



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58504431
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KINH TẾ ĐẦU TƯ ----- -----
BÀI TẬP NHÓM
Học phần: Kinh tế đầu tư
Lớp học phần: Kinh tế đầu tư 1 (121)_03
Đề tài: “Các vấn đề kinh tế trong quản lí đầu tư công”.
Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS Phạm Văn Hùng Thành viên nhóm:
1 . Nguyễn Văn Mừng 2. Phạm Hoàng Nam 3. Trần Thị Bích 4. Đậu Thị Thanh Hoa 5. Mai Thị Thu Giang 6. Ngô Nguyệt Hường Hà Nội 10/2021 lOMoAR cPSD| 58504431 LỜI MỞ ĐẦU
Đầu tư công luôn là hoạt động rất quan trọng của các quốc gia, nhất là các quốc gia
đang trong quá trình công nghiệp hóa. Những năm gần đây, đầu tư công càng được đặc biệt
quan tâm do nhiều quốc gia trên thế giới đều muốn dùng đầu tư công để tạo môi trường và
kích thích phát triển, muốn tăng hiệu quả đầu tư công trong bối cảnh nợ công tăng, nhất là
sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Tại Việt Nam, trong bối cảnh mục tiêu phát
triển rất cao, ngân sách luôn thiếu hụt, nợ công có xu hướng tăng cao, nhiều dự án đầu tư
công kém hiệu quả, vấn đề đầu tư công càng trở thành tâm điểm thảo luận của các nhà
nghiên cứu, các nhà quản lý nhà nước và dân chúng.
Đầu tư công có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an
ninh, quốc phòng của Việt Nam và là "đòn bẩy" đối với một số ngành và vùng trọng điểm.
Đánh giá thực trạng đầu tư công giai đoạn 2010-2020, nhóm 8 xin nêu ý kiến về
những vấn đề kinh tế trong quản lý đầu tư công tại Việt Nam hiện nay và đề xuất một số
giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư công giai đoạn 2021-2030. lOMoAR cPSD| 58504431 MỤC LỤC Trang
PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ CÔNG ..................................................... 3
1.1. Đầu tư .................................................................................................. 3
1.2. Đầu tư công .............................................................................................. 3
1.2.1. Khái niệm và góc độ trong đầu tư công ................................................. 3
1.2.2. Vai trò của đầu tư công trong nền kinh tế .............................................. 4
1.2.3. Các nguyên tắc trong quản lí đầu tư công ............................................... 5
1.2.3.1. Nội dung quản lí nhà nước về đầu tư công .............................................. 5
1.2.3.2. Nguyên tắc quản lí đầu tư công .............................................................. 5
1.2.3.3. Nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ vốn đầu tư công nguồn
ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-2025 ............................................... 6
1.2.4. Các hành vi bị cấm trong đầu tư công ..................................................... 8
PHẦN 2: CÁC VẤN ĐỀ KINH TẾ TRONG QUẢN LÍ ĐẦU TƯ CÔNG ........ 9
2.1. Quá trình hoàn thiện công tác quản lý đầu tư công ................................. 9
2.2. Quản lý hoạt động đầu tư công tại Việt Nam ......................................... 11
2.3. Các vấn đề kinh tế lớn trong hoạt động đầu tư công .............................. 12
2.3.1. Nguồn vốn và quản lý vốn đầu tư công .................................................. 12
2.3.1.1. Nguồn vốn đầu tư công ........................................................................... 12
2.3.1.2. Quản lý vốn đầu tư công ......................................................................... 13
2.3.2. Các vấn đề kinh tế trong quản lý đầu tư công: ......................................... 14
2.3.3. Đối tượng đầu tư của đầu tư công ........................................................... 15
2.3.4. Các hình thức kinh tế đầu tư công ........................................................... 15
PHẦN III: ĐẦU TƯ CÔNG TẠI VIỆT NAM ................................................ 17
3.1. Thực trạng đầu tư công trong giai đoạn 2010-2019 .................................. 17
3.2. Những tồn tại và hạn chế của đầu tư công Việt Nam ................................ 19
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư công trong thời đại mới ................... 20
Tổng kết và tài liệu tham khảo ................................................................................. 22 NỘI DUNG lOMoAR cPSD| 58504431
PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ CÔNG
1.1. Đầu tư
Đầu tư là quá trình sử dụng phối hợp các nguồn lực trong một khoảng thời gian xác
định nhằm đạt được kết quả hoặc một tập hợp các mục tiêu xác định trong điều kiện kinh
tế xã hội nhất định.
1.2. Đầu tư công
1.2.1. Khái niệm và các góc độ trong đầu tư công
Đầu tư công (public investment) là hoạt động đầu tư của nhà nước. Nhà nước bao
gồm cả Chính phủ Trung ương hoặc chính quyền địa phương.
Khái niệm đầu tư công có nhiều quan điểm đang tranh luận khác nhau của nhiều nhà
nghiên cứu kinh tế trong nước và trên thế giới. Có nhà nghiên cứu cho rằng khái niệm đầu
tư công là đề cập tới lĩnh vực đầu tư mà đầu tư tư nhân không thể và không muốn tham gia
như kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội. Có nhà nghiên cứu thì cho rằng đầu tư công là hoạt động
đầu tư sử dụng Nguồn vốn của Nhà nước…
Theo quan điểm của JICA (Japan International Cooperation Agency), đầu tư công
là đầu tư của chính phủ vào vào hạ tầng công cộng (public infrastructure) bao gồm hạ tầng
kinh tế như sân bay, đường bộ, đường sắt, cảng biển, cung ứng nước, điện, ga, bưu chính
viễn thông… và hạ tầng xã hội như trường học, bệnh viện, nhà văn hóa…. Khi kết thúc
đầu tư, kết quả của đầu tư công sẽ là các tài sản công và nó sẽ cung cấp dịch vụ công hoặc hàng hóa công.
Theo Luật Đầu tư công (2014):” Đầu tư công là hoạt động đầu tư của nhà nước vào
các chương trình, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và đầu tư vào các chương
trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế - xã hội”.
Dự án đầu tư công là dự án đầu tư sử dụng toàn bộ hoặc một phần vốn đầu tư công.
Trong đó, vốn đầu tư công gồm vốn ngân sách nhà nước, vốn từ nguồn thu hợp pháp của
các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập dành để đầu tư theo quy định của pháp luật.
Bài nghiên cứu cũng dựa theo Luật Đầu tư công làm căn cứ để nghiên cứu.
Các góc độ trong đầu tư công
Đầu tư công có thể xem xét dưới 2 góc độ: kinh tế và chính trị
Đứng ở góc độ kinh tế, đầu tư công nói chung được xem là rất cần thiết trong việc
cung cấp hàng hóa và dịch vụ công (public goods) mà khu vực tư nhân không hoặc không
thể cung cấp hoặc chỉ một nhà cung cấp có thể đầu tư một cách hiệu quả do độc quyền tự nhiên (monopolies).
Dưới góc độ chính trị, đầu tư công được xem là một công cụ cần thiết để đạt được
một số mục tiêu về chính trị, bao gồm an ninh quốc gia, bảo vệ quyền sở hữu, duy trì hiệu lOMoAR cPSD| 58504431
lực pháp luật, phát triển kinh tế quốc gia, tạo công ăn việc làm, bảo vệ môi trường, phân phối bình đẳng hơn…
1.2.2. Vai trò của đầu tư công trong nền kinh tế
Thứ nhất, đầu tư công có vai trò chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, định hướng và thúc
đẩy đầu tư phát triển kinh tế – xã hội.
