Các vấn đề về nghèo đói và thực trạng đói nghèo ở Việt Nam - Tiểu luận môn Kinh tế phát triển | Đại học Gia Định
Tiểu luận môn Kinh tế phát triển | Đại học Gia Định. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF gồm 33 trang, giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIA ĐỊNH KHOA KINH TẾ BÀI TIỂU LUẬN Đề 5:
CÁC VẤN ĐỀ VỀ NGHÈO ĐÓI VÀ THỰC
TRẠNG ĐÓI NGHÈO Ở VIỆT NAM
Môn Học: Kinh Tế Phát Triển.
Sinh Viên Thực Hiện: Trần Võ Phương Nhi.
MSSV: 2001110340.
Lớp: K14DCQT01.
Giảng viên hướng dẫn: Lê Thị Nam Phương. HỒ CHÍ MINH - 2021 MỤC LỤC
PHẦN A: PHẦN MỞ ĐẦU………………………………………………………1-2
I.Tính cấp thiết của đề tài…………………………………………………………. 1
II. Tình hình nghiên cứu đề tài…………………………………………………….1-2
III. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu………………………………………………..2
IV. Đối tượng, phạm vi ngiên cứu…………………………………………………. 2
V. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu………………………………………. 2
PHẦN B: PHẦN NỘI DUNG………………………………………………3-27
Chương 1: Cơ Sở Lý Luận Và Thực Tiễn Của Vấn Đề Đói Nghèo…………….3-7
1. Khái niệm và đặc điểm của nghèo đói …………………………………………3-4
a.Khái niệm của nghèo đói ……………………………………………………….....3
b.Đặc điểm của người nghèo………………………………………………………..4
2. Quan niệm về nghèo đói …………………………………………………………6- 7
a. Quan niệm của thế giới về nghèo đói……………………………………………..6
b.Quan điểm của Việt Nam về nghèo đói …………………………………………..7
Chương 2: Vấn Đề Đói Nghèo Và Xóa Đói Giảm Nghèo Ở Việt Nam Hiện
Nay………………………………………………………………9-24
I. Các vấn đề về đói nghèo……………………………………9-16
1.Tổng quan về tình hình nghèo đói trên thế giới…………………………9-10-11
2. Thực trạng nghèo đói ở Việt Nam…………………………………11-12-13
3.Nguyên nhân dẫn đến nghèo đói……………………………………13-16
a)Nguyên nhân khách quan……………………………………13-14
b)Nguyên nhân chủ quan…………………………………14-15-16
II. Xóa Đói, Giảm Nghèo Ở Việt Nam……………………………………17-24
1.Xóa Đói, Giảm Nghèo Ở Việt Nam………………………………………17-18
2. Kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo của một số nước và Việt
Nam………………………………………18-24
a.Kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo của một số nước………………………18-19-20
b.Kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo ở nước ta…………………………………20-21- 22
3. Những thành tựu và khó khăn, hạn chế………………………………22-24
a.Thành tựu đạt được…………………………………………22-23
b.Khó khăn và thử thách………………………………………23-24
Chương 3: Giải Pháp Và Kiến Nghị………………………………………24-27
I.Giải Pháp………………………………………24-26
1.Giải pháp kinh tế quản lí…………………………………………24-25
2. Giải pháp về cơ sở hạ tầng…………………………………………25
3. Giải pháp giáo dục và đào tạo nghề………………………………………….25
4. Giải pháp về vốn………………………………………….25
5.Giải pháp công tác khuyến nông…………………………………………25
6.Giải pháp hộ gia đình…………………25-26
II.Kiến nghị: ……………………………………………26-27
1.Đối với Nhà nước…………………………………………26
2. Đối với cơ quan địa phương…………………………………26-27
3.Đối với hộ gia đình…………………………………………27
PHẦN C: PHẦN KẾT LUẬN……………………………………27-28
PHẦN D: DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO LỜI CẢM ƠN
Thực tế luôn cho thấy, sự thành công nào cũng đều gắn liền với những sự hỗ trợ,
giúp đỡ của những người xung quanh dù cho sự giúp đỡ đó là ít hay nhiều, trực tiếp
hay gián tiếp. Trong suốt thời gian từ khi bắt đầu làm tiểu luận đến nay, em đã nhận
được sự quan tâm, chỉ bảo, giúp đỡ của thầy cô, gia đình và bạn bè xung quanh.
Với tấm lòng biết ơn vô cùng sâu sắc, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất từ đáy
lòng đến quý Thầy Cô của trường Đại Học Gia Định đã cùng dùng những tri thức và
tâm huyết của mình để có thể truyền đạt cho chúng em trong vốn kiến thức quý báu
suốt thời gian học tập tại trường.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn Cô Lê Thị Nam Phương đã tận tâm chỉ bảo
hướng dẫn em qua từng buổi học, từng buổi nói chuyện, thảo luận về đề tài nghiên
cứu. Nhờ có những lời hướng dẫn, dạy bảo đó, bài luận văn này của em đã hoàn
thành một cách suất sắc nhất. Một lần nữa, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy.
Ban đầu em còn bỡ ngỡ vì vốn kiến thức của em còn hạn. Do vậy, không tránh khỏi
những thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý Thầy Cô và các
bạn học cùng lớp bài luận được hoàn thiện hơn.
Chúc Cô được nhiều sức khỏe, thành công trong sự nghiệp lẫn cuộc sống. Em xin chân thành cảm ơn!
PHẦN A: PHẦN MỞ ĐẦU I.
Tính Cấp Thiết Của Đề Tài:
Đói nghèo là vấn đề toàn cầu, đã và đang diễn ra trên khắp các châu
lục với những mức độ khác nhau và trở thành một thách thức lớn đối
với sự phát triển của từng khu vực, từng quốc gia, dân tộc và từng địa phương.
Việt Nam là một nước nông nghiệp với 70% dân số sống ở nông thôn.
Với trình độ dân trí, canh tác còn hạn chế nên năng suất lao động chưa
cao, thu nhập của nông dân còn thấp, tình trạng đói nghèo vẫn diễn ra rộng khắp các khu vực.
Vấn đề đói nghèo đã được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm. Để
người nghèo thoát nghèo là mục tiêu, nhiệm vụ chính trị - xã hội.
Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách và biện pháp giải quyết vấn
đề đói nghèo. Nhưng việc triển khai thực hiện còn một số hạn chế do
sự thiếu thông tin cũng như nhận thức chưa đầy đủ về tình trạng nghèo đói hiện nay.
Vì thế việc nghiên cứu về thực trạng đói nghèo một cách hệ thống, có
khoa học để từ đó làm cơ sở đưa ra các chính sách xóa nghèo giảm
cho từng đối tượng ở từng địa phương một cách hợp lí là vấn đề mang
tính cấp thiết để từng bước đưa Việt Nam thoát khỏi tình trạng đói
nghèo, trở thành một nước phát triển. II.
Tình Hình Nghiên Cứu Đề Tài:
Nghèo đói và xóa đói, giảm nghèo ở nước ta là vấn đề được Đảng,
Nhà nước và các cấp, các ngành cũng như nhiều cơ quan, nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu. Hiện nay có khá nhiều cuộc nghiên cứu về vấn đề
này ở Việt Nam. Tuy nhiên, tình trạng nghèo đói và chính sách xóa đói 1
giảm nghèo ở nông thôn Việt Nam vẫn còn nhiều điểm chưa cụ thể và rõ ràng. III.
Mục Đích, Nhiệm Vụ Nghiên Cứu:
Tìm hiểu về thực trạng nghèo đói và xóa đói giảm nghèo ở khu vực
nông thôn nước ta, từ đó đưa ra một số giải pháp góp phần giảm tỉ lệ hộ
nghèo đói ở nông thôn. Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn
của vấn đề nghèo đói ở nông thôn. Tìm hiểu về thực trạng đói nghèo và
xóa đói giảm nghèo đưa ra những nguyên nhân dẫn đến đói nghèo. Bước
đầu có những kiến nghị về các giải pháp chủ yếu nhằm góp phần xóa đói
giảm nghèo ở vùng nông thôn. IV.
Đối Tượng Và Phạm Vi Nghiên Cứu:
Đối tượng: Vấn đề nghèo đói và xóa đói giảm nghèo ở nông thôn Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu:
+ Không gian: Khu vực nông thôn Việt Nam.
