









Preview text:
I. BẢN ÁN VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ số 41/2020/DS-PT Bản án ful :
https://thuvienphapluat.vn/banan/ban-an/ban-an-ve-tranh-chap-quyen-so-huu-tri-tue-so- 412020dspt-142701
1. Tóm tắt vụ kiện
Bản án số: 41/2020/DS-PT. Ngày: 28/07/2020.
Tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ.
1.1. Một số thông tin cơ bản
Thông tin có liên quan đến vụ việc:
https://www.tinnhanhchungkhoan.vn/nha-phan-phoi-cung-vuong-kien-vi-pham-so-huu-tri- tue-post248665.html
* Nguyên đơn: M Corp. (sau đây được gọi là công ty M) (US) ( Hoa Kỳ) - Chủ sở hữu bằng
sáng chế đối với hoạt chất Sitagliptin được cấp phép bởi Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (2006)
* Bị đơn: Công ty H1 (Việt Nam) - Nhà phân phối sản phẩm Getsitalip tại thị trường Việt
Nam theo Hợp đồng phân phối ký ngày 01/01/2016 giữa bị đơn và G1
* Người tham gia tố tụng khác: Công ty G-( Pakistan, VPĐD tại HCM)
Công ty G1 ( phụ trách Chi nhánh tại Việt Nam )
1.2. Tóm tắt tình tiết
1.2.1 Theo phiên tòa sơ thẩm:
+ Ngày 05/7/2002, Nguyên đơn đã nộp đơn yêu cầu bảo hộ và được Cục Sở hữu trí tuệ (tại
Việt Nam) cấp bảo hộ độc quyền sáng chế số 5684 đối với hoạt chất Sitagliptin ở dạng bazơ
tự do và các muối dược dụng của hợp chất này vào năm 2006.
+Ngày 18/6/2004, Nguyên đơn đã nộp đơn yêu cầu bảo hộ tại Việt Nam và được cấp bảo hộ
độc quyền sáng chế số 7037 đối với hợp chất Sitagliptin ( Dạng muối photphat) vào năm 2008.
+Ngày 01/01/2016 Bị đơn ( H1) đã ký hợp đồng phân phối với G1- nhà sản xuất thuốc
Getsitalip (thuốc điều trị tiểu đường) đăng ký lưu hành tại Việt Nam (theo Thông tư số
44/2014/TT-BYT về đăng ký thuốc).
+ Xét thấy hai sản phẩm thuốc “GETSITALIP 100mg” và “GETSITALIP 50mg” do Bị đơn
phân phối đều có chứa hoạt chất Sitagliptin ( hoạt chất chính) và có chung mục đích sử
dụng các sáng chế của Nguyên đơn.
=> Nguyên đơn đã yêu cầu Viện khoa học Sở hữu trí tuệ giám định đối với hai sản phẩm
trên. Theo Bản kết luận giám định thì hoạt chất Sitagliptin trong hai sản phẩm trên trùng với
sáng chế đang được bảo hộ của Nguyên đơn (BĐQSC số 5684 và số 7037).
+ Cho rằng việc Công ty H1 nhập khẩu và phân phối 2 sản phẩm nói trên là xâm phạm quyền
đối với sáng chế, Nguyên đơn đã đệ đơn khởi kiện Bị đơn với các hành vi xâm phạm quyền
sở hữu trí tuệ đối với bằng độc quyền sáng chế và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
=> Bản án sơ thẩm đã không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn và bác bỏ các
khoản yêu cầu bồi thường thiệt hại.
1.2.2 Tại phiên tòa phúc thẩm:
+ Hội đồng xét xử có triệu tập Công ty G1 để làm rõ việc tranh chấp.