Chúng ta thấy rõ, đặc biệt là năm 2020, năm đầu tiên bị ảnh hưởng bởi đại dịch
COVID-19, lúc đó vai trò hỗ trợ cho tăng trưởng của đầu tư công đã được khẳng định. Năm
2020 đạt kết quả hết sức ấn tượng về giải ngân vốn đầu tư công, đóng góp cho tăng trưởng
năm 2020 đạt mức tích cực.
Năm 2021, đầu tư công vẫn thể hiện vai trò hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế trong bối
cảnh các lĩnh vực về sản xuất kinh doanh và dịch vụ bị ảnh hưởng rất nhiều bởi dịch
COVID-19. Tuy nhiên, năm 2021 có những điểm mới hơn cả về thuận lợi lẫn khó khăn nên
khi so sánh với một năm rất cao như năm 2020 thì nhận thấy tốc độ giải ngân những tháng
đầu năm 2021 còn thấp, cụ thể 7 tháng của năm nay mới giải ngân đạt hơn 36%, trong khi
cùng kỳ năm 2020 đạt 40%.
Thứ hai, đầu tư công góp phần ổn định và làm giảm khoảng cách giàu nghèo, giảm
bất bình đẳng, bất công trong xã hội.
Theo cơ quan thẩm tra, để giảm nghèo thực sự bền vững, đòi hỏi cả nước trong giai
đoạn 2021-2025 phải giảm tỷ lệ tái nghèo, tỷ lệ hộ nghèo phát sinh, ngoài việc giảm nghèo
về thu nhập cần tập trung giải quyết các chiều thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản để đảm bảo
hàng năm giảm 1-1,5% tỷ lệ người nghèo theo chuẩn đa chiều.
Cơ quan thẩm tra thống nhất bố trí đủ vốn đầu tư từ ngân sách Trung ương cho
chương trình mà Chính phủ đã dự kiến trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn
2021-2025 là 20.000 tỷ đồng trên cơ sở đã bổ sung các nội dung bảo đảm thực hiện giảm
nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững, các chiều thiếu hụt của dịch vụ xã hội cơ bản như nhà
ở, dinh dưỡng, người nghèo không có khả năng lao động. Các nội dung "an sinh xã hội"
được chuyển sang kế hoạch đầu tư công trung hạn cần được bố trí kinh phí đủ từ nguồn
vốn đầu tư công trung hạn.
Thứ ba, đầu tư công có vai trò quan trọng trong đảm bảo và không ngừng tăng cường
sức mạnh quốc phòng, an ninh.
1.2.3. Các nguyên tắc trong quản lý đầu tư công
Trước hết ta cùng tìm hiểu các nội dung quản lí nhà nước về đầu tư công :
1.2.3.1 Nội dung quản lí nhà nước về đầu tư công 1.
Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư công. 2.
Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chương trình, kế hoạch, giải pháp,
chính sách đầu tư công. 3.
Theo dõi, cung cấp thông tin về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công. lOMoAR cPSD| 58504431 4.
Đánh giá hiệu quả đầu tư công; kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện
quy định của pháp luật về đầu tư công, việc tuân thủ kế hoạch đầu tư công. 5.
Xử lý vi phạm pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo của tổ chức, cá nhân
liên quan đến hoạt động đầu tư công. 6.
Khen thưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thành tích trong hoạt động đầu tư công. 7.
Hợp tác quốc tế về đầu tư công.
Đầu tư công là hoạt động đầu tư của nhà nước, sử dụng nguồn lực chủ yếu của nhà
nước, của cộng đồng, kết quả đầu tư nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển chung nền kinh tế,
xã hội, phục vụ cho lợi ích của cộng đồng. Vì vậy trong quản lý hoạt động đầu tư công phải
tuân thủ những nguyên tắc cơ bản như sau:
1.2.3.2. Nguyên tắc quản lý đầu tư công _(Theo Điều 12, Điều 13, Điều 14 Luật đầu tư công 2019)
Tuân thủ quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công.
Phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội 05 năm của quốc gia và quy hoạch có liên quan theo quy định của
pháp luật về quy hoạch.
Thực hiện đúng trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan quản lý nhà
nước, tổ chức, cá nhân liên quan đến quản lý và sử dụng vốn đầu tư công.
Quản lý việc sử dụng vốn đầu tư công theo đúng quy định đối vớitừng
nguồn vốn; bảo đảm đầu tư tập trung, đồng bộ, chất lượng, tiết kiệm, hiệu quả và
khả năng cân đối nguồn lực; không để thất thoát, lãng phí.
Bảo đảm công khai, minh bạch trong hoạt động đầu tư công.
+ Nội dung công khai, minh bạch trong đầu tư công bao gồm:
a) Chính sách, pháp luật và việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật trong
quản lý và sử dụng vốn đầu tư công;
b) Nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công;
c) Nguyên tắc, tiêu chí, căn cứ xác định danh mục dự án trong kế hoạch đầu tư
công trung hạn và hằng năm;
d) Kế hoạch, chương trình đầu tư công trên địa bàn; vốn bố trí cho từng chương
trình theo từng năm, tiến độ thực hiện và giải ngân vốn chương trình đầu tư công;
đ) Danh mục dự án trên địa bàn, bao gồm quy mô, tổng mức đầu tư, thời gian, địa
điểm; báo cáo đánh giá tác động tổng thể của dự án tới địa bàn đầu tư;
e) Kế hoạch phân bổ vốn đầu tư công trung hạn và hằng năm, bao gồm danh mục
dự án và mức vốn đầu tư công bố trí cho từng dự án; lOMoAR cPSD| 58504431
g) Tình hình huy động các nguồn lực và nguồn vốn khác tham gia thực hiện dự án đầu tư công;
h) Tình hình và kết quả thực hiện kế hoạch, chương trình, dự án;
i) Tiến độ thực hiện và giải ngân của dự án;
k) Kết quả nghiệm thu, đánh giá chương trình, dự án;
l) Quyết toán vốn đầu tư công.
Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thực hiện việc công khai các nội
dung đầu tư công theo quy định của pháp luật.
1.2.3.3. Nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ vốn đầu tư công nguồn ngân sách
nhà nước giai đoạn 2021-2025
Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 973/2020/UBTVQH14 (ngày
8/7/2020) quy định về các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công nguồn
ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-2025. -
Việc phân bổ vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-
2025 phải tuân thủ các quy định của Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách nhà nước và các
văn bản pháp luật có liên quan. Bảo đảm quản lý tập trung, thống nhất về mục tiêu, cơ chế,
chính sách; thực hiện phân cấp trong quản lý đầu tư theo quy định của pháp luật, tạo quyền
chủ động cho các bộ, cơ quan trung ương và các cấp chính quyền địa phương. -
Việc phân bổ vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước phải phù hợp với
khảnăng cân đối vốn đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước trong kế hoạch tài chính 5 năm,
bảo đảm các cân đối vĩ mô, an toàn nợ công. Đẩy mạnh cơ cấu lại đầu tư công, tính toán
hợp lý cơ cấu nguồn lực ngân sách Trung ương và địa phương, bảo đảm ngân sách trung
ương giữ vai trò chủ đạo; tăng cường huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước,
đẩy mạnh việc thu hút các nguồn vốn xã hội để thực hiện các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng. -
Tập trung ưu tiên bố trí vốn để thực hiện, đẩy nhanh tiến độ, sớm hoàn thành
vàphát huy hiệu quả các dự án thuộc chương trình mục tiêu quốc gia, dự án quan trọng
quốc gia, chương trình, dự án kết nối, có tác động liên vùng, có ý nghĩa thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội nhanh, bền vững, bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân, phòng, chống thiên
tai, ứng phó với biến đổi khí hậu (sạt lở bờ sông, bờ biển, xâm nhập mặn, nước biển
dâng,…), bảo đảm an ninh nguồn nước.
