-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Biểu hiện của triết lý âm dương trong đời sống xã hội người Việt truyền thống và hiện đại
Về xã hội, người Việt trải qua rất nhiều tình thái ý thức xã hội khác nhau. Triết lí âm dương ảnh hưởng khá rõ nét trong 3 nhu cầu cơ bản của con người.Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Cơ sở văn hóa việt nam (hd555) 47 tài liệu
Đại học Văn Lang 741 tài liệu
Biểu hiện của triết lý âm dương trong đời sống xã hội người Việt truyền thống và hiện đại
Về xã hội, người Việt trải qua rất nhiều tình thái ý thức xã hội khác nhau. Triết lí âm dương ảnh hưởng khá rõ nét trong 3 nhu cầu cơ bản của con người.Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Cơ sở văn hóa việt nam (hd555) 47 tài liệu
Trường: Đại học Văn Lang 741 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Văn Lang
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45473628
BÀI TẬP: Cho biết biểu hiện của triết lý âm dương trong đời sống xã hội
người Việt truyền thống và hiện đại? BÀI LÀM:
Âm dương là hai thực thể đối lập tạo nên toàn bộ vũ trụ.
Ngày xưa: Về xã hội, người Việt trải qua rất nhiều tình thái ý thức xã hội khác nhau.
Triết lí âm dương ảnh hưởng khá rõ nét trong 3 nhu cầu cơ bản của con người: ăn,
mặc, ở. Việt Nam là xứ nóng (dương) nên phần lớn nguồn thức ăn sử dụng hằng ngày
đều thuộc loại bình, hàn âm như thực vật (rau, củ, quả…). Đồng thời, tínhchất dương
của xứ nóng là điều kiện vô cùng thuận lợi cho các loài sản vật mang tínhâm phát triển
mạnh. Điều này chứng tỏ bản thân thiên nhiên cũng đã có sự cân bằng.Vào mùa hè,
người Việt thích ăn rau quả, tôm ca (âm) hơn là mỡ thịt. Thức ăn thườngnhiều nước
(âm) và có vị chua (âm) với tác dụng vừa dễ tiêu hóa vừa giải nhiệt. Vào mùa đông,
người Việt ở phía Bắc lại thích ăn thịt, mỡ vốn mang tính dương nhằmgiúp cơ thể
chống rét. Người dân miền Trung ăn nhiều ớt (dương) do thực phẩm củahọ dồi dào hải
sản biển có tính hàn, bình (âm). Từ văn hóa ẩm thực của người Việtxưa và nay, ta càng
khẳng định vai trò của triết lý âm dương thủy hỏa trong việc tổchức vũ trụ và duy trì
đời sống. Với nhu cầu mặc, người Việt rất đề cao hai yếu tố “dương tính” và “âm
tính”. Đặtra vấn đề màu sắc chẳng hạn: Trong trang phục xưa, màu ưa thích vốn là các
“màu âmtính” phù hợp với phong cách tế nhị, kín đáo của truyền thống dân tộc. Ở
miền Bắc làmàu nâu, màu gụ (màu của đất); ở miền Nam là màu đen (màu của bùn).
Trong lễ hội,phụ nữ Việt mặc áo dài màu thâm hoặc nâu. Ngày nay, màu sắc của trang
phục cóphần đa dạng hơn theo hướng “dương tính” do ảnh hưởng từ văn hóa phương
Tây.Thường thấy, trong xã hội hiện đại đàn ông mặc Âu phục, phụ nữ mặc áo nhiều
màukể cả đỏ hoặc hồng. Do giao thoa với văn hóa mới từ bên ngoài nên chiếc áo dài
cổtruyền Việt Nam dần được cải tiến thành áo dài tân thời từ những năm 30 của thế
kỷnày. Bên cạnh những cải tiến theo hướng phô trương cái đẹp hình thể một cách
trựctiếp theo kiểu phương Tây (dương tính hóa) như: Bó eo, ôm sát thân, nổi ngực…
thì áodài tân thời vẫn tiếp tục kế thừa và phát triển cao độ phong cách kín đáo (âm tính
hóa).Chính sự khêu gợi một cách nhuần nhị, kín đáo đã tô điểm tính cách “dương ở
trongâm”. Vì lẽ đó, áo dài Việt Nam ngày càng phổ biến rộng rãi và trở thành biểu
tượngcho y phục truyền thống dân tộc. Với nhu cầu ở, người Việt đặc biệt chú trọng
vấn đề “phong thủy”. lOMoAR cPSD| 45473628
Theo thời gian, những biểu hiện sinh động của tư tưởng âm dương vẫn hằn sâu trong
nếp nghĩ truyền thống và hiện đại. Điều dó minh chứng sức ảnhhưởng không cùng của
triết lý này cả trên chiều rộng và chiều sâu của một nền văn hóa. Người ta nói đến yếu
tố âm dương với nhiều bình diện ý nghĩa. Có khi nó là quan niệm trong tư duy, có khi
là triết lý trong đời sống và cũng có khi là quy luật trong xã hội. Dù được nhìn nhận từ
góc độ nào thì âm dương vẫn được coi là lối tư duy đẹp và giá trị. Nó luôn gắn liền với
thực tế đời sống để thông qua đó mà khẳng định mình.
Với người nông dân, họ chú trọng sự sinh sôi, nảynở của hoa màu và con người với
hai cặp đối lập Mẹ – Cha và Đất – Trời. Như vậy,Đất được đồng nhất với Mẹ, còn trời
được đồng nhất với Cha. Việc hợp nhất của hai cặp “Mẹ – Cha” và “Đất – Trời”chính
là sự khái quát đầu tiên trên con đường dẫn tới triết lý âm dương. Đây là yếu tố nền
tảng góp phần thiết lập nên các cặp đối lập mớitrong giới tự nhiên. Từ cặp “Lạnh –
Nóng” có thể suy ra: Về thời tiết thì mùa đông lạnh thuộc âm, mùa hè nóng thuộc
dương. Về phương hướng, phương Bắc lạnh thuộc âm, phương Nam nóng thuộc
dương. Về thời gian, ban đêm lạnh thuộc âm, ban ngày nóng thuộc dương. Hay là,
đêm thì tối nên màu đêm thuộc âm, ngày thì đỏ nên màu đỏ thuộc dương. Cái hay, cái
đẹp của triết lý âm dương nằm ở quy luật thành tố: Không có gì hoàn toàn âm hoặc
hoàn toàn dương, trong âm có dương, trong dương có âm
Âm và dương vốn là hai trạng thái của những phần tửvật chất trong vũ trụ. Những
phần tử này dưới sự thúc đẩy của lý cấu hiệp với nhau sinh ra ngũ hành, còn gọi là ngũ
đế gồm: Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Ngũ hành chia ởbốn phương và trung tâm, trong
đó:- Kim : ở phía Tây- Mộc : ở phía Đông- Thủy: ở phía Bắc- Hỏa : ở phía Nam- Thổ :
ở trung tâm Giữa vạn vật luôn có sự tranh chấp và tương đối, nghĩa là có sự chống
chọi nhau cứhai, bốn hoặc hơn nữa tương đối với nhau, từ đó tạo nên hai trạng thái âm
và dươngđối chọi nhau. Âm là Cái, là tĩnh, là chưa hoàn bị. Dương là Đực, là động, là
hoàn bị. Chẳng hạn: Mặt trăng và mặt trời, đêm và ngày, ác và thiện, thể xác và linh hồn..v.v.
“Phong” và“thủy” là hai yếu tố quan trọng nhất tạo thành tạo thành vi khí hậu của một
ngôi nhà.Phong là gió (thuộc dương); thủy là nước, tĩnh hơn, thuộc âm. Trong nhà, nếu
có gióquá nhiều hoặc nước tù quá đọng đều không tốt. Người ta vẫn xây dựng các lOMoAR cPSD| 45473628
bìnhphong để lái gió hoặc dựng hòn non bộ để điều thủy (âm dương điều hòa) là
vậy.Ngoài ra, tất cả các chi tiết của ngôi nhà được liên kết với nhau bằng
“mộng”.“Mộng” là cách ghép theo nguyên lý âm dương, nghĩa là: Phần lồi ra của bộ
phận nàyphải khớp với chỗ lõm tương ứng của bộ phận khác. Kỹ thuật này tạo nên sự
liên kếtrất chắc chắn mà vẫn linh động giúp tháo dỡ dễ dàng. Khi cần cố định các chi
tiết củangôi nhà thì dùng đing tre vuông tra vào các lỗ tròn (âm – dương). Khi lợp nhà,
ngườiViệt dùng ngói âm dương: Viên sấp, viên ngửa khác với ngói ống Trung Hoa.
Tronghình thức kiến trúc thường coi trọng bên trái và số lẻ. Tất cả đều từ triết lý âm
dươngmà ra. Thứ ba, những biểu hiện âm dương trong tín ngưỡng xưa và nay. Với tín
ngưỡng phồn thực (phồn = nhiều, thực = nảy nở), người Việt tái khẳng định sự tồn tại
của triết lý âm dương. Thực tế, đây chỉ là hai mặt của một vấn đề. Ở Việt Nam, tín
ngưỡng phồn thực biểu hiện ở hai dạng: Thờ cơ quan sinh dục và thờ hành vi giao
phối. Dễ dàng nhận thấy điều này ở các nhà mồ Tây Nguyên hoặc tục “giã cối đón
dâu” của người Việt. Chiếc trống đồng – biểu tượng sức mạnh và quyền uy của người
xưa thực ra là biểu tượng toàn diện của tín ngưỡng phồn thực. Ngay cả hình ảnh về
chùa Một Cột (âm) được đặt trên một cột tròn (dương), cột tròn lại đặt trong cái hồ
vuông (âm)… đều liên quan đến tín ngưỡng phồn thực. Không phải ngẫu nhiênmà cái
mõ bằng gỗ (mộc) đặt ở bên trái (phương Đông) là dương, cái chuông bằng đồng
(kim) ở bên phải (phương Tây) là âm. Tiếng mõ và chuông tạo âm dương hòa hợp. Với
tín ngưỡng sung bái tự nhiên, ông cha ta coi trọng tín ngưỡng đa thần, lấy chấtâm tính
làm căn bản. Chất âm tính của văn hóa nông nghiệp dẫn đến lối sống tình cảm, trọng
nữ; theo đó mà các nữ thần chiếm ưu thế (tục thờ Mẫu). Người Việt xưa còn thờ cả
động và thực vật. Theo truyền thuyết, tổ tiên người Việt là giống “Rồng Tiên”. Tiên –
Rồng là một cặp đôi chỉ có trong lối tư duy theo triết lý âm dương. Đócũng là hai loài
biểu trưng cho phương Nam và phương Đông trong ngũ hành. Với tín ngưỡng sung bái
con người, người Việt đặc biệt coi trọng mối liên hệ giữa âm và dương. Theo người
xưa, chết là từ động thành tĩnh nên với triết lý âm dương thì hồn đi từ cõi dương (trần
gian) sang cõi âm (âm phủ). Với niềm tin chết là về với tổ tiên (“Sống gửi thác về”),
người Việt rất coi trọng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Tục xưa tin rằng dương sao âm
vậy và cũng có một cuộc sống ở cõi âm như cuộc sốngngười trần trên dương thế. Tức
là, người chết cũng ăn uống và tiêu pha như người sống. Do vậy, ông cha ta vốn coi
trọng lễ đốt mã trong ngày cúng giỗ. Người sống sắm sửa quần áo, giường màn, bát lOMoAR cPSD| 45473628
đĩa, xe cộ, thuyền bè cho người chết; thậm chí còn đốt hình nhân để hóa người hầu hạ
kẻ đã khuất. Tóm lại, triết lý âm dương trong đời sống văn hóa Việt xưa và nay biểu
hiện chủyếu ở các góc độ: Tự nhiên, xã hội lẫn tín ngưỡng. Nó góp phần tôn vinh giá
trị truyềnthống mà vẫn dung hòa với vẻ đẹp hiện đại trong mỗi nếp nhà người Việt.
Triết lí âm dương trong tính cách người Việt . Trong cuộc sống, ta thường bắt gặp các
cặp đối lập: đực – cái, nóng – lạnh, cao- thấp,…người làm nông, không những thế ,
còn luôn mong sao cho mùa màng bội thu và gia đình đông đúc , tức là quan tâm đến
sự sinh sôi nảy nở của hoa màu và con người với 2 cặp đối lập: Mẹ - cha, Trời -
đất.Đối với nông nghiệp lúa nước điều này lại càng bội phần hệ trọng: Nghề lúa
nướcmang tính thời vụ rất cao, do vậy cần đông người làm, “đông tay hơn hay làm” vì
thời xưa đất rộng, người còn thưa
Ngày nay: Triết lí âm dương vẫn còn được biểu hiện trong đời sống xã hội người Việt
hiện nay, bánh phu thê hình tròn bọc bằng hai khuôn hình vuông úp khít vào nhau. Đó
chính là biểu tượng của triết lí âm dương ( vuông tròn) và ngũ hành (ruột dừa trắng,
nhân đậu vàng, rắc vừng đen, khuôn lá xanh, buộc lạt đỏ), biểu tượng cho sự vẹn toàn
hòa hợp- hòa hợp của đất trời và của con người.
Triết lí quân bình âm dương được vận dụng không riêng gì cho người sống mà ngay
cảngười chết : Trong chùa, hộ pháp có ông Thiện – ông Ác ( Thiện trước, ác sau ),
trongcác ngôi mộ cổ ở Lạch Trường TK III TCN được gióng theo Nam Bắc, những vật
phẩm làmbằng gỗ ( dương ) được đặt ở phía Bắc ( âm ), những vật bằng gốm ( âm ) lại
được đặt ởphía Nam ( dương ) – cách sắp xếp âm dương bù trừ nhau để tạo ra sự quân
bình. Triết lí quân bình âm dương này tạo ra ở người Việt năng lực thích nghi cao với
mọihoàn cảnh, lối sống ( lối sống linh động ), dù khó khăn vất vả tới đâu vẫn không
chán nản. Người Nước Ta còn là dân tộc bản địa sống bằng tương lai ( ý thức sáng sủa
) : thời trai trẻ khổ thì về già sẽ sướng ( không ai giàu ba họ, không ai khó 3 đời... )