+ Nguyên đơn đã kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm với lý do Bản án sơ thẩm đã áp dụng sai
pháp luật khi cho rằng Công ty H1 không có hành vi sản xuất nên không vi phạm bằng sáng
chế độc quyền và Đề nghị Hội đồng xét xử sửa án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
=> Quyết định của Tòa án: Hủy Bản án dân sự sơ thẩm. Chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
2. Ý kiến của các bên và nhận định của tòa án
2.1 Về phía Nguyên đơn: Cho rằng H1 vi phạm quyền đối với sáng chế của nguyên đơn do
H1 khai thác sáng chế (không bao trùm hành vi sản xuất) bao gồm: nhập khẩu, tàng trữ để
phân phối thuốc Getsitalip Tablets 100mg và 50mg chứa hoạt chất Sitagliptin và có chung
mục đích sử dụng các sáng chế của nguyên đơn.
2.2 Về phía Bị đơn: Cho rằng mình chỉ là nhà phân phối, G1 mới là bên phải chịu hoàn toàn
trách nhiệm (theo thỏa thuận hợp đồng) và họ cũng không vi phạm do Giám định do nguyên
đơn cung cấp không được xem là chứng cứ và cũng chưa có bản án hay quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền về việc sản phẩm Getsitalip xâm phạm quyền sở hữu của nguyên đơn.
2.3 Về phía công ty G1: Cho rằng họ không vi phạm bằng độc quyền sáng chế của nguyên
đơn tại Việt Nam do họ đã được Bộ Y Tế cấp giấy phép lưu hành và họ cũng không liên quan
đến vụ việc trên với lý do nguyên đơn chỉ kiện bị đơn.
2.4 Nhận định của Tòa án
+ Kết luận giám định của Viện Khoa học sở hữu trí tuệ do Nguyên đơn xuất trình được xem
là chứng cứ liên quan đến vụ án. => Hoạt chất chính Sitagliptin trong sản phẩm Getsitalip
100mg và 50mg trùng với sáng chế được bảo hộ thuộc BĐQSC số 5684 và số 7037 của Nguyên đơn.
+ Tòa án cấp sơ thẩm không đưa Công ty G1 vào tham gia tố tụng với tư cách là người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là vi phạm tố tụng, ảnh hưởng đến quyền bảo vệ của Công ty G1 và Bị đơn.
+ Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn là chưa đủ cơ sở vững
chắc, chưa đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
=> Do chưa thu thập chứng cứ chưa đầy đủ để chứng minh sản phẩm của Công ty G1 có hay
không có vi phạm sáng chế mà Nguyên đơn được bảo hộ.
=> Từ đó chưa có căn cứ xác định việc Bị đơn phân phối sản phẩm Getsitalip Tablets 100mg
và 50mg do G1 sản xuất có hay không có vi phạm đối với Bằng độc quyền sáng chế mà
Nguyên đơn được bảo hộ. II. BÌNH LUẬN
Vấn đề nhóm đặt ra:
1. Nguyên đơn có quyền khởi kiện bị đơn hay không ?
2. Kết luận giám định của Viện khoa học và sở hữu trí tuệ có được xem là căn cứ giải
quyết tranh chấp sở hữu trí tuệ?
3. Việc G1 cho rằng mình không xâm phạm quyền đối với sáng chế của Nguyên đơn vì G1
đã được cấp số đăng ký lưu hành thuốc nên là đúng hay sai ?
4. Liệu Công Ty H1 có vi phạm quyền bảo hộ sáng chế của Công ty M không?
1. Bình luận về những vấn đề liên quan
1.1 Nguyên đơn có quyền khởi kiện bị đơn hay không ?
1.1.1. Ai là chủ sở hữu các sáng chế này?
Theo Khoản 1 Điều 121 Luật sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung 2019:
“1. Chủ sở hữu sáng chế,. . là tổ chức, cá nhân được cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng
bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp tương ứng.”
=> Như vậy, bên Nguyên đơn công ty M với tư cách là tổ chức nắm giữ 2 bằng sáng chế này
được Cục Sở hữu trí tuệ cấp bảo hộ độc quyền, là chủ sở hữu sáng chế đối với hoạt chất Sitagliptin này.
