BTL lớp KTCT (221) 34 - LL sx hh và thực tiễn phát triển kinh tế hh ở Việt Nam hiện nay| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tối và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

TRƯỜNG …
Khoa/viện …
BÀI TẬP LỚN
Học phần: …
ĐỀ: …
SV: (Họ tên, MSV, Lớp tín chỉ)
GD hướng dẫn:
HÀ NỘI - 4/2022
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
NỘI DUNG
I.Những vấn đề lý luận cơ bản về sản xuất hàng hoá
1.Sản xuất hàng hoá
2.Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hoá
2.1.Phân công lao động
2.2 Chế độ tư hữu và hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất
3.Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hoá
3.1.Đặc trưng của sản xuất hàng hoá
3.2.Ưu thế của sản xuất hàng hoá
4.Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá
5.So với sản xuất tự cung tự cấp thì sản xuất hàng hoá có nhiều ưu thế
II.Thực trạng về phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt Nam hiện nay
1. Thực trạng kinh tế Việt Nam để chúng ta phải chuyển sang phát triển
kinh tế hàng hóa là tất yếu khách quan
2.Đánh giá thực trạng
2.1.Những thành tựu kinh tế mà nước ta đạt được từ những năm đổi mới đến nay
2.2.Những hạn chế của nền kinh tế hàng hoá ở Việt Nam
III.Những giải pháp để phát triển nền kinh tế hàng hoá ở Việt Nam
LỜI NÓI ĐẦU
Trong thời kì đầu của xã hội loài người, do sự lạc hậu của lực lượng sản xuất
nên sản xuất của xã hội mang tính tự cung tự cấp khiến nhu cầu của con người bị
bó hẹp trong một phạm vị, giới hạn nhất định. Khi lực lượng sản xuất phát triển và
có nhiều thành tựu mới, con người thoát khỏi nền kinh tế tự nhiên và chuyển sang
nền kinh tế hàng hoá. Nền kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ và đến đỉnh cao của
nó là nền kinh tế thị trường. Sản xuất hàng hoá là một bộ phận của kinh tế quốc tế,
là tổng thể các quan hệ kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công nghệ được thực hiện dưới
nhiều hình thức, hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển của lực lượng sản
xuất và phân công lao động quốc tế. Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, sản xuất hàng hoá được ví như một mắt xích quan trọng guồng máy của
nền kinh tế, đóng vai trò quan trọng, nhất là trong xu thế hội nhập và phát triển hiện
nay, không những góp phần đắc lực vào quá trình thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát
triển mà còn mở rộng quan hệ giao lưu, hợp tác quốc tế về các lĩnh vực khác.
Sản xuất hàng hoá là một quá trình tạo ra sản phẩm hàng hoá nhằm đáp ứng
và thoả mãn nhu cầu nào đó của con người.Trong thời đại nền kinh tế mở và cạnh
tranh như hiện nay, mỗi quốc gia phải nghiên cứu và tìm ra hướng đi đúng đắn cho
nền kinh tế, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước, phù hợp với khu vực
thế giới và thời đại. Chính vì vậy việc nghiên cứu về điều kiện ra đời, đặc trưng tư
thế của sản xuất hàng hoá là vô cùng quan trọng, từ đó ta có thể liên hệ với nước ta
và làm cho quá trình sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển với chất lượng cao
hơn.
Xuất phát từ những thực tiễn trên, em đã lựa chọn đề tài:
“Lý luận sản xuất hàng hoá và thực tiễn phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt Nam
hiện nay”
Bài tiểu luận được nghiên cứu bằng phương pháp đánh giá sự vật hiện tượng
trong mối liên hệ và phát triển không ngừng( dựa trên quan điểm duy vật biện
chứng)-phương pháp trừu tượng hoá khoa học đặc thù của kinh tế chính trị. Do
những hạn chế cả về mặt kiến thức và mặt thời gian, bài tiểu luận này sẽ không
tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của thầy giáo. Em xin
chân thành cảm ơn.
NỘI DUNG
I.Lý luận về sản xuất hàng hoá
1.Sản xuất hàng hoá
Sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó, những người sản xuất ra sản
phẩm không nhằm phục vụ mục đích phục vụ nhu cầu tiêu dùng của chính mình để
trao đổi, mua bán. Nó khác với sản xuất tự cung tự cấp ở thời kì đầu của lịch sử
loài người. Ở thời kì đó, sản phẩm của sự lao động được tạo ra chỉ để phục vụ trực
tiếp cho nhu cầu của chính người sản xuất ra chúng. Nhưng do sản xuất ngày càng
phát triển, nhu cầu của con người ngày càng tăng cao làm cho sản xuất tự cung tự
cấp dần dần bị chuyển hoá thành sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá đã tồn tại từ
trong từ trong chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, sau đó là chế độ tư bản
chủ nghĩa và chế độ xã hội chủ nghĩa. Sản xuất hàng hoá tồn tại trên cơ sở của sự
trao đổi hàng hoá và là nền tảng cho mọi nền kinh tế.
2.Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hoá
2.1 Phân công lao động
Phân công lao động xã hội: là sự chuyên môn hoá sản xuất, phân chia lao
động xã hội ra thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau của nền sản xuất
xã hội. Tuy nhiên, bản thân con người lại có nhiều nhu cầu khác nhau, bởi vậy đòi
hỏi họ phải đi trao đổi sản phẩm của mình để thoả mãn các nhu cầu đó.
Phân công lao động là cơ sở, là tiền đề của sản xuất hàng hoá. Theo C.Mác:
“Sự phân công lao động xã hội là điều kiện tồn tại của nền sản xuất hàng hoá, mặc
dù ngược lại, sản xuất hàng hoá không phải là điều kiện tồn tại của sự phân công
lao động xã hội”. Phân công lao động xã hội ngày càng phát triển thì sản xuất và
trao đổi hàng hoá ngày càng mở rộng hơn, đa dạng hơn.
2.2 Chế độ tư hữu và hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất
Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất: là những
người sản xuất trở thành những chủ thể có sự độc lập nhất định với nhau.Do đó sản
phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của các chủ thể kinh tế, người này muốn tiêu dùng
sản phẩm lao động của người khác cần phải thông qua trao đổi, mua bán hàng hoá.
Trong lịch sử, sự tách biệt này do chế độ tư hữu về tư hữu tư liệu sản xuất quy
định. Trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của
mỗi cá nhân và kết quả là sản phẩm họ làm ra thuộc quyền sở hữu của họ.
