đoạn chống phá
của các thế lực thù địch...
Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, mâu thuẫn cơ bản được biểu hiện tập trung giữa quá
trình hoàn thiện nền văn hóa tiên tiến, đàm đà bản sắc dân tộc với tình trạng tha hóa,
xuống cấp về văn hóa, đạo đức, lối sống trong xã hội; mâu thuẫn giữa truyền thống
và hiện đại, giữa tăng trưởng kinh tế và mục tiêu tiến bộ công bằng xã hội;...
Mâu thuẫn cơ bản ở nước ta hiện nay, nổi bật nhất là trên lĩnh vực kinh tế, đó là mâu
thuẫn giữa quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự lỗi thời, thiếu hoàn thiện
của hệ thống tổ chức, quản lý tương ứng; giữa mục tiêu từng bước thoát khỏi nghèo
nàn, lạc hậu với tình trạng phát triển còn thấp của lực lượng sản xuất; giữa đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa với nguy cơ hủy hoại môi trường sinh thái. Cùng với
đó, ở Việt Nam hiện nay còn tồn tại đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần
kinh tế có lợi ích khác biệt. Tất nhiên, sự đối lập đó chỉ có tính chất cục bộ, còn sự
thống nhất là cơ bản, thể hiện ở tính chỉnh thể của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế thị trường “có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một
động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình
đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật...” (18).
Những nhận thức đó chính là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng của V. I. Lê-nin về
phương pháp kết hợp các mặt đối lập. Thừa nhận sự tồn tại khách quan của kinh tế
tư nhân trong suốt thời kỳ quá độ ở Việt Nam, về bản chất, là thừa nhận sự đối lập
với kinh tế xã hội chủ nghĩa. Song, do nó vẫn còn nhiều tiềm năng phát triển nên vẫn
được xem là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Trên thực tế, sự vận dụng ấy
đã và đang đem lại hiệu quả tích cực, góp phần to lớn vào thành tựu của 30 năm đổi
mới ở Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, vận dụng tư tưởng của V. I. Lê-nin phải phân biệt rõ giữa mâu thuẫn đối
kháng và mâu thuẫn không đối kháng trong xã hội để xác định phương hướng giải quyết đúng đắn.
Trong xã hội nước ta hiện nay, các mâu thuẫn phổ biến thuộc về mâu thuẫn không
đối kháng. Đó là mâu thuẫn giữa các giai tầng, các nhóm xã hội có lợi ích cục bộ,
tạm thời khác biệt. Để giải quyết các mâu thuẫn ấy chủ yếu phải thông qua các biện
pháp giáo dục, thuyết phục, thỏa thuận, hợp tác... mà không cần đến sự trấn áp bằng
sức mạnh bạo lực. Đặc biệt, đối với vấn đề xây dựng liên minh công nhân - nông dân
- trí thức, việc nhận thức và giải quyết các mâu thuẫn không đối kháng trên cơ sở
thống nhất chung về lợi ích là một phương hướng hữu hiệu, góp phần hoàn thiện nền
tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc - một động lực to lớn để phát triển xã hội.
Bên cạnh đó, những mâu thuẫn đối kháng trong xã hội ta không phải đã mất đi. Kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội hoàn toàn đối lập “một
mất, một còn” với khuynh hướng tư bản chủ nghĩa; sự chống phá quyết liệt của các
thế lực thù địch cũng hoàn toàn mâu thuẫn với sự nghiệp cách mạng nước ta. Do vậy,
trong suốt thời kỳ quá độ, cuộc đấu tranh quyết liệt, không khoan nhượng giữa các
lực lượng đối kháng này chính là quá trình giải quyết một cách triệt để các mâu thuẫn đối kháng.
Nhận thức sâu sắc các thuộc tính hợp thành mâu thuẫn biện chứng trong đời sống xã
hội là thành tựu khoa học vĩ đại của tri thức nhân loại gắn liền với sự ra đời của chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Cùng với những cống hiến của V. I. Lê-nin, học thuyết mác-
xít về mâu thuẫn được bồi đắp, phát triển lên một tầm cao mới. Việc vận dụng, nhận
định, phân tích, làm rõ các mâu thuẫn xã hội ở Việt Nam là một vấn đề có ý nghĩa to
lớn, góp phần làm sâu sắc lý luận chủ nghĩa Mác về mâu thuẫn trong đời sống xã hội,
đặc biệt trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội. II. Vận dụng.
1. Một số các mâu thuẫn biện chứng còn tồn tại trong xã hội ta hiện nay:
- Trong lĩnh vực kinh tế: tranh chấp đất đai (giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân
với tập thể, giữa cá nhân với các cơ quan quản lý nhà nước, giữa các cộng đồng,
nhóm người với nhau về giải tỏa, đền bù); tranh chấp hợp đồng kinh tế; phân chia tài sản, . . . .
- Trong lĩnh vực xã hội: chính sách, chế độ xã hội và thực hiện chính sách. Những
xung đột này thường xảy ra giữa các cá nhân, các nhóm dân cư, các nhóm xã hội với
các cơ quan thực thi chính sách, pháp luật ở địa phương. Sự đòi hỏi của người dân
không được giải quyết một cách thỏa đáng các vấn đề của mình cũng có thể dẫn tới xung đột xã hội.
- Trong lĩnh vực y tế (giữa bệnh nhân, người nhà bệnh nhân với bác sĩ, với cơ quan
y tế). Nhiều xung đột cũng xảy ra giữa các cộng đồng dân cư (làng, xóm, dòng họ…)
với các cơ quan thực thi quyền lực.