1.1.2 Quyền của chủ sở hữu đối với sáng chế
Căn cứ Khoản 1 Điều 123 Luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2019 về quyền
của chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp, thì công ty M sẽ có các quyền tài sản đối với
sáng chế. Trong đó có quyền cho phép người khác sử dụng sáng chế.Nghĩa là sáng chế đã
được cấp bằng độc quyền sáng chế chỉ có thể được khai thác một cách bình thường với sự
cho phép của chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế.
=> Vì vậy, các chủ thể khác ở Việt Nam nếu có hành vi khai thác thương mại sáng
chế đã được cấp bằng bảo hộ này mà không xin phép công ty M sẽ phải đối mặt với rủi ro
chịu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi xâm phạm quan hệ sở hữu trí tuệ đã được Nhà nước bảo hộ.
1.1.3. Thời hạn có hiệu lực của các bằng độc quyền sáng chế
Theo Khoản 2 Điều 93 Luật sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung 2019: “2. Bằng độc quyền
sáng chế có hiệu lực từ ngày cấp và kéo dài đến hết hai mươi năm kể từ ngày nộp đơn.”
Theo đó, đối với 2 bằng độc quyền sáng chế của Nguyên đơn:
- Bằng độc quyền sáng chế số 5684 được cấp vào 02/6/2006 và bên Nguyên đơn đã nộp
đơn yêu cầu từ ngày 05/7/2002; nên bằng sáng chế này có hiệu lực từ 02/6/2006 và
cho đến hết ngày 05/7/2022.
- Bằng độc quyền sáng chế số 7037 được cấp vào năm 05/5/2008 và bên Nguyên đơn
đã nộp đơn yêu cầu từ tháng 18/6/2004; nên bằng sáng chế này có hiệu lực từ năm
05/5/2008 và cho đến hết ngày 18/6/2024.
=> Như vậy, trong thời điểm xảy ra tranh chấp giữa Nguyên đơn và Bị đơn thì bằng độc
quyền sáng chế của Nguyên đơn vẫn còn hiệu lực.
=> Nguyên đơn hoàn toàn có quyền khởi kiện đối với các hành vi xâm phạm quyền của
chủ sở hữu đối với sáng chế. ( Điều 126)
1.2. Kết luận giám định của Viện khoa học và sở hữu trí tuệ có được xem là chứng cứ hợp pháp?
Đối với chi tiết này, nhóm đồng ý với kết luận của Tòa án phúc thẩm, đó là: kết luận giám
định của Viện Khoa học sở hữu trí tuệ thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ - tổ chức giám định
có thẩm quyền do Nguyên đơn yêu cầu được xem là chứng cứ liên quan đến vụ án.
Vì căn cứ theo Điểm d Khoản 2 Điều 2 Điều lệ Tổ chức và hoạt động Viện khoa học sở
hữu trí tuệ (Ban hành kèm theo quyết định số 1660/QĐ-BKHCN ngày 13/08/2007 của Bộ
trưởng Bộ khoa học và công nghệ): “2.Viện có các nhiệm vụ chính sau đây:. .d) Giám định
về sở hữu trí tuệ,. .”,
=> Như vậy, Viện Khoa học và sở hữu trí tuệ là tổ chức có thẩm quyền giám định
Việc Bị đơn cho rằng: Kết luận giám định trên không được coi là chứng cứ vì Nguyên đơn
không có yêu cầu Tòa án tiến hành trưng cầu giám định, không đáp ứng theo trình tự thủ tục
của BLTTDS là không chính xác. Bởi đây là vụ kiện, tranh chấp về vấn đề SHTT, theo
nguyên tắc phải áp dụng luật riêng trước (Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung 2019).
Căn cứ theo Khoản 5 Điều 201 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2019:“ Chủ thể
quyền sở hữu trí tuệ …có quyền yêu cầu giám định về sở hữu trí tuệ để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình.”
=> Quy định trên là cơ sở pháp lý để chủ thể quyền SHTT có thể cung cấp chứng cứ để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp khi phát hiện có hành vi xâm phạm.