+ Thời gian: Số liệu từ năm 1996 đến năm 2010. V.
Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu:
Cơ sở lý luận: các quan điểm đường lối của Đảng trong vấn đề
nghèo đói và chính sách xóa đói giảm nghèo của Nhà nước .
Phương pháp nghiên cứu: so sánh, phân tích các số liệu thu thập và
tổng hợp đưa ra kết luận chung nhất
PHẦN B: PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ NGHÈO ĐÓI
1. Khái niệm và đặc điểm của nghèo đói:
a. Khái niệm của nghèo đói: 2
Không có một khái niệm duy nhất về nghèo đói, và do đó không có một
phương pháp hoàn hảo để đo được nó. Nghèo đói là tình trạng bị thiếu thốn ở
nhiều phương diện. Thu nhập hạn chế, hoặc thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu
tài sản để đảm bảo tiêu dùng trong những lúc khó khăn, và dễ bị thổn thương
trong những đột biến bất lợi, ít được tham gia vào quá trình ra quyết định,
cảm giác bị sĩ nhục, không được người khác tôn trọng…đó là những khía
cạnh của những người nghèo.
Việt Nam thừa nhận định nghĩa chung về nghèo đói do hội nghị chống đói
nghèo ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ c ức tại Băng Cốc
Thái Lan tháng 9 năm 1993 đưa ra: “ Nghèo là một bộ phận dân cư không
được hưởng hoặc thỏa mản các nhu cầu cơ bản của con người mà nhu cầu ày
đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong
tục tập quán của địa phương”.
Với khái niệm này có ba vấn đề đặt ra đó là:
+ Nhu cầu cơ bản của on người bao gồm: ăn, mặc, y tế, giáo dục, văn
hóa, đi lại và giao tiếp...
+ Nghèo đói thay đổi theo thời gian: thước đo nghèo khổ sẽ thay đổi
theo thời gian, khi mà nền kinh tế ngày càng phát triển, thì nhu cầu
cơ bản của con người cũng sẽ được thay đổi theo xu hướng ngày càng một tăng cao hơn.
+ Nghèo đói thay đổi theo không gian: không có một chuẩn mực
nghèo chung cho tất cả các quốc gia mà tùy thuộc vào điều kiện phát
triển kinh tế xã hội, phong tục tập quán của địa phương hay quốc gia
đó, từ đó mà có các chu ẩn nghèo khác nhau: vậy các quốc gia có
nền kinh tế càng phát triển thì chuẩn mực nghèo đói càng cao.
Tóm lại khái niệm nghèo đói là một khái niệm động hơn là tỉnh, người nghèo
không phải luôn luôn nghèo mà họ cố gắng vươn lên phát triển kinh tế bằng
mọi cách để thoát nghèo. Thực tế sau một thời gian nhiều cá nhân, nhiều gia 3
đình đã vươn lên trên ngưỡng nghèo. Trong khi đó một số cá nhân, hay các
gia đình khác lại bị trượt xuống dưới chuẩn mực nghèo. Do đó mà khái niệm
nghèo là một khái niệm mang tính nhạy cảm, và nó sẽ thay đổi theo thời gian
và không gian tùy thuộc vào nhu cầu cơ bản của con người trong điều kiện
phát triển kinh tế xã hội của quốc gia đó mà có các chuẩn mực nghèo đói khác nhau.
Nghèo tuyệt đối: Theo ông Robert McNamara, nguyên là giám đốc
ngân hàng thế giới đã đưa ra khái niệm nghèo tuyệt đối như sau: “ Nghèo ở
mức độ tuyệt đối...là số ở ranh giới ngoài cùng của sự tồn tại. Những người
nghèo tuyệt đối là những người phải đấu tranh để sinh tồn trong các thiếu
thốn tồi tệ và mất phẩm cách vượt quá sức tưởng tượng mang dấu ấn của
cảnh ngộ may mắn của giới tri thức của chúng ta”.
Theo David O.dapici thuộc viện phát triển quốc gia arvard: “ Nghèo tuyệt
đối là không có khả năng mua một lượng sản phẩm tối hiểu để sống” nghèo
tuyệt đối có xu hướng đề cập đến những người đang thiếu ăn theo nghĩa đen.
Nghèo tuyệt đối là hiện tượng xảy ra khi mức thu nhập hay tiêu dùng của
người hay hộ gia đình giảm xuống mức thấp hơn giới hạn nghèo đói (theo tiêu
chuẩn nghèo đói) vẫn thường được định nghĩa là: “Một điều kiện sống được
đặc trưng bởi sự suy dinh dưỡng, mù chữ và bệnh tật đến nổi thấp hơn mức
thu nhập được cho là hợp lý cho một con người” .
Tóm lại : Nghèo tuyệt đối là một khái niệm dùng để chỉ một tình trạng
sống của một bộ phận dân cư không có khả năng thỏa mản các nhu cầu
tối thiểu nhằm để duy trì cuộc sống bình thường. Những nhu cầu ở tối
thiểu đảm bảo cho cuộc sống như: ăn, mặc, ở, giao tiếp xã hội,vệ sinh y tế và giáo dục.
Nghèo tương đối: Trong xã hội được gọi là thịnh vượng, nghèo
được định nghĩa dựa vào hoàn cảnh xã hội của cá nhân. “Nghèo tương đối có 4
thể được xem như là cung cấp không đầy đủ các tiềm lực về vật chất và phi
vật chất cho những người thuộc về một số tầng lớp xã hội nhất định so với sự
sung túc của xã hội đó”.
Nghèo tương đối là trình trạng không đạt mức sống tối thiểu tại một thời
điểm, trong một khoảng không gian xác định nào đó. Thuật ngữ nghèo tương
đối chỉ một mức độ sống của điều kiện sống mà ở đó những người của tầng
lớp dưới được xem là kém phát triển hơn trong tương quan so sánh với những
người thuộc tầng lớp khác.
Nghèo tương đối có thể là khách quan, tức là sự hiện hữu không phụ thuộc
vào cảm nhận của những người trong cuộc. Người ta gọi là nghèo tương đối
chủ quan khi những người trong cuộc cảm thấy nghèo không phụ thuộc vào sự
xác định khách quan. Bên cạnh việc thiếu sự cung cấp vật chất (tương đối),
việc thiếu thốn về tài nguyên phi vật chất ngày càng có tầm quan trọng hơn.
Việc nghèo đi về văn hóa - xã hội, thiếu tham gia vào cuộc sống xã hội do
thiếu hụt tài chính một phần được các nhà xã hội học xem như là một thách
thức xã hội nghiêm trọng.
Như vậy, sự phân biệt giữa nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối là ở
chổ nghèo tuyệt đối đề cập đến tiêu chuẩn về các nhu cầu cần thiết
tối thiểu của một con người, trong khi đó nghèo tương đối nói đến vị
trí mức sống phổ biến trong một cộng đồng.
b. Đặc điểm của người nghèo:
Trong thực tế cuộc sống, người nghèo họ thiếu cơ hội và khả năng lựa chọn
cơ hội, ẩn mình trong giao tiếp, ngại tiếp xúc ở chỗ đông người, tự ti trong
quan hệ, chính vì lẽ đó mà người nghèo khó thoát khỏi cảnh nghèo và càng ngày càng nghèo hơn.
Họ không có cơ hội, điều kiện để phát triển ý kiến của mình. Những người
nghèo, hộ nghèo họ có một số đặc điểm sau: 5
Tình trạng thiếu lương thực, thực phẩm (thiếu ăn từ 3 - 6 tháng
trong năm), đây là hình thức nghèo đói cơ bản nhất ở nước ta, nhất
là khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc.
Người nghèo chủ yếu là người nông dân với trình độ học vấn thấp
và khả năng tiếp cận thông tin, kỹ năng chuyên môn bị hạn chế.
Nhà ở tạm, siêu vẹo, dột nát, không đảm bảo an toàn trong mùa
mưa bão, bản thân gia đình không có khả năng tự làm mới hoặc sửa chữa.
Các hộ có nhiều con hoặc có ít lao động, con cái đến tuổi đi học
không được đến trường, ốm đau không được khám chữa bệnh, nợ
nần không có khả năng chi trả.
Thiếu đất hoặc không có đất canh tác; thiếu vốn, kiến thức sản xuất.