- Trong lĩnh vực giao thông, xung đột xảy ra khá phổ biến, nhất là ở các đô thị lớn
(do mật độ giao thông đông, người sử dụng phương tiện giao thông chưa có ý thức,
văn hóa thấp kém của người tham gia giao thông, tình trạng tắc đường); thu phí BOT;
đền bù giải phóng mặt bằng, . . .
- Trong lĩnh vực giáo dục: dạy thêm học thêm; các khoản phí; trường công trường tư;
chi phí và chất lượng; chất lượng và bằng cấp;
- Trong lĩnh vực văn hóa, các xung đột diễn ra trong các lễ hội (như lễ hội đền Trần,
lễ hội đền Gióng…). Những vụ việc tranh chấp, xô xát liên quan đến các di tích lịch
sử văn hóa, cơ sở thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo không phải là ít.
- Trong lĩnh vực tôn giáo: tranh chấp về đất đai, xây dựng cơ sở thờ tự, truyền đạo
trái pháp luật, vi phạm luật pháp hiện hành về tôn giáo, chứ không phải do nguyên
nhân xung đột về niềm tin tôn giáo.
- Trong lĩnh vực môi trường: xung đột giữa các cộng đồng dân cư với các công ty,
doanh nghiệp hủy hoại môi trường. Trong thời gian tới, dưới tác động của ô nhiễm
môi trường, biến đổi khí hậu, các thảm họa môi trường, thảm họa do thiên tai mang
lại sẽ có nhiều hơn các cuộc xung đột xã hội trong lĩnh vực môi trường.
- Trong gia đình: xung đột giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa các anh
chị em. Những xung đột xã hội ở cấp độ cá nhân, gia đình đang ngày càng mở rộng và phức tạp.
- Trong quan hệ lao động giữa người lao động và chủ sử dụng lao động: tranh chấp
lao động cá nhân, tranh chấp lao động tập thể liên quan đến HĐLĐ, tiền công, thời
gian làm thêm, điều kiện lao động, BHXH, phúc lợi xã hội; vấn đề đình công
=> Có thể thấy các mâu thuẫn và xung đột ở nước ta đều liên quan đến quyền và lợi
ích của các bên. Trình độ nhận thức của người dân được nâng cao, thông tin được
minh bạch hơn, Nhà nước tăng cường và đẩy mạnh dân chủ, người dân ngày càng
phát huy vai trò làm chủ của mình, tham gia nhiều hơn vào quá trình giám sát xã hội,
phản biện xã hội cũng làm lộ ra nhiều mâu thuẫn và xung đột xã hội.
Đặc biệt, những xung đột xã hội có nội dung đấu tranh, đòi hỏi về dân chủ, công khai,
công bằng trong thực hiện các quyền, nghĩa vụ và chống quan liêu, tham nhũng, làm
sai chính sách, pháp luật của một bộ phận cán bộ trong các tổ chức Đảng, chính quyền có chiều hướng tăng.
2. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn biện chứng trong xã hội:
- Những mâu thuẫn về lợi ích kinh tế (xuất hiện nhiều hơn với mức độ, quy mô khác
nhau, tính chất khác nhau) đã dẫn đến những xung đột xã hội không thể tránh khỏi.
Đây là nguyên nhân phổ biến của các xung đột xã hội ở nước ta thời gian gần đây.
- Sự biến đổi về mặt xã hội như tình trạng phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo, bất
bình đẳng xã hội. Sự phát triển kinh tế xã hội, sự gia tăng quá trình đô thị hóa, hiện
đại hóa đã phá vỡ những cấu trúc xã hội truyền thống (như cấu trúc làng, xã, cấu trúc
gia đình…) cũng là nguyên nhân gây nên xung đột xã hội. Tâm lý xã hội khủng hoảng,
bức xúc xã hội, các vấn đề an ninh phi truyền thống. Đạo đức xuống cấp, lối sống
thực dụng, chủ nghĩa khủng bố.
- Môi trường tự nhiên (như ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên
thiên nhiên, phá rừng) cũng chứa đựng những mầm mống gây xung đột xã hội.
- Một số chính sách, pháp luật trong lĩnh vực đất đai, kinh doanh, lao động, an sinh
xã hội, quản lý xã hội và bảo đảm quyền lợi cho người dân chưa được đồng bộ, nhất
quán, còn bất cập, gây bức xúc trong cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân.
- Thiếu hệ thống các chuẩn mực đạo đức dể làm thước đo: đạo đức công vụ; đạo đức
trong chính trị; đạo đức trong kinh doanh; chuẩn mực ứng xử trong gia đình, cơ quan,
xã hội để giáo dục và xử lý các mẫu thuẫn xã hội.
- Một số cuộc xung đột xã hội còn có sự tham gia, xúi giục, tổ chức của các thế lực
thù địch trong và ngoài nước, tìm cách kích động biểu tình, bạo loạn, tạo cớ gây xung
đột xã hội để can thiệp.
3. Cách thức giải quyết mâu thuẫn và xung đột:
- Sự yếu kém của hệ thống chính trị ở cơ sở tại một số địa phương; sự thoái hóa biến
chất của một số cán bộ, cả cán bộ lãnh đạo, quản lý; tình trạng chính quyền quan liêu,
tham nhũng, mất dân chủ, cố ý làm sai chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước;
cách giải quyết những đòi hỏi, bức xúc, nguyện vọng của nhân dân không hợp tình,
không hợp lý, không dứt điểm; sự sai sót trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
và tranh chấp trong nội bộ nhân dân; sự bất cập trong việc thực thi pháp luật, . . .
