



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58833082 MÔN KINH TẾ ASEAN NỘI DUNG NHÓM 1:
Câu 1: Trình bày những nét nổi bật trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao ở Myanmar từ khi trở
thành quốc gia độc lập cho đến nay? Việc từ chối thừa nhận kết quả của cuộc bầu cử năm 1990 đã
ảnh hưởng đến nền kinh tế và các mối quan hệ ngoại giao của Myanmar như thế nào? Trả lời:
Từ khi giành được độc lập năm 1948 đến nay, Myanmar thường xuyên mất ổn định về mặt chính trị với
sự kiện lực lượng quân đội đảo chính thành lập Hội đồng Khôi phục trật tự và pháp luật quốc gia
(SLORC) năm 1988 đã đẩy đất nước Myanmar bước vào thời kỳ khủng hoảng, cấm vận, đóng cửa và
bế tắc. Sự thay đổi từ ngày 30 tháng 3 năm 2016 với việc thành lập chính phủ dân cử của Tổng thống
dân sự đầu tiên Htin Kyaw đã chính thức chấm dứt chế độ quân sự đã nắm quyền ở Myanmar hơn 50 năm.
Sự phát triển chính trị của Myanmar (từ 1988 đến 2016)” chia làm ba giai đoạn với các nội dung cụ thể như sau:
1. Chế độ độc tài quân sự ở Myanmar giai đoạn 1988-1997.
Có thể nói, trong tình thế khủng hoảng kinh tế - chính trị - xã hội đất nước đã bùng lên mạnh mẽ vào
1988, đe dọa đến sự tồn vong của chính phủ độc tài, đưa đất nước Myanmar đến bờ vực của cuộc cách
mạng quần chúng, lực lượng cấp tiến trong bộ máy của chế độ độc tài quân sự do tướng Saw Maung chỉ
huy đã tiến hành đảo chính ngày 18 tháng 9 năm 1988. Những biện pháp của tướng Saw Maung chỉ đơn
thuần là việc thay đổi bộ phận lãnh đạo cũ bằng bộ phận lãnh đạo mới bằng việc xóa bỏ Hội đồng Cách
mạng, thành lập Hội đồng Khôi phục Trật tự và Luật pháp quốc gia (SLORC). Mặc dù tổ chức tổng
tuyển cử quốc gia năm 1990 đã thể hiện sự phát triển tiếp theo của nền dân chủ Myanmar trong phạm vi
ảnh hưởng của quân đội, quân đội kiên quyết nắm giữ quyền lực nhà nước của mình và từ chối chuyển
giao quyền lực chính trị cho Liên đoàn quốc gia vì dân chủ (NLD), càng khiến cho Myanmar bị Mỹ và
Liên minh châu Âu (EU) áp đặt lệnh trừng phạt kinh tế. Con đường gia nhập khu vực ASEAN là một
biện pháp tháo gỡ các khó khăn kinh tế và từng bước thực hiện các cải cách chính trị trong bối cảnh hội
nhập khu vực đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới.
2. Các nhân tố phát triển chính trị và các bước chuyển giao quyền lực chính trị ở Myanmar giai đoạn 1998-2008.
Ở giai đoạn này, tình hình phát triển của các lực lượng chính trị xã hội đối lập trong nước, trên cơ sở
đó đề cập đến việc chính phủ Myanmar thành lập Hội đồng Hòa bình và Phát triển Liên bang (SPDC) 1 lOMoAR cPSD| 58833082
và gia nhập ASEAN 1997, chính phủ Myanmar đã nỗ lực tiến hành từng bước các biện pháp làm cơ sở
cho sự ra đời một nhà nước dân chủ như Soạn thảo hiến pháp mới phù hợp với các nguyên tắc cơ bản
đã được đại hôi quốc dân xây ḍ
ựng cũng như trưng cầu ý dân để thông qua hiến pháp. Hiến
pháp mới năm 2008 không những thể hiện rõ mục tiêu nỗ lực xây dựng cơ chế dân chủ đa đảng, cơ chế
kinh tế thị trường, mà còn đảm bảo Quân đội tham gia lãnh đạo đất nước về mặt chính trị. Từ đó có sự
đảm bảo về Hiến pháp nhằm tiếp tục thúc đẩy chiến lược chuyển đổi mô hình nhà nước của Chính phủ
quân sự trước đó. Chính phủ mới ra đời căn cứ vào kết quả bầu cử theo Hiến pháp mới này sẽ có đủ
hành lang pháp lý thực hiện cải cách, làm sâu sắc hơn chiến lược chuyển đổi mô hình nhà nước mà vẫn
không làm thay đổi nguyên tắc Quân đội tham gia lãnh đạo đất nước về chính trị.
3. Xây dựng và củng cố chế độ dân chủ từ 2009 đến 2016.
Ở giai đoạn này, chính phủ Myanmar tổ chức các cuộc bầu cử Quốc hội theo Hiến pháp dân chủ 2008;
Xây dựng và củng cố hệ thống chính phủ dân chủ theo hiến pháp mới; Xây dựng đất nước phát triển,
hiện đại và dân chủ; Giải quyết vấn đề ly khai và xung đột dân tộc; Điều chỉnh các quan hệ đối ngoại.
Sau gần ba thập kỷ, lộ tình bảy bước tiến tới dân chủ đã thành công, chính phủ dân chủ mới ở Myanmar
đã được thành lập năm 2016 và đang phải đối mặt với nhiều vấn đề nan giải trong hơn một năm qua.
Chính phủ dân chủ mới ở Myanmar đang bị chỉ trích công khai cả trong lẫn ngoài nước bởi hàng loạt
vấn đề từ kinh tế bị trì trệ tới vi phạm nhân quyền. Mặc dù chính phủ dân chủ mới ở Myanmar chú
trọng và ưu tiên các cuộc đàm phán hòa bình nhưng tình hình đất nước đang trong tình trạng bất ổn bởi
các cuộc xung đột nổ ra nhiều khu vực. Bên cạnh đó, chính phủ dân chủ mới ở Myanmar cũng phải đối
mặt trước các lời chỉ trích từ cộng đồng quốc tế về các vụ bạo lực do lực lượng an ninh nhà nước gây
ra. Trong khi đó, đầu tư nước ngoài đi xuống kể từ khi chính phủ dân chủ mới ở Myanmar lên nắm
quyền. Nền kinh tế gần như đi chệch hướng cho dù đã có dự đoán sẽ có sự khởi sắc sau cuộc bầu cử. Tự
do báo chí giờ lại bị chỉ trích vì không ít phóng viên bị bắt giam do bình luận chỉ trích giới quân sự
cũng như các thành viên cao cấp đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD) của chính phủ dân chủ
mới ở Myanmar. Đứng trước tình hình này, câu hỏi được đặt ra là liệu chính phủ dân chủ mới ở
Myanmar không có các biện pháp để thúc đẩy một hệ thống dân chủ hơn thì khả năng sau cuộc bầu cử
2020 Myanmar chế độ dân chủ hiện nay sẽ rất mong manh.
Con đường dân chủ ở Myanmar xét về bản chất vẫn nằm trong vòng chi phối của lực lượng quân đội.
Chính quyền dân sự do Aung San Suu Kyi lãnh đạo dù có dùng các biện pháp để tập trung quyền lực
vào tay họ thì lực lượng quân đội Myanmar vẫn kiểm soát các chức năng quan trọng chính quyền, và
nắm trong tay một số (lớn và không thay đổi được) ghế nghị sĩ trong Quốc hội. Vì lẽ đó, gần một thập
niên đã qua trong tiến trình thoát ra khỏi ách độc tài quân sự, sự phát triển chính trị ở Myanmar hiện
nay có thể nói là sự đan xen giữa dân chủ và độc tài. 2 lOMoAR cPSD| 58833082
Liên minh Quốc gia vì Dân chủ của Aung San Suu Kyi giành chiến thắng thuyết phục trong tổng tuyển
cử, họ giành được 392 trong 492 ghế. Tuy nhiên, chính quyền quân sự bác bỏ công nhận kết quả, và cai
trị Myanmar dưới danh nghĩa Hội đồng Hòa bình và Phát triển Quốc gia cho đến năm 2011.
Ban đầu, chính phủ quân sự nói rằng họ sẽ tôn trọng kết quả bầu cử Hội đồng lập hiến, song sẽ không
chuyển giao quyền lực cho đến khi soạn thảo một hiến pháp mới, là điều có thể mất đến hai năm. Tuy
nhiên, sau đó chính phủ ngạc nhiên trước kết quả nên hủy bỏ nó và lưu đày nhiều chính trị gia đối lập,
một số người thành lập nên Chính phủ Liên minh Quốc gia Liên bang Myanmar.Hai tháng sau bầu cử,
Ủy ban Khôi phục Pháp luật và Trật tự ban hành Mệnh lệnh 1/90, giải thích tính hợp pháp của việc cầm
quyền do được Liên Hợp Quốc và các quốc gia đơn lẻ công nhận, cũng như đảm bảo sẽ ngăn chặn Liên
bang tan rã. Chính phủ yêu cầu toàn bộ các đảng công nhận và chấp nhận mệnh lệnh, và nhiều nhân vật
đối lập bị bắt giữ do từ chối tuân thủ.
Câu 2: Nêu những cơ hội đối với doanh nghiệp Việt Nam trước những cam kết của Cộng đồng
kinh tế ASEAN (AEC) là gì?
Khi các mục tiêu của AEC được hoàn tất, AEC sẽ mang lại những cơ hội lớn cho nền kinh tế và các
doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là: Trả lời:
AEC mở ra một khu vực thị trường chung rộng lớn: với gần 100% hàng hóa được tự do lưu chuyển
trong nội khối, AEC tạo ra một khu vực thị trường hàng hóa chung giữa các nước ASEAN, mở ra cơ hội
làm ăn kinh doanh lớn cho các doanh nghiệp trong khu vực;
AEC mở ra cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: môi trường kinh doanh được mở rộng theo
hướng minh bạch và bình đẳng hơn sẽ là điều kiện để thu hút đầu tư nước ngoài không những từ các
nước ASEAN mà cả từ các nước ngoại khối, đặc biệt là các nước đối tác FTA của ASEAN vào Việt
Nam để tham gia và chuỗi giá trị khu vực;
AEC tạo ra sức ép, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam: tham gia vào một sân
chơi chung và chịu áp lực cạnh tranh từ các đối tác khu vực cả về trình độ quản lý, công nghệ và nhân
lực sẽ buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải tự cải tổ, thay đổi, nâng cao năng lực cạnh tranh để có thể
tồn tại và phát triển.
AEC tạo ra khí thế và động lực cho doanh nghiệp: Với tinh thần chuẩn bị cho việc hình thành AEC vào
cuối năm 2015 và những trông đợi về một khu vực thị trường chung năng động với nhiều cơ hội mở ra,
các doanh nghiệp Việt Nam dường như đã được thứ
Câu 3: Nêu nguyên nhân giúp kinh tế Indonesia vượt qua được cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008 ? Trả lời: 3 lOMoAR cPSD| 58833082
- Sở dĩ kinh tế Indonesia có thể tiếp tục tăng trưởng trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu là
do nước này đã thực hiện được một mô hình tăng trưởng mới. Hiện nay, tăng trưởng kinh tế của
Indonesia dựa nhiều vào tiêu dùng nội địa hơn là xuất khẩu. Nhwungx nổ lực khích cầu của
chính phủ như phát tiền cho người nghèo, miễn học phí và phát gạo cho 1/3 dân số nghèo nhất,
tỏ ra rất thành công. Theo bà Sri Mulyani Indrahoyono, bộ trưởng bộ tài chính trong nhiệm kỳ
đầu tiên của tổng thống Yudhoyono, điều căn bản tạo nên sức bền của nền kinh tế Indonesia là
những cuộc cải cách mà Chính phủ nước này tiến hành cải cách hành chính và thay đổi phương
thức chi tiêu của chính phủ bằng việc cắt giảm trợ cấp và tăng dầu tư vào giáo dục và cơ sở hạ tầng.
- Sự quản lý đúng đắng của chính phủ và Ngân hàng Trung ương đối với nền kinh tế là một yếu
tố tích cực, trong đó nổi bật nhất là thắt chặt tài khóa. Trong 9 năm, Indonesia đã cắt giảm nợ
công từ 80% GDP năm 1999 xuống còn 30% vào cuối 5 2008. Gần đây thâm hụt ngân sách của
chính phủ Indonesia thì người chỉ là 1% GDP, thấp hơn con số được quốc hội cho phép là 3%.
Trong năm 2008, ngân sách gần như cân bằng. NHÓM 2
Câu 4: Trình bày những điểm nổi bật về chế độ chính trị, văn hóa và tôn giáo các nước Đông Nam Á? Chính Trị:
Mặc dù đều theo những mô hình tổ chức chính trị tiên tiến của phương Tây, mô hình chính trị lấy
dân chủ làm nguyên tắc tổ chức nhà nước, nhưng những dấu ấn về một xã hội dân chủ ở ĐNA còn rất mờ nhạt.
Philippin, Indonesia đi theo chế độ cộng hòa, tổng thống thì lại độc tài quân phiệt và nạn tham
nhũng nặng nề của giới cầm quyền xung quanh tổng thống.
Có 4 nước theo hình thức chính thể quân chủ lập hiến là Brunei, Campuchia, Malaysia và Thái
Lan. Thái Lan liên tục xảy ra các cuộc đảo chính do có quá nhiều đảng phái chính trị (hàng trăm đảng
phái) và do thế lực quân phiệt Thái Lan cố tình dùng quyền lực của mình để đàn áp phong trào dân
chủ và thanh trừng lẫn nhau.
Singapore có hình thức chính thể cộng hòa đại nghị theo mô hình của nước Anh. Theo hiến pháp,
Singapore có chế độ đa đảng nhưng đảng Nhân dân hành động là đảng duy nhất cầm quyền ở Singapo
liên tục từ năm 1959 đến nay. Ở Malaysia, Đảng Dân tộc Mã Lai thống nhất cầm quyền suốt 40 năm
qua. Do có đường lối đúng đắn dẫn dắt đất nước và đạt được những thành tựu kinh tế quan trọng nên
Singapore và Malaysia là hai quốc gia phát triển hàng đầu Đông Nam Á hiện nay. 4 lOMoAR cPSD| 58833082
Myanmar, theo Hiến pháp năm 1947 là chính thể cộng hòa dân chủ đại nghị, nhưng từ sau các
cuộc đảo chính quân sự (năm 1962-1974 và năm 1988), thể chế chính trị của Myanmar đến nay vẫn
đang là chế độ quân sự.
Nước Lào từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, sau khi giành được độc lập đã đi theo con
đường phát triển XHCN với hình thức chính thể cộng hòa dân chủ nhân dân.
Việt Nam đi theo con đường XHCN với chính thể cộng hòa xã hội chủ nghĩa. Văn hóa:
Tìm hiểu văn hóa của các nước Đông Nam Á sẽ thấy nhiều nét tương đồng với văn hóa Ấn Độ, Trung
Quốc, ví dụ như ảnh hưởng của Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo, đạo Hindu,… Những ảnh hưởng này được
thể hiện trong cả hệ tư tưởng, lối sinh hoạt, các phong tục thờ cúng, kiến trúc và diễn xướng dân gian,…
Ngoài ra khu vực Đông Nam Á còn chịu tác động mạnh từ văn hóa Ả rập, văn hóa Âu, Mỹ.
Mặc dù khu vực đã có nền tảng văn hóa vững chắc song vẫn chịu nhiều ảnh hưởng của các nền văn
hóa khác là do đây là khu vực có vị trí gần với các quốc gia có nền văn hóa lớn, thuận lợi giao thương,
lịch sử các nước trải qua nhiều giai đoạn bị xâm chiếm, đô hộ bởi các cường quốc. Tiến trình tiếp biến văn
hóa diễn ra một cách chủ động (thông qua hoạt động trao đổi, buôn bán, học hỏi của cư dân Đông Nam Á
với cư dân các nền văn hóa khác) và bị động (qua quá trình bị đô hộ).
Quá trình tiếp biến xảy ra mạnh mẽ song nền văn hóa các nước Đông Nam Á có sự tiếp thu chọn lọc,
kết hợp hài hòa giữa văn hóa bản địa và văn hóa du nhập, tạo nên những bản sắc riêng. Do đó chúng ta dễ
dàng nhận thấy sự khác biệt giữa Phật giáo ở Thái Lan, Myanmar, Lào với Phật giáo Ấn Độ; Nho giáo của
Việt Nam khác với Nho giáo của Trung Quốc,…Nhờ sự giao lưu này, văn hóa Đông Nam Á đã đạt được
những thành tựu mới mẻ trong quá trình phát triển của mình 1. Nông nghiệp.
Văn hóa nông nghiệp là một trong những yếu tố gốc của văn hóa Đông Nam Á. Do sinh sống
trong khu vực khí hậu nhiệt đới, gió mùa, người dân Đông Nam Á đã tạo nên những nền văn hóa đa dạng và phong phú.
Người dân khu vực sống chủ yếu bằng lúa gạo với 2 hình thức canh tác: ruộng nước và nương
rẫy, người dân thuần dưỡng trâu bò lấy sức kéo, chế tạo công cụ lao động và xây dựng hệ thống
thủy lợi. Do làm nông nghiệp nên cư dân tập trung sinh sống tại các khu vực có nguồn nước, tạo
nên đặc điểm quần cư thành những làng xóm. Giá trị gia đình, tinh thần kính trọng người già được
đề cao, tổ tiên được coi trọng; truyền thống cộng đồng làng/bản bền chặt.
Nông nghiệp buổi sơ khai phụ thuộc vào tự nhiên nên tín ngưỡng thờ các vị thần tự nhiên là
tính ngưỡng phổ biến trong khu vực. Lễ hội thường xuyên được tổ chức vào thời điểm đầu mùa vụ
mới hoặc sau các vụ thu hoạch trước hết để tế lễ thần linh phù hộ cho các mùa vụ bội thu, sau đó là 5 lOMoAR cPSD| 58833082
để người dân vui chơi sau những ngày lao động vất vả. Đây là khu vực đa dạng các hình thức trình
diễn dân gian như rối bóng, rối nước; âm nhạc truyền thống và các loại nhạc cụ rất gần gũi với
thiên nhiên; văn hóa ẩm thực đa dạng và độc đáo.
2. Nền văn hóa uyển chuyển, thích nghi với những thay đổi.
Văn hóa của các nước Đông Nam Á nhiều nét tương đồng với văn hóa Ấn Độ, Trung Quốc, ví dụ
như ảnh hưởng của Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo, đạo Hindu,… Những ảnh hưởng này được thể hiện
trong cả hệ tư tưởng, lối sinh hoạt, các phong tục thờ cúng,… Ngoài ra khu vực Đông Nam Á còn
chịu tác động mạnh từ văn hóa Ả rập, văn hóa Âu, Mỹ.
Mặc dù khu vực đã có nền tảng văn hóa vững chắc nhưng vẫn chịu nhiều ảnh hưởng của các nền
văn hóa khác là do đây là khu vực có vị trí gần với các quốc gia có nền văn hóa lớn, thuận lợi giao
thương, lịch sử các nước trải qua nhiều giai đoạn bị xâm chiếm, đô hộ bởi các cường quốc. Tiến trình
tiếp biến văn hóa diễn ra một cách chủ động (thông qua hoạt động trao đổi, buôn bán, học hỏi của cư
dân Đông Nam Á với cư dân các nền văn hóa khác) và bị động (qua quá trình bị đô hộ).
Quá trình tiếp thu nền văn hóa xảy ra mạnh mẽ song các nước Đông Nam Á có sự tiếp thu chọn
lọc, kết hợp hài hòa giữa văn hóa bản địa và văn hóa du nhập, tạo nên những bản sắc riêng. Do đó
chúng ta dễ dàng nhận thấy sự khác biệt giữa Phật giáo ở Thái Lan, Myanmar, Lào với Phật giáo Ấn
Độ; Nho giáo của Việt Nam khác với Nho giáo của Trung Quốc,…Nhờ sự giao lưu này, văn hóa
Đông Nam Á đã đạt được những thành tựu mới mẻ trong quá trình phát triển của mình.
3. Một khu vực văn hóa thống nhất trong đa dạng.
Từ nền tảng văn hóa và sự tiếp thu văn hóa đã tạo nên tính thống nhất trong đa dạng của văn
hóa khu vực. Tính thống nhất của văn hóa khu vực Đông Nam Á được thể hiện ở chủ thể của văn
hóa Đông Nam Á. Đông Nam Á là một trong những cái nôi của loài người, đây là nơi hình thành
của đại chủng phương Nam (Australoid) với nước da ngăm đen, tóc quăn dợn sóng, nhỏ, thấp. Từ
đặc điểm chủng tộc tạo nên sự thống nhất cao độ của khu vực văn hóa Đông Nam Á.
Dù tín ngưỡng bản địa Đông Nam Á hết sức đa dạng nhưng vẫn thuộc về ba loại chính: Tín
ngưỡng sùng bái tự nhiên, tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng thờ cúng người đã mất.
Các quốc gia Đông Nam Á hiện tồn tại hàng chục, hàng trăm ngôn ngữ khác nhau. Như ở
Indonesia có đến 200 ngôn ngữ dân tộc cùng tồn tại; ở Philippin củng có tới 80 ngôn ngữ dân
tộc...Tuy nhiên, các ngôn ngữ này thuộc về một trong số 4 ngữ hệ: Nam Á, Nam Đảo, Thái, Hán –
Tạng. Và xa hơn nữa, chúng đều bắt nguồn từ một nguồn gốc chung là ngôn ngữ Đông Nam Á tiền sử. 6 lOMoAR cPSD| 58833082
Về chữ viết, từ đầu công nguyên, dân tộc Đông Nam Á đã vay mượn chữ Hán (như ở Việt Nam)
và chữ Pali – Sanskrit (ở các nước khác) để xây dựng chữ viết riêng cho dân tộc mình. Từ thế kỷ XIII,
các quốc gia Nam Đảo Malaysia, Indonesia chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của chữ viết Ả Rập. Từ thế kỷ
XVI, do ảnh hưởng của phương Tây, chữ viết của các quốc gia Đông Nam Á được chuyển đổi theo
hướng La tinh hóa (chữ viết Brunei, Malaysia, Indonesia, Philippin và Việt Nam) được sử dụng ngày nay.
Về phong tục tập quán: Cũng như chữ viết, khu vực Đông Nam Á có hàng trăm dân tộc khác
nhau, nên phong tục, tập quán đa dạng, đặc sắc. Tuy nhiên, những phong tục lại có nét gần gũi, tương
đồng nhau, có sự giao thoa trên nền tảng văn hóa bản địa Đông Nam Á. Đó là điểm tương đồng trong
trang phục truyền thống (váy, khố, vòng đeo tai, vòng đeo cổ); mô hình bữa ăn (thức ăn chính là cơm,
rau, cá và hoa quả); tục ăn hỏi trước khi tổ chức đám cưới linh đình; nghi lễ đám tang (chôn vật dụng
theo người chết); tục nhuộm răng, ăn trầu; trò chơi dân gian (thả diều, thi chọi gà, bơi thuyền…).
Trong cách ăn ở, ngôi nhà chung của các dân tộc Đông Nam Á là nhà sàn “cao cẳng” thích hợp với
mọi địa hình của khu vực và phù hợp với khí hậu nóng ẩm của khu vực Đông Nam Á. Tôn Giáo.
Tôn giáo của loài người với rất nhiều loại hình tín ngưỡng như tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, tín
ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng Thành hoàng, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Đặc biệt, bức tranh tôn giáo
của Đông Nam Á cũng rất đa dạng với các tôn giáo chính như Phật giáo, Islam giáo, Công giáo, Nho
giáo, Hindu giáo. Tín ngưỡng cũng rất đa dạng gồm ba nhóm chính: tín ngưỡng sùng bài tự nhiên, tín
ngưỡng phồn thực và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
Đông Nam Á là một khu vực có truyền thống lịch sử vãn hoả lâu đời và được xem là bảo tàng tín
ngưỡng, tôn giáo của loài người với rất nhiều loại hình tín ngưỡng như tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, tín
ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng Thành hoàng, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Đặc biệt, bức tranh tôn giáo của
Đông Nam Á cũng rất đa dạng với các tôn giáo chính như Phật giáo, Islam giáo, Công giáo, Nho giáo,
Hindu giáo. Hiện nay, trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, các nước Đông Nam Á đều nhận biết được tầm
quan trọng của tôn giáo, tín ngưỡng để biến tôn giáo, tín ngưỡng trở thành một trong những cơ hội của
quá trình toàn cầu hóa về văn hóa. Tuy nhiên, việc đa dạng hóa các loại hình tôn giáo, tín ngưỡng cũng đặt
ra nhiều thách thức trong tiến trình phát triển quốc gia và khu vực. Bằng phương pháp nghiên cứu lịch sử,
phương pháp so sánh, đối chiếu, mục đích của bài viết nhằm khái quát đời sống tôn giáo, tín ngưỡng ở
khu vực Đông Nam Á. Qua đó, cũng chỉ ra những cơ hội và thách thức của chính yếu tố này trong quá
tình hội nhập và phát triển hiện nay.
Câu 5: Nêu khái quát tình hình kinh tế - xã hội của Lào từ khi giành được độc lập cho đến những
năm đầu thế kỉ XXI? 7 lOMoAR cPSD| 58833082
- Sau khi giải phóng hoàn toàn đất nước, một trong những nhiệm vụ cốt yếu hàng đầu của Nhà
nước Lào là tập trung khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế - xã hội, đưa đất nước
sớm thoát khỏi tình trạng kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân. Nhận thức rõ vị trí, vai trò
của mình đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, Đảng NDCM Lào sớm đề ra nhiều chủ
trương, biện pháp để phát triển kinh tế - xã hội.
- Với chủ trương, khôi phục và phát triển kinh tế, tổ chức lại sản xuất, đẩy mạnh sản xuất lương
thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng; đồng thời tranh thủ viện trợ quốc tế, nhằm đáp ứng các yêu
cầu cần thiết của nhà nước và của nhân dân của Đảng NDCM Lào đề ra, nhân dân các bộ tộc
Lào đã phát huy hết tinh thần, trách nhiệm của mình, khai thác mọi thế mạnh, tiềm năng sẵn có
vào phát triển sản xuất, từng bước đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khó khăn sau chiến tranh
và làm cho tình hình kinh tế tài chính và đời sống nhân dân ổn định.
- Để đưa đất nước phát triển nhanh hơn, dần hòa nhịp vào sự phát triển của khu vực và thế giới,
Đại hội lần thứ IV (1986) của Đảng NDCM Lào đã kịp thời đề ra đường lối đổi mới toàn diện,
xây dựng và phát triển đất nước. Dưới ánh sáng của đường lối đổi mới, kinh tế Lào phát triển
khá mạnh. Có thể nhận thấy rằng, từ khi mở cửa, điều chỉnh cơ cấu kinh tế năm 1986 đến nay,
Lào từ một trong những nước chậm phát triển nhất đã trải qua thời kỳ khó khăn nhất, để tiến lên
xây dựng nền kinh tế quốc dân vững mạnh.
- Trong năm tài khóa 2011-2012, Lào đã khắc phục những khó khăn như lũ lụt, lạm phát trong
nước cũng như những ảnh hưởng bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế… để thúc đẩy
phát triển kinh tế, hoàn thành mọi chỉ tiêu kinh tế. Trong năm tài khóa này, GDP của Lào tăng
8,3% so với cùng kỳ, đạt 620.000 tỷ kíp (khoảng 7,74 tỷ USD) và GDP bình quân đầu người vào
khoảng 9,64 triệu kíp (1.203 USD).
- So với các nước thành viên ASEAN khác, quá trình chuyển từ nền kinh tế tự nhiên và nửa tự
nhiên sang nền kinh tế hàng hóa của Lào rất khó khăn. Tuy nhiên, điều đáng mừng là 6 triệu
người dân Lào qua phấn đấu gian khổ, đã giành được sự tiến bộ vượt bậc về xây dựng kinh tế quốc dân.
- Lào đã thực thi nhiều sách lược phát triển kinh tế: thu hút vốn đầu tư nước ngoài; coi trọng xây
dựng đặc khu kinh tế; thúc đẩy toàn diện 6 chiến lược thương mại lớn gồm: ngoại thương, sản
xuất sản phẩm và quản lý xuất-nhập khẩu, dịch vụ thương mại quá cảnh, phát triển thị trường và
quản lý hàng hóa, phát triển nguồn nhân lực và quản lý hành chính; tăng cường hợp tác kinh tế
khu vực; và tích cực phát triển công nghiệp gắn với bảo vệ môi trường.
- Nhằm tạo đột phá cho nền kinh tế, Lào không ngừng mở rộng việc hợp tác giao lưu, thúc đẩy
phát triển kinh tế với nhiều nước, đặc biệt là với Việt Nam. Thương mại hai chiều giữa hai nước
Việt – Lào cũng không ngừng tăng cao với kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 734 triệu USD trong
năm 2011, tăng 50% so với năm 2010. Tính đến nay, Việt Nam là nước đầu tư lớn thứ 2 tại Lào. 8 lOMoAR cPSD| 58833082
Các doanh nghiệp Việt Nam đã đầu tư vào Lào hơn 400 dự án quan trọng với tổng vốn đầu tư
khoảng 3,6 tỷ USD. Dự báo, đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam sẽ tăng 7 tỷ USD vào năm
2015, kim ngạch hai chiều đạt 2-3 tỷ USD vào năm 2015 và 5 tỷ USD vào năm 2020.
- Đi đôi với phát triển kinh tế, Lào đã đẩy mạnh phát triển các hoạt động xã hội, tạo ra sự hài hòa
trong phát triển. Với chủ trương coi giáo dục là điểm mấu chốt trong việc xây dựng xã hội Lào
văn minh hiện đại, ngành giáo dục Lào đã có bước tiến dài. Hệ thống giáo dục hằng năm đã đào
tạo ra một số lượng lớn cán bộ có chuyên môn phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Đặc biệt, để đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, ngoài số tự đào tạo được, hằng năm Lào còn gửi hàng ngàn học sinh, sinh viên ra nước
ngoài học tập. Riêng với Việt Nam, hợp tác giáo dục – đào tạo phát triển nguồn nhân lực được ưu
tiên và mở rộng với nhiều hình thức, được thực hiện từ trung ương tới các bộ, ngành, địa phương,
tổ chức, doanh nghiệp. Mỗi năm, Việt Nam tiếp nhận khoảng 650 học sinh Lào và hiện có tới gần
5.000 du học sinh Lào đang học tập tại Việt Nam. Nhờ đó, trình độ của cán bộ Lào không ngừng
tăng lên. Nếu năm 1995, số cán bộ có trình độ trên đại học của Lào chỉ có 0,45%, cao cấp và đại
học là 15,16%, không có tiến sĩ và phó tiến sĩ, thì chỉ trong vòng 11 năm (1995 – 2006), Lào đã
có 275 tiến sĩ, 2.017 phó tiến sĩ; 13.833 thạc sĩ, đại học; 14.905 cán bộ có trình độ lý luận chính trị cao cấp...
Với mục đích nâng cao hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, việc chăm
sóc sức khỏe, xây dựng môi trường, không gian văn hóa mang đậm tính dân tộc luôn được Đảng,
Nhà nước Lào chú trọng. Hàng năm, Lào tập trung xây dựng, nâng cấp các bệnh viện từ trung
ương đến địa phương, tiến hành cải tạo, nâng cấp các cơ sở khám chữa bệnh ở tuyến dưới... Bên
cạnh đó, các hoạt động văn hóa – xã hội, thể dục, thể thao cũng được đẩy mạnh. Ở hầu hết các
bản làng, ngoài các hoạt động văn hóa truyền thống, việc xây dựng đời sống văn hóa mới đã dần
xóa bỏ được các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan... trong đời sống nhân dân, làm cho nhân dân ngày
càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, từ đó họ nhận thức được vai trò và trách nhiệm của
mình trong việc xây dựng một nước Lào phồn vinh, giàu mạnh.
Kinh tế Lào là một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang phát triển
nhanh, khi quốc gia này bắt đầu giảm dần quản lý nhà nước và khuyến khích thành phần kinh tế
tư nhân vào năm 1986[4]. Lào đã mở một sở giao dịch chứng khoán vào năm 2011, đồng thời
có vai trò như một nhà cung cấp thủy điện cho các quốc gia láng giềng như Việt Nam, Trung
Quốc, Thái Lan[5]. Mặc dù vậy, là một quốc gia không giáp biển, lại có cơ sở hạ tầng chưa
hoàn thiện và phần lớn lực lượng lao động thiếu kỹ năng. Lào hiện nay vẫn đang là một trong
những nước nghèo nhất tại khu vực Đông Nam Á nói riêng và là một trong những nước kém
phát triển nhất trên thế giới nói chung. 9 lOMoAR cPSD| 58833082
Sau khi giải phóng hoàn toàn đất nước, một trong những nhiệm vụ cốt yếu hàng đầu
của Nhà nước Lào là tập trung khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế - xã hội, đưa
đất nước sớm thoát khỏi tình trạng kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân.
Nhận thức rõ vị trí, vai trò của mình đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, Đảng
NDCM Lào sớm đề ra nhiều chủ trương, biện pháp để phát triển kinh tế - xã hội.
Với chủ trương, khôi phục và phát triển kinh tế, tổ chức lại sản xuất, đẩy mạnh sản xuất
lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng; đồng thời tranh thủ viện trợ quốc tế, nhằm đáp ứng các
yêu cầu cần thiết của nhà nước và của nhân dân của Đảng NDCM Lào đề ra, nhân dân các bộ tộc Lào
đã phát huy hết tinh thần, trách nhiệm của mình, khai thác mọi thế mạnh, tiềm năng sẵn có vào phát
triển sản xuất, từng bước đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khó khăn sau chiến tranh và làm cho tình
hình kinh tế tài chính và đời sống nhân dân ổn định.
Để đưa đất nước phát triển nhanh hơn, dần hòa nhịp vào sự phát triển của khu vực và thế
giới, Đại hội lần thứ IV (1986) của Đảng NDCM Lào đã kịp thời đề ra đường lối đổi mới toàn
diện, xây dựng và phát triển đất nước. Dưới ánh sáng của đường lối đổi mới, kinh tế Lào phát
triển khá mạnh. Có thể nhận thấy rằng, từ khi mở cửa, điều chỉnh cơ cấu kinh tế năm 1986 đến
nay, Lào từ một trong những nước chậm phát triển nhất đã trải qua thời kỳ khó khăn nhất, để tiến
lên xây dựng nền kinh tế quốc dân vững mạnh.
Lào đã thực thi nhiều sách lược phát triển kinh tế: thu hút vốn đầu tư nước ngoài; coi
trọng xây dựng đặc khu kinh tế; thúc đẩy toàn diện 6 chiến lược thương mại lớn gồm: ngoại
thương, sản xuất sản phẩm và quản lý xuất-nhập khẩu, dịch vụ thương mại quá cảnh, phát triển
thị trường và quản lý hàng hóa, phát triển nguồn nhân lực và quản lý hành chính; tăng cường hợp
tác kinh tế khu vực; và tích cực phát triển công nghiệp gắn với bảo vệ môi trường.
Câu 6: Nhờ dầu mỏ, Brunei trở thành một quốc gia giàu có và vì vậy người dân ở Brunei được
hưởng những phúc lợi xã hội được xem là tốt hàng đầu thế giới. Anh (chị) hãy nêu những nét nổi
bật trong hệ thống phúc lợi và an sinh xã hội của Brunei
- Những nét nổi bật trong hệ thống phúc lợi và an sinh xã hội của Brunei
Một trẻ em Brunei ngay từ khi mới sinh ra đã mặc nhiên được đảm bảo một cuộc sống ấm
no và hạnh phúc. Với 1$B (1Dollar Brunei tương đương 16.000vnđ), người dân nơi đây có thể chi
trả toàn bộ những chi phí căn bản của cuộc sống nhờ vào những cam kết của Quốc vương:
Cam kết về y tế: mọi người đều có thể vào bệnh viện chăm sóc sức khỏe, từ những bệnh
thông thường cho đến những căn bệnh hiểm nghèo, nặng nhất là ung thư. Người bệnh sẽ được
chuyển sang Malaysia hoặc Singapore để chữa trị. Mọi chi phí cho người bệnh và người thân
chăm sóc kèm theo đều được chính phủ chi trả.
Cam kết về giáo dục: mọi trẻ em đều có cơ hội học tập và sang các quốc gia khác để học lên cao.
Chính phủ tài trợ toàn bộ học phí từ cấp tiểu học cho đến đại học và sau đại học. Phụ huynh chỉ phải chịu 10 lOMoAR cPSD| 58833082
một khoản phí nhỏ để mua bút và tập trắng. Bên cạnh đó, học sinh ở Brunei được đi học miễn phí, nam và
nữ học ở các trường riêng. Nếu tốt nghiệp THPT mà muốn học Đại học ở nước ngoài, Nhà nước sẽ cấp
bổng du học với điều kiện thời gian du học nước ngoài bao nhiêu năm thì sau khi trở về người đó phải làm
việc cho nhà nước bấy nhiêu năm.
Cam kết về nhà ở: mọi người dân đều có thể sở hữu nhà ở, nếu không có đủ điều kiện mua nhà,
chính phủ sẽ có những dự án nhà công cộng và bán cho người dân trả góp với số tiền 1$B/tháng.
Chưa hết, bạn sẽ hoàn toàn bất ngờ vì sinh hoạt phí tại Brunei vô cùng rẻ. Chỉ với 2$ - 3$B bạn
có thể dùng bữa trưa tương đối thịnh soạn với đùi gà, cơm, rau xanh và nước uống. Tại Vương quốc này,
giá nhiên liệu xăng dầu rẻ hơn cả nước uống đóng chai (1 lít nước đóng chai mua được gần 4 lít xăng) và
người dân hầu như không phải chịu thuế nên trung bình một người trưởng thành sở hữu 2 chiếc xe hơi…
vấn đề an sinh xã hôi ṭ ại đất nước này, theo người dân địa phương, các hô đựợc cho là “chưa
giàu” nếu cần nhu cầu về nhà ở thì chỉ cần đăng ký với Chính phủ, khi được chấp thuân, họ chỉ cần
đóng ̣ cho nhà nước vài đô la Brunei là mấy năm sau được gọi đến nhận nhà, sau khi chính phủ xây
dựng xong các khu dân cư, kiểu như nhà ở xã hội tại việt Nam.
TAP nhằm cung cấp một cơ chế tiết kiệm và bảo trợ xã hội tốt nhất tại Brunei. Với nhiệm vụ chủ
yếu là hỗ trợ các thành viên tiết kiệm và tối ưu hóa quỹ hưu trí của họ, nhằm đảm bảo tất cả chủ SDLĐ
đóng góp bảo hiểm cho NLĐ; đảm bảo rằng tất cả thành viên nhận được mức cổ tức hợp lý qua việc đầu tư
từ khoản tiết kiệm của họ; đảm bảo rằng tất cả các thành viên hợp pháp có thể rút tiền tiết kiệm của họ một
cách dễ dàng và nhan chóng; cung cấp dịch vụ tốt, hiệu quả, chu đáo và lịch sự cho cả chủ SDLĐ và NLĐ. NHÓM 3
Câu 7: Hãy phân tích những đặc trưng của mô hình phát triển kinh tế Đông Nam Á?
Người ta có thể khái quát một số đặc trưng chủ yếu của Mô hình phát triển kinh tế Đông Nam Á như sau:
+ Khai thác triệt để các nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động dồi dào rẻ mạt vì mục tiêu xuất khẩu.
Các nước Đông Nam Á có lợi thế hơn so với các nước láng giềng Đông Á nhờ lực lượng dân số đông,
nguồn lao động và tài nguyên thiên nhiên dồi dào và rẻ. Nhờ đó trở thành điểm hấp dẫn đầu tư nước
ngoài vào khai thác và chiếm lĩnh thị trường.
Tuy nhiên do xuất phát điểm là các nước nghèo và lạc hậu, điểm yếu của các nước Đông Nam Á là
thiếu vốn và thiếu kĩ thuật tiên tiến. Vì vậy, để khắc phục các điểm yếu và đẩy mạnh tăng trưởng kinh
tế, các nước Đông Nam Á đã chuyển từ chiến lược công nghiệp hóa “thay thế nhập khẩu” sang “hướng vào xuất khẩu”. 11 lOMoAR cPSD| 58833082
+ Đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, nhất là các công ty xuyên quốc gia (Transnational Corporations
- TNCs) và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu
Các nước Đông Nam Á đã áp dụng nhiều chính sách và biện pháp khác nhau để thu hút đầu tư nước
ngoài như mở các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghiệp cao, khu kinh tế,… Bước đầu khắc
phục được những khó khăn về vốn và thực hiện chuyển giao kĩ thuật đồng thời tham gia được vào chuỗi giá trị toàn cầu.
+ Nền kinh tế phụ thuộc vào nước ngoài
Việc thu hút được nhiều vốn đầu tư từ các công ty nước ngoài cũng như đẩy mạnh các hoạt động xuất
khẩu hàng hóa ra thị trường thế giới tuy là thế mạnh để phát triển kinh tế nhưng nó cũng là yếu điểm
của các nước Đông Nam Á, vì nó khiến cho nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào nước ngoài.
+ Các quyết định của chính phủ Đông Nam Á thường bị chi phối và thao túng bởi các nhóm lợi ích
Ở hầu hết các nước Đông Nam Á, chính phủ có vai trò quan trọng trong điều hành kinh tế. Tuy nhiên,
các quyết định quan trọng của chính phủ đều bị chệch hướng so với mục tiêu ban đầu và hậu quả là tác
động tích cực của các chính sách kinh tế đối với nền kinh tế - xã hội quốc gia đều bị suy giảm và nó thể
hiện rõ ở các nước Indonesia và Philippines.
Câu 8: Anh (chị) hãy trình bày những thành tựu trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, và thương
mại đầu tư của Singapore? Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, kinh tế
Singapore vẫn tiếp tục tăng trưởng. Nguyên nhân vì sao? 12 lOMoAR cPSD| 58833082 + Công nghiệp
Singapore có cơ sở hạ tầng và một số ngành công nghiệp phát triển cao hàng đầu Châu Á và thế giới
như: cảng biển, công nghiệp đóng và sửa chữa tàu, công nghiệp lọc dầu, chế biến, điện tử và lắp ráp
máy móc tinh vi. Singapore có 12 khu vực công nghiệp lớn, trong đó lớn nhất là Khu công nghiệp
Durông (Jurong). Singapore là nước hàng đầu về sản xuất ổ đĩa máy tính điện tử và hàng bán dẫn.
Singapore còn là trung tâm lọc dầu và vận chuyển quá cảnh hàng đầu ở Châu Á. + Dịch vụ
Số lượt khách quốc tế và thu nhập từ du lịch năm 2017 đạt mức cao kỷ lục lần thứ hai trong hai năm.
Khách đến Singapore tăng 6.2% lên 17.4 triệu, trong đó có 7 trong số 15 thị trường hàng đầu là Trung
Quốc, Ấn Độ, Việt Nam, Philippines, Mỹ, Anh và Đức. Ước tính sơ bộ cho năm 2017 cũng cho thấy du
khách Singapore đã chi tiêu nhiều hơn. Tổng thu nhập du lịch tăng 3.9% lên 26.8 tỷ đô la Singapore.
Điều này chủ yếu là do khách du lịch đến từ 10 thị trường hàng đầu, cũng như nhiều khách hàng đến từ
các thị trường chi tiêu cao như Trung Quốc, Hàn Quốc, Hoa Kỳ và Vương quốc Anh. Trung Quốc cũng
đứng đầu về doanh thu du lịch trong năm thứ ba liên tiếp
Năm 2016, Singapore đạt kỷ lục và vượt cả dự đoán về cả số lượng khách quốc tế đến cũng như về
ngân sách thu được từ du lịch. Cụ thể, số lượng khách du lịch tăng 7.7% lên mức 16.4 triệu lượt người,
ngân sách thu về từ du lịch tăng 13.9% lên mức 24.8 tỉ USD nhờ khách du lịch chi tiêu nhiều hơn vào
ăn uống, mua sắm và khách sạn. Sang năm 2015, Singapore đón 15.23 triệu lượt khách quốc tế đến qua
đường không, thủy, bộ, tăng 0.9% so với 2014. Trong đó lượng khách lớn nhất đến từ Châu Á với hơn
11.68 triệu lượt khách (Đông Nam Á là gần 5.75 triệu lượt khách, Việt Nam có hơn 418 ngàn lượt khách đến thăm. + Thương mại đầu tư
Chỉ tính riêng nửa đầu năm 2020, Singapore đã thu hút được khoảng 14,3 tỷ SGD các nguồn đầu tư vào
tài sản cố định – tương đương với 95% tổng lượng đầu tư cam kết cho cả năm 2019. Con số 15,2 tỷ
SGD Singapore đã thu hút được trong năm 2019 là mức cao nhất trong 7 năm qua.
+ Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, kinh tế Singapore vẫn tiếp tục tăng trưởng. : Nguyên nhân vì sao?
Trong cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997, Singapore đã suy thoái kéo dài bốn quý. Nhưng
trong cuộc khủng hoảng này, tình hình đã thay đổi, GDP của Singapore trong Quý II năm nay đã tăng
lên 20,7% so với Quý I. GDP của Hồng Kông Quý II tăng 3,3% và của Nhật tăng 0,9%. Trong khi đó ở
Châu Âu Đức, Pháp tuyên bố đã bước ra cuộc khủng hoảng và Mỹ đang được mong đợi sẽ tăng trưởng trở lại vào Quý III. 13 lOMoAR cPSD| 58833082
Một lý do mà nhiều nhà kinh tế đồng tình để giải thích cho việc phục hồi đáng kinh ngạc này là phản
ứng mạnh mẽ của các chính phủ cả về quy mô và sự phối hợp xuyên quốc gia. Quay trở về tháng 11
năm ngoái, cùng với các nước Phương Tây, các Chính phủ ở Châu Á đã giảm mạnh lãi suất để thúc đẩy
thanh khoản và cho vay. Mức lãi suất trung bình trong khu vực là 2%. Trong cuộc đại khủng hoảng, lãi
suất thực sự đã tăng trong giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng. Sau đó, các gói kích thích tài chính trị
giá hàng nghìn tỷ đô la được đưa ra để cứu nguy cho nền kinh tế. Dẫn đầu là gói kính thích của Trung
Quốc lên đến bốn nghìn tỉ nhân dân tệ (Khoảng 500 tỷ đô la Mỹ), tương đương 6% GDP. Ở Singapore
gói kích thích lên đến 20,5 tỉ đô la Singapore tương đương 8,6% GDP. Chính sự thận trọng của một số
quốc gia Châu Á trong thời gian bùng nổ kinh tế đã góp phần dập tắt cuộc khủng hoảng này. Các gói
kích thích đã có tác dụng làm giảm thất nghiệp và kích thích chi tiêu.
Câu 9: Anh (chị) hãy nêu khái quát tình hình kinh tế - xã hội Thái Lan trong những năm đầu thế kỷ XX?
Giai đoạn 1945 đến 1975:
Mỹ sử dụng Thái Lan như một căn cứ quân sự và hậu phương nhu yếu phẩm cho chiến tranh Đông
Dương. Các khoản viện trợ không hoàn lại, các khoản đâu tư lớn từ các nước phát triển đổ vào Thái Lan
với mục tiêu biến Thái Lan thành “hình mẫu của Mỹ và thế giới tư bản” ở Đông Nam Á tiến hành xây
dựng đất nước trong môi trường quốc tế khá thuận lợi.
Xây dựng nền kinh tế quốc doanh và giao cho người Thái quản lý. Kế
hoạch 5 năm phát triển công nghiệp (1953 - 1957): xây dựng một loạt
chương trình như thiếc, xi măng, đường, nhôm, ...
Vào thập niên 60: thực sự bước vào thời kỳ đầu công nghiệp hóa, áp dụng chính sách công nghiệp thay
thế nhập khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ nội địa mà không cần đến nhập ngoại.
Tuy nhiên trong thập niên 70: công nghiệp vẫn chủ yếu tập trung ở các ngành công nghiệp thực phẩm
và công nghiệp nhẹ và phần lớn được tập trung ở các đô thị và đồng bằng miền Trung.
Lấy xuất khẩu và dịch vụ làm đầu tàu cho tăng trưởng kinh tế:
Nông sản và nguyên liệu thô (lúa gạo, thiếc, cao su) là nguồn thu ngoại tệ lớn của đất nước.
Trong những năm 60, ngành du lịch có cơ hội phát triển mạnh: Mỹ chọn là nơi cung cấp dịch vụ nghỉ
cuối tuần cho binh lính Mỹ tham chiến trên trường Đông Dương. Tuy nhiên sau khi Mỹ rút khỏi chiến
trường Đông Dương, ngành kinh tế này cũng bị suy giảm đáng kể và được phục hồi mạnh mẽ từ thập niên 80.
Giai đoạn 1976 đến 1990: 14 lOMoAR cPSD| 58833082
Cuộc khủng hoảng dầu mỏ (1973-1974) đã giáng một đòn nặng nề vào nền kinh tế Thái Lan vốn phụ
thuộc nhiều vào nguồn nhiên liệu bên ngoài. Mỗi năm nước này tiêu thụ khoảng 46.400 thùng dầu.
Riêng năm tài chính (1974), chính phủ Thái đã phải chi tới 700 triệu USD để đáp ứng nhu cầu về dầu trong nước.
Chiến tranh Đông Dương chấm dứt và việc quân Mỹ rút khỏi Việt Nam, sau đó rút khỏi Thái Lan
(1976), đã làm cho Thái mất hết những nguồn thu nhập từ hoạt động quân sự và sinh hoạt của quân đội
Mỹ => nhiều ngành công nghiệp phục vụ cho lính Mỹ cũng suy sụp theo => Hàng vạn người Thái làm
việc trong các ngành công nghiệp đó bị sa thải.
Kế hoạch 5 năm lần thứ tư (1977 - 1981): cải thiện cơ cấu công nghiệp để mở rộng xuất khẩu, cải
thiện phân phối và tăng cường công ăn việc làm ở nông thôn, thực hiện có hiệu quả chiến lược công
nghiệp hóa hướng về xuất khẩu.
Một loạt biện pháp nhằm lấy lại niềm tin của giới kinh doanh ngoại quốc: •
Hạn chế quốc hữu hóa các xí nghiệp tư nhân. •
Khuyến khích liên doanh giữa các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân nước ngoài, giữa tư bản
địa phương và tư bản ngoại quốc. •
Đơn giản hóa các thủ tục hành chính, tăng cường các dự án đầu tư bằng cách tăng thêm các biện pháp khuyến khích. •
Đáp ứng các dịch vụ cần thiết cho các nhà đầu tư nước người. •
Cho vay dài hạn đối với các dự án đầu tư công nghiệp thông qua tín dụng và tổ chức tài chính.
=> Vẫn chưa thoát ra khỏi khủng hoảng. •
Kế hoạch 5 năm lần thứ 5 của Thái Lan (1982 - 1986): Thái Lan một mặt tiếp tục tìm chỗ dựa ở
người Mỹ, Trung Quốc, ASEAN và các tổ chức tài chính quốc tế khác. •
Đưa ra chủ trương phát triển kinh tế dựa vào sức mạnh tổng hợp của dân tộc phù họp với tình
hình cụ thể của đất nước •
Không đi ngay vào công nghệ bậc cao mà chủ trương phát triển những ngành công nghiệp sử
dụng nhiều lao động, tài nguyên trong nước và các ngành thủ công truyền thống => công
nghiệp chế biến thực phẩm, dệt và quần áo may sẵn, nuôi chế biến thủy hải sản,... được khuyến khích phát triển.
=> Chính phủ Thái Lan đã thành công trong phục hồi hoàn toàn nền kinh tế của đất nước.
Thời kỳ khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á năm 1997 15 lOMoAR cPSD| 58833082
Chính phủ Thái Lan cầu cứu sự giúp đỡ của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và và 10 nước châu Á - Thái
Bình Dương đã cam kết tài trợ cho Thái Lan 16 tỷ USD, trong đó IMF đóng góp 4 tỷ, Nhật cho vay 4
tỷ, Hồng Kông 1 tỷ, Úc, Malaysia, Singapore mỗi nước 1 tỷ, Hàn Quốc.
Thái Lan cho phép lập ra các Khu vực miễn thuế: Khu vực này giống như lãnh thổ nước ngoài được đặt
dưới sự kiêm soát của hải quan. Hàng hóa nhập khẩu và xuất khẩu ở khu vực này sẽ được miễn thuế hoàn toàn.
Năm 1998: Chính phủ Thái Lan đã quyết định thành lập Quỹ vốn liên doanh.
Nhân dân Thái Lan đã tích cực tham gia vào chiến dịch “Người Thái giúp đỡ người Thái” bằng cách
mua hàng của các công ty trong nước.
=> Chính phủ Thái Lan đã thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô lành mạnh => Thái Lan trở thành nước ra
khỏi khủng hoảng sớm nhất trong số các nước ASEAN bị khủng hoảng.
Kinh tế - xã hội những năm đầu thế kỷ XX
Triết lý phát triển mới được đặt cơ sở trên ý tưởng về “Nền kinh tế đủ” (sufficient economy) do Quốc
vương Bhumibun Adulyadej đưa ra : “có là hổ hay không, không quan trọng, điều quan trọng nhất là
chúng ta có đủ để đáp ứng nhu cầu của bản thân chúng ta, một nền kinh tế đủ ăn có nghĩa là đủ nuôi
mình”. “Một nền kinh tể đủ không nhất thiết là mỗi gia đình phải tự trông lấy lương thực, tự may lấy
quần áo, mà làng xã hay huyện phải sản xuất đủ để thỏa mãn nhu cầu của mình, những gì sản xuất quá
nhu cầu có thể đem bán cho những nơi chưa có. Buôn bán không nên tiến hành ở những nơi quá xa để
có thể giảm bớt chi phí vận chuyển” .
=> Thực chất là triết lý phát triển bền vững, trong đó con người, chứ không phải là những tỷ lệ tăng
trưởng kinh tế cao, là mục tiêu của sự phát triển.
Cải cách cơ cấu công nghiệp, nâng cao khả năng cạnh tranh cho hàng hỏa chế tạo:
Để có căn cứ tiến hành cải cách cơ cấu công nghiệp, Chính phủ Thái Lan đã cho tiến hành khảo sát 700
nhà máy thuộc các ngành dệt may, điện tử, chế biến thực phẩm và phụ tùng ô tô, vốn là ngành xuất
khẩu chủ chốt của Thái Lan. Dựa vào các kết quả khảo sát, WB sẽ quyết định cho Thái Lan vay thêm
tiền để tiến hành Kế hoạch cải cách cơ cấu mà nước này đang theo đuổi.
2002: Chính phủ của ông Thaksin đã đề ra chương trình Tăng cường kỉnh doanh Thái (ITB): cung cấp
tư vấn kỹ thuật và dịch vụ cho các công ty chế tạo của Thái Lan, tập trung vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cải cách thuế quan: 16 lOMoAR cPSD| 58833082
Tập trung vào việc cắt giảm thuế quan cho các sản phẩm vốn như máy móc, thiết bị cơ khí thiết bị điện
tử,... và các nguyên vật liệu thô như đầu vào dược phẩm, thực phẩm, hóa chất, nhựa và các sản phẩm dệt may.
Chính phủ cũng bãi bỏ 10% thuế phạt nhập khẩu đối với những sản phẩm có tỷ lệ thuế trên 5%. →
Khiến mỗi năm chính phủ bị mất đi khoản 124 triệu USD thu nhập. NHÓM 4:
Câu 10: Nêu khái quát những nét nổi bật trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao của Philippines kể từ
khi giành độc lập đến nay? Trả lời:
- Năm 1946 tổng thống Mỹ Harry Trunman chính thức tuyên bố trao trả độc lập cho Philippines. Đã
độclập cho Philippines trong Hòa Bình vào năm 1946, sau chiến tranh thế giới thứ hai và sự chiếm
đóng của Nhật Bản tại Philippines bằng hiệp ước Manila được ký kết giữa hai chính phủ của hai quốc
gia này, lúc đó thì mối quan hệ đồng minh thân thiết giữa hai nước cũng được thiết lập là duy trì cho đến nay.
- Trong những thập niên 60 và 70 của Philippines là nước độc tài quan liệu phân biệt, gia đinh thời kì Marcos.
- Sau khi Philippines được trao trả độc lập vào năm 1946, Chính phủ được thành lập theo thể chế cộng
hòa do tổng thống lãnh đạo, bầu cử tổng thống thông qua phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ 6 năm
một lần. Ferdinand Marcos là luật sư, làm dân biểu Hạ viện Philippines từ năm 1949 đến năm 1959,
rồi Làm Thượng nghị sĩ từ năm 1959 đến năm 1965, trong đó từ năm 1963 ông giữ chức Chủ tịch Thượng viện.
Trong cuộc bầu cử năm 1965, ông được bầu làm Tổng thống. Công bằng mà nói trong nhiệm kỳ đầu
Ferdinand Marcos đã có công đức lớn trong việc phát triển hạ tầng( đường xá, cầu cống, nhà máy điện,
nhà máy nước và công trình công cộng), nâng cao vị thế của Philippines trên trường quốc tế. Sau khi tái
đắc cử tổng thống nhiệm kỳ thứ hai (1969-1973), Ferdinand Marcos qua những hình ảnh, thông điệp
tuyên truyền tạo nên tệ sùng bái cá nhân. Ông ta chỉ đạo ồ ạt đầu tư phát triển hạ tầng làm cho mức bội
chi ngân sách của chính phủ ngày một tăng cao, mức nợ công của chính phủ năm 1969 đã tăng gấp đôi
so với năm 1966, lạm phát ngày một tăng cao một Philippines phải vay nợ IMF.
Cùng các khó khăn kinh tế, suốt những năm cuối thập niên 60 và 2 năm đầu thập niên 70, liên tiếp diễn
ra các cuộc biểu tình của học sinh, sinh viên chống Mỹ và đòi xây dựng hiến pháp mới thay cho Hiến
pháp của Khối liên hiệp mỹ tồn tại từ năm 1935. Học sinh, sinh viên ở các trường cao đẳng, đại học tổ
chức các cuộc biểu tình lớn để bày tỏ nỗi thất vọng và oán giận, nhưng các cuộc biểu tình này luôn bị
quân đội chính phủ đàn áp thẳng tay. 17 lOMoAR cPSD| 58833082
Chưa hết, trong thời gian nắm quyền, Marcos còn áp đặt tình trạng thiết quân luật.
- Ban hành hiến pháp mới (1987) giúp ngăn ngừa khả năng tái lập chế độ độc tài ở Philippines trên lễ
nhậm chức của mình, Corazon C. Aquino đã ban hành tuyên ngôn 3, tuyên bố một chính sách quốc gia
thực hiện các cải cách ủy thác bởi nhân dân, bảo vệ các quyền cơ bản của họ, thông qua một hiến pháp
tạm thời và cung cấp cho một quá trình chuyển đổi có trật tự để một chính phủ theo một Hiến pháp
mới. Sau đó, tổng thống Aquino đã ban hành tuyên ngôn tạo ra một Ủy ban hiến pháp ( thường được
viết tắt " ConCom" ở Philippines) vào khung điều lệ mới để thay thế hiến pháp thời Marcosthơif 1973.
Aquino đã bổ nhiệm 50 thành viên cho ủy ban. Các thành viên của ủy ban đã được rút ra từ các nền
tảng khác nhau, bao gồm cả một số đại biểu quốc hội cũ, Chánh án Tòa án Tối cao cũ Roberto
Concepción, giám mục công giáo Teodoro Bacani, và đạo diễn phim Lino Brocka. Aquino cũng cố
tình bổ nhiệm năm thành viên, trong đó có cựu Bộ trưởng lao động Blas Ople, người đã liên minh với
Marcos cho đến khi bị lật đổ của cơ quan này. Sau khi ủy ban đã họp, bầu Cecilia MũnozPalma là chủ
tịch của nó. Mũnoz-Palma đã nổi lên như một nhân vật hàng đầu trong phong trào đối lập chống
Marcos sau khi nghỉ hưu như Tư pháp Associate nữ đầu tiên của Tòa án Tối cao.
- Chính sách đối ngoại của Philippines dựa trên sự tiến bộ của lý tưởng và giá trị của Philippines, bao
gồm sự tiến bộ của dân chủ và vận động cho nhân quyền trên toàn thế giới.
Quốc gia này hiện đang tích cực tham gia với các nước láng giềng khu vực ở Đông Nam Á thông qua
hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (với tư cách là thành viên sáng lập) ví định tăng cường sự hài hòa,
ổn định và thịnh vượng của khu vực. Nó đã là một người ủng hộ Đông Timor kể từ khi độc lập sau này
và mở rộng liên kết thương mại với các đồng minh truyền thống của nó là Indonesia, Malaysia,
Singapore và Thái Lan. Quan hệ với Việt Nam và Campuchia đã tan băng vào những năm 1990 sau khi
các nước này gia nhập ASEAN.
- Các mối quan hệ với Hoa Kỳ đã ảnh hưởng đến quan hệ quốc tế của Philippines. Cộng hòa
Philippines tự coi mình là đồng minh trung thành của Hoa Kỳ và đã hỗ trợ nhiều điểm trong chính sách
đối ngoại của Mỹ. Trưa nay thể hiện rõ ở việc Philippines tham gia chiến tranh Iraq và chiến tranh
chống khủng bố. Phát biểu với sự hỗ trợ này, Tổng thống Hoa Kỳ Greorge W. Bush đã ca ngợi
Philippines là một pháo đài của nền dân chủ ở phương Đông và gọi đồng minh lâu đời nhất của Mỹ là
Philippines ở Châu Á. Bài phát biểu của tổng thống Bush vào ngày 18 tháng 10 năm 2003 là diễn văn
thứ hai của Tổng thống Hoa Kỳ tại quốc hội Philippines; Tổng thống Hoa Kỳ Dwight D. Eisenhower là
người đầu tiên làm điều này.
Với mối quan hệ bền chặt với Hoa Kỳ, chính quyền của cụ tổng thống Gloria Macapagal-Arroyo đã tìm
cách thiết lập mối quan hệ chặt chẽ hơn với người thực dân trước đó là Tây Ban Nha. Điều này được
lấy làm cảm hứng từ sự tham dự của Vua Juan Carlos và nữ hoàng Sofia tại lễ kỷ niệm ngày 12 tháng 6
năm 1998 nhằm tôn vinh một năm độc lập của Philippines khỏi Tây Ban 18 lOMoAR cPSD| 58833082
Nha. Tổng thống Macapagal-Arroyo đã có hai chuyến thăm chính thức tới Tây Ban Nha trong nhiệm kỳ tổng thống của bà
Câu 11: Hãy giải thích vì sao việc ASEAN ký kết và phê chuẩn hiến chương ASEAN (có hiệu lực
từ tháng 12 năm 2008) được xem là một bước tiến quan trọng trong sự hợp tác của các quốc gia thành viên? Trả lời:
Thứ nhất, thông qua Hiến chương ASEAN, tất cả nguyên tắc, luật lệ và hành xử của ASEAN từ trước
đến nay đã được cập nhật và pháp điển hóa một cách có hệ thống trong một văn kiện pháp lý. . Hiến
chương hệ thống hoá rất nhiều các hiệp định, tuyên bố trước đây, khẳng định thêm nguyên tắc lâu dài
về cộng đồng, hợp tác, tham vấn và đồng thuận các mục đích cụ thể của ba Cộng đồng ASEAN đã được
xác định. Hiến chương khẳng định sẽ tiến hành mối quan hệ đối ngoại và cách thức hợp tác với Liên
hiệp quốc và các tổ chức quốc tế.
Hiến chương đã chính thức có hiệu lực từ ngày 15/12/2008 sau khi được cả 10 quốc gia thành viên phê chuẩn.
Như vậy, phê chuẩn Hiến chương ASEAN, các nước thành viên ASEAN từ đây không chỉ thực hiện các
cam kết trong ASEAN bằng thiện chí hợp tác và tinh thần tự nguyện mà còn có nghĩa vụ pháp lý phải
tuân thủ. Với Lời nói đầu, 13 chương và 55 điều, Hiến chương ASEAN đã bao hàm tất cả những
nguyên tắc cơ bản của ASEAN như tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và bản
sắc dân tộc của các nước thành viên; từ bỏ xâm lược, đe dọa hoặc sử dụng vũ lực hoặc bất kỳ hành
động nào trái với luật pháp quốc tế; giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình...
Ðồng thời, Hiến chương cũng bổ sung một số nội dung và nguyên tắc mới như: trao tư cách pháp nhân
cho tổ chức ASEAN, tăng cường tham vấn về những vấn đề lớn có ảnh hưởng đến lợi ích chung của
ASEAN; không tham gia vào bất kỳ hoạt động nào nhằm sử dụng lãnh thổ của một nước thành viên đe
dọa đến chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và sự ổn định kinh tế của các nước thành viên khác...
Ðiều quan trọng hàng đầu là Hiến chương khẳng định lại tính chất của ASEAN là một tổ chức hợp tác
khu vực liên chính phủ và nguyên tắc bình đẳng chủ quyền của các nước thành viên
Thứ hai, Hiến chương đánh dấu một bước tiến mới về khuôn khổ thể chế và bộ máy hoạt động của
ASEAN theo hướng rõ ràng hơn và khoa học hơn. Trước hết là thực hiện mục tiêu hình thành Cộng
đồng ASEAN vào năm 2015. Một phần lớn của Hiến chương được dành cho cụ thể hoá việc tiến hành
các hoạt động của ASEAN, xác định mục tiêu và các nguyên tắc của ASEAN và mối quan hệ giữa các
thành viên. Hiến chương cụ thể hoá các vấn đề thành viên, vạch ra chức năng và trách nhiệm của các cơ
quan ASEAN khác nhau. Trong đó nhấn mạnh đến vai trò của Tổng Thư ký và Ban Thư ký ASEAN.
Khuôn khổ thể chế đầy đủ và chặt chẽ hơn với quy chế phân công, phân nhiệm rõ ràng nêu trong Hiến 19 lOMoAR cPSD| 58833082
chương ASEAN sẽ góp phần tăng cường hiệu quả và hiệu lực của các chương trình hợp tác trong
ASEAN trong thời gian tới.
Thứ ba, Hiến chương ASEAN là một nhu cầu tất yếu khách quan và là bước chuyển giai đoạn quan
trọng của Hiệp hội sau 40 năm tồn tại và phát triển, phản ánh sự trưởng thành của ASEAN. Hiến
chương ASEAN sẽ làm cho tổ chức ASEAN có tư cách pháp nhân và đưa đến những thay đổi lớn về tổ
chức bộ máy và phương thức hoạt động của ASEAN
Cuối cùng, việc xây dựng và ký kết Hiến chương thể hiện tầm nhìn và quyết tâm chính trị mạnh mẽ của
các nước ASEAN, nhất là của các vị Lãnh đạo về mục tiêu xây dựng một ASEAN liên kết chặt chẽ hơn
và vững mạnh hơn trên cơ sở pháp lý là Hiến chương, để hỗ trợ cho mục tiêu hòa bình và phát triển của
cả khu vực cũng như từng nước thành viên
Câu 12 : Hãy phân tích vai trò của ASEAN trong chính sách đối ngoại của Việt Nam ? Trả lời:
Gia nhập ASEAN là một quyết định mang tính lịch sử, một quyết sách đúng đắn và kịp thời, là đột phá
đầu tiên để Việt Nam hội nhập khu vực và thế giới. Chính sách của Việt Nam đối với ASEAN gắn liền
với quá trình phát triển và đổi mới tư duy đối ngoại của Việt Nam. Nhìn lại lịch sử khi Nhà nước Việt
Nam độc lập ra đời vào 76 năm trước, phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước láng giềng đã
là chủ trương được ưu tiên hàng đầu. Và ngay sau khi đất nước thống nhất năm 1975, chủ trương gia
nhập ASEAN cũng là ưu tiên hàng đầu để Việt Nam phá thế bao vây, cô lập, hội nhập khu vực và thế giới.
Để hiện thực hóa sự kiện gia nhập ASEAN vào ngày 28/7/1995, Việt Nam đã trải qua những bước phát
triển mạnh mẽ trong tư duy đối ngoại, nhờ đó có sự chuyển hướng chiến lược sáng suốt, kịp thời, nhấn
mạnh lợi ích cao nhất của đất nước lúc này là tranh thủ điều kiện hòa bình để phát triển.
Kể từ khi chính thức gia nhập ASEAN vào ngày 28/7/1995, đường lối, chính sách đối ngoại của Việt
Nam trong ASEAN đã trở thành một bộ phận quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam thời
kỳ mới, và được chỉ đạo rõ trong các văn kiện Đại hội Đảng.
Việt Nam tiếp tục “tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức ASEAN”...,
“tham gia tích cực các hoạt động thúc đẩy sự hợp tác cùng có lợi trong Hiệp hội các nước Đông Nam Á
(ASEAN) và “thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN.”
Tại Đại hội XI (tháng 1/2011), Đảng ta tiếp tục khẳng định chủ trương Việt Nam sẽ “Chủ động, tích cực
và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với các
đối tác, tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong các khuôn khổ hợp tác ở khu vực châu Á-Thái Bình
Dương” đồng thời xác định nhiệm vụ “Phấn đấu cùng các nước Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển phồn vinh.” 20