2. Quan niệm về nghèo đói:
a. Quan niệm của thế giới về nghèo đói:
Chỉ tiêu thu nhập:
Ngân hàng thế giới đưa ra khuyến nghị thang đo đói nghèo như sau:
+ Đối với nước nghèo, các cá nhân được gọi là nghèo đói khi có thu nhập dưới 0,5 USD/ngày.
+ Đối với các nước đang phát triển là 1USD/ngày.
+ Đối với các nước thuộc Châu mỹ La Tinh và Caribe là 2USD/ngày.
+ Các nước Đông Âu là 4USD/ngày.
+ Các nước công nghiệp phát triển là 14,4 USD/ngày.
Chỉ tiêu HDI:
Chỉ số phát triển con người (HDI) là chỉ số tổng hợp của tuổi thọ trung
bình, tỷ lệ biết chữ, giáo dục và các tiêu chuẩn cuộc sống của các quốc gia
trên thế giới. Nó là chỉ số tiêu chuẩn của chất lượng cuộc sống, đặc biệt là 6
phúc lợi trẻ em. HDI còn được sử dụng để đánh giá một quốc gia là nước
phát triển, nước đang phát triển và nước kém phát triển. Đây cũng là chỉ số
xác định sự ảnh hưởng của các chính sách kinh tế đến chất lượng cuộc sống,
là chỉ số hết sức quan trọng để hiểu về trình độ phát triển kinh tế xã hội và
mối tương quan giữa vấn đề kinh tế xã hội và cộng đồng, chỉ số HDI cho ta
cái nhìn tổng quát nhất và không kém phần sâu sắc. Thế giới đã chia mức HDI như sau:
+ Mức độ phát triển con người cao có giá trị HDI từ 0,799 trở lên.
+ Mức độ phát triển con người trung bình có giá trị HDI từ 0,500 – 0,799.
+ Mức độ phát triển con người có giá trị thấp có giá trị HDI là nhỏ hơn 0,500.
Hiện nay có 83/182 nước đạt mức độ phát triển con người cao, đứng dầu
là Na Uy với giá trị HDI là 0,971. Có 75/182 nước đạt mức độ phát triển con
người trung bình và 24/182 nước ở mức độ phát triển con người thấp. Nigiê
là nước thấp nhất với HDI là 0,340. Việt Nam nằm trong nhóm nước có mức
độ phát triển con người trung bình, HDI của Việt Nam là 0,725 đứng thứ
116/182 quốc gia. (Nguồn số liệu từ báo cáo phát triển con người của liên hợp quốc năm 2009).
b. Quan điểm của Việt Nam về nghèo đói:
Ở Việt Nam hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về nghèo
đói và các phương pháp xác định chuẩn nghèo khác nhau. Đó là cách xác
định chuẩn nghèo của chính phủ do Bộ Lao Động Thương Binh & Xã Hội
công bố, chuẩn nghèo của ổng cục thống kê, chuẩn nghèo của ngân hàng thế
giới. Theo các phương pháp xác định đó chuẩn nghèo luôn biến đổi theo
không gian và thời gian. Về không gian, chuẩn nghèo thay đổi theo trình độ
phát triển kinh tế xã hội của từng vùng hay từng miền. Ở Việt Nam, chuẩn
nghèo thay đổi theo hai vùng sinh thái khác nhau đó là vùng đô thị, vùng 7
nông thôn đồng bằng và vùng nông thôn miền núi. Về thời gian huẩn nghèo
cũng thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và nhu cầu của con người
theo từng giai doạn của lịch sử. Có thể xác lập các chỉ tiêu để đánh giá về
nghèo đói theo mấy chỉ tiêu như sau:
Chỉ tiêu về thu nhập và chi tiêu:
Theo đánh giá của Tổng Cục Thống Kê năm 1993, qua kết quả điều tra
tình trạng thu nhập của nước ta tính ra mức thu nhập bình quân đầu
người/tháng của cả nước là 119.000đ trong đó ở nông thôn là 94.440 đ,
ở thành thị là 220.340đ. Từ đó đưa ra cách phân loại như sau:
+ Hộ nghèo: Ở thành thị có thu nhập dưới 70.000đ/người/tháng.
Ở nông thôn có thu nhập dưới 50.000đ/người/tháng.
+ Hộ đói: Ở Thành thị có thu nhập dưới 50.000đ/người/tháng.
Ở nông thôn có thu nhập dưới 30.000đ/người/tháng.
Theo cách xác định này cuối năm 1993 cả nước có khoảng 3 triệu hộ đói nghèo
chiếm 23% tổng số hộ, trong đó có khoảng 60 vạn hộ đói chiếm khoảng 4,2% tổng số hộ.
Thu nhập bình quân đầu người của tỉnh, thành phố cao hơn thu nhập
bình quân đầu người của cả nước.
Tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh, thành phố thấp hơn tỷ lệ hộ nghèo chung của cả nước.
Tự cân đối được nguồn lực và đủ nguồn lực hổ trợ cho người nghèo, hộ nghèo.
Chỉ tiêu về nhà ở và tư liệu sinh hoạt:
Những người nghèo thường sống trong những căn nhà tồi tàn, nhà tranh vách đất,
một số ít nhà tạm nhà bán kiên cố. Những hộ có nhà cửa được xây dựng thì là những
căn nhà tàn dư, đồ thừa kế của các thế hệ trước để lại hoặc được hỗ trợ từ các
chương trình dự án xóa đói giảm nghèo chứ không phải là do hộ tự làm ra. 8
Tư liệu sinh hoạt của các hộ nghèo thườ g đơn giản không có gì ngoài những đồ
dùng không thể thiếu được như giường chỗng, bàn ghế và một số thứ khác có giá trị
không lớn, hoặc những đồ cũ mua lại sắp hư hỏng.
Chỉ tiêu về tư liệu sản xuất
Người nghèo thường có rất ít tư liệu sản xuất, công cụ sản xuất thường thô sơ,
đất đai là tư liệu sản xuất c ính của hộ nghèo. Nhưng thường thì diện tích đất của các
hộ ở đây rất nhỏ, chất đất không tốt, khó khăn cho việc sản xuất. Chỉ một số ít hộ có
tư liệu sản xuất khá nhưng do trình độ hiểu biết kém, không có kinh nghiệm hoặc
lười nhác nên cũng rơi vào tình trạng nghèo đói.
Chỉ tiêu về vốn
Các hộ nghèo thường không có vốn để dành. Họ thường đi vay mượn để chi cho
tiêu dùng hoặc đầu tư sản xuất. Do đó họ thường bị động trong cuộc sống, phải vay
mượn với lãi suất cao, làm thuê để trả nợ, kiếm sống qua ngày; một bộ phận có thể
rơi vào các tệ nạn xã hội như trộm cướp, mại dâm. Nếu không có các biện pháp hỗ
trợ giúp đỡ thì dễ làm cho mâu thuẫn xã hội thêm gay gắt thậm chí rối loạn.
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ ĐÓI NGHÈO VÀ XÓA ĐỐI GIẢM
NGHÈO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY I.
Các Vấn Đề Về Đói Nghèo:
1. Tổng quan về tình hình nghèo đói trên thế giới:
Từ năm 1981, những người có thu nhập 1 USD/ngày được coi là người
nghèo. Chuẩn nghèo toàn cầu này đã được điều chỉnh thành 1,25 USD/ngày kể từ
năm 2005, sau khi tính đến yếu tố lạm phát.
Theo báo cáo tổng kết do Ngân hàng thế giới (WB) công bố năm 2005, năm
chuẩn nghèo mới bắt đầu được điều chỉnh, ước tính thế giới có khoảng 1,4 tỷ người
sống với thu nhập dưới 1,25 USD/ngày. Trong khi đó, năm 2004, ước tính thế giới
có khoảng 1 tỷ người sống với thu nhập dưới 1 USD/ngày (là chuẩn nghèo cũ).
Những con số cho thấy cái nghèo vừa dai dẳng hơn vừa giảm chậm hơn
người ta nghĩ trước đây. 9
Tuy nhiên, do dân số thế giới tăng, nên trong vòng 25 năm (từ năm 1981 đến
2005), tỷ lệ người nghèo đã giảm từ 50% xuống c n 25%.
Đặc biệt ở khu vực hạ Sahara (phần lục địa châu Phi nằm về phía nam sa
mạc Sahara), nơi một nửa dân số sống trong tình trạng cực nghèo, và con số này
không hề thay đổi suốt 25 năm. Các con số thống kê mới cho thấy, châu Phi vẫn là
khu vực kém thành công nhất trong công tác xóa nghèo.
Trong 25 năm, số người nghèo ở châu Phi đã tăng gần gấp đôi, từ 200 triệu
năm 1981 lên 380 triệu năm 2005, mà mức độ nghèo cũng nghiêm trọng nhất, trung
bình mỗi người nghèo ở đây chỉ thu nhập 70 xu/ngày. Tỷ lệ người nghèo ở châu Phi
không hề thay đổi từ năm 1981 đến nay, luôn là 50%.
Nhưng theo con số tuyệt đối thì Nam Á mới là nơi có nhiều người nghèo
nhất thế giới, khu vực này có 595 tri ệu người nghèo, trong đó 455 triệu người sống
ở Ấn Độ. Tuy nhiên, tỷ lệ người nghèo ở đây đã giảm từ 60% xuống còn 40% trong 25 năm.
Trung Quốc là nước thành công nhất trong công tác xóa nghèo. Con số người
nghèo ở nước này đã giảm hơn 600 triệu, từ 835 triệu năm 1981 xuống còn 207 triệu
năm 2005. Tỷ lệ người nghèo ở nước này cũng giảm từ 85% xuống còn 15,9%,
trong đó 15 năm cuối của giai đoạn 25 năm, Trung Quốc có số người được xóa
nghèo cao nhất. Thực tế, Trung Quốc chiếm gần một nửa số người được xóa nghèo
của toàn thế giới. Nếu không tính đến Trung Quốc thì trong 25 năm, tỷ lệ người
nghèo trên thế giới chỉ giảm từ 40% xuống còn 30%.
Theo nhà kinh tế cao cấp Justin Lin của WB, báo cáo nói trên cho thấy, đến
năm 2015, số người nghèo trên thế giới có khả năng chỉ còn bằng một nửa con số
của năm 1990. “Kể từ năm 1981, mỗi năm số người nghèo trên th ế giới giảm
khoảng 1%,” ông Lin nói. Tuy nhiên, theo ông Lin, những thông tin mới thiếu khả
quan chỉ ra rằng, thế giới có nhiều người nghèo hơn ta tưởng và vì vậy nỗ lực xóa
nghèo phải tăng gấp đôi. 10
Mới đây, Oxfam cũng cảnh báo sẽ có thêm khoảng 500 triệu người nghèo do
giá lương thực tăng, đe dọa xóa bỏ thành quả chống đói nghèo của thế giới suốt 25 năm qua.
2. Thực trạng nghèo đói ở Việt Nam:
Việt Nam là một nước nghèo, trước năm 1986 tỷ lệ người nghèo luôn ở mức
bình quân 45%, sau đổi mới về cơ chế kinh tế đời sống của đại bộ phận nhân
dân được cải thiện, tuy nhiên tỷ lệ nghèo đói vẫn ở mức cao. Việt Nam được
xếp vào loại các nước nghèo nhất thế giới, chênh lệch giữa các vùng trong c
ả nước còn cao, vùng sâu, vùng xa có tỉ lệ hộ nghèo đói bình quân 40%, cá biệt có ơi 60%.
Trong những năm qua, Đảng và nhà nước ta đã có nhiều nỗ lực trong công
cuộc chống đói nghèo, coi chương trình xóa đói giảm nghèo là một trong bảy
chương trình mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Nhờ đó thu nhập
và đời sống của nông dân được cải thiện một bước đáng kể, bộ mặt nông
thôn ngày càng khang trang hơn, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát
triển quan trọng, tăng trưởng kinh tế ở mức cao ổn định.
Biểu đồ: tỷ lệ hộ nghèo (2010 – 2016) đơn vị:% 11
Theo thông tin mới nhất của Chính Phủ, năm 2020 tổng số hộ nghèo:
761.322 hộ, trong đó hộ nghèo về thu nhập 716.920 hộ và hộ nghèo thiếu hụt
tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản là 44.402 hộ. Tỷ lệ hộ nghèo là 2,75 %. Số
hộ cận nghèo năm 2020 là 986.658 hộ, chiếm 3,71%. Trên địa bàn 62 huyện
nghèo theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ có
186.504 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 23,42%; 122.578 hộ cận nghèo, chiếm 15,39%.
Xếp hạng theo tỷ lệ hộ nghèo, tỉnh Điện Biên là địa phương dẫn đầu cả nước
với tỷ lệ 48,14%, đứng thứ hai là Hà Giang với 43,65%, các tỉnh Cao Bằng
và Lai Châu lần lượt đứng thứ ba và thứ tư với tỷ lệ 42,53% và
40,40%.Trong 10 tỉnh ở bảng xếp hạng tỷ lệ hộ nghèo có đến 9 tỉnh thuộc
khu vực miền núi phía Bắc. Ngoài 4 tỉnh kể trên, các tỉnh tiếp theo là: Sơn
La (34,44%), Lào Cai (34,30%), Yên Bái (32,21%), Bắc Kạn (29,40%),
Tuyên Quang (27,81%) và Kon Tum (26,12%). Trong số 63 tỉnh thành, Bình
Dương là tỉnh duy nhất trên cả nước không có hộ nghèo. Thành phố Hồ Chí
Minh đứng thứ 62 cả về số lượng và tỷ lệ với 344 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ
0,02 dân số toàn thành phố. Trong khi Hà Nội đứng thứ 14 về số lượng hộ
nghèo với 53.193 hộ, và đứng thứ 58 về tỷ lệ nghèo, chiếm 2,97%. Nhiều địa
phương đã nỗ lực thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn, thoát nghèo như
huyện Tân Sơn (Phú Thọ), huyện Ba Bể (Bắc Kạn), huyện Phù Yên và huyện
Quỳnh Nhai (Sơn La), huyện Tân Uyên và huyện Than Uyên (Lai Châu),
huyện Như Xuân (Thanh Hóa), huyện Sơn Hà (Quảng Ngãi).
Tuy vậy, kết quả xóa đói giảm nghèo được đánh giá là chưa bền vững do một
tỷ lệ lớn hộ gia đình còn nằm trong ngay cận chuẩn nghèo và do đó tính dễ
tổn thương của các hộ hộ thoát nghèo trước những sự cố về thiên tai và rủi ro
còn cao nên nguy cơ tái nghèo còn nhiều. Chất lượng giảm nghèo chưa vững
chắc, tình trạng nghèo và phát sinh hộ nghèo mới ở các địa phương còn là do 12
một số nguyên nhân khác như: “bỏ sót” đối tượng ngay từ khâu xác định hộ
nghèo ban đầu hoặc đã đưa vào danh sách, song lại bị “bỏ sót” khi thực hiện
chính sách. Thực tế, một bộ phận nghèo chưa được hưởng các chính sách về
trợ giúp y tế, giáo dục, tín dụng.
Khoảng cách nghèo là một điểm khác rât đáng quan tâm, đó chính là phần
chênh lệch được tính vào phần trăm giữa các mức chi tiêu thực tế của các hộ
so với ngưỡng nghèo. Năm 2002 khoảng cách nghèo của vùng nông thôn cao
gấp 6,7 lần thành thị và của dân tộc thiểu số là 22,1% so với mức 4,7% của
người Kinh và người Hoa.
Với định hướng xóa đói giảm nghèo toàn diện, công bằng, bền vững và hội
nhập hơn, chuẩn nghèo trong giai đoạn 2006- 2010 tương đương sức mua 2
-2,2 USD/ngày/người thì khu vực thành thị là 260.000đ và khu vực nông
thôn là 200.000. Theo chuẩn mới thì tỷ lệ hộ nghèo chung của nước ta
khoảng 27,6%, thành thị khoảng 12,2%, nông thôn đồng bằng 23,2%, nông thôn miền núi 45,90%.
3. Nguyên nhân dẫn đến nghèo đói:
a) Nguyên nhân khách quan:
Nguyên nhân khách quan về mặt tự nhiên:
Đất đai: Đất canh tác ít, đất cằn cỗi ít màu mỡ, canh tác khó dẫn đến năng
suất thấp, ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của người dân. Đặc biệt đối với
những người nông dân đất đai là tư liệu sản xuất chính, việc tích luỹ tái sản
xuất mở rộng bị hạn chế. Vì vậy tỉ lệ nghèo đói ở nông thôn thường có xu
hướng cao hơn thành thị.