- Hình sự hoá quan hệ kinh tế, hành chính, dân sự. Thực hiện truy tố quan hệ kinh tế,
dân sự không đúng bản chất khách quan của hành vi, đã xảy ra trên khắp cả nước như
vụ chủ quán cà phê Xin Chào Nguyễn Văn Tấn ở TP.HCM, doanh nhân Hoàng Minh
Tiến (Hà Nội), Phùng Thị Thu (Thái Bình), Nguyễn Văn Lượng (Nam Định),... bị
"khép" các tội danh trốn thuế, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản oan
khuất, gây hoang mang, sợ hãi trong không chỉ giới doanh nghiệp. Việc hình sự hóa
quan hệ dân sự, kinh tế tại Ngân hàng Nam Á (Nam A Bank) tại TP.HCM.
- Cách tiếp cận không hợp lý như giải quyết đình công tại các doanh nghiệp (hành
chính thay vì thương lượng); cai nghiện ma túy (tội phạm hay con bệnh); người trực
tiếp xử lý thiếu chuyên nghiệp, thiếu hiểu biết, . . . dẫn đến một tỷ lệ lớn mâu thuẫn,
xung đột chỉ được giải quyết phần nào (chủ yếu là phần ngọn) chứ không giải quyết
được triệt để, điều này đã tạo ra những nhân tố gây mất ổn định xã hội. Ngoài ra, vai
trò của các tổ chức đoàn thể trong giải quyết mâu thuẫn, xung đột xã hội còn rất hạn chế.
4. Giải pháp giải quyết, hạn chế, giảm nhẹ mâu thuẫn, xung đột xã hội trong giai đoạn mới:
Khi nói đến giải quyết mâu thuẫn và xung đột xã hội, tức là nói đến vai trò quyết định
của nhà nước, của chính quyền; sự tham gia của các tổ chức xã hội chỉ có vai trò hỗ trợ.
- Các mâu thuẫn và xung đột xã hội đều có nguyên nhân gốc rễ, do đó các mâu thuẫn
và xung đột xã hội chỉ có thể được giải quyết triệt để khi xử lý được vấn đề gốc rễ
của nó. Điều này đòi hỏi phải có cách tiếp cận, phương pháp và bộ công cụ giải quyết
phù hợp với từng loại mâu thuẫn và xung đột xã hội cụ thể;
- Cần xây dựng một hệ thống chuẩn mực đạo đức được thực hành rộng rãi và quy
phạm pháp lý chặt chẽ được tôn trọng, đồng thời nâng cao năng lực và hiệu quả của
bộ máy nhà nước trong xây dựng và thực thi những nguyên tắc đạo đức và pháp luật.
- Yếu tố con người. Cần thực thi đạo đức công vụ, văn hóa trong chính trị, văn hóa
trong kinh tế và đảm bảo thượng tôn luật pháp. Xây dựng đạo đức và pháp luật trong
sự thấm nhuần bản sắc văn hóa dân tộc.
- Thực hiện đúng nguyên tắc tiến bộ và công bằng xã hội trong giải quyết, hạn chế,
giảm nhẹ mâu thuẫn, xung đột xã hội.
- Cần xây dựng hệ thống kiểm soát quyền lực và phát hiện xung đột lợi ích hiệu quả,
tránh chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa tập thể. Quy định trách nhiệm cá nhân khi xử lý
các mâu thẫn và xung đột xã hội.
- Không hình sự hoá quan hệ kinh tế, hành chính, dân sự.
- Cần làm tốt công tác dự báo nguy cơ xuất hiện xung đột xã hội để sớm hóa giải
những mầm mống gây xung đột xã hội..
Cái chung, cái riêng và cái đơn nhất
“Trước con người, có màng lưới những hiện tượng tự nhiên. Con người bản năng người man rợ, không tự tách
khỏi giới tự nhiên, những phạm trù là những giai đoạn của sự tách khỏi đó, tức là của sự nhận thức thế giới. Chúng
là những điểm nút của màng lưới, giúp ta nhận thức và nắm vững màng lưới.” Các cặp phạm trù là những bậc
thang của quá trình nhận thức, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Trong số các cặp phạm trù triết học,
cặp phạm trù cái riêng – cái chung là cặp phạm trù cơ bản đặc trưng trong hệ thống phạm trù của phép biện chứng.
Mối quan hệ của chúng là một trong những vấn đề quan trọng nhất của triết học nói riêng và sự nhận thức bậc
thang của nhân loại nói chung.
Thế giới vật chất xung quanh con người tồn tại bằng muôn vàn các sự vật, hiện tượng rất khác nhau về màu
sắc, trạng thái, tính chất, hình dáng, kích thước,… nhưng đồng thời giữa chúng cũng có rất nhiều những đặc điểm,
thuộc tính chung giống nhau. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường tiếp xúc với một số sự vật hiện tượng
quá trình khác nhau. Mỗi sự vật hiện tượng đó được gọi là một “cái riêng”, đồng thời chúng ta cũng thấy giữa
chúng lại có mặt giống nhau tức là tồn tại “cái chung” giữa chúng.
Với tư cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, phép biện chứng khái quát những mối liên hệ
phổ biến nhất, bao quát các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy vào các cặp phạm trù cơ bản như: “cái riêng” và
“cái chung”, nguyên nhân và kết quả, tất nhiên và ngẫu nhiên, nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng,
khả năng và hiện thực.
“Cái chung” và “cái riêng” là hai phạm trù xuất phát của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Mối quan hệ của nó biểu
hiện vấn đề cơ bản của Triết học trong lịch sử. Để tìm hiểu về mối quan hệ “cái chung” và “cái riêng” trước hết
chúng ta cần tìm hiểu về khái niệm của chúng.