Thứ tự ưu tiên phân bổ vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-2025: •
Phân bổ đủ vốn để thanh toán nợ đọng xây dựng cơ bản theo quy định tại
khoản 4 Điều 101 của Luật Đầu tư công (nếu có); •
Phân bổ đủ vốn để hoàn trả vốn ứng trước kế hoạch nhưng chưa có nguồn để
hoàn trả trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn trước (nếu còn); lOMoAR cPSD| 58504431 •
Phân bổ vốn cho dự án đã hoàn thành và bàn giao đưa vào sử dụng nhưng
chưa bố trí đủ vốn; vốn cho dự án sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ
nước ngoài (bao gồm cả vốn đối ứng); vốn đầu tư của Nhà nước tham gia thực hiện dự án
theo phương thức đối tác công tư; dự án chuyển tiếp thực hiện theo tiến độ được phê duyệt;
dự án dự kiến hoàn thành trong kỳ kế hoạch; •
Phân bổ vốn để thực hiện nhiệm vụ quy hoạch; •
Phân bổ vốn chuẩn bị đầu tư để lập, thẩm định, quyết định chủ trương đầu tư
và lập, thẩm định, quyết định đầu tư chương trình, dự án; •
Phân bổ vốn cho dự án khởi công mới đáp ứng yêu cầu quy định tại khoản 5
Điều 51 của Luật Đầu tư công.
Phải bảo đảm công khai, minh bạch, công bằng trong việc quản lí, phân bổ vốn kế
hoạch đầu tư công, góp phần đẩy mạnh cải cách hành chính và tăng cường công tác phòng,
chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
1.2.4. Các hành vi bị cấm trong đầu tư công
Theo luật đầu tư công mới nhất 2019 , 39/2019/QH14 ghi rất chi tiết về 11 điều cấm
trong đầu tư công có hiệu lực kể từ năm 2020 : 1.
Quyết định chủ trương đầu tư không phù hợp với chiến lược, quy hoạch,
kếhoạch; không xác định được nguồn vốn và khả năng cân đối vốn; không đúng thẩm
quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. 2.
Quyết định đầu tư chương trình, dự án khi chưa được cấp có thẩm quyền
quyếtđịnh chủ trương đầu tư hoặc không đúng với các nội dung về mục tiêu, phạm vi, quy
mô, vượt tổng vốn đầu tư của chủ trương đầu tư đã được cấp có thẩm quyền quyết định.
Quyết định điều chỉnh tổng vốn đầu tư của chương trình, tổng mức đầu tư của dự án trái
với quy định của pháp luật về đầu tư công. 3.
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt, vụ lợi, tham nhũng trong quản
lývà sử dụng vốn đầu tư công. 4.
Chủ chương trình, chủ đầu tư thông đồng với tổ chức tư vấn, nhà thầu dẫn
tớiquyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư chương trình, dự án gây thất thoát, lãng
phí vốn, tài sản của Nhà nước, tài nguyên của quốc gia; làm tổn hại, xâm phạm lợi ích hợp
pháp của công dân và của cộng đồng. 5.
Đưa, nhận, môi giới hối lộ. 6.
Yêu cầu tổ chức, cá nhân tự bỏ vốn đầu tư khi chương trình, dự án chưa
đượcquyết định chủ trương đầu tư, chưa được phê duyệt, gây nợ đọng xây dựng cơ bản. 7.
Sử dụng vốn đầu tư công không đúng mục đích, không đúng đối tượng,
vượttiêu chuẩn, định mức theo quy định của pháp luật. 8.
Làm giả, làm sai lệch thông tin, hồ sơ, tài liệu, liên quan đến quyết định
chủtrương đầu tư, quyết định đầu tư, triển khai thực hiện chương trình, dự án. lOMoAR cPSD| 58504431 9.
Cố ý báo cáo, cung cấp thông tin không đúng, không trung thực, không
kháchquan ảnh hưởng đến việc lập, thẩm định, quyết định kế hoạch, chương trình, dự án,
theo dõi, đánh giá, kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm trong triển khai thực hiện kế hoạch, chương trình, dự án. 10.
Cố ý hủy hoại, lừa dối, che giấu hoặc lưu giữ không đầy đủ tài liệu, chứng
từ,hồ sơ liên quan đến quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư, triển khai thực hiện chương trình, dự án. 11.
Cản trở việc phát hiện hành vi vi phạm pháp luật về đầu tư công.
Đầu tư công cũng có thể trở thành một gánh nặng cho quốc gia, nếu nó được sử
dụng một cách thái quá, gây nên sự dàn trải, kém hiệu quả, thậm chí là thất thoát, lãng phí,
tiêu cực, tham nhũng. Bên cạnh đó thì nếu hình thức hợp tác công tư không tuân thủ theo
những quy tắc nhất định sẽ dẫn đến móc ngoặc công tư, gây thiệt hại tài sản công.
Ngoài ra có những hành vi như sử dụng vốn đầu tư công không đúng mục đích hiện
nay đối với vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và sử dụng vốn đầu tư công, dự thảo
kiến nghị tăng mức xử phạt đối với hầu hết các hành vi vi phạm do các dự án đầu tư công
thường có quy mô lớn, tổng mức đầu tư cao, dẫn tới nguy cơ gây thất thoát, lãng phí cho Nhà nước.
PHẦN 2 : CÁC VẤN ĐỀ KINH TẾ TRONG QUẢN LÍ ĐẦU TƯ CÔNG
2.1. Quá trình hoàn thiện công tác quản lý đầu tư công:
Trên thế giới, từ trước những năm 1970, quản lý đầu tư công (PIM- Public
Investment Management) theo phương thức truyền thống, chủ yếu tập trung vào cải thiện
từng dự án đầu tư công. Chính phủ các nước xây dựng kế hoạch phát triển quốc gia, thực
hiện kế hoạch theo các dự án, còn các đối tác phát triển (development partners) sẽ tài trợ
cho phần thiếu hụt nguồn lực. Với cách tiếp cận truyền thống này, quản lý đầu tư công có
một số hạn chế sau: Không tương thích giữa nhu cầu vốn và khả năng tài chính cho dự án;
Dự toán ngân sách kép, tức là dự toán ngan sách dự án có thể bị tách biệt với dự toán tài
chính tổng thể; Ưu tiên cho các dự án không hiệu quả; Lập kế hoạch, giám sát dự án không phù hợp.
Đến năm 1980, Ngân hàng Thế giới (WB) đưa ra khái niệm chương trình đầu tư
công (PIP - Public Investment Programs). Chương trình này được kỳ vọng là tạo ra các dự
án được chuẩn bị tốt và thiết lập mối quan hệ giữa các dự án đầu tư công với kế hoạch phát
triển. Tại nhiều quốc gia, chương trình đầu tư công trở lên thiếu hiệu quả với tiêu chí ưu
tiên không rõ ràng và trở thành công cụ để tìm kiếm tài trợ từ các đối tác phát triển. Đến
những năm 1990, hiệu quả của các PIP được đưa ra cân nhắc lại.
Qua thực tế, các đối tác phát triển nhận thấy rằng chương trình đầu tư công cần được
củng cố để đạt được 3 mục tiêu:
+ Đáp ứng yêu cầu kỷ luật tài khóa tổng thể lOMoAR cPSD| 58504431
+ Phân bổ nguồn lực chiến lược
+ Cung cấp các dịch vụ công hiệu quả
Thực hiện việc cải cách này thì hệ thống dự toán ngân sách kép bị phê phán như là
một rào cản chính đối với việc đạt được các mục tiêu trên. Tuy nhiên, chuyển từ hệ thống
dự toán ngân sách kép sang dự toán ngân sách tích hợp là một thách thức lớn đối với nhiều
Chính phủ. Một số quốc gia vẫn dùng hệ thống dự toán ngân sách kép. Từ những năm
1990, một số quốc gia bắt đầu áp dụng Khung chi tiêu trung hạn (MTEF - Medium Term
Expenditure FrameWork), với việc đưa khái niệm trung hạn vào dự toán ngân sách.
Trong nửa cuối thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XX, PIM trở thành chương trình cốt lõi
cho cải cách Quản lý Tài chính công (PFM- Public Financial Management), đáp ứng nhu
cầu lớn về đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và đạt mục tiêu phát triển bền vững đến năm
2030. Ngân hàng Thế giới đã phát hành ấn phẩm Khung khổ chuẩn đoán cho Quản lý
Đầu tư công (DF-PIM) vào năm 2010. Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) giới thiệu về Đánh giá
Quản lý đầu tư công (PIMA – Public Investment Management Assessment) vào năm 2015.
IMF cũng đã tiến hành đánh giá theo PIMA tại nhiều quốc gia và phiên bản cập nhật của PIMA là vào năm 2018.
Cho đến nay, việc hoàn thiện quản lý đầu tư công (PIM), trong đó có việc hoàn thiện
Luật Đầu tư công tại Việt Nam, là nhằm:
Thứ nhất, đón góp vào việc đạt được tầm nhìn phát triển dài hạn và các mục tiêu của
kế hoạch phát triển. Với việc cải thiện quản lý đầu tư công, các dự án đầu tư công sẽ được
lựa chọn dựa trên sự ưu tiên trong chiến lược và kế hoạch phát triển của quốc gia, của
ngành và của vùng trong phạm vi nguồn lực cho phép và thực thi với chu trình quản lý lập
kế hoạch - thực hiện - kiểm tra - hành động (PDCA - Plan Do Check Act). Từ đó có thể
đóng góp cho việc đạt được mục tiêu và tầm nhìn.
Thứ hai, đạt được các mục tiêu quản lý tài chính công.
Bảng 1: Đóng góp vào mục tiêu PFM thông qua cải thiện PIM
Các mục tiêu của
Đóng góp thông qua cải thiện quản lý đầu tư PFM công PIM Kỷ luật tài khóa tổng
Tài khóa bền vững và nhất quán với tổng đầu tư thể công trong dài hạn Phân bổ nguồn lực
Việc lựa chọn dự án phải tương thích với kế chiến lược
hoạch phát triển của quốc gia, của ngành, của địa
phương, và phân bổ nguồn lực được dịch chuyển đến nơi hiệu quả hơn. Cung cấp hiệu quả các
Kết quả đầu tư tạo ra năng lực sản xuất và phục dịch vụ công
vụ đáp ứng các tiêu chí hiệu quả lOMoAR cPSD| 58504431 Nguồn: JICA
Thứ ba, cải thiện hoạt động đầu tư công.
Hình 1: Đầu tư công hiệu quả, năng suất và hoạt động đầu tư công Hạ tầng Tăng công công Đầu tư công tế Nguồn: IMF (2015)
Hoàn thiện quản lý đối với từng dự án đầu tư sẽ cải thiện chất lượng và hiệu quả của
dự án, đạt được kết quả và tác động theo hướng hiệu lực và hiệu quả. Các dự án đầu tư
công được quản lý hiệu quả hơn sẽ cải thiện việc phân bổ nguồn lực giữa các ngành, các
lĩnh vực và đạt được các mục tiêu phát triển. Tóm lại, hoàn thiện quản lý đầu tư công sẽ
tăng hiệu quả đầu tư, góp phần gia tăng năng suất và đạt được tăng trưởng kinh tế.
2.2. Quản lý hoạt động đầu tư công tại Việt Nam
Trước khi có Luật Đầu tư công, quản lý hoạt động đầu tư này tại Việt Nam vẫn thực
hiện theo phương thức truyền thống. Tình trạng đầu tư dàn trải, manh mún, hiệu quả thấp
với cơ chế phối hợp giữa cơ quan lập kế hoạch với cơ quan tài chính thiếu chặt chẽ. Thời
gian thực hiện đầu tư kéo dài, tình trạng thất thoát và lãng phí trong đầu tư công không còn
là cá biệt. Năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ chỉ số: 1792CT/TTg, với
những chấn chỉnh ban đầu về hoạt động đầu tư công và là tiền đề cho sự ra đời của Luật
Đầu tư công (2014). Sau khi Luật Đầu tư công có hiệu lực (2015), hoạt động đầu tư này đã
có những chuyển biến tích cực. Kỷ luật tài chính được tăng cường, kế hoạch đầu tư công
trung hạn được luật hóa, “căn bệnh” đầu tư tràn lan đã được ngăn chặn, từng bước nâng
cao hiệu quả đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước (NSNN). Hiệu quả đầu tư chung của nền
kinh tế cũng có chuyển biến tích cực. Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê (2018), hệ số
ICOR của Việt Nam 3 năm sau khi áp dụng luật Đầu tư công đã giảm từ mức 6,42 năm
2016 xuống 6,11 năm 2017 và còn 5,97 năm 2018. Bình quân giai đoạn 2011-2015 là 6,25
thì giai đoạn 2016-2018 chỉ còn 6,17[9].
Tuy nhiên, sau khoảng 4 năm thực hiện, một số vấn đề tồn tại và phát sinh cần tiếp
tục giải quyết trong đó đặc biệt là vấn đề tranh giải ngân vốn đầu tư công. NSNN có tiền
nhưng không tiêu được, trong khi nhiều công trình trọng điểm lại phải chờ vốn. Số liệu của
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cập nhật đến tháng 1-2019 cho thấy, trong 66 của tổng số 126 cơ
quan đã gửi báo cáo về tình hình giải ngân đầu tư công năm 2018, chỉ có 9 cơ quan đạt tỷ
lệ giải ngân trên 90% kế hoạch năm. Rất nhiều cơ quan giải ngân chưa đạt 50% kế hoạch.
Cá biệt có địa phương trong năm 2018 không giải ngân được đồng nào[6]. Qua số liệu về
tình hình giải ngân nguồn ngân sách T.W cho thấy, tỷ lệ giải ngân kế hoạch đầu tư công
giai đoạn 2016-2018 đạt rất thấp. Từ năm 2016 đến ngày 31-10-2018, giải ngân mới đạt lOMoAR cPSD| 58504431
368 nghìn tỷ đồng, chỉ đạt 72% kế hoạch đã giao. Năm 2017, kế hoạch vốn đầu tư ngân
sách T.Ư là 175 nghìn tỷ đồng, giải ngân đạt 135 nghìn tỷ đồng, bằng 77,1% kế hoạch.
Riêng năm 2018, kế hoạch 176 nghìn tỷ đồng, đến ngày 31-10 giải ngân mới đạt 88 nghìn
tỷ đồng, bằng 50% kế hoạch. Tình trạng đội vốn vẫn diễn ra tương đối phổ biến, nhất là
các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước.
2.3. Các vấn đề kinh tế lớn trong hoạt động đầu tư công
2.3.1. Nguồn vốn và quản lý vốn đầu tư công
2.3.1.1 Nguồn vốn đầu tư công
Vốn đầu tư là tiền hay tài sản khác được sử dụng để thực hiện các hoạt động đầu tư
kinh doanh. Trong khi đó, Theo điều 4 Luật Đầu tư Công (2013): “Đầu tư công là hoạt
động đầu tư của Nhà nước vào các chương trình, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế –
xã hội và đầu tư vào các chương trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế – xã hội.”
Như vậy, vốn đầu tư công là khái niệm dùng để chỉ nguồn vốn mà Nhà nước chi tiền
ngân sách ra, để đầu tư vào các dự án cần thiết phục vụ đời sống của nhân dân và sự phát triển của cộng đồng.
a. Vốn ngân sách nhà nước
Đây là nguồn vốn được quyết định và giải ngân vốn đầu tư công đến các bộ ngành,
địa phương. Nguồn vốn giải ngân đầu tư công đến từ ngân sách nhà nước, được dùng để
xây dựng hạ tầng kinh tế – xã hội. Đây là nguồn vốn không hoàn lại, không có khả năng
thu hồi vốn hay thu hồi vốn chậm. Vốn đầu tư công từ ngân sách nhà nước có vai trò thúc
đẩy sự tăng trưởng ổn định cho nền kinh tế nhà nước. Nguồn vốn đầu tư công từ ngân sách nhà nước, trong đó: •
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản nguồn trong nước, bao gồm cả vốn đầu
tư từ nguồn thu tiền sử dụng đất, xổ số kiến thiết và các nguồn vốn khác thuôc ngân
ṣ ách nhà nước (nếu có). •
Vốn đầu tư từ nguồn bội chi ngân sách địa phương. •
Vốn trái phiếu Chính phủ. • Vốn công trái quốc gia. •
Vốn hỗ trợ chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài.
b. Vốn đầu tư từ các chương trình hỗ trợ
Vốn đầu tư từ các chương trình hỗ trợ là nguồn vốn đầu tư đến từ các chương trình
hỗ trợ đầu tư quốc gia được quyết định bởi chính phủ nhà nước.
c. Vốn tín dụng đầu tư
Vốn tín dụng đầu tư là nguồn vốn của nhà nước, được chính phủ cho vay với mức
lãi suất bằng với nguồn vốn tự do hay vốn ODA. Vốn tín dụng này được sử dụng để đầu lOMoAR cPSD| 58504431
tư vào các dự án thuộc các lĩnh vực ưu tiên của nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu nhất định.
d. Vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước
Vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước gồm có giải ngân tiền vốn từ ngân sách
nhà nước đã cấp cho doanh nghiệp, cùng với các khoản thu có lợi nhuận hoặc vốn vay của
doanh nghiệp do Nhà nước bảo lãnh. Quản lý và phân bố sử dụng đúng cách vốn đầu tư
cho các doanh nghiệp nhà nước ở các lĩnh vực được dùng để đẩy mạnh sự phát triển của kinh tế đất nước.
e. Vốn vay trong nước và nước ngoài
Đây là nguồn vốn vay trong nước và nước ngoài đối với những dự án đầu tư trong
nước. Nguồn vốn trong nước gồm trái phiếu địa phương hoặc trái phiếu chính phủ (phiếu
ngoại tệ, phiếu kho bạc, trái phiếu đầu tư, công trái xây dựng…)
2.3.1.2 Quản lý vốn đầu tư công
Quản lý và sử dụng vốn đầu tư công có hiệu quả đóng vai trò quan trọng và quyết
định đến sự ổn định và phát triển nền kinh tế quốc gia, đảm bảo an ninh quốc phòng của cả
nước cũng như từng địa phương. Ngược lại, nếu sử dụng nguồn vốn này lãng phí sẽ ảnh
hướng rất lớn đến ổn định kinh tế vĩ mô, dẫn đến nợ công, bất ổn tài chính ngân sách.
Thực tế trong những năm qua, hệ thống pháp luật quản lý vốn đầu tư công đã đáp ứng một
phần nào quá trình triển khai vốn đầu tư công vào các chương trình, dự án và các hạng mục
đầu tư khác, góp phần tăng trưởng kinh tế và đảm bảo ổn định xã hội, an ninh quốc phòng.
Tuy nhiên, việc ban hành và thực hiện pháp luật về quản lý vốn đầu tư công trong
thời gian qua bộc lộ rất nhiều hạn chế, một lượng vốn đầu tư công lớn bị sử dụng lãng phí,
thất thoát, nhiều dự án đầu tư xong không phát huy được hiệu quả.
TS Tăng Thị Thiệm, thanh tra chính phủ cho biết, thanh tra, kiểm toán là công cụ
hữu hiệu của quản lý Nhà nước. Ngành Thanh tra, kiểm toán đã có nhiều cuộc thanh tra,
kiểm toán việc thực hiện pháp luật về đầu tư công, qua đó chỉ ra nhiều sai phạm, đề xuất
sửa đổi nhiều cơ chế chính sách liên quan, kiến nghị thu hồi hàng nghìn tỷ đồng nộp ngân
sách Nhà nước, xử lý kỷ luật và hình sự nhiều cán bộ, tổ chức, cá nhân.
Những sai phạm điển hình khi thanh tra, kiểm toán pháp luật quản lý vốn đầu tư
công là: Chất lượng công tác chuẩn bị đầu tư còn thấp, tiến độ thực hiện dự án chậm làm
phát sinh tăng tổng mức đầu tư; công tác phê duyệt chủ trương đầu tư nhiều dự án chưa
xác định rõ nguồn vốn và khả năng cân đối vốn; có tình trạng phê duyệt dự án đầu tư khi
chủ trương đầu tư chưa được phê duyệt, chưa đủ thủ tục, không phù hợp với quy hoạch
vùng, trùng lắp với dự án khác đã được phê duyệt; quyết định đầu tư chưa xác định rõ
nguồn vốn, thời gian thực hiện dự án; xác định tổng mức đầu tư còn sai sót, thiếu chính
xác, phải điều chỉnh nhiều lần với giá trị lớn; tiến độ thực hiện tại nhiều dự án còn chậm
so với kế hoạch ban đầu hoặc chậm được đưa vào sử dụng làm giảm hiệu quả nguồn vốn đầu tư...
Nguyên nhân của những hạn chế, sai phạm đó cũng được chỉ ra từ các cuộc thanh
tra, kiểm toán quản lý vốn đầu tư công chủ yếu là do pháp luật về quản lý vốn đầu tư công
còn nhiều bất cập, lỏng lẻo, nhưng lại chồng chéo, khó thực hiện, việc chấp hành pháp luật
về vốn đầu tư công chưa nghiêm, chậm phát hiện sai phạm, không kịp thời xử lý sai phạm lOMoAR cPSD| 58504431
và việc xử lý sai phạm còn chưa nghiêm; các chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế, xã
hội đặc biệt là cấp địa phương chỉ mới coi trọng lĩnh vực kinh tế mà ít đề cập đến vấn đề
xã hội và môi trường, thứ tự ưu tiên trong định hướng đầu tư công chưa rõ ràng, dẫn đến
đầu tư tràn lan, làm phân tán nguồn lực đầu tư, kéo dài thời gian thực hiện dự án và làm
giảm hiệu quả đầu tư, thứ tự ưu tiên về đầu tư công còn không nhất quán về thứ tự ưu tiên nguồn lực.
2.3.2. Các vấn đề kinh tế trong quản lý đầu tư công:
Có 3 vấn đề lớn trong hoạt động đầu tư công cần phải được giải quyết đứng ở góc độ quản lý : -
Lựa chọn đầu tư công để thúc đẩy đầu tư tư nhân, cải thiện các dịch vụ
côngcộng, nâng cao chất lượng cuộc sống. (Trả lời cho câu hỏi đầu tư vào cái gì ?). Do bản
chất của đầu tư công ngoài tính chất kinh tế, còn có yếu tố chính trị và sự linh hoạt trong từng thời kỳ. -
Nâng cao hiệu quả đầu tư công. Tuy nhiên, hiệu quả đầu tư công thiên vềkhía
cạnh kinh tế xã hội nên việc tính toán đúng, đầy đủ cũng là một thách thức.(Trả lời cho câu
hỏi đầu tư như thế nào ?). Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư (có thể
cho điểm ưu tiên tùy theo mục tiêu cụ thể của quốc gia, ngành, hoặc địa phương trong từng
giai đoạn). Các tiêu chí này sẽ là căn cứ để lựa chọn các dự án đáp ứng yêu cầu của kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội trong mỗi giai đoạn. -
Hạn chế lãng phí của đầu tư công do phân bổ nguồn lực không hiệu quả từđó
làm giảm lòng tin và hạn chế các cơ hội tăng trưởng. (Trả lời cho câu hỏi đầu tư cho ai ?).
Việc lựa chọn dự án đầu tư và phân bổ vốn dựa vào chất lượng dự án và năng lực thực hiện
của chủ đầu tư. Mục tiêu là tạo ra dịch vụ công, hàng hóa công đáp ứng nhu cầu tốt nhất
của người dân và toàn bộ cộng đồng xã hội.
2.3.3. Đối tượng đầu tư của đầu tư công
Theo Luật Đầu tư công 2019, có 06 đối tượng đầu tư công sau đây: -
Đầu tư chương trình, dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
Trường hợp thật sự cần thiết tách riêng việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải
phóng mặt bằng thành dự án độc lập, đối với dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội xem
xét, quyết định; đối với dự án nhóm A do Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh xem xét, quyết định theo thẩm quyền.Việc tách riêng dự án độc lập được thực hiện khi
phê duyệt chủ trương đầu tư dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm A. -
Đầu tư phục vụ hoạt động của cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. -
Đầu tư và hỗ trợ hoạt động cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích, phúc lợi xã
hội. - Đầu tư của Nhà nước tham gia thực hiện dự án theo phương thức đối tác công tư. -
Đầu tư lập, thẩm định, quyết định hoặc phê duyệt, công bố và điều chỉnh quy
hoạch theo quy định của pháp luật về quy hoạch. lOMoAR cPSD| 58504431 -
Cấp bù lãi suất tín dụng ưu đãi, phí quản lý; cấp vốn điều lệ cho các ngân
hàng chính sách, quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách; hỗ trợ đầu tư cho các đối tượng
khác theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
2.3.4. Các hình thức kinh tế đầu tư công
a. Thành lập tổ chức kinh tế •
Theo quy định của Luật Đầu tư 2014, nhà đầu tư được phép thành lập tổ chức
kinh tế để thực hiện các hoạt động đầu tư. •
Đối với nhà đầu tư nước ngoài, trước khi tiến hành thành lập tổ chức kinh tế,
nhà đầu tư phải có dự án đầu tư, thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư
theo đúng quy định và phải đáp ứng đủ các điều kiện về tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ theo đúng
quy định của Luật Đầu tư và các điều kiện về phạm vi hoạt động, hình thức đầu tư tại Việt
Nam, đối tác Việt Nam tham gia thực hiện hoạt động đầu tư và các điều kiện khác theo
đúng quy định của điều ước quốc tế mà Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
là nước thành viên. Sau khi tổ chức kinh tế được thành lập, nhà đầu tư nước ngoài thực
hiện các dự án đầu tư thông qua tổ chức kinh tế này.
b. Góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào các tổ chức kinh tế
Bên cạnh việc thành lập tổ chức kinh tế, nhà đầu tư còn được phép đầu tư theo hình
thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế.
Nhà đầu tư nước ngoài đầu tư bằng hình thức đầu tư thông qua góp vốn, mua cổ
phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế phải thực hiện theo các quy định về hình thức, điều
kiện góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế của Luật Đầu tư, cụ thể nhà
đầu tư nước ngoài được góp vốn vào tổ chức kinh tế theo các hình thức :
Mua cổ phần phát hành lần đầu hoặc có thể cổ phần phát hành thêm
của công ty cổ phần, cũng là hình thức đầu tư tại Việt Nam;
Góp vốn vào công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH);
Góp vốn vào các tổ chức kinh tế khác không thuộc hai trường hợp trên.
Nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế theo các hình thức:
Mua cổ phần của công ty cổ phần từ công ty hay từ cổ đông
Mua phần vốn góp của những thành viên công ty TNHH để trở thành thành viên của công ty TNHH
Mua phần vốn góp của thành viên góp vốn trong các công ty hợp danh để trở
thành một thành viên góp vốn của công ty hợp danh
Mua phần vốn góp của các thành viên tổ chức kinh tế khác không thuộc trường hợp trên. lOMoAR cPSD| 58504431
Việc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của những nhà đầu tư nước ngoài
theo các hình thức đầu tư tại Việt Nam trên phải đáp ứng đủ các điều kiện được quy định trong Luật Đầu tư.
c. Đầu tư theo hình thức hợp đồng đối tác công tư (PPP)
Đây là hình thức đầu tư tại Việt Nam mới được quy định trong bộ Luật Đầu tư 2014.
Khi thực hiện đầu tư theo hình thức đầu tư này, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án được ký
kết hợp đồng PPP với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện dự án đầu tư xây dựng
mới hay cải tạo, mở rộng, nâng cấp, quản lý và vận hành công trình kết cấu hạ tầng hay
cung cấp dịch vụ công. Lĩnh vực, điều kiện, thủ tục thực hiện dự án đầu tư theo hình thức
này được pháp luật quy định chi tiết tại Nghị định 15/2015/NĐ-CP của Chính phủ.
d. Đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) •
Đây là hình thức đầu tư tại Việt Nam theo Hợp đồng hợp tác kinh doanh
(Hợp đồng BCC) giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh và phân chia sản phẩm,
phân chia lợi nhuận mà không thành lập tổ chức kinh tế.Các bên tham gia hợp đồng BCC
phải thành lập ban điều phối để thực hiện hợp đồng BCC. Chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn của ban điều phối do các bên thỏa thuận. Theo quy định tại Điều 28 của Luật Đầu tư
năm 2014, Hợp đồng BCC được ký kết giữa các nhà đầu tư trong nước với nhau để thực
hiện theo quy định của pháp luật hiện hành về dân sự. Hợp đồng BCC được ký kết giữa
các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước hoặc giữa nhà đầu tư nước ngoài thì cần phải thực
hiện thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận đầu tư theo đúng quy định. •
Hình thức đầu tư BCC này đang ngày càng được nhà đầu tư trong và ngoài
nước lựa chọn khi thực hiện các hoạt động đầu tư bởi có các ưu điểm nổi bật là không yêu
cầu phải thành lập pháp nhân. Bên cạnh đó nhà đầu tư và đối tác có thể thỏa thuận về
quyền, nghĩa vụ thông qua hợp đồng một cách linh hoạt, tiết kiệm được thời gian và chi
phí cho việc thành lập, duy trì hoạt động của một pháp nhân mới.
PHẦN III: ĐẦU TƯ CÔNG TẠI VIỆT NAM
3.1. Thực trạng đầu tư công trong giai đoạn 2010-2019
Trước khi có Luật Đầu tư công, quản lý hoạt động đầu tư này tại Việt Nam vẫn
thực hiện theo phương thức truyền thống. Tình trạng đầu tư dàn trải, manh mún, hiệu quả
thấp với cơ chế phối hợp giữa cơ quan lập kế hoạch với cơ quan tài chính thiếu chặt chẽ.
Thời gian thực hiện đầu tư kéo dài, tình trạng thất thoát và lãng phí trong đầu tư công không
còn là cá biệt. Năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ chỉ số: 1792CT/TTg, với
những chấn chỉnh ban đầu về hoạt động đầu tư công và là tiền đề cho sự ra đời của Luật
Đầu tư công (2014). Sau khi Luật Đầu tư công có hiệu lực (2015), hoạt động đầu tư này đã
có những chuyển biến tích cực. Kỷ luật tài chính được tăng cường, kế hoạch đầu tư công
trung hạn được luật hóa, “căn bệnh” đầu tư tràn lan đã được ngăn chặn, từng bước nâng
cao hiệu quả đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước (NSNN). Hiệu quả đầu tư chung của nền
kinh tế cũng có chuyển biến tích cực. Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê (2018), hệ số
ICOR của Việt Nam 3 năm sau khi áp dụng luật Đầu tư công đã giảm từ mức 6,42 năm
2016 xuống 6,11 năm 2017 và còn 5,97 năm 2018. Bình quân giai đoạn 2011-2015 là 6,25 lOMoAR cPSD| 58504431
thì giai đoạn 2016-2018 chỉ còn 6,17.Tăng trưởng GDP phục hồi rõ nét, duy trì tốc độ cao,
đặc biệt là trong các năm 2017-2019 (với tốc độ tăng tương ứng đạt 6,81 và 7,08% năm
2017, 2018 và 7,02% năm 2019). Đây là kết quả đáng khích lệ trong bối cảnh kinh tế thế
giới, thương mại toàn cầu và tăng trưởng kinh tế ở hầu hết các khu vực, các nền kinh tế chỉ
đạt khoảng 6,84%/năm (đạt mục tiêu 6,5 - 7% kế hoạch 2016 - 2020 đã đề ra). Tổng mức
đầu tư toàn xã hội trong giai đoạn 2010-2019 liên tục tăng và duy trì ở mức cao, tỷ lệ vốn
đầu tư/GDP trung bình đạt 33,5%. Trong cơ cấu đầu tư toàn xã hội, đầu tư của khu vực
công có vị trí quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam. Đầu tư của khu vực này bao gồm
các nguồn chủ đạo như: Nguồn ngân sách nhà nước, vốn đầu tư tín dụng nhà nước và từ
các doanh nghiệp nhà nước, trong đó đầu tư của ngân sách nhà nước và các doanh nghiệp
nhà nước chiếm trên 70% đầu tư của khu vực công.
Qua nghiên cứu, đánh giá thực tiễn đầu tư công giai đoạn 2010 -2019 có thể rút ra nhận định sau: -
Đầu tư nhà nước đã phát huy vai trò trong những giai đoạn kinh tế khó khăn
và là động lực quan trọng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu nền kinh
tế, có tác động lan tỏa lớn, nhất là đối với các dự án phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, năng lượng... -
Cơ cấu đầu tư công đã có những chuyển biến tích cực. Khu vực này đã tăng
cường đầu tư cho cơ sở hạ tầng, góp phần cải thiện môi trường đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, xử lý bất hợp lý vùng miền; chú trọng đầu tư cho các ngành nghề có lợi thế cạnh
tranh trong nền kinh tế. Ngân sách nhà nước đã tập trung nhiều hơn cho đầu tư phát triển
con người, nâng cao trình độ của người lao động. Cụ thể, trong tổng mức đầu tư phát triển
từ ngân sách nhà nước, đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng chiếm một tỷ lệ khá lớn. Bình
quân chiếm trên 90% tổng chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước. lOMoAR cPSD| 58504431 -
Đã hình thành được bộ khung pháp luật tương đối đồng bộ để điều chỉnh các
hoạt động đầu tư nói chung và đầu tư nhà nước nói riêng. Trong đó, phải kể đến Luật Đầu
tư công năm 2014 và Luật Đầu tư công sửa đổi, bổ sung năm 2019.
3.2. Những tồn tại và hạn chế của đầu tư công Việt Nam
Sau khoảng 4 năm thực hiện, một số vấn đề tồn tại và phát sinh cần tiếp tục giải
quyết trong đó đặc biệt là vấn đề tranh giải ngân vốn đầu tư công. NSNN có tiền nhưng
không tiêu được, trong khi nhiều công trình trọng điểm lại phải chờ vốn. Số liệu của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư cập nhật đến tháng 1-2019 cho thấy, trong 66 của tổng số 126 cơ quan
đã gửi báo cáo về tình hình giải ngân đầu tư công năm 2018, chỉ có 9 cơ quan đạt tỷ lệ giải
ngân trên 90% kế hoạch năm. Rất nhiều cơ quan giải ngân chưa đạt 50% kế hoạch. Cá biệt
có địa phương trong năm 2018 không giải ngân được đồng nào. Qua số liệu về tình hình
giải ngân nguồn ngân sách T.W cho thấy, tỷ lệ giải ngân kế hoạch đầu tư công giai đoạn
2016-2018 đạt rất thấp. Từ năm 2016 đến ngày 31-10-2018, giải ngân mới đạt 368 nghìn
tỷ đồng, chỉ đạt 72% kế hoạch đã giao. Năm 2017, kế hoạch vốn đầu tư ngân sách T.Ư là
175 nghìn tỷ đồng, giải ngân đạt 135 nghìn tỷ đồng, bằng 77,1% kế hoạch. Riêng năm
2018, kế hoạch 176 nghìn tỷ đồng, đến ngày 31-10 giải ngân mới đạt 88 nghìn tỷ đồng,
bằng 50% kế hoạch. Tình trạng đội vốn vẫn diễn ra tương đối phổ biến, nhất là các dự án
sử dụng vốn ngân sách nhà nước
Hạn chế thứ 2 là đầu tư từ ngân sách nhà nước còn dàn trải; hiệu quả đầu tư một số
công trình hạ tầng chưa cao. So với các quốc gia khác đã trải qua giai đoạn phát triển tương
đồng với Việt Nam, thì hệ số suất đầu tư của Việt Nam hiện nay vẫn ở ngưỡng cao.
Thực tế này cho thấy, mô hình tăng trưởng của Việt Nam chủ yếu dựa vào vốn đầu tư, hiệu quả đầu tư còn thấp. •
Nguyên nhân khách quan: Là do tác động ảnh hưởng từ biến động của tình
hình chính trị, kinh tế thế giới, kinh tế trong nước suy giảm; tổng cầu yếu, dẫn đến việc
huy động các nguồn vốn đầu tư của các thành phần kinh tế khác phục vụ cho phát triển hệ
thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội gặp nhiều khó khăn; Các tồn tại, bất cập về đầu tư
công trong giai đoạn trước chưa thể xử lý dứt điểm ngay trong ngắn hạn; Các dự án, chương
trình cũ, tồn đọng từ trước vẫn cần tiếp tục được xử lý, sắp xếp... •
Nguyên nhân chủ quan: Thể chế pháp luật về đầu tư công chưa thực sự đồng
bộ, thống nhất; chưa khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo giữa các quy định tại các văn
bản pháp luật có liên quan đến đầu tư công; vẫn còn lúng túng trong việc triển khai Luật
Đầu tư công và các văn bản hướng dẫn; cách hiểu và cách tiếp cận thực hiện của các bộ,
ngành và địa phương còn khác nhau, dẫn đến mất nhiều thời gian trong hoàn thiện thủ tục
các dự án đầu tư công.