Như vậy, khác với phân công lao động, chế độ tư hữu lại làm chia rẽ người
sản xuất, làm họ độc lập với nhau. Đây là 1 mâu thuẫn và mâu thuẫn này chỉ được
giải quyết thông qua trao đổi, mua bán sản phẩm của nhau. Chính vì thế, hàng hoá
bắt nguồn từ yêu cầu của cuộc sống.
3.Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hoá
3.1 Đặc trưng của sản xuất hàng hoá
Sản xuất hàng hoá có hai loại đặc trưng sau:
Sản xuất hàng hoá là sản xuất để trao đổi, mua bán. Sản xuất hàng hoá là
kiểu tổ chức kinh tế đối lập với sản xuất tự cung tự cấp trong thời kì đầu của lịch sử
loài người.Cụ thể, trong sản xuất hàng hoá sản phẩm được tạo ra để đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán.
Lao động của người sản xuất hàng hoá vừa mang tính tư nhân, vừa mang
tính xã hội. Tính tư nhân thể hiện ở đặc tính của sản phẩm được quyết định bởi cá
nhân người làm ra nó hoặc người trực tiếp sở hữu tư liệu sản xuất trên danh nghĩa.
Tính chất xã hội thể hiện qua việc sản phẩm tạo ra đáp ứng cho nhu cầu của những
người khác trong xã hội. Tính chất tư nhân đó có thể phù hợp hoặc không phù hợp
với tính chất xã hội. Đó chính là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá.
3.2 Ưu thế của sản xuất hàng hoá
Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Sản xuất hàng hoá ra đời trên cơ sở
của phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá sản xuất vì thế, nó khai thác được
những lợi thế về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở sản xuất. Bên
cạnh đó, sự phát triển của sản xuất hàng hoá lại tác động trở lại, thúc đẩy sự phát
triển của phân công lao động xã hội, làm cho chuyên môn hoá lao động ngày càng
tăng.
Đẩy mạnh quá trình xã hội hoá sản xuất. Sản xuất hàng hoá phá vỡ tính tự
cung tự cấp, bảo thủ, lạc hậu của nền sản xuất tự cung tự túc. Khai thác được lợi
thế về tự nhiên, xã hội kỹ thuật của từng người, từng cơ sở, từng vùng, từng địa
phương, kích thích sự phát triển về kinh tế của cả quốc gia.
Đáp ứng nhu cầu đa dạng cho xã hội. Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu
của con người ngày càng gia tăng cả về chất và lượng, sản xuất hàng hoá giúp cho
họ có nhiều sự lựa chọn hơn để đáp ứng nhu cầu của mình, góp phần cải thiện đời
sống xã hội đồng thời làm tăng khả năng lao động của xã hội.
4.Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề
nghiệp chuyên môn nhất định.
Lao động trừu tượng là lao động hao phí đồng nhất của con người.
-Thời gian lao động xã hội cần thiết
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra hàng hoá
trong nhưng điều kiện sản xuất trung bình xã hội với một trình độ trung bình,
cường độ lao động trung bình của người sản xuất.
Thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết cần để sản xuất ra một loại
hàng hoá có xu hướng nghiêng về thời gian lao động cá biệt của người sản xuất mà
họ cung cấp phần lớn loại hàng hoá đó trên thị trường.
Hai nhân tố ảnh hưởng đến thời gian lao động cần thiết là năng suất lao động và
cường độ lao động
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động hay sức sản xuất của
lao động. Giá trị của hàng hoá thay đổi tỷ lệ nghịch với năng suất lao động xã hội.
Cường độ lao động là mức tiêu hao về lao động trong một đơn vị thời gian. Nó
cho biết mức độ khẩn trương của lao động.
-Lao động giản đơn và lao động phức tạp
Lao động giản đơn là sự tiêu hao sức lực giản đơn mà bất kỳ một người bình
thường nào, không cần biết đến tài nghệ đặc biệt đều có thể tiến hành được để sản
xuất ra hàng hoá
Lao động phức tạp là loại lao động phải đòi hỏi tỉ mỉ, công phu và có sự khéo
léo, tài nghệ, phải có sự tích luỹ lao động. Trong cùng một đơn vị thời gian, lao
động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. Vì vậy lao động phức tạp
là bội số của lao động giản đơn.
Lượng giá trị của hàng hoá được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết.
5.So với sản xuất tự cung tự cấp thì sản xuất hàng hoá có những ưu thế hơn hẳn
Sản xuất hàng hóa ra đời là bước ngoặt cản bản trong lịch sử phát triển của xã hội
loài người. So với sản xuất tự cung tự cấp, sản xuất hàng hóa có những đặc trưng
và ưu thế cơ bản sau đây:
– Sản xuất hàng hóa sản xuất cho người khác, cho hội, sản xuất để bán,
mục tiêu lợi nhuận, do đó nó tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất hàng hóa
phát triển. Còn sản xuất tự cung tự cấp với mục đích sản xuất ra những giá trị sử
dụng để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của chính người sản xuất, nên không tạo ra
động lực thúc đẩy sản xuất phát triển.
–Sản xuất hàng hóa đã tạo ra sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, buộc mỗi người sản
xuất hàng hoá phải năng động trong sản xuất kinh doanh, phải thường xuyên cải
tiến kỹ thuật, hợp hoá sản xuất để tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng
sản phẩm, nhằm tiêu thụ được hàng hoá thu được lợi nhuận ngày càng nhiều
hơn. Cạnh tranh đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.
Trong sản xuất tự cung tự cấp, quy nhỏ chủ yếu dựa vào nguồn lực sẵn của
tự nhiên, nhu cầu thấp, trình độ dân trí thấp nên khôngcạnh tranh, không tạo ra
động lực mạnh mẽ phát triển khoa học công nghệ để phát triển kinh tế hiệu
quả.
– Sản xuất hàng hóa với năng suất lao động cao, chất lượng hàng hóa tốt khối
lượng ngày càng nhiều, chủng loại đa dạng phong phú làm cho thị trường được
mở rộng, giao lưu kinh tế hội giữa các vùng, các miền, các địa phương
quốc tế phát triển, tạo điều kiện thỏa mãn các nhu cầu vật chất tinh thần ngày
càng cao cũng như sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi thành viên trong xã hội.
Ngược lại với sản xuất tự cung tự cấp, sản xuất kém phát triển, mang tính khép kín,
sản phẩm sản xuất ra không đủ tiêu dùng thế đời sống vật chất tinh thần của
người lao động thấp, không điều kiện để mở rộng hoạt động giao lưu kinh tế
xã hội giữa các vùng miền…
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực như đã nêu trên, sản xuất hàng hoá cũng
những mặt trái của nó như phân hoá giàu – nghèo giữa những người sản xuất hàng
hoá, tiềm ẩn những khả năng khủng hoàng kinh tế hội, phá hoại môi trường
sinh thái,…
II.Thực trạng về phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt Nam hiện nay
Theo quan điểm của Các Mác kinh tế hàng hóa không phải là một phương
thức sản xuất độc lập mà là một hình thức tổ chức kinh tế tồn tại trong các phương
thức xã hội. Với phạm vi và mức độ khác nhau, tuy cùng là nền kinh tế hàng hóa
nhưng bản chất của xã hội quy định đặc điểm của kinh tế hàng hóa xã hội đó. Nhà
nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa nên vai trò quản lý của nhà nước định hướng
nền kinh tế hàng hóa theo chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
1.Thực trạng kinh tế Việt Nam để chúng ta phải chuyển sang phát triển kinh
tế hàng hóa là tất yếu khách quan.
Sau kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm sản xuất của các nước XHCN,
đất nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kế hoạch hóa tập trung dựa trên hình thức sở
hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Với sự nỗ lực của nhân dân ta cộng thêm sự
giúp đỡ tận tình của các nước XHCN khác, mô hình kế hoạch hóa đã phát huy được
những tính ưu việt của nó. Từ một nền kinh tế hàng hóa lạc hậu và phân tán bằng
công cụ kế hoạch Nhà nước đã tập trung vào tay mình một lực lượng quan trong về
đất đai, tài sản và tiền bạc để ổn định và phát triển kinh tế.
Ngay từ tháng 8 năm 1979, Nhà nước ta đã chủ trương phát triển sản xuất hàng
hóa. Chỉ thị 1000 của ban Bí thư trung ương và quyết định số 25/CP của Chính phủ
năm 1981 đã để cho các hợp tác xã tự chủ trong sản xuất kinh doanh.
Đại hội Đảng VI, tháng 12 năm 1986 đã khẳng định quá trình từ sản xuất nhỏ lên
sản xuất lởn nước ta là quá trình chuyển từ nền inh tế tự cung tự cấp sang nền kinh
tế hàng hóa. Điều quan trọng là ở đây chúng ta không chỉ thừa nhận từng khâu,
từng phần sản phẩm là sản xuất hàng hóa mà là cả một nền kinh tế hàng hóa, coi đó
là một quá trình có tính quy luật đi lên sản xuất XHCN ở nước ta. Tại hội nghị TW
6 (khóa VI, 3/1989) và Đại hội VII (6/1991) trên cơ sở nhận thức sâu hơn về tình
hình đất nước, Đảng ta mới có điều kiện nói rõ và nhấn mạnh “ Nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
là hoàn toàn cần thiết để giải phóng và phát huy được các tiềm năng sản xuất của
xã hội”.
Đến đại hội lần VIII (6/1996) trên cơ sở kế thừa những đường lối, chủ trương
đúng đắn về việc sử dụng kinh tế hàng hóa do các đại hội trước đề ra, Đảng ta đã
xác định rõ hơn vai trò của kinh tế hàng hóa – mà phát triển cao hơn chính là kinh
tế thị trường “ Cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đến sự phát
triển kinh tế xã hội. Nó chẳng những không đối lập mà còn là một nhân tố khách
quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước theo con đương XHCN”.
Đây là bước tiến quan trọng trong việc đổi mới tư duy kinh tế của Đảng ta. Quan
điểm này xuất phát từ tình hình kinh tế xã hội ở nước ta, từ nguyện vọng chính
đáng của nhân dân ta, trên cơ sở vận dụng mô hình của Mác-Lênin về một chủ
nghĩa xã hội có nền kinh tế hàng hóa. Nó phù hợp với thực tế của nước ta, phù hợp
với các quy luật kinh tế và với xu thế của thời đại. Bởi vì:
nếu chúng ta không thay đổi cơ chế kinh tế mà vẫn giữ nguyên cơ Thứ nhất:
chế kinh tế cũ thì không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói
đến tích lũy vốn để mở rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỉ 80 đã
chỉ rõ việc thực hiện cơ chế cũ cho dù chúng ta đã liên tục đổi mới hoàn thiện cơ
chế quản lý kinh tế cũ, nhưng hiệu quả của nền kinh tế xã hội đạt đến mức rất thấp,
sản xuất không đáp ứng nổi tiêu dùng của xã hội, tích lũy hầu như không có, đôi
khi còn ăn lạm cả vào vốn vay của nước ngoài.
do nền kinh tế đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc do Thứ hai:
nó chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn ngắn và chỉ có tác
dụng phát triển nền kinh tế theo chiều rộng, nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại
quá dài do đó mó không những không còn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy sản
xuất phát triển mà nó còn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng suất chất
lượng và hiệu quả sản xuất.
xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang Thứ ba:
hội nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, nước ta còn tồn tại kinh tế đối ngoại,
còn tham gia vào sự phân công hiệp tác quốc tế. Mặt khác nếu nền kinh tế nước ta
hội nhập với nền kinh tế thị trường thế giới,giao lưu về hàng hóa, dịch vụ và đầu tư
trực tiếp của nước ngoài sẽ làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gũi
hơn với nền kinh tế thị trường thế giới, tương quan giá cả các loại hàng hóa trong
nước sẽ gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng hóa quốc tế.
xu hướng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triểnkinh tế Thứ tư:
của mỗi nước không thể tách rời phát triển và hội nhập quốc tế. Sự cạnh tranh giữa
các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất không còn là dân số đông, vũ khí nhiều, quân
đội mạnh mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích chính sách của các quốc gia là tạo ra
được nhiều của cải vật chất trong quốc gia của mình, là tốc độ phát triển kinh tế
cao, đời sống nhân dân được ổn định, thất nghiệp thấp. Tiềm lực kinh tế đã thành
thước đo chủ yếu, vai trò sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo vệ
uy tín và duy trì sức mạnh của Đảng cầm quyền.
2.Đánh giá thực trạng
2.1Những thành tựu kinh tế mà nước ta đạt được từ những năm đổi mới
đến nay.
Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã đặt nền móng vững chắc cho quan điểm phát
triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Từ nền kinh tế bao cấp trì trệ bị bao vây cấm vận, đời sống nhân dân hết sức khó
khăn, đến hôm nay, sau hơn 35 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền kinh
tế nước ta đã có những bước tiến vững vàng , tạo đà cho thế kỷ phát triển mới của
đất nước. Chúng ta có thể tự hào khẳng định kinh tế Việt Nam 35 năm qua đạt được
nhiều thành tựu to lớn.
Một là, đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, kinh tế tăng
trưởng nhanh, cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường, đời sống của các tầng
lớp nhân dân không ngừng được cải thiện.
Trong suốt hơn 35 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn
tượng. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990), mức tăng trưởng GDP
bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991-1995, GDP bình quân đã tăng
gấp đôi, đạt 8,2%/năm; các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao; giai
đoạn 2016-2019 đạt mức bình quân 6,8%.
Mặc dù năm 2020, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh COVID-19
nhưng tốc độ tăng GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao
nhất khu vực, thế giới.
Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ
USD/năm thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD/năm. Đời sống nhân dân
cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, năm 1985 bình quân thu nhập đầu
người mới đạt 159 USD/năm thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.750 USD/năm
Nhận định bối cảnh năm 2021 so với năm 2020 khó khăn rất nhiều, đặc biệt, đợt
bùng phát dịch lần thứ tư tác động cực kỳ bất lợi, ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh
tế nhưng những điểm sáng về kinh tế của năm 2021 cho thấy khả năng ứng phó,
sức sống của các doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện khắc nghiệt của dịch
bệnh; nông nghiệp tiếp tục phát huy vai trò “bệ đỡ” của nền kinh tế; kim ngạch
xuất nhập khẩu của Việt Nam đã đạt mức kỷ lục mới, với tổng giá trị 668,5 tỷ USD,
tăng 22,6% so với năm 2020; thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) đạt 31,15 tỷ USD,
tăng 9,2% so với năm 2020…
Hai là, cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, gắn sản xuất với thị trường.
Về cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1986 là 46,3%, năm 2005 còn
20,9%, năm 2010 còn 20,6% và đến năm 2021 chỉ còn 12,36%; cơ cấu trồng trọt và
chăn nuôi đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng
suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Tỷ trọng công
nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục với thiết bị, công nghệ ngày càng hiện
đại: năm 1988 là 21,6%, năm 2021 lên 37,86%. Tỷ trọng khu vực dịch vụ đã
tăng từ 33,1% năm 1988 lên 40,95% năm 2021. Nông nghiệp có sự biến
đổi quan trọng, đã chuyển từ độc canh lúa, năng suất thấp và thiếu hụt lớn, sang
không những đủ dùng trong nước, còn xuất khẩu gạo với khối lượng lớn, đứng thứ
hai thế giới, góp phần vào an ninh lương thực quốc tế; xuất khẩu cà phê, cao su, hạt
điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn đứng thứ hạng cao trên thế
giới.
Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu
của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc độ
nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý;... có bước phát
triển.
Ba là, thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế.
Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập
trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế.
Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo
hướng xóa bao cấp, thực hiện mô hình công ty, phát huy quyền tự chủ và trách
nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy
động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, là một động
lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Năm 2020, khu vực
kinh tế tư nhân đóng góp trên 40% GDP của cả nước. Kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở thành một bộ phận cấu thành quan
trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao
công nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp vào ngân sách nhà nước và tạo việc làm
cho nhiều người dân.
Bốn là, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được
hình thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định.
Trải qua hơn 30 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối
đồng bộ. Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành
phần và bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một bước quan trọng. Với chủ
theo hướng tiến bộ, hiệu quả.trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được
mở rộng. Việt Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN),
thực hiện các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp
địnhThương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO),... Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng
lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương với các nước, tạo ra một
bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và
hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hóa
thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi trường đầu
tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị trường tiếp tục
hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát triển
mạnh.
Việc kiện toàn các tổng công ty, thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước
đạt một số kết quả. Giai đoạn 2006 - 2010, số doanh nghiệp tăng hơn 2,3 lần, số
vốn tăng 7,3 lần so với giai đoạn 2001 – 2005. Từ năm 2015 đến năm 2020, số
doanh nghiệp hoạt động đã có sự tăng vọt từ 442.400 lên tới 810.000. Doanh
nghiệp cổ phần trở thành hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến.
2.2Những hạn chế của nền kinh tế hàng hoá ở Việt Nam
-Tuy là nước nông nghiệp nhưng bình quân ruộng đất canh tác theo đầu người thấp
-Nền kinh tế kém phát triển, mang nặng dấu ấn của kinh tế tự nhiên, còn chịu ảnh
hưởng nặng nề của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, thi trường chưa phát triển và
chưa đồng bộ, thu nhập quốc dân theo đầu người thấp,sức mua còn hạ
-Kết cấu hạ tầng cơ sở còn kém phát triển, trình độ khoa học kĩ thuật chưa cao, hệ
thống pháp luật còn nhiều bất cập,…
III.Những giải pháp để phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt Nam
-Thứ nhất: đa dạng các loại hình sở hữu, hình thành ra sở hữu nhà nước, sở hữu tập
thể, sở hữu hỗn hợp và sở hữu cá thể phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất
-Thứ hai: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển.
-Thứ ba: phát triển đồng bộ các loại thị trường như thị trường sức lao động, thị
trường tư liệu tư liệu sản xuất
-Thứ tư: xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo môi trường về pháp lý.
-Thứ năm: phát triển kết cấu hạ tầng về kinh tế - xã hội theo hướng hiện đại.
-Thứ sáu: đổi mới vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước, cải
cách thủ tục hành chính quốc gia. Đổi mới công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước,
đặc biệt là thông qua chính sách phân phối thu nhập để đạt được tiến bộ và công
bằng xã hội, chuyển dịch cơ chế nhanh sang cơ chế thị trường và đổi mới chính
sách kinh tế cho thích hợp.
KẾT LUẬN
Như vậy trong đề án này em đã trình bày lý luận của chủ nghĩa Mác về sản xuất
hàng hoá và kinh tế hàng hóa ở Việt Nam hiện nay. Em hy vọng qua bài tiểu luận
này, chúng ta đã có thể hiểu hơn về khái niệm, ý nghĩa của sản xuất hàng hoá. Song
song đó là nền kinh tế kinh tế Việt Nam đã có những phát triển, thành tựu lớn như
thế nào sau hơn 35 năm đổi mới.
Cùng với đó, em cũng đã hiểu hơn về môn Kinh tế chính trị và về chính đề tài mà
em đã tìm hiểu. Em cũng sẽ nỗ lực tiếp thu, áp dụng những kiến thức đã học được
từ bộ môn này vào cuộc sống sinh viên của mình và làm nó trở nên ý nghĩa hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin (dành cho bậc đại học không chuyên luận
chính trị), năm 2019
https://baodantoc.vn/10-su-kien-kinh-te-viet-nam-noi-bat-nam-2021-
1640769363140.htm
https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2021/12/bao-cao-tinh-hinh-
kinh-te-xa-hoi-quy-iv-va-nam-2021/
https://dangcongsan.vn/kinh-te/kinh-te-viet-nam-va-trien-vong-trong-boi-canh-dai-
dich-602523.html
| 1/18

Preview text:

TRƯỜNG … Khoa/viện … BÀI TẬP LỚN Học phần: … ĐỀ: …
SV: (Họ tên, MSV, Lớp tín chỉ) GD hướng dẫn: HÀ NỘI - 4/2022 MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU NỘI DUNG
I.Những vấn đề lý luận cơ bản về sản xuất hàng hoá 1.Sản xuất hàng hoá
2.Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hoá 2.1.Phân công lao động
2.2 Chế độ tư hữu và hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất
3.Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hoá
3.1.Đặc trưng của sản xuất hàng hoá
3.2.Ưu thế của sản xuất hàng hoá
4.Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá
5.So với sản xuất tự cung tự cấp thì sản xuất hàng hoá có nhiều ưu thế
II.Thực trạng về phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt Nam hiện nay
1. Thực trạng kinh tế Việt Nam để chúng ta phải chuyển sang phát triển
kinh tế hàng hóa là tất yếu khách quan 2.Đánh giá thực trạng
2.1.Những thành tựu kinh tế mà nước ta đạt được từ những năm đổi mới đến nay
2.2.Những hạn chế của nền kinh tế hàng hoá ở Việt Nam
III.Những giải pháp để phát triển nền kinh tế hàng hoá ở Việt Nam LỜI NÓI ĐẦU
Trong thời kì đầu của xã hội loài người, do sự lạc hậu của lực lượng sản xuất
nên sản xuất của xã hội mang tính tự cung tự cấp khiến nhu cầu của con người bị
bó hẹp trong một phạm vị, giới hạn nhất định. Khi lực lượng sản xuất phát triển và
có nhiều thành tựu mới, con người thoát khỏi nền kinh tế tự nhiên và chuyển sang
nền kinh tế hàng hoá. Nền kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ và đến đỉnh cao của
nó là nền kinh tế thị trường. Sản xuất hàng hoá là một bộ phận của kinh tế quốc tế,
là tổng thể các quan hệ kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công nghệ được thực hiện dưới
nhiều hình thức, hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển của lực lượng sản
xuất và phân công lao động quốc tế. Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, sản xuất hàng hoá được ví như một mắt xích quan trọng guồng máy của
nền kinh tế, đóng vai trò quan trọng, nhất là trong xu thế hội nhập và phát triển hiện
nay, không những góp phần đắc lực vào quá trình thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát
triển mà còn mở rộng quan hệ giao lưu, hợp tác quốc tế về các lĩnh vực khác.
Sản xuất hàng hoá là một quá trình tạo ra sản phẩm hàng hoá nhằm đáp ứng
và thoả mãn nhu cầu nào đó của con người.Trong thời đại nền kinh tế mở và cạnh
tranh như hiện nay, mỗi quốc gia phải nghiên cứu và tìm ra hướng đi đúng đắn cho
nền kinh tế, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước, phù hợp với khu vực
thế giới và thời đại. Chính vì vậy việc nghiên cứu về điều kiện ra đời, đặc trưng tư
thế của sản xuất hàng hoá là vô cùng quan trọng, từ đó ta có thể liên hệ với nước ta
và làm cho quá trình sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển với chất lượng cao hơn.
Xuất phát từ những thực tiễn trên, em đã lựa chọn đề tài:
“Lý luận sản xuất hàng hoá và thực tiễn phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt Nam hiện nay”
Bài tiểu luận được nghiên cứu bằng phương pháp đánh giá sự vật hiện tượng
trong mối liên hệ và phát triển không ngừng( dựa trên quan điểm duy vật biện
chứng)-phương pháp trừu tượng hoá khoa học đặc thù của kinh tế chính trị. Do
những hạn chế cả về mặt kiến thức và mặt thời gian, bài tiểu luận này sẽ không
tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của thầy giáo. Em xin chân thành cảm ơn. NỘI DUNG
I.Lý luận về sản xuất hàng hoá 1.Sản xuất hàng hoá
Sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó, những người sản xuất ra sản
phẩm không nhằm phục vụ mục đích phục vụ nhu cầu tiêu dùng của chính mình để
trao đổi, mua bán. Nó khác với sản xuất tự cung tự cấp ở thời kì đầu của lịch sử
loài người. Ở thời kì đó, sản phẩm của sự lao động được tạo ra chỉ để phục vụ trực
tiếp cho nhu cầu của chính người sản xuất ra chúng. Nhưng do sản xuất ngày càng
phát triển, nhu cầu của con người ngày càng tăng cao làm cho sản xuất tự cung tự
cấp dần dần bị chuyển hoá thành sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá đã tồn tại từ
trong từ trong chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, sau đó là chế độ tư bản
chủ nghĩa và chế độ xã hội chủ nghĩa. Sản xuất hàng hoá tồn tại trên cơ sở của sự
trao đổi hàng hoá và là nền tảng cho mọi nền kinh tế.
2.Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hoá 2.1 Phân công lao động
Phân công lao động xã hội: là sự chuyên môn hoá sản xuất, phân chia lao
động xã hội ra thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau của nền sản xuất
xã hội. Tuy nhiên, bản thân con người lại có nhiều nhu cầu khác nhau, bởi vậy đòi
hỏi họ phải đi trao đổi sản phẩm của mình để thoả mãn các nhu cầu đó.
Phân công lao động là cơ sở, là tiền đề của sản xuất hàng hoá. Theo C.Mác:
“Sự phân công lao động xã hội là điều kiện tồn tại của nền sản xuất hàng hoá, mặc
dù ngược lại, sản xuất hàng hoá không phải là điều kiện tồn tại của sự phân công
lao động xã hội”. Phân công lao động xã hội ngày càng phát triển thì sản xuất và
trao đổi hàng hoá ngày càng mở rộng hơn, đa dạng hơn.
2.2 Chế độ tư hữu và hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất
Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất: là những
người sản xuất trở thành những chủ thể có sự độc lập nhất định với nhau.Do đó sản
phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của các chủ thể kinh tế, người này muốn tiêu dùng
sản phẩm lao động của người khác cần phải thông qua trao đổi, mua bán hàng hoá.
Trong lịch sử, sự tách biệt này do chế độ tư hữu về tư hữu tư liệu sản xuất quy
định. Trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của
mỗi cá nhân và kết quả là sản phẩm họ làm ra thuộc quyền sở hữu của họ.
Như vậy, khác với phân công lao động, chế độ tư hữu lại làm chia rẽ người
sản xuất, làm họ độc lập với nhau. Đây là 1 mâu thuẫn và mâu thuẫn này chỉ được
giải quyết thông qua trao đổi, mua bán sản phẩm của nhau. Chính vì thế, hàng hoá
bắt nguồn từ yêu cầu của cuộc sống.
3.Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hoá
3.1 Đặc trưng của sản xuất hàng hoá
Sản xuất hàng hoá có hai loại đặc trưng sau:
Sản xuất hàng hoá là sản xuất để trao đổi, mua bán. Sản xuất hàng hoá là
kiểu tổ chức kinh tế đối lập với sản xuất tự cung tự cấp trong thời kì đầu của lịch sử
loài người.Cụ thể, trong sản xuất hàng hoá sản phẩm được tạo ra để đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán.
Lao động của người sản xuất hàng hoá vừa mang tính tư nhân, vừa mang
tính xã hội. Tính tư nhân thể hiện ở đặc tính của sản phẩm được quyết định bởi cá
nhân người làm ra nó hoặc người trực tiếp sở hữu tư liệu sản xuất trên danh nghĩa.
Tính chất xã hội thể hiện qua việc sản phẩm tạo ra đáp ứng cho nhu cầu của những
người khác trong xã hội. Tính chất tư nhân đó có thể phù hợp hoặc không phù hợp
với tính chất xã hội. Đó chính là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá.
3.2 Ưu thế của sản xuất hàng hoá
Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Sản xuất hàng hoá ra đời trên cơ sở
của phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá sản xuất vì thế, nó khai thác được
những lợi thế về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở sản xuất. Bên
cạnh đó, sự phát triển của sản xuất hàng hoá lại tác động trở lại, thúc đẩy sự phát
triển của phân công lao động xã hội, làm cho chuyên môn hoá lao động ngày càng tăng.
Đẩy mạnh quá trình xã hội hoá sản xuất. Sản xuất hàng hoá phá vỡ tính tự
cung tự cấp, bảo thủ, lạc hậu của nền sản xuất tự cung tự túc. Khai thác được lợi
thế về tự nhiên, xã hội kỹ thuật của từng người, từng cơ sở, từng vùng, từng địa
phương, kích thích sự phát triển về kinh tế của cả quốc gia.
Đáp ứng nhu cầu đa dạng cho xã hội. Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu
của con người ngày càng gia tăng cả về chất và lượng, sản xuất hàng hoá giúp cho
họ có nhiều sự lựa chọn hơn để đáp ứng nhu cầu của mình, góp phần cải thiện đời
sống xã hội đồng thời làm tăng khả năng lao động của xã hội.
4.Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề
nghiệp chuyên môn nhất định.
Lao động trừu tượng là lao động hao phí đồng nhất của con người.
-Thời gian lao động xã hội cần thiết
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra hàng hoá
trong nhưng điều kiện sản xuất trung bình xã hội với một trình độ trung bình,
cường độ lao động trung bình của người sản xuất.
Thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết cần để sản xuất ra một loại
hàng hoá có xu hướng nghiêng về thời gian lao động cá biệt của người sản xuất mà
họ cung cấp phần lớn loại hàng hoá đó trên thị trường.
Hai nhân tố ảnh hưởng đến thời gian lao động cần thiết là năng suất lao động và cường độ lao động
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động hay sức sản xuất của
lao động. Giá trị của hàng hoá thay đổi tỷ lệ nghịch với năng suất lao động xã hội.
Cường độ lao động là mức tiêu hao về lao động trong một đơn vị thời gian. Nó
cho biết mức độ khẩn trương của lao động.
-Lao động giản đơn và lao động phức tạp
Lao động giản đơn là sự tiêu hao sức lực giản đơn mà bất kỳ một người bình
thường nào, không cần biết đến tài nghệ đặc biệt đều có thể tiến hành được để sản xuất ra hàng hoá
Lao động phức tạp là loại lao động phải đòi hỏi tỉ mỉ, công phu và có sự khéo
léo, tài nghệ, phải có sự tích luỹ lao động. Trong cùng một đơn vị thời gian, lao
động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. Vì vậy lao động phức tạp
là bội số của lao động giản đơn.
Lượng giá trị của hàng hoá được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết.
5.So với sản xuất tự cung tự cấp thì sản xuất hàng hoá có những ưu thế hơn hẳn
Sản xuất hàng hóa ra đời là bước ngoặt cản bản trong lịch sử phát triển của xã hội
loài người. So với sản xuất tự cung tự cấp, sản xuất hàng hóa có những đặc trưng
và ưu thế cơ bản sau đây:
– Sản xuất hàng hóa là sản xuất cho người khác, cho xã hội, sản xuất để bán, vì
mục tiêu lợi nhuận, do đó nó tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất hàng hóa
phát triển. Còn sản xuất tự cung tự cấp với mục đích sản xuất ra những giá trị sử
dụng để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của chính người sản xuất, nên không tạo ra
động lực thúc đẩy sản xuất phát triển.
–Sản xuất hàng hóa đã tạo ra sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, buộc mỗi người sản
xuất hàng hoá phải năng động trong sản xuất – kinh doanh, phải thường xuyên cải
tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất để tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng
sản phẩm, nhằm tiêu thụ được hàng hoá và thu được lợi nhuận ngày càng nhiều
hơn. Cạnh tranh đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.
Trong sản xuất tự cung tự cấp, quy mô nhỏ chủ yếu dựa vào nguồn lực sẵn có của
tự nhiên, nhu cầu thấp, trình độ dân trí thấp nên không có cạnh tranh, không tạo ra
động lực mạnh mẽ phát triển khoa học – công nghệ để phát triển kinh tế có hiệu quả.
– Sản xuất hàng hóa với năng suất lao động cao, chất lượng hàng hóa tốt và khối
lượng ngày càng nhiều, chủng loại đa dạng và phong phú làm cho thị trường được
mở rộng, giao lưu kinh tế – xã hội giữa các vùng, các miền, các địa phương và
quốc tế phát triển, tạo điều kiện thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần ngày
càng cao cũng như sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi thành viên trong xã hội.
Ngược lại với sản xuất tự cung tự cấp, sản xuất kém phát triển, mang tính khép kín,
sản phẩm sản xuất ra không đủ tiêu dùng vì thế đời sống vật chất và tinh thần của
người lao động thấp, không có điều kiện để mở rộng hoạt động giao lưu kinh tế –
xã hội giữa các vùng miền…
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực như đã nêu trên, sản xuất hàng hoá cũng có
những mặt trái của nó như phân hoá giàu – nghèo giữa những người sản xuất hàng
hoá, tiềm ẩn những khả năng khủng hoàng kinh tế – xã hội, phá hoại môi trường sinh thái,…
II.Thực trạng về phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt Nam hiện nay
Theo quan điểm của Các Mác kinh tế hàng hóa không phải là một phương
thức sản xuất độc lập mà là một hình thức tổ chức kinh tế tồn tại trong các phương
thức xã hội. Với phạm vi và mức độ khác nhau, tuy cùng là nền kinh tế hàng hóa
nhưng bản chất của xã hội quy định đặc điểm của kinh tế hàng hóa xã hội đó. Nhà
nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa nên vai trò quản lý của nhà nước định hướng
nền kinh tế hàng hóa theo chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
1.Thực trạng kinh tế Việt Nam để chúng ta phải chuyển sang phát triển kinh
tế hàng hóa là tất yếu khách quan.
Sau kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm sản xuất của các nước XHCN,
đất nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kế hoạch hóa tập trung dựa trên hình thức sở
hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Với sự nỗ lực của nhân dân ta cộng thêm sự
giúp đỡ tận tình của các nước XHCN khác, mô hình kế hoạch hóa đã phát huy được
những tính ưu việt của nó. Từ một nền kinh tế hàng hóa lạc hậu và phân tán bằng
công cụ kế hoạch Nhà nước đã tập trung vào tay mình một lực lượng quan trong về
đất đai, tài sản và tiền bạc để ổn định và phát triển kinh tế.
Ngay từ tháng 8 năm 1979, Nhà nước ta đã chủ trương phát triển sản xuất hàng
hóa. Chỉ thị 1000 của ban Bí thư trung ương và quyết định số 25/CP của Chính phủ
năm 1981 đã để cho các hợp tác xã tự chủ trong sản xuất kinh doanh.
Đại hội Đảng VI, tháng 12 năm 1986 đã khẳng định quá trình từ sản xuất nhỏ lên
sản xuất lởn nước ta là quá trình chuyển từ nền inh tế tự cung tự cấp sang nền kinh
tế hàng hóa. Điều quan trọng là ở đây chúng ta không chỉ thừa nhận từng khâu,
từng phần sản phẩm là sản xuất hàng hóa mà là cả một nền kinh tế hàng hóa, coi đó
là một quá trình có tính quy luật đi lên sản xuất XHCN ở nước ta. Tại hội nghị TW
6 (khóa VI, 3/1989) và Đại hội VII (6/1991) trên cơ sở nhận thức sâu hơn về tình
hình đất nước, Đảng ta mới có điều kiện nói rõ và nhấn mạnh “ Nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
là hoàn toàn cần thiết để giải phóng và phát huy được các tiềm năng sản xuất của xã hội”.
Đến đại hội lần VIII (6/1996) trên cơ sở kế thừa những đường lối, chủ trương
đúng đắn về việc sử dụng kinh tế hàng hóa do các đại hội trước đề ra, Đảng ta đã
xác định rõ hơn vai trò của kinh tế hàng hóa – mà phát triển cao hơn chính là kinh
tế thị trường “ Cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đến sự phát
triển kinh tế xã hội. Nó chẳng những không đối lập mà còn là một nhân tố khách
quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước theo con đương XHCN”.
Đây là bước tiến quan trọng trong việc đổi mới tư duy kinh tế của Đảng ta. Quan
điểm này xuất phát từ tình hình kinh tế xã hội ở nước ta, từ nguyện vọng chính
đáng của nhân dân ta, trên cơ sở vận dụng mô hình của Mác-Lênin về một chủ
nghĩa xã hội có nền kinh tế hàng hóa. Nó phù hợp với thực tế của nước ta, phù hợp
với các quy luật kinh tế và với xu thế của thời đại. Bởi vì:
Thứ nhất: nếu chúng ta không thay đổi cơ chế kinh tế mà vẫn giữ nguyên cơ
chế kinh tế cũ thì không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói
đến tích lũy vốn để mở rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỉ 80 đã
chỉ rõ việc thực hiện cơ chế cũ cho dù chúng ta đã liên tục đổi mới hoàn thiện cơ
chế quản lý kinh tế cũ, nhưng hiệu quả của nền kinh tế xã hội đạt đến mức rất thấp,
sản xuất không đáp ứng nổi tiêu dùng của xã hội, tích lũy hầu như không có, đôi
khi còn ăn lạm cả vào vốn vay của nước ngoài.
Thứ hai: do nền kinh tế đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc do
nó chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn ngắn và chỉ có tác
dụng phát triển nền kinh tế theo chiều rộng, nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại
quá dài do đó mó không những không còn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy sản
xuất phát triển mà nó còn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng suất chất
lượng và hiệu quả sản xuất.
Thứ ba: xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang
hội nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, nước ta còn tồn tại kinh tế đối ngoại,
còn tham gia vào sự phân công hiệp tác quốc tế. Mặt khác nếu nền kinh tế nước ta
hội nhập với nền kinh tế thị trường thế giới,giao lưu về hàng hóa, dịch vụ và đầu tư
trực tiếp của nước ngoài sẽ làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gũi
hơn với nền kinh tế thị trường thế giới, tương quan giá cả các loại hàng hóa trong
nước sẽ gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng hóa quốc tế.
Thứ tư: xu hướng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triểnkinh tế
của mỗi nước không thể tách rời phát triển và hội nhập quốc tế. Sự cạnh tranh giữa
các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất không còn là dân số đông, vũ khí nhiều, quân
đội mạnh mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích chính sách của các quốc gia là tạo ra
được nhiều của cải vật chất trong quốc gia của mình, là tốc độ phát triển kinh tế
cao, đời sống nhân dân được ổn định, thất nghiệp thấp. Tiềm lực kinh tế đã thành
thước đo chủ yếu, vai trò sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo vệ
uy tín và duy trì sức mạnh của Đảng cầm quyền.
2.Đánh giá thực trạng
2.1Những thành tựu kinh tế mà nước ta đạt được từ những năm đổi mới đến nay.
Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã đặt nền móng vững chắc cho quan điểm phát
triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Từ nền kinh tế bao cấp trì trệ bị bao vây cấm vận, đời sống nhân dân hết sức khó
khăn, đến hôm nay, sau hơn 35 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền kinh
tế nước ta đã có những bước tiến vững vàng , tạo đà cho thế kỷ phát triển mới của
đất nước. Chúng ta có thể tự hào khẳng định kinh tế Việt Nam 35 năm qua đạt được nhiều thành tựu to lớn.
Một là, đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, kinh tế tăng
trưởng nhanh, cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường, đời sống của các tầng
lớp nhân dân không ngừng được cải thiện.
Trong suốt hơn 35 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn
tượng. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990), mức tăng trưởng GDP
bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991-1995, GDP bình quân đã tăng
gấp đôi, đạt 8,2%/năm; các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao; giai
đoạn 2016-2019 đạt mức bình quân 6,8%.
Mặc dù năm 2020, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh COVID-19
nhưng tốc độ tăng GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao
nhất khu vực, thế giới.
Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ
USD/năm thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD/năm. Đời sống nhân dân
cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, năm 1985 bình quân thu nhập đầu
người mới đạt 159 USD/năm thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.750 USD/năm
Nhận định bối cảnh năm 2021 so với năm 2020 khó khăn rất nhiều, đặc biệt, đợt
bùng phát dịch lần thứ tư tác động cực kỳ bất lợi, ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh
tế nhưng những điểm sáng về kinh tế của năm 2021 cho thấy khả năng ứng phó,
sức sống của các doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện khắc nghiệt của dịch
bệnh; nông nghiệp tiếp tục phát huy vai trò “bệ đỡ” của nền kinh tế; kim ngạch
xuất nhập khẩu của Việt Nam đã đạt mức kỷ lục mới, với tổng giá trị 668,5 tỷ USD,
tăng 22,6% so với năm 2020; thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) đạt 31,15 tỷ USD,
tăng 9,2% so với năm 2020…
Hai là, cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, gắn sản xuất với thị trường.
Về cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1986 là 46,3%, năm 2005 còn
20,9%, năm 2010 còn 20,6% và đến năm 2021 chỉ còn 12,36%; cơ cấu trồng trọt và
chăn nuôi đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng
suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Tỷ trọng công
nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục với thiết bị, công nghệ ngày càng hiện
đại: năm 1988 là 21,6%, năm 2021 lên 37,86%. Tỷ trọng khu vực dịch vụ đã
tăng từ 33,1% năm 1988 lên 40,95% năm 2021. Nông nghiệp có sự biến
đổi quan trọng, đã chuyển từ độc canh lúa, năng suất thấp và thiếu hụt lớn, sang
không những đủ dùng trong nước, còn xuất khẩu gạo với khối lượng lớn, đứng thứ
hai thế giới, góp phần vào an ninh lương thực quốc tế; xuất khẩu cà phê, cao su, hạt
điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn đứng thứ hạng cao trên thế giới.
Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu
của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc độ
nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý;... có bước phát triển.
Ba là, thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế.
Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập
trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế.
Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo
hướng xóa bao cấp, thực hiện mô hình công ty, phát huy quyền tự chủ và trách
nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy
động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, là một động
lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Năm 2020, khu vực
kinh tế tư nhân đóng góp trên 40% GDP của cả nước. Kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở thành một bộ phận cấu thành quan
trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao
công nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp vào ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho nhiều người dân.
Bốn là, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được
hình thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định.
Trải qua hơn 30 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối
đồng bộ. Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành
phần và bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một bước quan trọng. Với chủ
theo hướng tiến bộ, hiệu quả.trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được
mở rộng. Việt Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN),
thực hiện các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp
địnhThương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO),... Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng
lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương với các nước, tạo ra một
bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và
hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hóa
thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi trường đầu
tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị trường tiếp tục
hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát triển mạnh.
Việc kiện toàn các tổng công ty, thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước
đạt một số kết quả. Giai đoạn 2006 - 2010, số doanh nghiệp tăng hơn 2,3 lần, số
vốn tăng 7,3 lần so với giai đoạn 2001 – 2005. Từ năm 2015 đến năm 2020, số
doanh nghiệp hoạt động đã có sự tăng vọt từ 442.400 lên tới 810.000. Doanh
nghiệp cổ phần trở thành hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến.
2.2Những hạn chế của nền kinh tế hàng hoá ở Việt Nam
-Tuy là nước nông nghiệp nhưng bình quân ruộng đất canh tác theo đầu người thấp
-Nền kinh tế kém phát triển, mang nặng dấu ấn của kinh tế tự nhiên, còn chịu ảnh
hưởng nặng nề của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, thi trường chưa phát triển và
chưa đồng bộ, thu nhập quốc dân theo đầu người thấp,sức mua còn hạ
-Kết cấu hạ tầng cơ sở còn kém phát triển, trình độ khoa học kĩ thuật chưa cao, hệ
thống pháp luật còn nhiều bất cập,…
III.Những giải pháp để phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt Nam
-Thứ nhất: đa dạng các loại hình sở hữu, hình thành ra sở hữu nhà nước, sở hữu tập
thể, sở hữu hỗn hợp và sở hữu cá thể phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
-Thứ hai: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển.
-Thứ ba: phát triển đồng bộ các loại thị trường như thị trường sức lao động, thị
trường tư liệu tư liệu sản xuất
-Thứ tư: xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo môi trường về pháp lý.
-Thứ năm: phát triển kết cấu hạ tầng về kinh tế - xã hội theo hướng hiện đại.
-Thứ sáu: đổi mới vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước, cải
cách thủ tục hành chính quốc gia. Đổi mới công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước,
đặc biệt là thông qua chính sách phân phối thu nhập để đạt được tiến bộ và công
bằng xã hội, chuyển dịch cơ chế nhanh sang cơ chế thị trường và đổi mới chính
sách kinh tế cho thích hợp. KẾT LUẬN
Như vậy trong đề án này em đã trình bày lý luận của chủ nghĩa Mác về sản xuất
hàng hoá và kinh tế hàng hóa ở Việt Nam hiện nay. Em hy vọng qua bài tiểu luận
này, chúng ta đã có thể hiểu hơn về khái niệm, ý nghĩa của sản xuất hàng hoá. Song
song đó là nền kinh tế kinh tế Việt Nam đã có những phát triển, thành tựu lớn như
thế nào sau hơn 35 năm đổi mới.
Cùng với đó, em cũng đã hiểu hơn về môn Kinh tế chính trị và về chính đề tài mà
em đã tìm hiểu. Em cũng sẽ nỗ lực tiếp thu, áp dụng những kiến thức đã học được
từ bộ môn này vào cuộc sống sinh viên của mình và làm nó trở nên ý nghĩa hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin (dành cho bậc đại học không chuyên luận chính trị), năm 2019
https://baodantoc.vn/10-su-kien-kinh-te-viet-nam-noi-bat-nam-2021- 1640769363140.htm
https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2021/12/bao-cao-tinh-hinh-
kinh-te-xa-hoi-quy-iv-va-nam-2021/
https://dangcongsan.vn/kinh-te/kinh-te-viet-nam-va-trien-vong-trong-boi-canh-dai- dich-602523.html