Bên cạnh đó, căn cứ theo Điểm a Khoản 1 Điều 8 Nghị định 105/2006/NĐ-CP:
“1. Yếu tố xâm phạm quyền đối với sáng chế có thể thuộc một trong các dạng sau đây:
a) Sản phẩm hoặc bộ phận (phần) sản phẩm trùng hoặc tương đương với sản phẩm hoặc bộ
phận (phần) của sản phẩm thuộc phạm vi bảo hộ sáng chế;”
=> Như vậy, vì Bị đơn không có ý kiến phản đối kết luận giám định hoặc có yêu cầu giám
định lại nên tài liệu trên được xem là chứng cứ hợp pháp để chứng minh yếu tố xâm phạm
quyền đối với sáng chế của Nguyên đơn.
1.3. Việc G1 cho rằng mình không xâm phạm quyền đối với sáng chế của Nguyên đơn vì
G1 đã được cấp số đăng ký lưu hành thuốc nên là đúng hay sai ?
Về vấn đề này thì nhóm đồng ý với quan điểm của Tòa Án là: Cần phải xem xét
Sản phẩm thuốc Getsitalip có vi phạm sáng chế mà Nguyên Đơn được bảo hộ hay không? Từ
đó mới căn cứ để kết luận hành vi của Bị đơn là có vi phạm hay không?
1.3.1 Việc được cấp đăng ký lưu hành thuốc tại Việt Nam đã bảo đảm không xâm phạm
sở hữu trí tuệ hay chưa?
Vì theo như thông tin từ bản án phía công ty G1 đã đăng ký lưu hành thuốc tại Việt Nam theo
quy định tại Thông tư số 44/2014/TT-BYT về đăng ký thuốc.
Căn cứ theo: Điều 13 và Điều 14 của Thông tư 44/2014/TT-BYT QUY ĐỊNH VIỆC ĐĂNG KÝ THUỐC
- Theo Khoản 1 và Khoản 2 Điều 13 Thông tư 44/2014/TT-BYT thì G1 (cơ sở đăng
ký lưu hành thuốc) sẽ phải chịu trách nhiệm về sở hữu trí tuệ đối với thuốc được đăng ký lưu
hành và có trách nhiệm tiến hành tra cứu các đối tượng sở hữu trí tuệ có liên quan trước khi
đăng ký lưu hành thuốc tại Việt Nam cụ thể ở đây là hoạt chất Sitagliptin. Và khi có tranh
chấp xảy ra thì Bộ Y tế được quyền quyết định rút số đăng ký hoặc đình chỉ lưu hành trên cơ
sở xem xét đề nghị của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ và căn cứ vào phán quyết của Tòa án …
về hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
=> Điều này có nghĩa: cơ quan cấp phép lưu hành ở đây là Bộ Y Tế sẽ không chịu trách nhiệm về vấn đề SHTT.
=> Do đó, không thể lẫn lộn việc lưu thông có giấy phép để loại trừ về sở hữu trí tuệ. Hay
việc G1 được cấp giấy phép lưu hành thuốc không đảm bảo việc không xâm phạm
quyền sáng chế của Nguyên Đơn.
1.3.2 Hành vi sản xuất, đăng ký thuốc của công ty G1 có xâm phạm quyền đối với sáng
chế của Nguyên Đơn ?
Dữ kiện từ bản án: Theo như Bị đơn trình bày thì G1 là nhà sản xuất và nhà đăng ký
lưu hành thuốc Getsitalip tại Việt Nam và bị đơn nhập khẩu thuốc từ Pakistan. Như vậy có
thể hiểu rằng việc sản xuất sản phẩm thuốc trên được thực hiện tại nước ngoài.
=> Việc công ty G1 sản xuất thuốc có chứa hoạt chất Sitagliptin và muối dược dụng
của nó ở nước ngoài không xâm phạm sở hữu trí tuệ và việc công ty M đăng ký độc quyền
sáng chế ở thị trường Việt Nam cũng không mang lại sự bảo hộ đối với sáng chế trên ở thị
trường khác, do quyền sở hữu trí tuệ là quyền có tính lãnh thổ. ( trừ trường hợp các quyền đó
đã được đăng ký và được cấp bởi cơ quan sở hữu trí tuệ quốc gia (hoặc khu vực) của thị
trường khác có liên quan.)