“Cái riêng” là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định trong
thế giới khách quan. Ví dụ, một hành tinh nào đấy hay một thực vật, động vật nào đấy là cái đơn nhất trong giới
tự nhiên. Còn “Cái riêng” trong lịch sử xã hội là một sự kiện riêng lẻ nào đó, như là cuộc Cách mạng tháng Tám
của Việt Nam chẳng hạn. Nói một cách đơn giản một con người nào đó: Huệ, Trang,... cũng là “cái riêng”. “Cái
riêng” còn có thể hiểu là một nhóm sự vật gia nhập vào một nhóm các sự vật rộng hơn, phổ biến hơn. Sự tồn tại
cá biệt đó của “cái riêng” cho thấy nó chứa đựng trong bản thân những thuộc tính không lặp lại ở những cấu trúc
sự vật khác. Tính chất này được diễn đạt bằng khái niệm “cái đơn nhất”.
Tuy nhiên, ta cần phân biệt “cái riêng” và “cái đơn nhất”. “Cái đơn nhất” là phạm trù được dùng để chỉ những
nét, những mặt, những thuộc tính… chỉ có ở
một kết cấu vật chất nhất định và không được
lặp lại ở bất cứ một
kết cấu vật chất nào khác. Về mặt ngữ nghĩa, “cái đơn nhất” gần giống với cái cá
biệt. Ví dụ, đều là cây nhưng
sao mỗi loại cây lại có những đặc điểm khác nhau. Chẳng hạn đều là hoa hồng nhưng tại sao hồng nhung lại có
mùi hương quyến rũ, hoa hồng vàng lại nhẹ nhàng, hồng xanh kiêu sa. Đó chính là đặc điểm riêng – “cái đơn nhất” của nó.
Mặt khác, giữa những “cái riêng” có thể chuyển hóa qua lại với nhau, chứng tỏ giữa chúng có một số đặc điểm
chung nào đó. Những đặc điểm chung đó được triết học khái quát thành khái niệm “cái chung”.
“Cái chung” là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung không những có ở một
kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác, những
mối liên hệ giống nhau, hay lặp lại ở nhiều cái riêng. Ví dụ, “cái chung” của người Việt Nam là có một lòng nồng
nàn yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, sẵn sàng hi sinh tất cả để bảo vệ nền độc lập của nước nhà. Bên cạnh
đó, “cái chung” của chủ nghĩa tư bản là bóc lột giá trị thặng dư của công nhân làm thuê. Căn cứ từ trình độ nhận
thức, có thể được chia thành “cái chung không bản chất” và “cái chung bản chất”.
Thứ nhất, “cái chung không bản chất” là cái chung thường do sự ngẫu hợp mà có. Chẳng hạn “cái chung bản
chất” với phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật là vật chất luôn vận động. Như vậy, tính lặp lại là đặc trưng
của của cái chung. Tính chất này cho thấy những mặt, những mối liên hệ cơ bản chi phối nhiều quá trình vật chất
khác nhau. Nó cho ta một cách nhìn sự vật trong mối liên hệ qua lại, gắn liền với nhau. Điển hình cho khái niệm
này là cuộc cách mạng. Nó chính là “cái chung”, đó là sự thay đổi từ cái này sang cái khác tiến bộ hơn. Nhưng
trong các cuộc cách mạng thì có nhiều loại (cách mạng tư sản, cách mạng dân tộc dân chủ), đó là những “cái riêng”.
Thứ hai, “cái chung bản chất” lại là cái chung giống nhau của rất nhiều sự vật hiện tượng mang tính cơ bản
là đặc trưng để nhận dạng một sự vật hiện tượng nào đó. Chẳng hạn, “cái chung” của các loại cây là quá trình
quang hợp, hô hấp, trao đổi chất với môi trường xung quanh. Nếu một cái cây nào mà không có những đặc điểm
đấy sao con gọi là cây nữa. Hay như ở con người cái chung bản chất chính là tình cảm, mối quan hệ với gia đình, xã hội.
Như vậy, từ những yếu tố cấu thành nên “cái chung”, có thể khái quát rằng “cái chung” thường chứa đựng ở
trong nó tính quy luật, sự lặp lại.
Những nhà nghiên cứu triết học Mác-Lênin đề cập đến có hai quan điểm trái ngược nhau về mối quan hệ giữa
"cái riêng" và "cái chung", đó là phái duy thực và phái duy danh. Triết học Mác-Lênin cho rằng, cả quan niệm
của phái duy thực và phái duy danh đều sai lầm ở chỗ họ đã tách rời “cái riêng” khỏi “cái chung”, tuyệt đối hóa
cái riêng, phủ nhận cái chung, hoặc ngược lại. Họ không thấy sự tồn tại khách quan và mối liên hệ khăng khít
giữa chúng. Thấy được và khắc phục hạn chế của hai quan niệm trên, triết học duy vật biện chứng cho rằng “cái
chung” và” cái riêng” có mối liên hệ biện chứng mật thiết với nhau, và cả hai đều tồn tại một cách khách quan.
Theo quan điểm của “chủ nghĩa duy thực”, họ cho rằng "cái riêng" chỉ tồn tại tạm thời, thoáng qua, không
phải là cái tồn tại vĩnh viễn, chỉ có "cái chung" mới tồn tại vĩnh viễn, thật sự độc lập với ý thức của con người.