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư công trong thời đại mới
Hiện nay, Đầu tư công vẫn được xác định là nguồn lực quan trọng đối với quá trình
phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong thời gian tới. để nâng cao hiệu quả đầu tư công
trong giai đoạn mới (giai đoạn 2020-2030), Việt Nam cần tập trung triển khai một số giải pháp trọng tâm sau: lOMoAR cPSD| 58504431
Thứ nhất, nâng cao chất lượng thể chế quản lý đầu tư công; nghiêm túc triển khai
thực hiện các quy định pháp luật về đầu tư công; khẩn trương rà soát, sửa đổi, những quy
định của pháp luật về đầu tư công còn vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Thứ hai, tăng cường quản lý đầu tư công, chú trọng nâng cao hiệu quả công tác
chuẩn bị đầu tư; tăng cường công tác rà soát để bảo đảm các chương trình, dự án bố trí
trong kế hoạch đầu tư công trung hạn và hàng năm được triển khai theo quy định của Luật
Đầu tư công; quản lý chặt chẽ việc sử dụng nguồn vốn dự phòng trong kế hoạch đầu tư công trung hạn.
Thứ ba, tăng cường công tác phối hợp giữa các cấp, các ngành và các địa phương
trong triển khai thực hiện. Chú trọng công tác theo dõi, đánh giá thực hiện kế hoạch đầu tư
công và thực hiện các chương trình, dự án đầu tư cụ thể. Thực hiện nghiêm chế độ báo cáo
tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư công định kỳ hoặc đột xuất theo chế độ báo cáo quy
định; trong đó, phải đánh giá kết quả thực hiện, những tồn tại, hạn chế và đề xuất kiến nghị
các cấp có thẩm quyền giải quyết những khó khăn, vướng mắc. Theo dõi, đôn đốc (chủ đầu
tư, ban quản lý dự án, nhà thầu) đẩy nhanh tiến độ thực hiện, giải ngân dự án. Kịp thời báo
cáo cấp có thẩm quyền giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong triển khai kế hoạch
đầu tư công và thực hiện dự án. Chủ động báo cáo cấp có thẩm quyền điều chỉnh kế hoạch
đầu tư trung hạn, hàng năm để thúc đẩy giải ngân nâng cao hiệu quả đầu tư.
Thứ tư, huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư của nền kinh
tế theo cơ chế thị trường. Trong đó, đối với vốn đầu tư công cần tập trung đầu tư cho các
chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án quan trọng quốc gia, các chương trình mục tiêu
và dự án trọng điểm, có ý nghĩa lớn, lan tỏa đến phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và
liên vùng, liên địa phương. Đối với các nguồn vốn vay để đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội (ODA, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước...): Cần tập trung ưu tiên đầu tư
phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, quy mô lớn và hiện đại; phát triển nguồn nhân
lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức.
Thứ năm, đổi mới đầu tư công phải hướng tới mục tiêu thúc đẩy mạnh mẽ cải cách
hành chính nhà nước, bảo đảm cho bộ máy hành chính hoạt động thông suốt, chuyên nghiệp
và hiệu quả. Đầu tư công không chỉ có tác dụng cung cấp nguồn lực cho bộ máy công
quyền hoạt động, quan trọng là phải thông qua đó tác động mạnh mẽ đến việc điều chỉnh
tổ chức và tính hiệu quả của hoạt động bộ máy. Vì vậy, cần gắn việc đổi mới đầu tư công
với xây dựng bộ máy trong sạch, vững mạnh phải được coi là một trong những mục tiêu
cần chú trọng thực hiện.
Thứ sáu, thông qua cải cách, đổi mới hoạt động đầu tư công bảo đảm cho việc sản
xuất và cung cấp hàng hóa dịch vụ công cộng công bằng và hiệu quả hơn. Thực tiễn cho
thấy, hầu hết việc sản xuất và cung cấp hàng hóa dịch vụ công cộng đều do bộ máy công
quyền từ trung ương đến địa phương đảm nhận. Nếu bộ máy công quyền thiếu trung thực,
không minh bạch, nạn tham nhũng diễn ra tràn lan, thì việc sản xuất và cung cấp hàng hóa,
dịch vụ công cộng khó đạt được yêu cầu công bằng và hiệu quả. Do đó, vấn đề đặt ra là cải
cách, đổi mới hoạt động đầu tư công hướng theo mục tiêu bảo đảm công bằng và hiệu quả. lOMoAR cPSD| 58504431
Thứ bảy, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các nghị quyết, chủ trương của Đảng và Nhà
nước về đổi mới, sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước; đặc biệt là cơ chế quản lý
vốn, tách bạch tài chính doanh nghiệp với tài chính nhà nước. Đối với tài chính của các cơ
quan công quyền và các đơn vị sự nghiệp công lập, nội dung đổi mới cần tập trung nâng
cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm gắn việc đổi mới với công cuộc cải cách hành chính
và việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cộng…
Thứ tám, nâng cao năng lực và hiệu lực hoạt động của các cơ quan có nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát kết quả quản lý và sử dụng đầu tư công. Quy định rõ ràng trách nhiệm
vật chất của những người đứng đầu cơ quan chính quyền nhà nước mỗi cấp trước kết quả
quản lý đầu tư công của cấp đó. Đổi mới công tác thanh tra, giám sát tài chính trong toàn
bộ quá trình quản lý tài chính công. TỔNG KẾT
Đầu tư được coi là động lực chính thức thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và bản chất
của mối quan hệ này đã được nghiên cứu trong nhiều nghiên cứu mang tính lý thuyết và
thực nghiệm. Ở Việt Nam, đầu tư công càng có vai trò quan trọng và là động lực tăng
trưởng của nền kinh tế. Chúng ta có thể thấy rõ ngay khi gặp tác động nặng nề của dịch
bệnh khi trong năm 2021, đầu tư công vẫn thể hiện vai trò hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế
trong bối cảnh các lĩnh vực về sản xuất kinh doanh và dịch vụ bị ảnh rất nhiều bởi dịch
Covid-19. Theo ước tính của tổng cục thống kê ( GSO ), ước tính giai đoạn này nếu giải
ngân đầu tư công tăng thêm 1% thì GDP tăng thêm 0,058%. Trong dự báo giai đoạn 2021
– 2025, giải ngân 1 đồng vốn đồng vốn đầu tư công sẽ kéo theo 1,61 đồng vốn đầu tư
khối ngoài Nhà nước, cao hơn giai đoạn trước là 1,42 đồng. Vì vậy đầu tư công vẫn là
động lực, là đầu tàu tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2021-2025 tầm nhìn tới năm 2030, bởi
đầu tư công còn có tính dẫn dắt và lan tỏa trên nhiều nhóm ngành. Việt Nam chúng ta cần
phải làm tốt hơn nữa trong khâu quy hoạch, phê duyệt và đặc biệt là quản lí trong đầu tư
công để cùng với cả nước hiện thực hóa kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương
trình Nghị sự 2030 với 17 mục tiêu phát triển bền vững.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
Vũ Đình Ánh, Tài chính – Ngân sách nhà nước năm 2018: một năm nhiều tích cực,
Thời báo Tài chính, Tháng 2 năm 2019. 2.
Hoàng Văn Cường, Gỡ nút thắt trong giải ngân vốn đầu tư công, Báo Nhân dân điện tử ngày 15/4/2019. 3.
IMF, Public Investment management assessment (MIMA), Fiscal Affairs
Department, www.imf.org/publicinvestment. 4.
JICA, Public Investment Management Handbook for Capacity Development,
Government Knowledge Management Network 5.
OECD, Public Investment, OECD.org