Tuy nhiên, Công ty G1 lại đăng ký lưu hành thuốc tại Việt Nam- trong khoảng thời
gian mà BĐQSC của Nguyên Đơn vẫn còn Hiệu Lực.
Căn cứ theo Khoản 1 Điều 126: Hành vi xâm phạm quyền đối với sáng chế :
“Sử dụng sáng chế được bảo hộ,. . .trong thời hạn hiệu lực của văn bằng bảo hộ mà không
được phép của chủ sở hữu;”
Và điểm c Khoản 1 Điều 124: “ Khai thác công dụng của sản phẩm được bảo hộ” quy định
tại LSHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2019.
Có thể thấy Trong trường hợp này, phía công ty G1 đã không thực hiện đúng theo nguyên tắc
chung của việc đăng kí thuốc ( không tra cứu xem, xin phép) và có hành vi xâm phạm đến
quyền đối với sáng chế của công ty M do đăng ký lưu hành sản phẩm thuốc có chứa
hoạt chất trùng với sáng chế được bảo hộ của Nguyên đơn mà không được phép của
Nguyên đơn, nhằm mục đích kinh doanh thương mại và có chung mục đích sử dụng với Nguyên đơn.
*Lưu ý: Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 125 LSHTT. Thì việc lưu thông,
nhập khẩu, khai thác công dụng của sản phẩm chỉ không bị ngăn cấm trong trường hợp sản
phẩm đó do chủ sở hữu, người được chuyển giao quyền sử dụng,. . đưa ra thị trường, kể cả
thị trường nước ngoài. Do sản phẩm thuốc của G1 và M là khác nhau không phải do công ty
M cung cấp nên Nhóm cho rằng Hành vi của công ty G1 Không thuộc vào trường hợp ngoại
lệ được quy định tại điều luật trên. (không có hành vi nhập khẩu song song)
* Như vậy: Từ những lý do trên, có thể kết luận rằng: “ Việc G1 cho rằng vì G1 đã được
cấp số đăng ký lưu hành thuốc nên không xâm phạm quyền đối với sáng chế của Nguyên
đơn là SAI ”
1.4. Liệu Công Ty H1 có vi phạm quyền bảo hộ sáng chế của Công ty M không?
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 126 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2019, hành vi được
coi là xâm phạm quyền đối với sáng chế gồm: “Sử dụng sáng chế được bảo hộ,. . trong thời
hạn hiệu lực của văn bằng bảo hộ mà không được phép của chủ sở hữu;”
và theo Điểm c, d, đ Khoản 1 Điều 124 Luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2019, sử
dụng sáng chế bao gồm các hành vi:
“c) Khai thác công dụng của sản phẩm được bảo hộ hoặc sản phẩm được sản xuất theo quy
trình được bảo hộ;
d) Lưu thông, quảng cáo, chào hàng, tàng trữ để lưu thông sản phẩm quy định tại điểm c khoản này;
đ) Nhập khẩu sản phẩm quy định tại điểm c khoản này.”
⇒ Như vậy, dựa theo những căn cứ pháp lý phân tích ở trên có thể đưa ra kết luận: việc
Công ty H1 đã nhập khẩu, lưu trữ và phân phối tại Việt Nam sản phẩm thuốc “GETSITALIP
100mg” và “GETSITALIP 50mg” có thành phần chứa hoạt chất Sitagliptin đã được bảo hộ
và có chung mục đích sử dụng với các sáng chế của Nguyên đơn; cụ thể đó là H1 đã vi phạm
quy định tại Khoản 1 Điều 126 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2019 với hành vi nhập
khẩu, lưu thông, tàng trữ để lưu thông nhằm mục đích khai thác công dụng của hoạt chất
Sitagliptin của Công ty M đang trong thời gian được pháp luật Việt Nam bảo hộ.
