Bộ đề ôn thi học kỳ 1 Ngữ văn 11 Kết nối tri thức 2023-2024

Tổng hợp toàn bộ Bộ đề ôn thi học kỳ 1 Ngữ văn 11 Kết nối tri thức 2023-2024 được biên soạn đầy đủ và chi tiết . Các bạn tham khảo và ôn tập kiến thức đầy đủ cho kì thi sắp tới . Chúc các bạn đạt kết quả cao và đạt được những gì mình hi vọng nhé !!!!

ĐỀ KIM TRA CUI HKI - LP 11-Đ 1
Môn: Ng văn
Thi gian làm bài: 90 phút
PHẦN I. ĐỌC HIỂU (6,0 đim)
Đọc đoạn trích sau thực hiện các yêu cầu nêu dưới:
Đời tôi, đi đây đó đã nhiều, nhưng lại rất hiếm dịp được thấy Hà Nội. Chỉ một
lần thuở bé, rồi một lần hồi chiến tranh, và mấy năm sau này thêm đôi lần nữa.
Thành thử, ở Hà Nội, ngoài hồ Hoàn Kiếm với cầu Long Biên, tôi chỉ đại khái biết
một ngôi nhà là nhà ga Hàng Cỏ và một con đường là đường xe điện. Nhưng, mặc
dù như vậy, mỗi khi nhắm mắt lại nhìn sâu vào những nẻo đường của ký ức, bao
giờ tôi cũng thấy hiện lên, tuy rất đỗi mơ hồ, bóng dáng của Hà Nội phố xá. Cái
thành phố sâu thẳm, xa lạ, chẳng chút thân thuộc ấy, từ lâu lắm rồi đã lẳng lặng
ăn vào đời tôi như là một trong những miền đất thân yêu nhất, dẫu rằng đấy là một
tình thân yêu tưởng như không đâu, một duyên nợ hầu như vô cớ. Không hẳn
một nỗi niềm mà chỉ là bâng quơ một cảm giác, không thành một câu chuyện
chỉ như là một nốt sầu còn vương lại của thời trai trẻ chiến tranh, một thời tuổi trẻ
đã hoàn toàn mai một nhưng dư âm vọng suốt đời. Như tiếng mưa rơi. Như tiếng
gió lùa. Như tiếng lá rụng. Mà không bao giờ quên.
Từ bấy tới nay, thời gian mất đi đã hai chục năm tròn. Hà Nội thuở đó với Hà
Nội bây giờ có lẽ đã như là một trời một vực.
Ngày ấy, từ mặt trận Quảng Trị, tôi lái xe đưa chỉ huy đoàn ra họp Bộ tư
lệnh đang đóng rìa thủ đô. Khi chúng tôi ra tới nơi, thành phố đang ngất trời
bom đạn. Đây thực sự cuộc đụng đầu sống mái, một trận quyết chiến lmất
còn. Giữa huống cảnh chung nước sôi lửa bỏng như thế, chẳng dám màng một
chuyến về quê, tôi chỉ xin được rảo vào phố đrải non chục lá thư của anh em
đồng đội người Nội đã gửi gắm. Tôi muốn trao thư tận tay các gia đình, để
thể nhận được ngay hồi âm mang ngược vào đơn vị cho lính ta sướng. Lựa ngày
-en, cấp trên thuận cho tranh thủ. Hạn đến 0 giờ phải trở về trình diện.
Tôi vào thành phố, dưới mưa chiều. Mưa phùn mùa đông buồn bã. Mái nhà,
lòng đường, vòm cây một mầu thẫm ướt. Xe cộ phóng rất nhanh, người đi bộ gp
bước.
Mặc dù không biết phố nào vào với phố nào, lại ôm trong mình những chín lá thư,
nhưng thoạt đầu tôi nghĩ không việc phải lo. Chỉ cần hỏi tới một địa chỉ, rồi từ
đấy lần lượt nhờ người địa chỉ trước đưa mình đến địa chỉ sau. Không dè, rốt
cuộc, cả chín thư tôi đều phải lùa vào phòng qua khe cửa. Ngày hôm ấy, dường
như cả Hà Nội đã khoá trái cửa, bỏ nhà đấy mà đi.
Xong được thư chót, trời đã tối sầm. Phố dài vắng ngắt ngâm mình trong
mưa, những vùng đèn đường. Tôi hỏi được về Vọng. Một anh dân phòng
diện ủng, vận áo tơi bạt, tận tình dẫn tôi đi một đoạn khá xa đường. Đến ngã ba
nọ, trước khi chia tay, anh chỉ xuống cặp ray đường tầu điện chạy sát vỉa
bảo tôi cứ bám theo đó mà đi là đến.
Sụp cối xuống, dựng cổ áo lên, tôi lần sâu vào trong màn mưa phùn mờ mỏng
dưới trời đêm lạnh buốt. Hai vệt ray lng ướt, chẳng khác nào một lối mòn độc
đạo xuyên qua rừng rậm nhà cửa tối đen. Thành phố chiến tranh như bên bờ vực,
hun hút hoang vắng. Tôi cắm cúi bước, thui thủi, dại. Thăm thẳm nối nhau
những chặng đường khuya không ánh sáng đèn, không một bóng bộ hành, không
bóng một hàng quán. Hơi thở lạnh ngắt của đêm mưa ngấm vào tận cái dạ dày tôi
trống rỗng. Các khớp xương cóng nhức cứng đơ như đang rời cả ra rơi rụng.
Cơn sốt âm ỉ từ chiến trường dâng lên dọc sống lưng, tôi sởn gai ốc, và không ngớt
rùng mình. Đầu óc chậm chạp chung chiêng, đầu gối những muốn khuỵu xuống. Đi
chưa được mấy đường, tôi đã bắt đầu đếm bước. Màn đêm ướt át như đông lại.
Không nhìn thấy trước mắt, suýt nữa thì tôi đã người tới va mặt vào một cái
đầu tầu điện đen ngòm đậu chết cứng giữa lòng đường.
Chuệnh choạng, tôi rlên vỉa hè, rồi lảo đảo tấp vào dưới mái hiên một ngôi
nhà. Răng va lập cập trong miệng, tôi tựa lưng vào cánh cửa đóng chặt, rồi từ từ
trượt người xuống, ngồi phệt lên cái bậc tam cấp ướt đẫm hơi mưa lạnh như
một cây nước đá. Rét mướt buốt tim, tôi rên hừ hừ rồi cũng không rên nổi nữa.
Cũng không sao gm lại được cơn run, cứ run bắn lên, run cầm cập. Thân nhiệt
của mình lúc này có lẽ chỉ còn bằng với người đang ngắc ngoải, cái đầu đã tê cóng
của tôi lờ đờ nghĩ, không khéo khốn đến nơi rồi, không khéo một cơn ác
tính. Những người bị sốt rét ác tính nằm chết trên võng giữa rừng sâu, còn mình
thì chết ngồi, chắc thế, và sẽ hoá thành tảng đá co ro trước cửa nhà người ta.
Trên đầu tôi, mái tôn rách nát run bần bật. Dưới vẫn mưa gió. Gió phả mưa
vào tận thềm. Đã ướt lại ướt thêm một lượt nữa, tôi thở hắt, mặt mày xây xầm. Biết
cần phải dốc toàn lực bình sinh đứng dậy bước đi, song hết rồi, nghị lực
đã bại. Sinh lực xuống nhanh như mực nước trong một cái bình bị đập vỡ đáy,
sự sng trong tôi xoay tròn một vòng từ từ, lặng llật nghiêng. Đúng khi đó,
sau lưng tôi, cửa kẹt mở. i nghe thấy nhưng không ý thức được tiếng động
ấy. Cơn choáng ngất gần như một nỗi yếu mềm, một sự buông lơi, như thể một
tiếng thở phào, nhẹ nhàng ru tôi ra khỏi tôi...
(Trích Khắc dấu mạn thuyền, Bảo Ninh, Nguồn https://kilopad.com/Tieu-thuyet-
truyen-ngan-c197/doc-sach-truc-tuyen-khac-dau-man-thuyen-b9317)
Câu 1. Xác định ngôi kể của truyện.
Câu 2. Tác giả chọn điểm nhìn nào trong đoạn trích?
Câu 3. Vì sao người lính bị ốm và thiếp đi trên hè phố?
Câu 4. Nêu cm nhn v khung cnh Hà Nội trong câu văn sau: “Thành phố, dưới
mưa chiều. Mưa phùn mùa đông bun bã. Mái nhà, lòng đưng, vòm cây mt mu
thẫm ướt. Xe c phóng rất nhanh, người đi bộ gấp bước.”?
Câu 5. Trong đoạn trích, bức tranh Nội được miêu tả vào thời gian nào? Thời
gian ấy có ý nghĩa như thế nào?
Câu 6. Trong đoạn trích trên, Bảo Ninh đã xây dựng tình huống truyện như thế
nào?
Câu 7. Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của người lính lái xe trong đoạn trích trên?
Câu 8. Viết đoạn văn (khoảng 5 7 câu) nêu suy nghĩ của anh/chị về ý nghĩa sự hi
sinh thầm lặng trong cuộc sống.
PHẦN II. VIẾT (4,0 điểm)
Viết bài văn ngh lun (khong 500 chữ) trình bày quan điểm v vấn giúp đỡ
những người xung quanh: la chn thm lặng hay tuyên dương, vẻ vang.
ĐỀ KIM TRA CUI HKI - LP 11-Đ 2
Môn: Ng văn
Thi gian làm bài: 90 phút
I. ĐỌC HIỂU (6,0 điểm)
Đọc văn bản: QUÊ HƯƠNG
(Nguyn Bá Chung)
Ba mươi năm xa cách quê hương
By ln v thôi cũng là tạm đủ
Nh lần đầu - tóc tang tri r
Đến bây gi ánh sáng đã bừng lên
Có cái gì là l không th quên
Như nỗi nh không biết tên mà gi
Như nỗi đau không thể làm du vi
Như ngôi nhà vẫn mãi mãi đi tìm
Như bầu tri na xám na không
quen
Mảnh đất v bồi máu xương ta đó
Đỉnh Yên T hoa đi còn vết đỏ
Những người xưa c x thân
mình
Con đường quê vn i mãi gp
ghnh
Bao năm tháng những người làng chu
đói
Năm Ất Du tt cng t li
Ăn cháo hoa suốt c my tháng tri
Bát cháo hoa mà ngt c một đời
Quý hơn cả bao ngc vàng cng li
Xa ngàn dặm để mà còn nh mãi
Vết thương đau chưa chôn đủ tháng
ngày
Để v đây nhận li mặt người
Để mình biết mình vn là mình cũ
Bao đổi thay thăng trầm bong lp v
Nhìn quê hương đ li nhn ra mình
(Ngun: thivien.net)
*Nguyn Chung sinh năm 1949 ti Kim Thanh, Hải Dương. Vào Sài Gòn sinh sng vi gia
đình năm 1955. Năm 1972, sang Mỹ du hc. Sau khi tt nghip ông li Mỹ, giáo trường đại hc
Massachuset (Boston - Hoa Kỳ). Ông là nhà thơ, dịch gi, nhà phê bình. Tác phm chính: Mưa ngàn (thơ,
1996), Ngõ hnh (thơ, 1997), Tuổi ngàn năm đến t buổi sơ sinh (thơ, 1999)…
Tr li các câu hi:
Câu 1. Bài thơ viết v đề tài gì?
Câu 2. Tác phẩm được viết theo th thơ nào?
Câu 3. Câu thơ nào trong khổ 3 cha hình ảnh có ý nghĩa tượng trưng?
Câu 4. Câu thơ t cháo hoa mà ngt c một đời đã sử dng ngh thut nào?
Câu 5. Xác định cm xúc ch đạo ca bài thơ?
Câu 6. T thơ của bài thơ trên được phát trin t điu gì?
Câu 7. Vì sao nhà thơ viết: “Nhìn quê hương để li nhn ra mình” ?
Câu 8. Anh/ch suy nghĩ khi đọc bài thơ Quê hương ca tác gi Nguyn
Chung?
II. LÀM VĂN (4,0 điểm)
Anh/ch hãy viết bài văn nghị lun (500 ch) v vấn đề “s cn thiết ca
vic hc ngoi ng”.
ĐỀ MINH HA S 1
I. ĐC HIỂU (6,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau:
c dn: V ca nhân vật xưng “tôi” mua một con chó, nhưng rất xu nên
chẳng ai m đến gn. My người quen ca nhân vật “tôi” đnh bng s giết thịt đ
làm mt chu nhậu, nhưng ri giặc đến, mọi người đều phi b làng chy giặc. vướng
víu nên gia đình, nhân vật “tôi” đành phải b con chó li nhà c bếp Móm và nh c nuôi
hộ. Trước khi ra đi, vợ ca nhân vật “tôi” đã xích con chó vào gốc cây để khi chy
theo.
“Ắng! ng! ng!” Tiếng con chó lng ln, cuống quít đằng sau bước chân tôi. Nó như
gi tôi, nó như kêu cứu, như than khóc, oán trách…
Ra khi ngõ tôi thong nghe tiếng ch v ci vi chng:
V chng nhà y h đi đấy à? Này, h b li con chó cu .
Và tiếng anh chng dm dn:
Đến người cũng chả chc gi được na là con chó!
Tôi xóc lại cái quai ba lô, bước theo hút cái bóng nhà tôi đang đi xăm xm xuống đồi.
[…]
Tiếng con chó t trong nhà c bếp Móm đưa ra vẫn nghe mn một “Ắng! ng!
Ắng!”. Tiếng con chó da diết, nhn hot xói vào ruột gan tôi. “Thôi đ chuyến này v tao
nuôi. Tao s nuôi mày, tao không b mày đâu…”.
Tôi nh thm vi tôi mt ln nữa như vậy.
(Lưc một đoạn: sau khi giặc rút, gia đình nhân vật “tôi” về lại làng, nhưng nhân vt
“tôi” đã quên bng con chó).
Mt hôm tôi cht thy cp kính trng lp loáng của Đặng “cồn” từ đầu ngõ đi vào,
by gi tôi mi git mình, sc nh đến con chó. Tôi quay li hi nhà tôi:
À, mình này! Con chó nhà ta đâu nhỉ? Mình chưa vào trong cụ bếp dt nó v à?
Nhà tôi đứng ngn ra mt lúc. l nhà tôi cũng không ng rằng tôi đã v bng y
ngày gii ri vn không nói chuyn con chó y vi tôi.
Nó chết ri! Nhà tôi nói khe kh.
Chết ri? Làm sao mà chết đưc?
Tôi tr mt lên hi li. Nhà tôi cúi mt xung, th dài:
chết thương lắm mình . Không phi chết trong c bếp Móm đâu. về
nhà ta nó chết đy.
Nhà tôi ngng li, cn môi chp chp hai mt nhìn ra ngoài sân. Lát sau, nhà tôi
đứng dy mời Đặng vào trong nhà, rót nước mi anh ri mi tiếp tc câu chuyn.
Chao ôi! Con chó xu y ca tôi! Con chó t lúc mua, đến lúc chết không đưc mt
ln vuốt ve! đã chết mt cách thảm thương trung hậu quá. T hôm v chng tôi
gi li cho ông c bếp Móm, con chó không chịu ăn uống gì. ch kêu. kêu sut
ngày, suốt đêm. Một đêm, ông c bếp không thy con chó kêu nữa, thì ra nó đã xổng xích
đi đâu mất ri.
Hôm nghe tin gic rút, trong khe đồn Khau Vt dn v, nhà tôi tt vào nhà c bếp
Móm định đem con chó về nhân thể, nhưng vào đến nơi thì nó không còn đấy na. Lúc y
nhà tôi cũng yên trí con chó mt ri. Chc chn s lc vào mt tri ấp nào đy
người ta làm tht nó.
Nhưng khi nhà tôi về đến nhà,con xóm ging va chạy sang láo nháo thăm hi thì,
ngoài vườn sau, có my tiếng chó hú lên thm thương và ghê rợn.
T sau bi da rm rp, con chó khn kh y lo đảo đi ra. Ngưi nó run lên bn bt.
gy quá, ch n một dúm xương da xc xch, rng hết lông. đói quá, đi không
vng na. đi ngã di bên này, di bên kia. Rồi không còn đ sức đi nữa.
nm bệt trên đất, rúm người li, lết lết v phía nhà tôi. Lúc y c người nó ch còn có cái
đuôi còn ngó ngoáy được để mng ch cái lưỡi liếm liếm vào tay ch. Khn nn
con chó! Đưc gp ch nó mng quá. T trong hai con mắt đờ đẫn ca nó my giọt nước
chy ra. Lát sau thì nó không liếm được nữa, cái đuôi ngoáy yếu dn, yếu dn ri im hn.
Nó chết.
Tôi ti sm mt li, vừa thương xót con chó, vừa thy xu h. Qu tht tôi ch mt
thng ti. Mt thng ích k. Tôi ch nghĩ đến mình v con mình. Đến như con chó
mình nuôi, mình đi x vi nó có được như cái tình nghĩa của nó đối x vi mình đâu?
[…]
(Trích Con chó xu xí, Kim Lân, in trong Tuyn tp Kim Lân, Nxb Văn hc)
Tr li câu hi/ Thc hin các yêu cu:
Câu 1: Xác định ngôi k ca đon trích trên?
Câu 2: Đoạn trích đưc k theo đim nhìn ca nhân vt nào?
Câu 3: K tên nhng nhân vt xut hiện trong đoạn trích?
Câu 4: Tóm tt ngn gn ni dung ca truyn trong khong 3 5 câu?
Câu 5: Theo em, chi tiết: Tiếng con chó da diết, nhn hot xói vào ruột gan tôi. “Thôi
để chuyến này v tao nuôi. Tao s nuôi mày, tao không b mày đâu…”, th hiện điều gì?
Có nên b chi tiết này không?
Câu 6: Nêu ch đề ca truyn?
Câu 7: Anh/ch rút ra bài hc gì cho bản thân sau khi đọc đon trích trên?
Câu 8: T đoạn trích trên, anh/ch suy nghĩ v tác hi ca thói cm trong cuc
sng.
II. VIẾT (4.0 điểm)
Viết bài văn nghị lun phân tích những đặc điểm trong cách k chuyn ca Kim
Lân trích đoạn tác phm Con chó xu xí phần đọc hiu.
| 1/5

Preview text:


ĐỀ KIỂM TRA CUỐI HKI - LỚP 11-ĐỀ 1 Môn: Ngữ văn
Thời gian làm bài: 90 phút
PHẦN I. ĐỌC HIỂU (6,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu nêu ở dưới:
Đời tôi, đi đây đó đã nhiều, nhưng lại rất hiếm dịp được thấy Hà Nội. Chỉ một
lần thuở bé, rồi một lần hồi chiến tranh, và mấy năm sau này thêm đôi lần nữa.
Thành thử, ở Hà Nội, ngoài hồ Hoàn Kiếm với cầu Long Biên, tôi chỉ đại khái biết
một ngôi nhà là nhà ga Hàng Cỏ và một con đường là đường xe điện. Nhưng, mặc
dù như vậy, mỗi khi nhắm mắt lại nhìn sâu vào những nẻo đường của ký ức, bao
giờ tôi cũng thấy hiện lên, tuy rất đỗi mơ hồ, bóng dáng của Hà Nội phố xá. Cái
thành phố sâu thẳm, xa lạ, chẳng chút thân thuộc ấy, từ lâu lắm rồi đã lẳng lặng
ăn vào đời tôi như là một trong những miền đất thân yêu nhất, dẫu rằng đấy là một
tình thân yêu tưởng như không đâu, một duyên nợ hầu như vô cớ. Không hẳn là
một nỗi niềm mà chỉ là bâng quơ một cảm giác, không thành một câu chuyện mà
chỉ như là một nốt sầu còn vương lại của thời trai trẻ chiến tranh, một thời tuổi trẻ
đã hoàn toàn mai một nhưng dư âm vọng suốt đời. Như tiếng mưa rơi. Như tiếng
gió lùa. Như tiếng lá rụng. Mà không bao giờ quên.
Từ bấy tới nay, thời gian mất đi đã hai chục năm tròn. Hà Nội thuở đó với Hà
Nội bây giờ có lẽ đã như là một trời một vực.
Ngày ấy, từ mặt trận Quảng Trị, tôi lái xe đưa chỉ huy sư đoàn ra họp Bộ tư
lệnh đang đóng ở rìa thủ đô. Khi chúng tôi ra tới nơi, thành phố đang ngất trời
bom đạn. Đây thực sự là cuộc đụng đầu sống mái, một trận quyết chiến vì lẽ mất
còn. Giữa huống cảnh chung nước sôi lửa bỏng như thế, chẳng dám màng gì một
chuyến về quê, tôi chỉ xin được rảo vào phố để rải non chục lá thư của anh em
đồng đội người Hà Nội đã gửi gắm. Tôi muốn trao thư tận tay các gia đình, để có
thể nhận được ngay hồi âm mang ngược vào đơn vị cho lính ta sướng. Lựa ngày
Nô-en, cấp trên thuận cho tranh thủ. Hạn đến 0 giờ phải trở về trình diện.
Tôi vào thành phố, dưới mưa chiều. Mưa phùn mùa đông buồn bã. Mái nhà,
lòng đường, vòm cây một mầu thẫm ướt. Xe cộ phóng rất nhanh, người đi bộ gấp bước.
Mặc dù không biết phố nào vào với phố nào, lại ôm trong mình những chín lá thư,
nhưng thoạt đầu tôi nghĩ không việc gì phải lo. Chỉ cần hỏi tới một địa chỉ, rồi từ
đấy lần lượt nhờ người ở địa chỉ trước đưa mình đến địa chỉ sau. Không dè, rốt
cuộc, cả chín lá thư tôi đều phải lùa vào phòng qua khe cửa. Ngày hôm ấy, dường
như cả Hà Nội đã khoá trái cửa, bỏ nhà đấy mà đi.
Xong được lá thư chót, trời đã tối sầm. Phố dài vắng ngắt ngâm mình trong
mưa, tù mù những vùng đèn đường. Tôi hỏi được về Vọng. Một anh dân phòng
diện ủng, vận áo tơi bạt, tận tình dẫn tôi đi một đoạn khá xa đường. Đến ngã ba
nọ, trước khi chia tay, anh chỉ xuống cặp ray đường tầu điện chạy sát vỉa hè và
bảo tôi cứ bám theo đó mà đi là đến.
Sụp mũ cối xuống, dựng cổ áo lên, tôi lần sâu vào trong màn mưa phùn mờ mỏng
dưới trời đêm lạnh buốt. Hai vệt ray loáng ướt, chẳng khác nào một lối mòn độc
đạo xuyên qua rừng rậm nhà cửa tối đen. Thành phố chiến tranh như bên bờ vực,
hun hút hoang vắng. Tôi cắm cúi bước, thui thủi, tê dại. Thăm thẳm nối nhau
những chặng đường khuya không ánh sáng đèn, không một bóng bộ hành, không
bóng một hàng quán. Hơi thở lạnh ngắt của đêm mưa ngấm vào tận cái dạ dày tôi
trống rỗng. Các khớp xương cóng nhức cứng đơ như đang rời cả ra và rơi rụng.
Cơn sốt âm ỉ từ chiến trường dâng lên dọc sống lưng, tôi sởn gai ốc, và không ngớt
rùng mình. Đầu óc chậm chạp chung chiêng, đầu gối những muốn khuỵu xuống. Đi
chưa được mấy đường, tôi đã bắt đầu đếm bước. Màn đêm ướt át như đông lại.
Không nhìn thấy gì trước mắt, suýt nữa thì tôi đã xô người tới va mặt vào một cái
đầu tầu điện đen ngòm đậu chết cứng giữa lòng đường.
Chuệnh choạng, tôi rẽ lên vỉa hè, rồi lảo đảo tấp vào dưới mái hiên một ngôi
nhà. Răng va lập cập trong miệng, tôi tựa lưng vào cánh cửa đóng chặt, rồi từ từ
trượt người xuống, ngồi phệt lên cái bậc tam cấp ướt đẫm hơi mưa và lạnh như
một cây nước đá. Rét mướt buốt tim, tôi rên hừ hừ và rồi cũng không rên nổi nữa.
Cũng không sao ghìm lại được cơn run, cứ run bắn lên, run cầm cập. Thân nhiệt
của mình lúc này có lẽ chỉ còn bằng với người đang ngắc ngoải, cái đầu đã tê cóng
của tôi lờ đờ nghĩ, không khéo mà khốn đến nơi rồi, không khéo mà là một cơn ác
tính. Những người bị sốt rét ác tính nằm chết trên võng giữa rừng sâu, còn mình
thì chết ngồi, chắc thế, và sẽ hoá thành tảng đá co ro trước cửa nhà người ta.
Trên đầu tôi, mái tôn rách nát run bần bật. Dưới vẫn mưa gió. Gió phả mưa
vào tận thềm. Đã ướt lại ướt thêm một lượt nữa, tôi thở hắt, mặt mày xây xầm. Biết
là cần phải dốc toàn lực bình sinh mà đứng dậy và bước đi, song hết rồi, nghị lực
đã tê bại. Sinh lực xuống nhanh như mực nước trong một cái bình bị đập vỡ đáy,
sự sống trong tôi xoay tròn một vòng và từ từ, lặng lẽ lật nghiêng. Đúng khi đó,
sau lưng tôi, cửa kẹt mở. Tôi nghe thấy nhưng mà không ý thức được tiếng động
ấy. Cơn choáng ngất gần như là một nỗi yếu mềm, một sự buông lơi, như thể một
tiếng thở phào, nhẹ nhàng ru tôi ra khỏi tôi...

(Trích Khắc dấu mạn thuyền, Bảo Ninh, Nguồn https://kilopad.com/Tieu-thuyet-
truyen-ngan-c197/doc-sach-truc-tuyen-khac-dau-man-thuyen-b9317)
Câu 1. Xác định ngôi kể của truyện.
Câu 2. Tác giả chọn điểm nhìn nào trong đoạn trích?
Câu 3. Vì sao người lính bị ốm và thiếp đi trên hè phố?
Câu 4. Nêu cảm nhận về khung cảnh Hà Nội trong câu văn sau: “Thành phố, dưới
mưa chiều. Mưa phùn mùa đông buồn bã. Mái nhà, lòng đường, vòm cây một mầu
thẫm ướt. Xe cộ phóng rất nhanh, người đi bộ gấp bước.”?
Câu 5. Trong đoạn trích, bức tranh Hà Nội được miêu tả vào thời gian nào? Thời
gian ấy có ý nghĩa như thế nào?
Câu 6. Trong đoạn trích trên, Bảo Ninh đã xây dựng tình huống truyện như thế nào?
Câu 7. Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của người lính lái xe trong đoạn trích trên?
Câu 8. Viết đoạn văn (khoảng 5 – 7 câu) nêu suy nghĩ của anh/chị về ý nghĩa sự hi
sinh thầm lặng trong cuộc sống.
PHẦN II. VIẾT (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 500 chữ) trình bày quan điểm về vấn giúp đỡ
những người xung quanh: lựa chọn thầm lặng hay tuyên dương, vẻ vang.
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI HKI - LỚP 11-ĐỀ 2 Môn: Ngữ văn
Thời gian làm bài: 90 phút
I. ĐỌC HIỂU (6,0 điểm)
Đọc văn bản: QUÊ HƯƠNG
(Nguyễn Bá Chung)
Ba mươi năm xa cách quê hương
Con đường quê vẫn mãi mãi gập
Bảy lần về thôi cũng là tạm đủ ghềnh
Nhớ lần đầu - tóc tang trời ủ rủ
Bao năm tháng những người làng chịu
Đến bây giờ ánh sáng đã bừng lên đói
Năm Ất Dậu tất cả làng tụ lại
Có cái gì là lạ không thể quên
Ăn cháo hoa suốt cả mấy tháng trời
Như nỗi nhớ không biết tên mà gọi
Như nỗi đau không thể làm dịu vợi
Bát cháo hoa mà ngọt cả một đời
Như ngôi nhà vẫn mãi mãi đi tìm
Quý hơn cả bao ngọc vàng cộng lại
Xa ngàn dặm để mà còn nhớ mãi
Như bầu trời nửa xám nửa không Vết thương đau chưa chôn đủ tháng quen ngày
Mảnh đất vỡ bồi máu xương ta đó
Đỉnh Yên Tử hoa đại còn vết đỏ
Để về đây nhận lại mặt người
Những người xưa vì nước xả thân
Để mình biết mình vẫn là mình cũ mình
Bao đổi thay thăng trầm bong lớp vỏ
Nhìn quê hương để lại nhận ra mình
(Nguồn: thivien.net)

*Nguyễn Bá Chung sinh năm 1949 tại Kim Thanh, Hải Dương. Vào Sài Gòn sinh sống với gia
đình năm 1955. Năm 1972, sang Mỹ du học. Sau khi tốt nghiệp ông ở lại Mỹ, là giáo sư trường đại học
Massachuset (Boston - Hoa Kỳ). Ông là nhà thơ, dịch giả, nhà phê bình. Tác phẩm chính: Mưa ngàn (thơ,
1996), Ngõ hạnh (thơ, 1997), Tuổi ngàn năm đến từ buổi sơ sinh (thơ, 1999)…
Trả lời các câu hỏi:
Câu 1. Bài thơ viết về đề tài gì?
Câu 2. Tác phẩm được viết theo thể thơ nào?
Câu 3. Câu thơ nào trong khổ 3 chứa hình ảnh có ý nghĩa tượng trưng?
Câu 4. Câu thơ Bát cháo hoa mà ngọt cả một đời đã sử dụng nghệ thuật nào?
Câu 5. Xác định cảm xúc chủ đạo của bài thơ?
Câu 6. Tứ thơ của bài thơ trên được phát triển từ điều gì?
Câu 7. Vì sao nhà thơ viết: “Nhìn quê hương để lại nhận ra mình” ?
Câu 8.
Anh/chị có suy nghĩ gì khi đọc bài thơ Quê hương của tác giả Nguyễn Bá Chung?
II. LÀM VĂN (4,0 điểm)
Anh/chị hãy viết bài văn nghị luận (500 chữ) về vấn đề “sự cần thiết của
việc học ngoại ngữ”. ĐỀ MINH HỌA SỐ 1
I. ĐỌC HIỂU (6,0 điểm) Đọc đoạn trích sau:
Lược dẫn: Vợ của nhân vật xưng “tôi” mua một con chó, nhưng nó rất xấu xí nên
chẳng ai dám đến gần. Mấy người quen của nhân vật “tôi” định bụng sẽ giết thịt nó để
làm một chầu nhậu, nhưng rồi giặc đến, mọi người đều phải bỏ làng chạy giặc. Vì vướng
víu nên gia đình, nhân vật “tôi” đành phải bỏ con chó lại nhà cụ bếp Móm và nhờ cụ nuôi
hộ. Trước khi ra đi, vợ của nhân vật “tôi” đã xích con chó vào gốc cây để nó khỏi chạy theo.
“Ắng! Ắng! Ắng!” Tiếng con chó lồng lộn, cuống quít đằng sau bước chân tôi. Nó như
gọi tôi, nó như kêu cứu, như than khóc, oán trách…
Ra khỏi ngõ tôi thoảng nghe tiếng chị vợ cả nói với chồng:
– Vợ chồng nhà ấy họ đi đấy à? Này, họ bỏ lại con chó cậu ạ.
Và tiếng anh chồng dấm dẳn:
– Đến người cũng chả chắc giữ được nữa là con chó!
Tôi xóc lại cái quai ba lô, bước theo hút cái bóng nhà tôi đang đi xăm xắm xuống đồi. […]
Tiếng con chó từ trong nhà cụ bếp Móm đưa ra vẫn nghe rõ mồn một “Ắng! Ắng!

Ắng!”. Tiếng con chó da diết, nhọn hoắt xói vào ruột gan tôi. “Thôi để chuyến này về tao
nuôi. Tao sẽ nuôi mày, tao không bỏ mày đâu…”.

Tôi nhủ thầm với tôi một lần nữa như vậy.
(Lược một đoạn: sau khi giặc rút, gia đình nhân vật “tôi” về lại làng, nhưng nhân vật
“tôi” đã quên bẵng con chó).
Một hôm tôi chợt thấy cặp kính trắng lấp loáng của Đặng “cồn” từ đầu ngõ đi vào,
bấy giờ tôi mới giật mình, sực nhớ đến con chó. Tôi quay lại hỏi nhà tôi:
– À, mình này! Con chó nhà ta đâu nhỉ? Mình chưa vào trong cụ bếp dắt nó về à?
Nhà tôi đứng ngẩn ra một lúc. Có lẽ nhà tôi cũng không ngờ rằng tôi đã về bằng ấy

ngày giời rồi vẫn không nói chuyện con chó ấy với tôi.
– Nó chết rồi! – Nhà tôi nói khe khẽ.
– Chết rồi? Làm sao mà chết được?
Tôi trố mắt lên hỏi lại. Nhà tôi cúi mặt xuống, thở dài:

– Nó chết thương lắm cơ mình ạ. Không phải nó chết trong cụ bếp Móm đâu. Nó về
nhà ta nó chết đấy.
Nhà tôi ngừng lại, cắn môi chớp chớp hai mắt nhìn ra ngoài sân. Lát sau, nhà tôi
đứng dậy mời Đặng vào trong nhà, rót nước mời anh rồi mới tiếp tục câu chuyện.
Chao ôi! Con chó xấu xí ấy của tôi! Con chó từ lúc mua, đến lúc chết không được một
lần vuốt ve! Nó đã chết một cách thảm thương và trung hậu quá. Từ hôm vợ chồng tôi
gửi lại nó cho ông cụ bếp Móm, con chó không chịu ăn uống gì. Nó chỉ kêu. Nó kêu suốt
ngày, suốt đêm. Một đêm, ông cụ bếp không thấy con chó kêu nữa, thì ra nó đã xổng xích đi đâu mất rồi.

Hôm nghe tin giặc rút, ở trong khe đồn Khau Vắt dọn về, nhà tôi tạt vào nhà cụ bếp
Móm định đem con chó về nhân thể, nhưng vào đến nơi thì nó không còn đấy nữa. Lúc ấy
nhà tôi cũng yên trí là con chó mất rồi. Chắc chắn nó sẽ lạc vào một trại ấp nào đấy và
người ta làm thịt nó.

Nhưng khi nhà tôi về đến nhà, bà con xóm giềng vừa chạy sang láo nháo thăm hỏi thì,
ở ngoài vườn sau, có mấy tiếng chó hú lên thảm thương và ghê rợn.
Từ sau bụi dứa rậm rạp, con chó khốn khổ ấy lảo đảo đi ra. Người nó run lên bần bật.
Nó gầy quá, chỉ còn một dúm xương da xộc xệch, rụng hết lông. Nó đói quá, đi không
vững nữa. Nó đi ngã dụi bên này, dụi bên kia. Rồi nó không còn đủ sức mà đi nữa. Nó
nằm bệt trên đất, rúm người lại, lết lết về phía nhà tôi. Lúc ấy cả người nó chỉ còn có cái
đuôi là còn ngó ngoáy được để mừng chủ và cái lưỡi liếm liếm vào tay chủ. Khốn nạn
con chó! Được gặp chủ nó mừng quá. Từ trong hai con mắt đờ đẫn của nó mấy giọt nước
chảy ra. Lát sau thì nó không liếm được nữa, cái đuôi ngoáy yếu dần, yếu dần rồi im hẳn. Nó chết.

Tôi tối sầm mặt lại, vừa thương xót con chó, vừa thấy xấu hổ. Quả thật tôi chỉ là một
thằng tồi. Một thằng ích kỷ. Tôi chỉ nghĩ đến mình và vợ con mình. Đến như con chó
mình nuôi, mình đối xử với nó có được như cái tình nghĩa của nó đối xử với mình đâu?
[…]
(Trích Con chó xấu xí, Kim Lân, in trong Tuyển tập Kim Lân, Nxb Văn học)
Trả lời câu hỏi/ Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1:
Xác định ngôi kể của đoạn trích trên?
Câu 2: Đoạn trích được kể theo điểm nhìn của nhân vật nào?
Câu 3: Kể tên những nhân vật xuất hiện trong đoạn trích?
Câu 4: Tóm tắt ngắn gọn nội dung của truyện trong khoảng 3 – 5 câu?
Câu 5: Theo em, chi tiết: “Tiếng con chó da diết, nhọn hoắt xói vào ruột gan tôi. “Thôi
để chuyến này về tao nuôi. Tao sẽ nuôi mày, tao không bỏ mày đâu…”,
thể hiện điều gì?
Có nên bỏ chi tiết này không?
Câu 6
: Nêu chủ đề của truyện?
Câu 7: Anh/chị rút ra bài học gì cho bản thân sau khi đọc đoạn trích trên?
Câu 8: Từ đoạn trích trên, anh/chị suy nghĩ gì về tác hại của thói vô cảm trong cuộc sống.
II. VIẾT (4.0 điểm)
Viết bài văn nghị luận phân tích những đặc điểm trong cách kể chuyện của Kim
Lân ở trích đoạn tác phẩm Con chó xấu xí phần đọc hiểu.