“Cái chung” không phụ thuộc vào "cái riêng", mà còn sinh ra “cái riêng”. “Cái chung” là những ý niệm tồn tại
vĩnh viễn bên cạnh những cái riêng chỉ có tính chất tạm thời, cái riêng do cái chung sinh ra. Chẳng hạn, con người
là một khái niệm chung và chỉ có khái niệm con người mới tồn tại mãi mãi, còn những con người cụ thể là khái
niệm tạm thời vì những con người cụ thể (cá nhân) này có thể mất đi (chết đi).
Đối lập lại chủ nghĩa duy thực, các nhà triết học thuộc “chủ nghĩa duy danh” như P. Abơla (1079 - 1142),
Đumxcot (1265 - 1308) cho rằng chỉ có “cái riêng” tồn tại thực sự, còn “cái chung” là những tên gọi trống rỗng,
do con người đặt ra, không phản ánh cái gì trong hiện thực. Quan điểm này không thừa nhận nội dung khách quan
của các khái niệm. Những khái niệm cụ thể đôi khi không có ý nghĩa gì trong cuộc sống của con người, chỉ là
những từ trống rỗng, không cần thiết phải bận tâm tìm hiểu. Ranh giới giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm bị xóa nhòa và con người không cần phải quan tâm đến cuộc đấu tranh giữa các quan điểm triết học nữa. Ví
dụ, Không thể nhận thấy, nắm bắt một "con người" chung chung mà "con người" chỉ có thể được nhận thấy, nắm
bắt qua những con người thực thể cụ thể, thông qua các cá nhân cụ thể.
Như vậy ranh giới giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm bị xóa nhòa và con người không cần phải quan
tâm đến cuộc đấu tranh giữa các quan điểm triết học. Phép biện chứng duy vật của Triết học Marx Lenin cho - rằng
cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau; phạm trù
cái riêng được dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định, còn phạm trù cái chung
được dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn
được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
Chính vì vậy, phép biện chứng duy vật cho rằng cái riêng, “cái chung” và “cái đơn nhất” đều tồn tại khách
quan, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Điều đó đã được thể hiện trong tác phẩm Bút ký Triết học, Lênin đã viết rằng:
“Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái
chung. Bất cứ cái riêng [nào cũng] là cái chung. Bất cứ cái chung nào cũng là [một bộ phận, một khía cạnh, hay
một bản chất] của cái riêng. Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất cả mọi vật riêng lẻ.
Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái chung”. Cụ thể là:
Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Nghĩa
là không có cái chung thuần túy tồn tại bên ngoài cái riêng, cái chung tồn tại thực sự, nhưng không tồn tại ngoài
cái riêng mà phải thông qua cái riêng. Chẳng hạn, không có con “động vật” chung tồn tại bên cạnh con trâu, con
bò, con gà cụ thể. Trong bất
cứ con trâu, con bò, con gà riêng lẻ nào cũng đều bao hàm trong nó thuộc tính chung
của động vật, đó là quá trình trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường. Không có cái cây nói chung tồn tại
bên cạnh cây cam, cây quýt, cây đào cụ thể. Nhưng cây cam, cây quýt, cây đào... nào cũng có rễ, có thân, có lá,
có quá trình đồng hoá, dị hoá để duy trì sự sống. Những đặc tính chung này lặp lại ở những cái cây riêng lẻ, và
được phản ánh trong khái niệm "cây". Đó là cái chung của những cái cây cụ thể.
Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Không có cái riêng nào tồn tại tuyệt đối
độc lập, không có liên hệ với cái chung, sự vật, hiện tượng riêng
nào cũng bao hàm cái chung. Nền kinh tế của
mỗi quốc gia có những đặc điểm riêng phong phú là những cái riêng. Nhưng bất cứ nền kinh tế nào cũng bị chi
phối bởi các quy luật chung như quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng v.v.. Mỗi con
người là một cái riêng, nhưng mỗi con người không thể tồn tại ngoài mối liên hệ với xã hội và tự nhiên. Không
cá nhân nào không chịu sự tác động của các quy luật sinh học và các quy luật xã hội. Đó là những cái chung trong mỗi con người.
Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ phận, nhưng sâu sắc hơn
cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài những đặc điểm chung, cái riêng còn có cái đơn nhất. Cái
chung sâu sắc hơn cái riê
ng vì cái chung phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại
ở nhiều cái riêng cùng loại. Do vậy cái chung là cái gắn liền với cái bản ch
ất, quy định phương hướng tồn tại và
phát triển của cái riêng. Ví dụ, Người nông dân Việt Nam bên cạnh cái chung với nông dân của các nước trên thế
giới là có tư hữu nhỏ, sản xuất nông nghiệp, sống ở nông thôn v.v., còn có đặc điểm riêng là chịu ảnh hưởng của
văn hoá làng xã, của các tập quán lâu đời của dân tộc, của điều kiện tự nhiên của đất nước, nên rất cần cù lao
động, có khả năng chịu đựng được những khó khăn trong cuộc sống.
Thứ tư, cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong
quá trình phát triển của sự . vật Cái
đơn nhất là phạm trù để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính... chỉ có ở một sự vật, một kết cấu vật chất,
mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất khác. Trong hiện thực cái mới không bao giờ xuất hiện
đầy đủ ngay, mà lúc đầu xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất.