2. KẾT LUẬN: Như vậy việc Nguyên đơn kiện Bị Đơn là hoàn toàn có cơ sở do hành vi
của Bị Đơn đã xâm phạm đến quyền bảo hộ sáng chế của Nguyên Đơn. Bên cạnh đó việc
tòa án cho rằng cần phải đưa G1 tham gia vào tố tụng với tư cách là người có có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan là hoàn toàn chính xác. Do cần phải xác nhận thêm thông tin và
chứng cứ liên quan đến vụ việc để đảm bảo quyền và lợi ích của Bị đơn cũng như G1.
*Lưu ý*: Bình luận của Nhóm chỉ dựa trên những thông tin được cung cấp từ bản án*
Đề xuất của nhóm: Đại diện bên nguyên đơn nên đưa ra những loại thuốc sử dụng hoạt
chất này để chứng minh mình đã thực hiện nghĩa vụ sử dụng sáng chế và hành vi xâm
phạm của Bị đơn đã làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình ( vì có
chung 1 mục đích sử dụng để điều chế thuốc trị bệnh đái tháo đường).
Qua vụ việc trên, chúng ta thấy pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền sáng chế còn một số
hạn chế, bất cập cần được khắc phục như sau:
Một là, vụ tranh chấp trên chưa được giải quyết triệt để, thời gian xét xử kéo dài làm
ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ sở hữu độc quyền sáng chế và những người có quyền lợi
liên quan khác. Mục đích của bằng độc quyền sáng chế là cung cấp một cơ chế bảo hộ quyền
lợi cho các tác giả sáng chế, đổi lại nhà sáng chế sẽ phải bộc lộ thông tin kỹ thuật trong sáng
chế và sau này cộng đồng có thể sử dụng và hưởng lợi ích chung. Nhưng khi đăng ký và đã
được cấp bằng độc quyền sáng chế cũng không thể bảo đảm 100% quyền lợi cho chủ sở hữu
văn bằng, chắc chắn vẫn sẽ có những trường hợp xâm phạm sở hữu trí tuệ ví dụ như vụ việc
trên đòi hỏi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xử lý mạnh tay hơn nữa và kịp thời
hơn để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các đương sự và phát huy vai trò của pháp luật sở hữu trí tuệ.
Hai là, giữa các cơ quan nhà nước chưa có sự thông tin và thống nhất với nhau. Cục Sở
hữu trí tuệ đã cấp văn bằng độc quyền sáng chế cho nguyên đơn từ các năm 2006 và 2008.
Trong khi đó, Bộ Y tế cấp số đăng ký lưu hành tại thị trường Việt Nam đối với các sản phẩm
thuốc có chứa hoạt chất sáng chế đã được cấp bằng bảo hộ trong thời hạn bảo hộ vẫn có hiệu
lực. Mặc dù về nguyên tắc, các bên đăng ký phải chịu trách nhiệm về sở hữu trí tuệ nhưng
việc Bộ Y tế không xác nhận lại với các cơ quan có thẩm quyền về sở hữu trí tuệ mà đã cấp
số đăng ký lưu hành đã gây ra những rủi ro không đáng có cho các bên thứ ba.
Như trong vụ việc trên, có thể hiểu rằng công ty phân phối H1 do thấy rằng công ty G1 đã
được cấp phép lưu hành thuốc tại Việt Nam là không xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ mà
không tìm hiểu kỹ hơn nên đã có phân phối, lưu hành sản phẩm này tưởng như là hợp pháp
và được loại trừ khỏi quyền ngăn cấm người khác sử dụng sáng chế theo Khoản 2 Điều 125
Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung 2009. Thực chất thì việc được lưu hành lại không
đồng nghĩa với việc không xâm phạm sở hữu trí tuệ. Và nếu có tranh chấp xảy ra sau khi đã
được đăng ký thì bấy giờ Bộ Y tế mới tùy vào tình huống cụ thể để rút hoặc tạm đình chỉ số
lưu hành. Như vậy, đây là một điểm đáng lưu ý về sở hữu trí tuệ khi các doanh nghiệp ký hợp
đồng phân phối với nhà sản xuất.