Đặc điểm tự nhiên khắc nghiệt, không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp,
bão lũ, hạn hán, sâu bệnh… ảnh hưởng đến mùa màng giao thông liên lạc. 13
Vị trí địa lý ở vùng sâu, vùng xa hẻo lánh các cơ sở hạ tầng chưa được đầu tư
xây dựng hoặc có nhưng chất lượng kém và nhỏ bé. Do điều kiện địa lý họ bị
bó buộc trong không gian mà ở đó mọi thứ đều kém phát triển, hạn chế tầm
hiểu biết và nhận thức về tiến bộ xã hội, những thành tựu khoa học… một
trong những yếu tố quyết định đến sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Nguyên nhân về mặt tự nhiên này cho thấy rõ nguyên nhân đói nghèo
ở nông thôn cao hơn thành thị. Vì vậy lao động trong nông nghiệp gặp
nhiều khó khăn, sản xuất phi nông nghiệp không thuận lợi vì họ bị rơi
vào thế cô lập với bên ngoài khó tiếp cận được với các nguồn lực phát
triển như tín dụng, khoa học công nghệ…
Nguyên nhân khách quan về mặt xã hội:
Nguyên nhân về chiến tranh: Chiến tranh đi qua để lại những hậu quả nặng nề
và dai dẳng: Người chết, môi trường bị hủy hoại, nền kinh tế bị suy kiệt. Đây
chính là một trong những nguyên nhân của vấn đề đói nghèo và các vấn đề xã hội khác phát sinh.
Nguyên nhân về xã hội: Cơ sở hạ tầng, trình độ dân trí, các cơ sở vật chất
khác hết sức thấp kém, gây cản trở cho việc áp dụng t ến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản suất ở nông thôn, các vùng dân tộc còn tồn tại nhiều phong tục, tập
quán lạc hậu cả trong sản xuất và trong cuộc sống, kém hiểu biết gây cản trở,
khó khăn cho công tác xóa đói giảm nghèo. Các vấn đề y tế, giáo dục phát
triển yếu kém, trật tự an ninh không đảm bảo, các tệ nạn xã hội có xu hướng
gia tăng dẫn đến bệnh tật, làm cho người nghèo rơi vào cảnh túng quẩn, nợ
nần. Nguyên nhân này cho thấy rõ hơn vì sao nghèo đói ở nông thôn, miền núi
cao hơn rất nhiều so với thành thị và công tác xoá đói giảm nghèo tiến hành
không có hiệu quả, không bền vững.
b) Nguyên nhân chủ quan: 14
Nguyên nhân chủ quan: Thuộc về người lao động
Không có kinh nghiệm làm ăn, sản xuất: Do trình độ học vấn thấp
kém và không tự nâng cao trình độ của bản thân, việc làm chủ yếu trong khu
vực nông nghiệp với tình trạng việc làm không ổn định; không biết làm ăn
kinh doanh theo hướng sản xuất hàng hóa, không có năng lực hiểu biết về thị
trường. Không năng động giải quyết việc làm, lười lao động. Do vậy mức thu
nhập của họ hầu như chỉ đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu và họ không
có điều kiện để nâng cao trình độ của mình trong tương lai để thoát nghèo.
Để giúp những người này thoát nghèo cần có chính sách đào tạo, hướng dẫn
làm ăn một cách trực tiếp cụ thể… như vậy họ mới tự đầu tư sản xuất giúp họ thoát nghèo.
Nguồn lực hạn chế và nghèo nàn: Người nghèo thường thiếu nguồn
lực, họ rơi vào vòng luẩn quẩn của nghèo đói và thiếu nguồn lực. Người
nghèo có khả năng tiếp tục nghèo vì họ không thể đầu tư vào nguồn vốn nhân
lực của họ. Các hộ nghèo có rất ít đất đai và tình trạng không có đất có xu
hướng gia tăng, vì vậy ảnh hưởng đến khả năng đa dạng hóa sản xuất, họ vẫn
sản xuất theo phương thức tự cung tự cấp nên năng suất thấp, giá trị không
cao. Người nghèo không có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ sản xuất như
khuyến nông, phòng dịch bệnh, giống mới, thị trường…Người nghèo thiếu
khả năng tiếp cận các nguồn tín dụng. Sự hạn chế của nguồn vốn là một trong
những yếu tố rất quan trọng đối với sản xuất, đưa công nghệ, thay đổi giống chất lượng cao.
Nguyên nhân về dân số: Một trong những nguyên nhân của đói
nghèo là do hộ nghèo thường đông con, sinh đẻ nhiều, sức khoẻ yếu, bố mẹ
không đủ khả năng làm kinh tế vì vậy họ không có điều kiện cho con cái học
tập, tiếp cận tiến bộ xã hội. Đông con vừa là nguyên nhân, vừa là hệ quả của 15
đói nghèo.Tỷ lệ sinh trong các hộ gia đình nghèo còn rất cao vì họ không có
kiến thức ũng như điều kiện tiếp cận với các biện pháp sức khỏe sinh sản,
biện pháp kế hoạch hoá gia đình. Do đông con nên thiếu nguồn lực về lao
động, số con còn nhỏ nên tình trạng người làm thì ít, người ăn thì nhiều.
Thiếu lao động nên nguồn thu nhập không đáp ứng được những nhu cầu hàng
ngày của số nhân khẩu trong gia đình nên họ dễ rơi vào tình trạng nghèo đói.
Rủi ro ốm đau, tai nạn: Gặp những bất thường trong cuộc sống: Ốm
đau bệnh tật, hỏa hoạn… cần một khoản kinh phí lớn. Bị rủi ro có thể xảy ra
trong làm kinh tế, trong đời sống xã hội, gánh nặng chi phí, bảo vệ sức khoẻ
đối với người nghèo cũng là cái bẫy đẩy họ vào vòng luẩn quẩn của sự đói
nghèo. Họ phải chịu hai gánh nặng, một là mất đi nguồn thu nhập, hai là chi
phí thuốc thang chữa bệnh cho người ốm. Đối với những hộ nghèo, vấn đề
bệnh tật, tai nạn luôn là những vấn đề lớn bởi chi phí chữa bệnh rất cao có
những gia đình phải bán tài sản, vay mượn để chữa trị. Sau khi qua khỏi tai
nạn bệnh tật… thì sức khỏe yếu hơn ảnh hưởng đến thu nhập và chi tiêu của
người nghèo do mất đi nguồn lao động và chi trả chi phí cho việc chữa chạy.
Các đột biến về chi phí chữa bệnh dẫn đến người nghèo rơi vào tình trạng túng quẫn.
Nguyên nhân do chính sách của địa phương, Nhà nước:
Những hạn chế của chính sách vĩ mô và chính sách cải cách ảnh
hưởng khá mạnh mẽ đến tình trạng đói nghèo trong cả nước nói chung, trong
các địa phương nói riêng. Chính sách cải cách nền kinh tế mở cửa và hội
nhập, tự do hoá thương mại tạo ra những động lực tốt cho nền kinh tế phát
triển. Tuy nhiên để đáp ứng với môi trường ấy thì đòi hỏi cả người cán bộ và
công nhân một trình độ ngày càng cao. Do đó tỉ lệ người nghèo thất nghiệp
càng lớn do họ không có trình độ vì vậy họ càng nghèo hơn. Chính sách phát 16
triển kinh tế vĩ mô không chú ý đúng mức đến vấn đề công bằng trong tăng
trưởng. Các chính sách chưa phù hợp, không đồng bộ. Việc triển khai thực
hiện chương trình còn yếu kém. II.
Xóa Đói, Giảm Nghèo Ở Việt Nam:
Chương trình xóa đói giảm nghèo là các biện pháp giảm bớt tình trạng nghèo khổ.
Chương trình xóa đói giảm nghèo thường được thực hiện dưới dạng cho vay
vốn với lãi suất thấp, hỗ trợ thu nhập hay các dự án phát triển nguồn nhân lực dành
cho người nghèo, đặc biệt ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Gần đây Chính phủ ta rất
chú trọng thực hiện những chương trình như vậy.
1. Xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam:
Để thực hiện xoá đói giảm nghèo chính phủ đã đưa ra nhiều chương trình
mục tiêu, chính sách lớn để hỗ trợ phát triển kinh tế, trợ giúp người nghèo như
chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm (QĐ 126/1998/QĐ-TTG-1988).
Chương trình 327 về phủ xanh đất trống đồi núi trọc (quyết định số 327/CT
của chủ tịch Hội đồng bộ trưởng ngày 15/9/1992) sau khi kết thúc chương trình 327
có chương trình 661 trồng 5 triệu ha rừng và nhiều chính sách quan trọng khác.
Đặc biệt tháng 7/1998 chính phủ phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia
xóa đói giảm nghèo giai đoạn 1998-2000 (quyết định133/198/QĐ-TTg ngày 23/7/1998) với 9 nội dung:
1. Hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng xã nghèo.
2. Hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn.
3. Định canh định cư di dân kinh tế mới
4. Hướng dẫn người nghèo cách làm ăn 5. Hỗ trợ tín dụng 6. Y tế cho người nghèo.
7. Giáo dục cho người nghèo. 17
8. Hỗ trợ phát triển sản xuất ngành nghề.
9. Đào tạo cán bộ làm xóa đói giảm nghèo các bộ chính quyền các xã nghèo.
Ngày 21 tháng 5 năm 2002, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt "Chiến lược
toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo". Đây là chiến lược đầy đủ, chi tiết
phù hợp với mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDG) của Liên Hợp Quốc công bố.
Trong quá trình xây dựng chiến lược có sự tham gia của chuyên gia các tổ chức
quốc tế tại Việt Nam như IMF, UNDP, WB,.. tổng hợp thành 8 mục tiêu phát triển Việt Nam:
1. Xóa bỏ tình trạng cùng cực và thiếu đói.
2. Đạt phổ cập giáo dục tiểu học.
3. Tăng cường bình đẳng giới và nâng cao vị thế phụ nữ.
4. Giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh.
5. Tăng cường sức khỏe bà mẹ.
6. Phòng chống bệnh HIV/AISD, sốt rét và các bệnh khác.
7. Đảm bảo bền vững môi trường.
8. Thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu vì mục đích phát triển.
Tiếp đó chính phủ đã phê duyệt chương trình phát triển kinh tế, xã hội các xã đặc
biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa (quyết định 135/QĐ-TTg, ngày
31/07/1998) theo đó chính phủ sẽ tập trung đầu tư cho 1715 xã đặc biệt khó khăn
gồm 1658 xã miền núi, 147 xã vùng đồng bằng sông Cửu Long) thuộc 267 huyện
của 46/61 tỉnh thành phố trong cả nước.
2. Kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo của một số nước và Việt Nam.
a. Kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo của một số nước.
Đói nghèo đang là vấn đề xã hội bức xúc và nóng bỏng của nhiều quốc
gia trên thế giới, diễn ra trên tất cả các châu lục với mức độ khác nhau, đặc biệt là
các quốc gia kém phát triển, đang phát triển. Thách thức của sự phát triển và yêu cầu
tìm kiếm giải pháp, các mô hình phát triển bền vững đặt ra đối với các quốc gia, các 18
khu vực ngày càng lớn mà trước hết là vượt qua ngưỡng nghèo khổ, bắt kịp nhịp độ
phát triển của thời đại, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế. Sau đây là kinh
nghiệm của một số quốc gia trên thế giới:
Kinh nghiệm của Ấn Độ: Là nước có số người nghèo khổ nhiều nhất
thế giới, chiếm 27% của 1,3 tỷ người nghèo trên thế giới. Xóa đói giảm nghèo là
một trong những mục tiêu cơ bản của phát triển kinh tế xã hội ở Ấn Độ. Chính phủ
đặt ra vấn đề phát triển nông thôn toàn diện nhằm khơi dậy những tiềm năng sẵn có
trong nông thôn và nông dân, nổi bật là “cuộc cách mạng xanh” trong nông nghiệp,
nhằm đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất tăng nhanh khối lượng và năng
suất cây trồng, cùng với chủ trương đẩy mạnh phát triển công nghiệp nông thôn.
Chính phủ có biện pháp giúp đỡ từng nhóm và hộ gia đình nhằm phát triển sản xuất,
đã giúp cho 15 triệu hộ gia đình với 75 triệu nhân khẩu thoát khỏi cảnh nghèo khổ.
Kinh nghiệm của Trung Quốc: Có thể nói Trung Quôc là nước thành
công nhất trong công tác xóa đói giảm nghèo. Tuy là nước đông dân nhất thế giới
nhưng Trung Quốc có tỷ lệ dân số sống ở mức nghèo khổ thấp nhất. Một trong
những kinh nghiệm của Trung Quốc trong công tác chống đói nghèo là : Trung Quốc
đã thực hiện chính sách “Tam nông” (nông nghiệp, nông thôn và nông dân ); trợ cấp
thực phẩm cho dân cư đô thị cho vay ưu đãi giáo dục đối với người nghèo; giảm
thiểu đóng góp cho nông dân, kể cả miễn học phí cho con cái nông dân. Trung Quốc
đã thực hiện phương châm tạo điều kiện cho các khu vực nghèo đói có khả năng
phát triển (khu vực nông thôn phía tây). Trung Quốc đã tiến hành cải cách ruộng đất
một cách một cách có hệ thống vào năm 1979, đất đai được chia một cách bình đẳng
cho nông dân, từ bỏ chính sách lương thực hàng đầu để nhằm đa dạng hóa sản
phẩm, hướng đầu tư chủ yếu vào nông nghiệp, đồng thời coi trọng phát triển các
doanh nghiệp nông thôn vừa và nhỏ về chế biến nông sản, thực hiện lưu chuyển lao
động trong nông nghiệp, giảm tỷ lệ sinh đẻ trong dân, nâng cao trình độ văn hóa,
giáo dục. Trọng điểm ủa ông tác xóa đói giảm nghèo là phát huy được sự tham gia 19
của mọi lực lượng trong xã hội, khai thác được nguồn nhân lực và công tác chống đói nghèo.
Giữa thập niên 80, Trung Quốc đề ra chiến lược chống đói nghèo một cách toàn
diện để giải quyết dần tình trạng nghèo đói của 102 triệu người. Năm 1994, Trung
Quốc lại đưa ra chương trình giải quyết nạn đói cho 80 triệu người trong vòng 7
năm. Kết quả chỉ trong vòng 2 thập kỷ cuối thế kỷ trước đã giảm được gần 3/4 số
người nghèo đói (từ 200 triệu người xuống còn 58 triệu người)
Kinh nghiệm của Thái Lan: Từ những năm 1980, Thái Lan đã áp dụng
mô hình gắn liền chính sách phát triển quốc gia với chính sách nông thôn, qua việc
phát triển các xí nghiệp ở làng quê nghèo, phát triển các doanh nghiêp nhỏ, mở rộng
các trung tâm dạy nghề ở nông thôn nhằm giảm bớt nghèo đói. Nhờ vậy tỷ lệ nghèo
đói ở Thái Lan đã giảm từ 30% ở thập kỷ 80 xuống còn 23% năm 1990 tương ứng khoảng 13 triệu người.
Kinh nghiệm của Chi Lê: Là nước duy nhất ở châu mỹ có tốc độ giảm
nghèo tương đối nhanh, năm 1996 có 39% dân số sống dưới mức nghèo khổ, đến
năm 1997 chỉ còn 20%, từ năm 1990 – 1998 có 2 triệu người đã thoát khỏi nghèo
khổ trong tổng dân số 11,5 triệu người. Theo các nhà phân tích, Chi Lê đạt được kết
quả trên là dựa vào 3 nhân tố sau đây: sự tăng trưởng kinh tế được giữ vững, sự gia
tăng những chỉ tiêu xã hội và việc xây dựng nhiều chương trình xúc tiến việc làm.
Chi Lê cũng là nước đầu tiên ở Mỹ La tinh tiến hành tư nhân hóa, mở cửa thị trường
và giảm thuế từ đó lạm phát được kiềm chế và kinh tế bắt đầu tăng trưởng.
b. Kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo ở nước ta.
Trong những năm qua, nhờ học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới
cùng với sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng, Nhà nước và sự nỗ lực của toàn thể nhân
dân đến nay nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn trong công tác xóa đói giảm 20
nghèo, những nỗ lực này đã được thề giới công nhận và đánh giá cao. Đảng và Nhà
nước ta đã rút ra được một số kinh nghiệm bước đầu như sau:
Tăng cường nâng cao nhận thức về mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng
cũng như phương pháp tiếp cận giải quyết vấn đề nghèo đói cho các cấp các ngành
và mọi người dân, đặc biệt là người nghèo và xã nghèo. Xem công tác xóa đói giảm
nghèo không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà trước hết thuộc về từng các nhân,
gia đình, dòng họ, cộng đồng và trách nhiệm của toàn xã hội. Xóa đói giảm nghèo
vươn lên làm giàu là một nội dung quan trọng của định ướng xã hội chủ nghĩa để
thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh”.
Đây là mục tiêu then chốt để thực hiện thành công cuộc phát triển đất
nước xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững là tiền đề giúp cho việc xóa
đói giảm nghèo được thưc hiện nhanh và toàn diện. Thực hiện xóa đói giảm nghèo
bền vững cần phải bảo đảm cho người dân có thể được các thành tựu phát triển, phải
tạo việc làm và tăng thu nhập ở cả thành thị và nông thôn. Đồng thời phải đầu tư cho
con người và phát huy nguồn lực con người, coi đó là yếu tố cơ bản để phát triển nhanh và bền vững.
Chiến lược về xóa đói giảm nghèo cần phải đa dạng và có mục tiêu
trên cơ sở nhu cầu của nhân dân. Hệ thống các cơ chế, chính sách cần linh hoạt tùy
điều kiện của từng vùng, từng địa phương. Để thực hiện các chính sách có hiệu quả,
cần có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp và đồng thời phát động
phong trào sâu rộng trong cả nước. Các bộ, ngành trung ương có nhiệm vụ nghiên
cứu xây dựng chương trình, chính sách, lập kế hoạch tổng thể trong khi chính quyền
cơ sỏ chịu trách nhiệm phân bổ nguồn lực dựa trên nhu cầu và khả năng của từng địa
phương, tổ chức thực hiện và quản lý hiệu quả các chương trình. Nâng cao năng lực
đội ngũ cán bộ cơ sở và thực hiên dân chủ cơ sở, tăng cường sự tham gia giám sát
của người dân, đặc biệt là người nghèo, phụ nữ và đồng bào dân tộc thiểu số.
Cần thiết lập theo dõi đánh giá toàn diện hơn để nâng cao hiệu quả 21
của chương trình. Hệ thống theo dõi, giám sát chương trình cũng có vai trò trọng y
trong công tác xóa đói giảm nghèo. Một hệ thống theo dõi, giám sát tốt sẽ cung cấp
cho các nhà hoạch định chính sách những thông tin chính xác, kịp thời làm cơ sở để
ban hành hoặc điều chỉnh chính sách, chương trình phù hợp với điều kiện cụ thể, nó
cũng giúp địa phương đánh giá khách quan hơn, hiệu quả thực hiện chương rình từ
đó điều chỉnh các hoạt động cho phù hợp với nhu cầu của người dân.
Đa dạng hóa việc huy động các nguồn lực phục vụ công tác xóa đói
giảm nghèo, trước hết là chủ động phát huy nguồn lực tại chỗ, huy động nguồn lực
cộng đồng kết hợp với sự đầu tư của Nhà nước đi đôi mở rộng hợp tác với quốc tế
để tăng thêm nguồn lực cho xóa đói giảm nghèo.
3. Những thành tựu và khó khăn, hạn chế:
a. Thành tựu đạt được:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh của Việt Nam trong suốt thập kỷ
1990 đã có tác động quan trọng đến việc xoá đói giảm nghèo và phát triển xã hội.
Tỷ lệ người nghèo, tính theo chuẩn nghèo quốc tế, đã giảm liên tục từ
hơn 60% vào năm 1990, xuống 58% vào năm 1993, 37% vào năm 1998, 32%
vào năm 2000, 29% vào năm 2002 và còn 18,1% vào năm 2004.
Năm 2006 có khoảng 10,8% số hộ được xếp vào loại thiếu ăn (nghèo
lương thực) theo chuẩn nghèo quốc tế.
Căn cứ vào chuẩn nghèo quốc gia do Bộ Lao động, Thương binh và Xã
hội ban hành, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ hơn 30% năm 1990, 30% vào năm
1992, 15,7% năm 1998 xuống xấp xỉ 17% vào năm 2001(2,8 triệu hộ) và 10% năm 2000.
Theo chuẩn nghèo của chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia, đầu
năm 2000 có khoảng 2,8 triệu hộ nghèo, chiếm 17,2% tổng số hộ trong cả
nước, chủ yếu tập trung vào các vùng nông thôn. Các vùng nông thôn miền
núi, vùng sâu, vùng xa và vùng người dân tộc thiểu số, tỷ lệ nghèo cao hơn 22
con số trung bình này nhiều. Có tới 64% số người nghèo tập trung ở vùng núi
phía Bắc, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên và Duyên hải miền trung. Cũng theo
chuẩn nghèo quốc gia năm 2002 còn 12,9% hộ nghèo và tỷ lệ nghèo lương thực ước lượng 10.87%.
Từ năm 1992 đến 2004, tỷ lệ đói nghèo ở Việt Nam đã giảm từ 30%
xuống còn 8,3%. Tính đến tháng 12-2004, trên địa bàn cả nước có 2 tỉnh và
thành phố cơ bản không còn hộ nghèo theo tiêu chuẩn; có 18 tỉnh tỷ lệ nghèo
chiếm 3-5%; 24 tỉnh có tỷ lệ nghèo chiếm 5-10%... Đáng kể trong chương
trình Xóa đói giảm nghèo là những xã nằm trong diện 135 (xã nghèo, xã đặc
biệt khó khăn) đã có những thay đổi biến chuyển rõ nét. Nếu năm 1992, có
tới 60-70% số xã nghèo trong diện 135, thì đến năm 2004 giảm xuống còn khoảng 20-25%.
Số hộ nghèo của năm 2004 là 1,44 triệu hộ, tỷ lệ nghèo là 8,3%, đến
cuối năm 2005 còn khoảng dưới 7% với 1,1 triệu hộ. Như vậy tỷ lệ hộ nghèo
năm 2005 đã giảm khoảng 50% so với năm 2000.
b. Khó khăn và thử thách:
Với sự phấn đấu không mệt mỏi của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
trong nhiều năm qua, công cuộc xóa đói, giảm nghèo đã đạt được một số
thành tựu quan trọng, nhưng phía trước vẫn còn không ít khó khăn và thách thức:
Thứ nhất là về nhận thức, một bộ phận không nhỏ người nghèo
và địa phương nghèo vẫn còn tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà
nước, nên chưa chủ động vượt lên đ ể thoát nghèo.
Thứ hai là sự đánh giá tỷ lệ nghèo còn thấp hơn thực tế ở một vài
địa phương, nên một bộ phận người thực sự nghèo chưa được tiếp cận với các
chương trình xóa đói, giảm nghèo.
Thứ ba là nguồn lực huy động cho chương trình xóa đói, giảm
nghèo còn khiêm tốn. Hằng năm, ngân sách nhà nước hỗ trợ cho chương trình 23
xóa đói, giảm nghèo mới chỉ được bình quân khoảng 60.000 đồng/người.
Trong khi đó, một số địa phương chưa chủ động huy động hoặc huy động
chưa tương xứng với tiềm năng của nguồn lực tại chỗ; chưa lồng ghép hài
hòa các loại nguồn lực trên cùng đ ịa bàn và chưa huy động được sự tham gia
mạnh mẽ của các doanh nghiệp, các tổ chức, các cộng đồng và các cá nhân có
điều kiện vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo. Vì vậy, chưa đáp ứng được nhu
cầu cần hỗ trợ của người nghèo để đủ điều kiện thoát nghèo bền vững, dẫn
đến mục tiêu thoát nghèo khó thực hiện được.
Thứ tư là một số cơ chế, chính sách và biện pháp hỗ trợ xóa đói
giảm nghèo chưa thật phù hợp, việc tổ chức thực hiện còn bất cập, còn mang
tính bao cấp, nên không tạo được động lực để người nghèo chủ động vượt
nghèo. Biện pháp hỗ trợ làm nhà ở cho đồng bào nghèo chưa thật phù hợp
với nhu cầu và tập quán của từng dân tộc, từng địa phương; có địa phương
chưa chú ý đầy đủ đến quy hoạch sản xuất lâu dài và môi trường sống của
nhân dân trong khi xây dựng các khu dân cư vượt lũ; mức chi phí cho khám,
chữa bệnh còn thấp; chính sách trợ cước, trợ giá cũng còn bất hợp lý; mức
vốn vay tín dụng ưu đãi còn thấp và chưa thật phù hợp với chu kỳ sản xuất
kinh doanh; cơ chế phân bổ vốn còn mang tính bình quân, v.v.... Ở một số
nơi, nhất là vùng cao, vùng sâu thông tin đến với người dân chưa đầy đủ nên
nhận thức về các chính sách của Nhà nước đối với người nghèo còn hạn chế.
Những khiếm khuyết nói trên đã làm cho hiệu quả của chương trình xóa đói,
giảm nghèo bị giảm bớt một phần.
Thứ năm là việc tổ chức thực hiện chương trình xóa đói, giảm
nghèo không đồng đều ở một số địa phương. Đội ngũ cán bộ vừa thiếu về số
lượng, vừa yếu về năng lực. Phần lớn cán bộ thực thi chương trình ở cấp xã
đều kiêm nhiệm, chưa được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên. Việc theo dõi,
giám sát chương trình chưa có hệ thống và đồng bộ. Công tác sơ kết, tổng 24
kết, đánh giá chương trình chủ yếu dựa trên các báo cáo với lượng thông tin chưa đầy đủ
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP & KIẾN NGHỊ I. Giải pháp:
1. .Giải pháp kinh tế quản lí:
Đẩy mạnh phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Đẩy mạnh phát triển giáo dục đào tạo nâng cao dân trí.
Đẩy mạnh mục tiêu xóa đói giảm nghèo, phát triển văn hóa thông tin.
2. Giải pháp cơ sở hạ tầng:
Vận động nhân dân mang sản phẩm của mình trao đổi tại chợ.
Song song với đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, công tác tu bổ,
bảo dưỡng cũng cần được coi trọng.
3. Giải pháp giáo dục và đào tạo nghề:
Tăng mức độ sẵn có của giáo dục thông qua chương trình xây dựng trường học.
Giảm chi phí đến trường cho mỗi cá nhân các gia đình nghèo.
Nâng cấp chất lượng giáo dục.
Khuyến khích các tổ chức cá nhân tình nguyện tham gia giúp
đỡ người nghèo nâng cao trình độ.
4. Giải pháp vốn:
Ưu tiên hộ chính sách nằm trong diện hộ nghèo đói vay trước.
Lãi suất cho vay đây chính là yếu tố mang nội dung kinh tế và
tâm lý đối với người đi vay, đặc biệt là người nghèo.
Lãi suất cho vay ưu đãi hiện nay là 0.87% đối với ngân hàng
nông thôn và phát triển nông nghiệp.
5. Giải pháp công tác khuyến nông: 25
Cần nâng cao các dịch vụ khuyến nông nhằm tạo điều kiện cho
nông - dân tiếp cận với thông tin và kỹ thuật sản xuất, tiếp cận thị trường.
Mở thêm các lớp tập huấn cho người dân, cần phát triển đối với từng thôn xóm
6. Giải pháp ở hộ gia đình:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Khai thác sử dụng hết các tiềm năng, đặc biệt là đất đai.
Nguồn lao động cần tham gia các lớp tập huấn khuyến nông, tự
hoàn thiện, nâng cao trình độ của mình thông qua các lớp học xóa mù chữ. II. Kiến nghị:
Để thực hiện các giả pháp trên đây, cần tăng cường vai trò lãnh đạo của
đảng và chính quyền các cấp, đồng thời phát huy sức mạnh của các tổ chức đoàn
thể, xã hội và bản thân hộ đói nghèo cụ thể là:
1. Đối với Nhà nước:
Cần khẳng định một cách mạnh mẽ rằng, xóa đói giảm nghèo không
dừng lại ở việc thực hiện chính sách xã hội, không phải việc riêng của ngành
lao động- xã hội hay một số ngành khác, mà là nhiệm vụ chính trị, kinh tế,
văn hóa, là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân. Muốn thực hiện thành
công việc xóa đói giảm nghèo, tất cả mọi cán bộ đảng, chính quyền đều phải
quan tâm cùng giải quyết, thực hiện các giải pháp m ột cách đồng bộ và phải
có sự tham gia của toàn thể cộng đồng.
Cần củng cố hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy làm công tác xóa đói
giảm nghèo từ trung ương đến cơ sở.
Hoàn thiện các chính sách xã hội nông thôn, khuyến khích các tổ chức,
cá nhân trong nước và quốc tế phối hợp hành động xóa đói giảm nghèo.
2. Đối với cơ quan địa phương: 26
Bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ làm công tác xóa đói giảm nghèo.
Quản lý chặt chẽ các nguồn vốn xóa đói giảm nghèo.
Củng cố Ban xoá đói giảm nghèo của xã, cử cán bộ chủ chốt trực tiếp
làm trưởng ban, có các đoàn thể tham gia.
Đánh giá đúng mức thu nhập và đời sống của các hộ gia đình trong xã, thôn.
Chính quyền và ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo các cấp cần phối hơp
chặt chẽ với nhau để xây dựng các chương trình hành động cụ thể, có sự giúp
đỡ phù hợp cho từng thôn, từng làng ở trong huyện, vùng.
Cần dựa vào các tổ chức hội (nông dân, phụ nữ, cựu chiến binh, đoàn
thanh niên) để giúp đỡ cho từng hội viên, đồng thời xây dựng các phong trào
hổ trợ nhau trong cuộc sống.
Đồng thời, thông qua hoạt động của các đoàn thể để khơi dậy ý chí
quyết tâm vươn lên của người nghèo nhằm vượt qua đói nghèo.
3. Đối với hộ gia đình:
Phải nhận thức đúng đắn xóa đói giảm nghèo không chỉ là trách nhiệm
của cộng đồng mà phải có sự nỗ lực từng bước vươn lên làm giàu..
Cần tích cực trong sản xuất, thường xuyên học hỏi kinh nghiệm kiến
thức, tranh thủ sự hổ trợ của nhà nước và cộng đồng để hoạt động sản xuất có
hiệu quả, chi tiêu hợp lý để vươn lên thoát nghèo.
Cần xoá bỏ các mặc cảm tự ty, ỷ lại, trông chờ quá nhiều vào sự hổ trợ
của nhà nước và sự giúp đở của xã hội.
PHẦN C: PHẦN KẾT LUẬN
Vấn đề nghèo đói và xóa đói giảm nghèo từ lâu đã là vấn đề mà Đảng và
Nhà nước rất quan tâm, là một trong những nhiệm vụ được thực hiện hàng
đầu. Tìm hiểu đề tài này đã giúp chúng ta thấy được thực trạng đói nghèo,
xóa đói giảm nghèo cũng như nguyên nhân dẫn đến đói nghèo từ đó đề xuất
một số giải pháp. Chúng tôi hy vọng tiểu luận sẽ được xem xét, triển khai 27
nhanh chóng các biện pháp đã đề ra ở trên và chủ động trong việc kiểm soát
tình trạng đói nghèo ở Việt Nam hiện nay. Việc thực hiện các biện pháp xóa
đói giảm nghèo một cách hợp lí sẽ giúp cải thiện tình trạng nghèo đói ở Việt
Nam hiện nay, đời sống của nhân dân sẽ chuyển biến theo hướng tích cực, là
cơ sở để người nghèo từng bước thoát nghèo. Đó là mục tiêu hàng đầu của
Đảng, Nhà nước và cũng là nguyện vọng của mỗi công dân Việt Nam. 28
PHẦN D: DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Hữu Nghĩa (2006), Thực tiễn xóa đói giảm nghèo theo hướng phát triển
bền vững ở nước ta hiện nay, Tạp chí cộng sản (số 4).
2. Thủ tướng Chính phủ ( 2007), quyết định số 20/2007/QĐ - TTg về chương
trình Mục tiêu qu ốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 – 2010, Hà Nội.
3. Các trang web điện tử:
http://www.UNPD.org.vn: Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc.
http://www.google.com.vn: Tìm kiếm thông tin.
http://www.taphicongsan.org.vn: Tạp Chí Cộng Sản.
http://www.tailieu.vn: Thư viện điện tử Việt Nam.
http://www.kilobook.com.vn: Thư viện điện tử Việt Nam.