Về sau theo quy luật, cái mới hoàn thiện dần và thay thế cái cũ, trở thành “cái chung”, cái phổ biến, nhưng về
sau nữa, khi không phù hợp với điều kiện mới mà bị mất dần đi và trở thành cái đơn nhất. Như vậy sự chuyển
hóa từ “cái đơn nhất” thành “cái chung” là biểu hiện của quá trình cái mới ra đời thay thế cái cũ. Ngược lại sự
chuyển hoá từ “cái chung” thành “cái đơn nhất” là biểu hiện của quá trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định. Ví dụ,
sự thay đổi một đặc tính nào đấy của sinh vật trước sự thay đổi của môi trường diễn ra bằng cách, ban đầu xuất
hiện một đặc tính ở một cá thể riêng biệt. Do phù hợp với điều kiện mới, đặc tính đó được bảo tồn, duy trì ở nhiều
thế hệ và trở thành phố biến của nhiều cá thể. Những đặc tính không phù hợp với điều kiện mới, sẽ mất dần đi và
trở thành “cái đơn nhất”.
Từ cơ sở lý luận trên, V.I.Lênin từng viết: “Người nào bắt tay vào những vấn đề riêng trước khi giải quyết các
vấn đề chung, thì kẻ đó, trên mỗi bước đi, sẽ không sao tránh khỏi “vấp phải” những vấn đề chung đó một cách
không tự giác. Mà mù quáng vấp phải những vấn đề đó trong từng trường hợp riêng, thì có nghĩa là đưa chính
sách của mình đến chỗ những sự dao động tồi tệ nhất và mất hẳn tính nguyên tắc”.
Trong đó, “những vấn đề riêng” là những vấn đề bức bách do cuộc sống, do hoạt động thực tiễn đặt ra bao
giờ cũng là những vấn đề hết sức cụ thể. Để giải quyết những vấn đề cụ thể ấy – những vấn đề riêng - của cuộc
sống một cách có hiệu quả thì ta phải giải quyết “Những vấn đề chung” có liên quan ấy. “Những vấn đề chung”
hay là những vấn đề “có tính chất lý luận”, tức là những vấn đề không có liên hệ trực tiếp với một nhiệm vụ thực
tế nhất định nào đó. Tuy nhiên “Những vấn đề chung” phản ánh bản chất sâu xa hơn của “Những vấn đề riêng”
và là chìa khóa để giải quyết được “Những vấn đề riêng” có liên quan đến nhau. “Những vấn đề chung” là những
vấn đề khó nắm bắt hơn, khó nhận ra hơn nên ta thường mắc sai lầm, chỉ đi theo “Những vấn đề riêng” trước mắt.
“Vấn đề chung” và “Vấn đề riêng” là hai phạm trù không thể tách rời nhau, có quan hệ mật thiết với nhau. Cho
nên việc chỉ mù quáng đi theo “Vấn đề riêng” mà không suy nghĩ thấu đáo, từ “Vấn đề riêng” mà không phân
tích, tìm ra “Vấn đề chung”, thì ta sẽ không thể tìm ra “Vấn đề chung” cần giải quyết. “Những vấn đề riêng” mà
chúng ta đang giải quyết trước mắt cũng sẽ trở nên bế tắc, không thể giải quyết nếu ta chưa giải quyết được
“Những vấn đề chung”. Về lâu dài, Lenin cho rằng đấy là một sai lầm tai hại, sẽ dẫn chúng ta đến “những sự dao
động tồi tệ nhất” và “mất hẳn tính nguyên tắc”, khiến chúng ta trở nên trì trệ, bị động, không có trật tự khi xử lý
các vấn đề được đặt ra, khi giải quyết các vấn đề mà không có “tính nguyên tắc” thì lại xa rời các quy luật của xã
hội. Đỉnh điểm của các sai lầm sẽ dẫn đến khủng hoảng, đưa vấn đề vào cảnh khó khăn chồng khó khăn, không
ổn định và tệ nhất dẫn đến những thiệt hại nặng nề nhất. Trong những khoảnh khắc khó khăn nhất ấy, sẽ khó đảm
bảo được “tính nguyên tắc” – điều
giúp cho chúng ta có thể xử lý vấn đề đúng hướng, có trật tự và ổn định trở lại.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của ông cha ta là một ví dụ gần gũi và sinh động cho luận điểm trên. Suốt
lịch sử ngàn năm văn hiến của dân tộc, từ vua Hùng dựng nước đến ngày nay xây dựng đất nước tiến lên Chủ
nghĩa xã hội, là một chặng đường dài. Để mỗi bước đi trên chặng đường ấy thành công, người lãnh đạo cần quan
tâm đến một thứ, đó là “lòng dân”. Những chiến thắng của ta trước giặc ngoại xâm từ các triều đại phương Bắc
đến các thế lực phương Tây, đều phải dựa vào “lòng dân”. Đó là một “vấn đề chung” quan trọng có tính sống còn,
là chìa khóa vàng và điều kiện tiên quyết cho sự thành công rực rỡ của chúng ta. Còn “Vấn đề riêng” chúng ta
thường gặp phải như làm sao để có công nghệ mạnh, người tài giỏi, đất nước giàu có tài nguyên,… “Những vấn
đề riêng” này thì dễ thấy, cũng cần giải quyết, nhưng cũng khiến ta mù quáng chạy theo mà từ đó lại không nhận
ra để giải quyết được lòng dân – “vấn đề chung”.
Trong lịch sử, những vị lãnh đạo và chính nhân dân chúng ta từng xa rời nó, không giải quyết được “vấn
đề chung” mang tính sống còn là “lòng dân”, không cùng nhau đồng lòng và tin tưởng, thì ắt không thể tồn tại
lâu, không thể thành công, đưa chính bản thân và đất nước vào thế hiểm nghèo, khó khăn, loạn lạc, thậm chí phải
chịu mất nước. Như trường hợp cha con vua nhà Hồ tuy có tài, có tầm nhìn, cố gắng chuẩn bị tốt mọi thứ cho
chiến tranh chống lại quân Minh xâm lược. Nhưng những chuẩn bị đó là chưa đủ, chỉ có thể giải quyết “vấn đề
riêng”. Chiến tranh mà “lòng dân” không phục, thì có chuẩn bị được vũ khí mạnh đến mấy, lãnh đạo giỏi đến đâu
cũng không thể thắng được. Ông đã không nhận ra kịp và không giải quyết được “vấn đề chung”, không thể làm
cho dân tin tưởng, nên cuộc chiến với quân Minh đã thất bại, mọi sự chuẩn bị cho “vấn đề riêng” đều thất bại và
không còn giá trị, đất nước loạn lạc, phải chịu ách đô hộ tàn bạo của giặc Minh.
Như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Được lòng dân, thì việc gì cũng làm được. Trái ý dân, thì chạy
ngược chạy xuôi”. “Vấn đề chung” khi ta đã tìm ra được rồi, thì mọi sự sẽ trở nên dễ dàng hơn, sẽ giải quyết được
“Vấn đề riêng” tốt hơn, ta có thể viết tiếp những trang sử hào hùng, đưa đất nước lên thịnh vượng, ổn định. Còn
nếu ta xa rời “vấn đề chung”, chỉ chăm chăm giải quyết “vấn đề riêng” vặt vãnh, không nhìn được “vấn đề chung”
sâu xa trong nó, thì lịch sử đã chứng minh, ta chỉ có thể bị dẫn đến “dao động”, hao công vô ích và thất bại.
Từ đó ta thấy luận điểm của Lênin về việc cần chú trọng và giải quyết trước tiên “vấn đề chung”, nhìn từ
“vấn đề riêng” để tìm ra “vấn đề chung” cần xử lý là quan điểm hết sức phù hợp và đúng đắn trong suốt lịch sử
của ta, áp dụng được cho các vấn đề ta gặp phải cũng như đóng vai trò quan trọng cho công cuộc công nghiệp
hóa – hiện đại hóa của đất nước ta hiện nay.
Về áp dụng luận điểm của Lênin vào công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, theo Cố GS
Nguyễn Đức Bình, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng
Lý luận TW cho rằng: “Chính vì công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, tính phức tạp và đa dạng của các quá trình và quan hệ kinh tế - xã hội ngày càng tăng; chính vì
thế giới đầy biến động, không yên, lại sắp bước vào thế kỷ XXI, chính vì tất cả điều đó nên càng phải ra sức cố
gắng để có được quan niệm đúng đắn, vững chắc, thấu suốt về con đường đi lên của đất nước. Coi nhẹ lý luận,
làm đến đâu hay đến đấy, chỉ thấy hôm nay không thấy ngày mai, thấy hiện tượng mà không hiểu sâu bản chất,
quy luật, thấy bộ phận mà không hiểu đại cục thì có thể dẫn đến những vấp váp lớn. Nếu không ý thức rõ con
đường lớn, sẽ dẫn đến tình hình là trong khi làm "được" một cái gì đó lại có thể làm "mất" đi nhiều, thậm chí dần
dà mất hết mà không tự biết, đến khi biết ra thì đã quá muộn! Mặt khác, không tự ý thức được thật sáng rõ con
đường lớn phải đi thì cũng dễ sinh ra bị động, bảo thủ, thiếu tự tin, không dám chịu trách nhiệm, làm gì cũng sợ sai, sợ trật!”.
Nhận xét này đã làm rõ hơn vai trò luận điểm của Lênin với công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa
của đất nước ta hiện nay. Việc phát triển đất nước không thể chỉ mù quáng chạy theo những “vấn đề riêng” mà ta
cần phải tìm hiểu thấu đáo và tìm ra những “vấn đề chung” để có thể đưa đất nước ổn định và tiến đến thành công
thật sự. Đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng quang vinh, được dân tin tưởng, “vấn đề chung” mang tính sống
còn là “lòng dân” đã tạm được củng cố và luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, coi trọng hàng đầu.
Trong công cuộc này dưới sự lãnh đạo và dẫn dắt của Đảng và Nhà nước, ta đã dần tìm ra và giải quyết
các “vấn đề chung” có liên quan một cách khoa học và hiệu quả, tuân theo các quy luật xã hội và đạt được nhiều
thành tựu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. CNH HĐH là quá trình -
chuyển đổi căn bản, toàn diện
các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang
sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên
sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Lại nói đến quá trình CNH - HĐH ở nước ta, Việt Nam được coi là mắt xích quan trọng trong hệ thống
các nước Xã hội chủ nghĩa bấy giờ. Do đó, tại Đại hội lần thứ III (Tháng 9 - 1960), Đảng quyết định chọn lựa con
đường công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa kiểu Liên Xô, coi “nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ ở miền
Bắc nước ta là công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, mà mấu chốt là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng”. “Vì vậy
chủ trương của Đảng ta về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là: xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa cân đối và hiện đại kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm
biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại”.
Chủ trương ''ưu tiên phát triển công nghiệp nặng'' đó của đại hội đã được đôn đốc thực thi ráo riết trong thực tế
suốt hàng chục năm, tuy có đạt được một số kết quả khiêm tốn, song trong điều kiện chiến tranh kéo dài, đường
lối công nghiệp hóa kiểu Liên Xô ưu tiên phát triển công nghiệp nặng tỏ ra không phù hợp với đặc điểm, điều
kiện tình hình ở Việt Nam. Vì quá chú trọng đến quy mô,
đến mặt lượng, đến nhanh, nhiều, rẻ mà không dựa vào
khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới cho nên hiệu quả không cao, năng suất thấp, lãng phí nguyên vật
liệu, sản phẩm kém chất lượng, đã đẩy cả nền kinh tế và xã hội vào rất nhiều khó khăn và kéo dài.
Đại hội lần thứ IV của Đảng (Tháng 12 - 1976), khi đề ra đường lối để phát triển đất nước sau khi đã
thống nhất, một mặt, tiếp tục khẳng định ''phải thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa'', mặt khác, đã có sự
điều chỉnh nhất định, coi trọng hơn việc phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, cụ thể là ''ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”. Vì vậy tại Đại hội VI
(1986), Đảng đã quyết định điều chỉnh chiến lược, lúc này thay vì ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, chúng ta
chuyển hướng xác định công nghiệp hóa phải thực hiện qua nhiều giai đoạn. Giai đoạn đầu cần tập trung vào
nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, để đẩy lùi khủng hoảng kinh tế, giai đoạn sau là đẩy mạnh công nghiệp, nâng
cao tỷ trọng của ngành công nghiệp. Đến đầu thập kỉ 90, Liên Xô tan rã, nhiều nước phát triển trên thế giới từng
bước hiện đại hóa nền sản xuất. Nhân loại bước sang cuộc chạy đua về trình độ khoa học, kỹ thuật, công nghệ
hiện đại. Để tránh tụt hậu, một lần nữa Việt Nam phải nhìn nhận lại, chiến lược công nghiệp hóa của mình. Để
rút ngắn khoảng cách với các nước công nghiệp đi trước, Việt Nam không chỉ công nghiệp hóa đơn thuần mà
chuyển thành công nghiệp hóa, hiện đại hóa như Đại hội lần thứ VII của Đảng (Tháng 6 - 1991) đã xác định ''công
nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung
tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội''. Với khái niệm công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đã có sự điều chỉnh trong Đại hội VII (1991), công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa chứ
không là công nghiệp hóa tách rời, chúng ta không thực hiện công nghiệp hóa xong mới hiện đại hóa mà chúng
ta thực hiện gắn liền hai nội dung công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Từ một nền kinh tế nông nghiệp đi lên CNXH, trong bối cảnh toàn cầu hóa, chúng ta phải tiến thành đồng
thời hai quá trình: Chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp (CNH HĐH); - chuyển từ kinh tế
nông-công nghiệp lên kinh tế thị trường. Trong khi ở các nước đi trước, đó là hai quá trình kế tiếp nhau, thì ở
nước ta, tận dụng cơ hội là nước đi sau, hai quá trình này được lồng ghép với nhau, kết hợp các bước đi tuần tự
với các bước phát triển nhảy vọt, tức là gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế thị trường. Đất
nước dần ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, mọi lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước
phát triển khá, đặc biệt là sự phát triển ổn định của ngành nông nghiệp. Sự phục hồi và đạt mức tăng trưởng khá
này đã tạo cơ sở vững chắc để quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm (2011 - 2015) trong những năm sau đạt kết quả
vững chắc hơn.Thêm vào đó, cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn
sản xuất với thị trường cùng với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng
và hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hóa thành luật pháp, cơ chế, chính
sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các
loại thị trường tiếp tục hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát triển mạnh mẽ. Đời sống
của đại bộ phận dân cư được cải thiện rõ rệt nhờ thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Tóm lại, sau gần 30 năm thực hiện đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, toàn diện.
Cùng với tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, các mặt: chính trị, xã hội, quốc phòng và
an ninh được bảo đảm và ổn định. Thành tựu đó ngày càng khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân
tố quyết định thành công của đổi mới, khích lệ, động viên nhân dân tiếp tục hưởng ứng, góp phần quan trọng
vào việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước với những bước tiến cao hơn.
Thêm vào đó, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 được cho là đã bắt đầu từ vài năm gần đây, tập trung
chủ yếu vào sản xuất thông minh dựa trên các thành tựu đột phá trong công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,
công nghệ nano. Ngày 27 tháng 9 năm 2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ
trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với mục tiêu tổng quát: “Tận dụng
có hiệu quả các cơ hội do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại để thúc đẩy quá trình đổi mới mô hình
tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với thực hiện các đột phá chiến lược và hiện đại hoá đất nước; phát triển
mạnh mẽ kinh tế số, phát triển nhanh và bền vững dựa trên khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và nhân lực
chất lượng cao; nâng cao chất lượng cuộc sống, phúc lợi của người dân; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh,
bảo vệ môi trường sinh thái”. Nghị quyết số 52-NQ/TW đã đề ra 06 nhiệm vụ cho các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ
Công Thương triển khai thực hiện, cụ thể:
(1) Hoàn thiện thể chế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư và quá trình chuyển đổi số;
(2) Xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ quá trình chuyển đổi số và phát triển của ngành Công Thương;
(3) Nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo phục vụ phát triển công nghiệp 4.0;
(4) Tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao;
(5) Tăng cường hợp tác quốc tế;
(6) Tuyên truyền phổ biến, quán triệt đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức, tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng, cấp ủy, lãnh đạo các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ trong triển khai thực hiện Nghị quyết.
Sau một năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 52 NQ/TW của Bộ -
Chính trị, các nội dung về kinh tế số
và chuyển đổi số đều đã được đưa vào chương trình làm việc với các đối tác quốc tế; đẩy mạnh hợp tác quốc tế
với các quốc gia, tổ chức, doanh nghiệp có thể mạnh, kinh nghiệm trong việc thực hiện chuyển đổi số, phát triển
công nghiệp 4.0 như: Tập đoàn Siemens, Hội đồng phát triển kinh tế của Singapore, Tổ chức phát triển công