2.2. Bình luận mở rộng về tình hình thực thi pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
đối với sáng chế tại Việt Nam 2.2.1. Thành tựu
Các sáng chế được cấp văn bằng bảo hộ đã được các chủ sở hữu đưa vào sử dụng tại Việt
Nam, đã thực thi nội dung quyền sử dụng cũng như quyền ngăn cấm người khác sử dụng
sáng chế của mình bằng các biện pháp ngăn chặn như cảnh báo, thương lượng, khiếu nại,
khiếu kiện người xâm phạm…
Về phía các cơ quan thực thi, số lượng cơ quan có chức năng đảm bảo thực thi pháp luật về
vấn đề này là rất lớn. Mỗi địa phương có 5 loại cơ quan có chức năng liên quan là Toà án,
Thanh tra khoa học và công nghệ, Cơ quan quản lý thị trường, Công an và Hải quan giúp cho
việc giải quyết các thủ tục cũng như các tranh chấp liên quan đến sáng chế 1 cách hiệu quả.
Về phía các cơ quan chuyên môn: mặc dù không có chức năng xử lý tranh chấp, xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp nhưng hai cơ quan là Cục Sở hữu trí tuệ và Viện Khoa học Sở hữu
trí tuệ lại có vai trò quan trọng trong việc cung cấp những thông tin, dữ liệu đầy đủ, trung
thực và phản ánh đúng hơn tình hình xâm phạm quyền đối với sáng chế. 2.2.2. Hạn chế
Phần lớn số sáng chế được cấp văn bằng bảo hộ ở Việt Nam hoặc là không được sử dụng,
hoặc là không bị xâm phạm hoặc là có bị xâm phạm nhưng chủ sở hữu không quan tâm khắc
phục, không có yêu cầu đến các cơ quan có thẩm quyền để giải quyết…
Mặc dù có số lượng lớn các cơ quan đảm bảo thực thi pháp luật về sáng chế. Các vụ việc có
yếu tố tranh chấp về sáng chế được yêu cầu ý kiến chuyên môn tại Viện Khoa học Sở hữu trí
tuệ lớn hơn nhiều lần số vụ việc được giải quyết tại cơ quan thực thi. Điều này cho thấy rằng
có rất nhiều sáng chế đối mặt với nguy cơ xâm phạm tại Việt Nam nhưng các chủ sáng chế đã
sử dụng các con đường hoặc các biện pháp khác để giải quyết và khắc phục chứ không sử
dụng các biện pháp hành chính hay biện pháp tố tụng dân sự để xử lý. Điều này xuất phát từ
nhiều lý do như sợ mất thời gian, tốn kém và thiếu hiệu quả của những cơ chế giải quyết tại
cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
3.1. Quy định về ngoại lệ quyền đối với sáng chế
Có thể nhận thấy, cách quy định về các ngoại lệ quyền đối với sáng chế không phải xin phép
chủ sở hữu không phân định rõ ràng trường hợp nào có thể yêu cầu khoản đền bù, trường hợp
nào không có quyền yêu cầu khoản đền bù gây khó khăn khi có tranh chấp, hơn nữa còn trộn
lẫn các ngoại lệ quyền đối với sáng chế và các ngoại lệ quyền đối với các đối tượng sở hữu
công nghiệp khác gây rối, không có sự phân định rõ ràng.
Các trường hợp hạn chế quyền của chủ sở hữu các đối tượng sở hữu công nghiệp (như sáng
chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí . .) được quy định tại Khoản 2 Điều 125
Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung 2009, 2019, 2022.
Vì vậy, nhóm có kiến nghị như sau: Thay vì đưa tất cả các ngoại lệ quyền vào một quy định
duy nhất như vậy thì nên có sự quy định riêng lẻ ra hai trường hợp:
- Trường hợp 1: Các trường hợp chủ sở hữu sáng chế không có quyền ngăn cấm người khác
sử dụng sáng chế và không có quyền yêu cầu một khoản đền bù
- Trường hợp 2: Các trường hợp chủ sở hữu sáng chế không có quyền ngăn cấm người khác
sử dụng sáng chế nhưng được quyền yêu cầu một khoản đền bù
Việc quy định như vậy sẽ cụ thể các trường hợp, dễ nắm bắt và áp dụng.
3.2. Phối hợp giữa Bộ Y tế với Bộ Khoa học và Công nghệ trong quản lý thông tin về bảo hộ sáng chế
Trên thực tế, việc quản lý thông tin về bảo hộ sáng chế giữa các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền còn thiếu sự thống nhất. Cục Sở hữu trí tuệ là cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng
độc quyền sáng chế. Trong khi đó, Bộ Y tế cấp số đăng ký lưu hành tại thị trường Việt Nam
đối với các sản phẩm thuốc có chứa hoạt chất sáng chế đã được cấp bằng bảo hộ trong thời
hạn bảo hộ vẫn có hiệu lực. Mặc dù về nguyên tắc, các bên đăng ký phải chịu trách nhiệm về
sở hữu trí tuệ nhưng việc Bộ Y tế không xác nhận lại với các cơ quan có thẩm quyền về sở
hữu trí tuệ mà đã cấp số đăng ký lưu hành đã gây ra những rủi ro cho các bên thứ ba, thậm
chí khi có tranh chấp về độc quyền sáng chế nói riêng và quyền sở hữu công nghiệp nói
chung thì việc lưu hành không hợp pháp mới bị huỷ bỏ.
Vì vậy, nhóm có kiến nghị như sau: Cần xây dựng một hệ thống quản lý dữ liệu chung để
cung cấp thông tin đầy đủ và kịp thời về các đối tượng đã được cấp bằng bảo hộ sáng chế cho
các bên liên quan để tránh việc vi phạm dẫn đến tranh chấp không đáng có.
3.3. Quy định các chế tài đủ mạnh đối với hành vi xâm phạm
Cần quy định các chế tài xử phạt theo hướng đủ mạnh, đảm bảo tính răn đe và ngăn ngừa các
hành vi tái phạm trong tương lai đối với hành vi xâm phạm quyền SHTT đối với sáng chế.
Tuy nhiên, các chế tài này vẫn phải đảm bảo việc tránh lạm dụng các thủ tục hành chính, tạo
ra phiền hà, nhũng nhiễu đối với cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp. Đối với chế tài dân sự, quy
định về bồi thường thiệt hại theo luật định trong những trường hợp khó xác định thiệt hại và
mức bồi thường thiệt hại theo luật định này cần phải đủ lớn để đảm bảo tính răn đe. Ngoài ra,
đối với các hành vi cố ý xâm phạm, hoặc vi phạm có chủ đích,Tòa án có thẩm quyền buộc
bên xâm phạm phải trả một khoản tiền bồi thường bổ sung, bao gồm cả các khoản bồi thường
mang tính chất trừng phạt, răn đe.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật tố tụng dân sự 2015
2. Luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung qua các năm 2009, 2019 3. Luật Doanh nghiệp 2020
4. Thông tư số 44/2014/TT-BYT về đăng ký thuốc
5. Tòa án nhân cấp cao Thành phố Hồ Chí Minh, Bản án số 41/2020/DS-PT ngày 28-7-
2020V/v tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ,
6. Nguyễn Trọng Luận-Nguyễn Thị Ngọc Uyển (2019), Hạn chế quyền của chủ sở hữu sáng
chế - Nghiên cứu so sánh pháp luật Việt Nam và Pháp
Document Outline
- I.BẢN ÁN VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ số 41/20
- 1.Tóm tắt vụ kiện
- 1.1.Một số thông tin cơ bản
- 1.2.Tóm tắt tình tiết
- 1.2.2Tại phiên tòa phúc thẩm:
- 2.4Nhận định của Tòa án
- + Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của Ngu
- II.BÌNH LUẬN
- 1.Bình luận về những vấn đề liên quan
- 2.2.Bình luận mở rộng về tình hình thực thi pháp luật
- 2.2.2.Hạn chế
- III.BÀI HỌC KINH NGHIỆM
- 3.2.Phối hợp giữa Bộ Y tế với Bộ Khoa học và Công nghệ
- 3.3.Quy định các chế tài đủ mạnh đối với hành vi xâm p
- DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO