lOMoARcPSD| 58707906
Cách tiếp cận Lịch sử văn minh thế giới
Khái niệm văn minh:
Khái niệm này dịch t ngôn ngữ phương Tây “Civilasation” (bắt nguồn từ chữ
Civitas – đô thị), chỉ trình độ phát triển cao của văn hóa.
“Văn minh là trạng thái tiến bộ cả về vật chất và tinh thần của xã hội loài người, tức
là trạng thái phát triển cao của nền văn hóa. Trái với văn minh là dã man” Ví dụ: Văn minh
Phương Đông, Văn minh Hy Lạp ...
Đặc trưng của văn minh:
Trạng thái phát triển cao của nền văn hóa, hay một “lát cắt” của lịch sử. Buổi đầu của thời
đại văn minh, tiêu chí chủ yếu sự xuất hiện của nhà nước tchức quản hội
chữ viết – thành tựu tiêu biểu.
Thường nghiêng về yếu tố vật chất – kỹ thuật để xác định trình độ của một nền văn minh.
Ví dụ: n minh nông nghiệp dựa trên lao động chân tay của con người chủ yếu, văn
minh công nghiệp – sức mạnh của máy móc
So sánh văn minh với văn hóa
Khái niệm: Văn hóa tất cả những giá trị về vật chất tinh thần do con người
sáng tạo ra trong quá trình lịch sử để góp phần vào sự ổn định, tô điểm, làm đẹp cho cuộc
sống của con người và xã hội. Đặc trưng của văn hóa
Dùng để phân biệt con người với động vật, là đặc trưng riêng của xã hội loài người Không
được kế thừa về mặt sinh học (di truyền) mà phải học tập, giao lưu.
Là cách ứng xử đã được mẫu thức hoá.
Tiêu chí so sánh
Văn hóa
Văn minh
Nguồn gốc
Gắn bó nhiều với nông nghiệp trồng
trọt
Gắn bó nhiều với đô thị
Tính giá trị
Chứa cả giá trị vật chất và tinh thần
Thiên về giá trị vật chất –
thuật
Tính lịch sử
Có bề dày lịch sử
Chỉ trình độ phát triển
Phạm vi, quy mô
Có tính dân tộc, khu vực
Có tính quốc tế
Thế nào là một nền văn minh?
Nền văn minh thể hiểu như văn hoá của một hội phức tạp, thể hiện phẩm
chất tiên tiến từ một hội thống nhất. Các nền văn minh nền tảng văn hoá đa dạng,
bao gồm văn học, hội hoạ, kiến trúc, tôn giáo, tín ngưỡng,... được kết hợp hài hoà. Nền văn
minh có bản năng mở rộng ra khu vực khai sinh ban đầu, vươn xa và ảnh hưởng đến những
vùng đất xa xôi khác.
Một nền văn minh hình thành trong một không gian địa lý nhất định, có một thời gian tồn
tại nhất định và có chủ nhân riêng.
lOMoARcPSD| 58707906
Một nền văn minh gồm 3 yếu tố:
Chức năng sản xuất ra của cải vật chất: minh thế giới: Thể hiện trình độ kiểm soát, chiếm
lĩnh của con người với thế giới tự nhiên, thông qua các hoạt động sản xuất ra của của vật
chất, các sinh hoạt kinh tế trong mỗi nền văn minh.
Chức năng điều chỉnh, tổ chức và phát triển xã hội: Thể hiện trình độ tổ chức và quản lí
hội thông qua bộ máy nhà nước, hệ thống pháp luật, các thể chế xã hội (giai cấp, tư tưởng,
tập quán xã hội, cộng đồng,...)
Chức năng tạo ra các sản phẩm tinh thần: Tnh độ chiếm lĩnh thế giới tư duy sáng tạo
văn hoá: Bao gồm tổng thể tri thức về thế giới khách quan được sáng tạo, khám phá (nghệ
thuật, tư tưởng, tôn giáo, khoa học,...)
Những cơ sở hình thành nền văn minh
Điều kiện tự nhiên (Vị trí địa khí hậu): Xem điều kiện tự nhiên đã tạo những
thuận lợi cho nền văn minh đó ra đời phát triển, tác động như thế nào đến bản chất,
thành tựu của các nền văn minh…
Thuận lợi: thời tiết ổn định, nguồn lao động dồi dào, giàu tài nguyên khoáng sản, ...
Khó khăn: thời tiết bất thường ( bão, lũ lụt, hán hạn, ...), chiến tranh, ...
dân: xem dân, dân tộc nào là người sáng lập là chủ nhân của nền văn minh
đó, quá trình chuyển tiếp, tiếp biến với văn minh của các dân tộc khác như thế nào
Thời gian tồn tại: làm rõ quá trình hình thành, phát triển, suy vong, phục hưng của
các nền văn minh trong một tiến trình lịch sử cụ thể ...
Trình độ tổ chức sản xuất (kinh tế): trình độ sử dụng tư liệu sản xuất và tổ chức các
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, cách phân chia kết
quả lao động giữa các thành phần dân cư,…
Trình độ tổ chức - quản xã hội, tạo ra các sản phẩm tinh thần: xem kết cấu hạ tầng
hội như thế nào, mối quan hệ, mâu thuẫn giữa các giai tầng hội, cách tổ chức kiến
trúc thượng tầng xã hội… Thành tựu chính của văn minh
Chữ viết: quá trình hình thành, phát triển, cải tạo, ứng dụng… chữ viết, sự tác động
của chữ viết đến văn minh,.. Ví dụ: chữ tượng hình (Ai Cập), chữ Lệ (Trung Hoa) ..
Văn học: những sang c văn học thể hiện niềm tin, ý chí, tình cảm của bộ phận n
cư sang tại ra nền văn minh.
Sử học: quá trình hình thành nền sử học cùng những nhận xét, nhận định về các sự
kiện trong tiến trình lịch sử.
Nghệ thuật: tổng thể các mặt như hội họa, âm nhạc, điêu khắc,kiến trúc,…
Khoa học tự nhiên: các phát minh về toán học, vật lý, hóa học, sinh học,..xuất phát
từ nhu cầu cuộc sống.
lOMoARcPSD| 58707906
Triết học: hệ thống tưởng quan điểm của bộ phận dân đó về cuộc sống, con
người, xã hội…
Tôn giáo: các niềm tin tín ngưỡng 8. Luật pháp: hệ thống quy tắc tổ chức, quản
lý xã hội.
Luật pháp: hệ thống các quy tắc tổ chức, quản lý xã hội
Vai trò của Lịch sử văn minh thế giới đối với sự phát triển của nhân loại
Động lực thúc đẩy sự phát triển của nhân loại, giúp nhân loại đạt đến những thành
tựu phát triển đỉnh cao, góp phần ngày càng hoàn thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống của
con người,...
Cơ sở hình thành văn minh phương Đông - phương Tây của nhân loại
Phương Đông
Phương Tây
Điều kiện tự nhiên
Lưu vực các con sông lớn: sông
Ấn, sông Hằng, sông Nin
Biển, đảo, bán đảo rìa Địa
Trung Hải
Thời gian hình thành
Ra đời sớm nhưng kết thúc
muộn (từ thiên niên kỉ IV TCN)
Ra đời muộn hơn (thiên
niên kỉ II TCN)
Điều kiện kinh tế
Nông nghiệp → Thủ công
nghiệp → Thương mại
Thủ công nghiệp
Thương mại → Nông
nghiệp
Điều kiện chính trị
Nhà ớc quân chủ chuyên chế
tập quyền
Quân chủ Thành
bang/thị quốc Dân chủ
→ Cộng hòa → Đế chế
Kết cấu giai cấp tầng
lớp XH
Thống trị (vua, quý tộc, quan
lại ...) và bị trị (nô lệ)
Thống trị và bị trị
Các thành tựu khoa học tự nhiên của Ai Cập
Cơ sở hình thành
Nền văn minh Ai Cập cổ đại nằm ở Đông Bắc châu Phi, dọc theo vùng hạ lưu của lưu vực
sông Nile. Sông Nile dài hơn 6000 km, 7 nhánh đổ ra Địa Trung Hải, một trong những
con sông dài nhất thế giới. Hạ lưu sông có hình dáng tam giác, dài 700 km với hai bên lưu
vực sông đất đai phì nhiêu, màu mnhờ lượng phù sa lớn bồi đắp, thuận lợi cho các loại
cây trồng phát triển. Ai Cập nhiều tài nguyên khoáng sản như đồng, vàng, bạc rất
nhiều mỏ đá vôi. Đó nguyên liệu để làm ng cụ sản xuất vật liệu y dựng. Quan
sát bầu trời ở sa mạc nên có điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu thiên văn như ít mây,
trong trẻo, những điểm cao phù hợp. Điều kiện hội như: chế độ thuế khóa, chính sách
thu thuế…, nhân tố tín ngưỡng tôn giáo, nhân tố con người (tang lữ, thầy tế…)
Các thành tựu chính
Toán học
lOMoARcPSD| 58707906
Do yêu cầu phải đo đạc lại ruộng đất bị nước sông Nile làm ngập và do cần phải tính toán
vật liệu trong các công trình xây dựng nên từ sớm, người Ai Cập đã có khá nhiều hiểu biết
đáng chú ý về toán học.
Về phép đếm: Người Ai Cập cổ đại ngay từ đầu đã biết dùng phép đếm lấy 10 làm sở
(thập tiến vị). Dùng chữ tượng hình để biểu thị các chữ số nhưng vì không có cơ số 0 nên
cách viết chữ số của họ tương đối phức tạp.
Ví dụ: đơn vị: hình nhiều cái que, chục:
hình một đoạn dây thừng, trăm: hình
một vòng đoạn dây thừng, ngàn:
hình cây sậy,....
Về các phép tính bản, người Ai Cập chỉ mới biết phép cộng phép trừ. Vì chưa biết
nhân và chia nên phải dùng phương pháp cộng và trừ liên tiếp.
Đến thời Trung vương quốc, mầm mống của đại số học đã xuất hiện. Ẩn số x được gọi
“aha” nghĩa “một đống”, dụ một số ngũ cốc chưa biết được số lượng thì gọi “một
đống ngũ cốc”. Người Ai Cập đã biết được cấp số cộng giải được phương trình bậc nhất.
Về hình học, họ đã biết cách tính diện tích hình tam giác, tứ giác, hình cầu; biết được số pi
3,16; biết tính thch hình tháp đáy vuông. Khi giải những bài tóan hình học không
gian phục vụ cho việc xây dựng Kim Tự Tháp, họ đã biết vận dụng mầm mống của lượng
giác học.
Thiên văn học
Để nắm vững được thời tiết khai thác nguồn thuỷ lợi của sông Nile phục vcho canh
tác nông nghiệp, ở Ai Cập đã sớm ra đời Thiên văn học và lịch pháp.
Từ rất sớm, hđã dùng những dụng cụ thô sơ như sợi dây dọi, mảnh ván có khe hở, ngồi
trên nóc đền miếu để quan sát bầu trời. Họ vẽ hình thiên thể lên trần các đền miếu, biết
được 12 cung hoàng đạo, biết được các hành tinh như thủy, kim, hỏa, thổ và mộc.
Để đo thời gian, từ thời cổ vương quốc người Ai Cập đã phát minh ra các nhật khuê (đồng
hồ mặt trời). Tuy nhiên, dụng cụ này chỉ xem được thời gian ban ngày và chỉ khi có nắng.
Đến thời Vương triều XVII, người Ai Cập phát minh ra đồng hồ nước. Loại đồng hồ này
đã khắc phục được nhược điểm của loại nhật khuê nói trên.
Thành tựu quan trọng nhất trong lĩnh vực thiên văn của người Ai Cập cổ đại là việc m ra
lịch. Lịch Ai Cập được đặt ra dựa trên kết quả quan sát tinh quy luật dâng ớc của
sông Nile. Họ nhận thấy rằng buổi sáng sớm khi sao Lang (Sirius) bắt đầu mọc cũng là lúc
nước sông Nile bắt đầu dâng. Khoảng cách giữa hai lần mọc sao Lang là 365 ngày. Họ lấy
khoảng thời gian ấy làm một năm. Một năm được chia làm 12 tháng, mỗi tháng 30 ngày, 5
ngày còn thừa để vào cuối năm ăn tết. Năm mới của người Ai Cập bắt đầu từ ngày nước
sông Nile bắt đầu dâng (khoảng tháng 7 dương lịch). Một năm được chia làm ba mùa (mùa
nước dâng, mùa ngũ cốc, mùa Thu hoạch), mỗi mùa 4 tháng.
lOMoARcPSD| 58707906
Như vậy, lịch của người Ai Cập cổ đại một loại lịch được phát minh rất sớm (vào khoảng
thiên kỷ thứ IV TCN), tương đối chính xác và thuận tiện. Tuy nhiên, lịch Ai Cập cổ đại so
với lịch mặt trời còn thiếu mất 1⁄4 ngày, nhưng lúc bấy giờ, họ chưa biết đặt ra năm nhuận.
Y học
Do tục ướp xác thịnh hành, từ rất sớm, người Ai Cập đã hiểu biết tương đối về cấu tạo của
cơ thể người, tạo điều kiện cho y học có thể phát triển sớm khá nổi tiếng với các nước láng
giềng.
Nhiều thành tựu của nền y học Ai Cập cổ đại được ghi trên giấy papyrus truyền đạt lại
đến ngày nay. Các tài liệu ấy đề cập đến các vấn đề như nguyên nhân của bệnh tật,t
về óc, quan hệ giữa tim và mạch máu, các loại bệnh, cách khám bệnh, khả năng chữa trị...
Về nguyên nhân chủ yếu của bệnh tật, người Ai Cập lúc bấy giờ đã nhận thức được rằng
đó không phải do ma quỷ hoặc do các mụ phù thủy gây nên là do sự không bình thường
của mạch máu. Tuy người Ai Cập chưa biết nhiều về sự tuần hoàn của máu nhưng họ cũng
đã nhận biết sự liên quan giữa tim mạch máu. Nhận thức được óc tim 2 bộ phận
quan trọng của cơ thể con người.
Các tài liệu để lại còn tả nhiều loại bệnh như bệnh đường ruột và dạ dày, bệnh đường
hô hấp, bệnh ngoài da... Các tài liệu cũng ghi lại nhiều bài thuốc và phương pháp chữa trị.
dụ, để chữa bệnh đường ruột, người ta dùng phương pháp rửa ruột hay cho nôn mửa.
Các thầy thuốc Ai Cập còn biết dùng phẫu thuật để chữa một số bệnh.
Việc chữa bệnh đã được chuyênn hóa khá tỉ mỉ. Hêrôđốt cho biết rằng khi ông đến Ai
Cập du lịch thì thấy rằng: “Ở chỗ họ, y học chia thành nhiều chuyên môn, mỗi thầy thuốc
chữa trị một loại bệnh chứ không phải chữa rất nhiều bệnh. Khắp nơi đều có rất nhiều thầy
thuốc...”.
Có thể nói người Ai Cập xứng đáng là những cư dân đầu tiên trên thế giới có ý thức chăm
sóc răng miệng. Do sống sa mạc nên thành phần thức ăn hằng ngày của họ chứa tương
đối nhiều cát. Loại cát này có tính mài mòn cao, khiến tuổi thọ men răng người Ai Cập rất
thấp, họ thường xuyên gặp những vấn đề răng miệng, thậm chí nguy hiểm đến mức tử
vong. Vì vậy, để bảo vệ răng miệng, người Ai Cập đã sáng chế ra hỗn hợp kem đánh răng
đầu tiên trên thế giới gồm bột móng bò, tro, vỏ trứng bị đốt cháy và đá bọt. Không chỉ phát
minh ra kem đánh răng, họ còn tạo ra kẹo làm thơm miệng ngày nay phần lớn chúng
ta đều sử dụng.
Ngoài ra, các lĩnh vực khác như vật học, hóa học... cũng những hiểu biết đáng kể.
Không thể tưởng ợng được rằng trong việc thiết kế xây dựng các Kim Tự Tháp
cho đến nay vẫn rất vững bền lại thiếu những kiến thức về vật lý học nhất là về lực học.
* Không đủ thời gian
Toán học
Xuất phát từ nhu cầu đo lại ruộng đất do nước sông Nin ng xóa rang giới tính toán
vật liệu khi xây dựng nên người Ai Cập có nhiều hiểu biết đáng chú ý về toán học.
lOMoARcPSD| 58707906
Họ dùng phép đếm thập vị tiến (lấy 10 làm cơ sở), biết dùng phép cộng trừ những chưa
biết nhân chia. Họ biết một số kiến thức đại số sơ giản
Về hình học, người Ai Cập tính được số Pi=3,16, chưa hẳn chính xác với số thực
3,141529…), tính được diện tích tam giác, hình cầu, thể tích hình tháp đáy vuông… Thiên
văn học
Người Ai Cập đã vẽ được 12 cung hoàng đạo và biết được một số hành tinh như sao Thủy,
sao Kim, sao Hỏa, sao Mộc, sao Thổ.
Họ chế tạo được đồng hồ mặt trời đồng hồ nước để đo thời gian song nhiều nhược
điểm (đồng hồ mặt trời chỉ dùng được vào ban ngày khi nắng. Đồng hồ nước thì
không được chính xác lắm vì nước bay hơi)
Đặt ra lịch dựa vào kết quả quan sát bầu trời quy luật dâng, hạ nước của sông Nin. Họ
đặt ra lịch 365 ngày, mỗi tháng 3 ngày 5 ngày còn thừa để vào cuối năm. Năm
mới bắt đầu khi nước sông Nin dâng (tháng 7 dương lịch)chia ra làm 3 mùa, mỗi mùa
4 tháng : mùa Nước dâng, mùa Ngũ cốc và mùa Thu hoạch. Lịch này tương đối chính xác
(thiếu ¼ ngày) song họ chưa biết đặt năm nhuận.
Y học
Người Ai Cập giỏi cả nội khoa và ngoại khoa do họ có tục ướp xác. Khi ướp xác cần phải
mổ lấy nội tạng óc. Do vậy họ biết rõ về cấu tạo cơ thể và một số chức năng của các cơ
quan.
Họ cho rằng nguyên nhân bệnh tật do sự không bình thường của mạch máu chứ không
phải do ma quỷ, biết được mối quan hệ giữ tim và máu…
Một số tài liệu cũng cho thấy họ đã tả được vài loại bệnh như đường ruột và dạ dày,
bệnh đường hô hấp, ngoài da… và phương pháp chữa trị.
Nhìn chung những hiểu biết của người Ai Cập khá đơn giản và dựa nhiều vào kinh nghiệm
song những hiểu biết đó chứng tỏ họ đã đạt được những thành tựu quan trọng của buổi đầu
thời đại văn minh.
Ảnh hưởng/tác động của đến nhân loại hệ số thập
phân, phép tính cộng trừ, tính diện tích
thể nói rằng văn minh Ai Cập một trong những nền văn minh phát triển rực
rỡ nhất của thế giới cổ đại. Bên cạnh thành tựu về khoa học tự nhiên, người dân Ai Cập
còn có những thành tựu cùng to lớn trên các lĩnh vực khác của đời sống như: chữ viết,
văn hoá, tôn giáo, kiến trúc, điêu khắc... mà ngày nay nhân loại không thể phủ nhận được.
Cho đến nay, những thành tựu ấy vẫn làm cho chúng ta thán phục và ngạc nhiên trước sức
sáng tạo kì diệu của Ai Cập thời cổ đại.
lOMoARcPSD| 58707906
Tóm lại, nền văn minh Ai Cập cổ đại đã để lại cho nhân loại nhiều thành tựu khoa
học tự nhiên tuyệt vời đã nhiều đóng góp trực tiếp đối với sự phát triển của nhiều
lĩnh vực trong nền văn hóa thế giới như số pi, cách tính diện tích tam giác tứ giác ....
Thành tựu khoa học tự nhiên của Hy Lạp cổ đại
Cơ sở/điều kiện hình thành
Nền kinh tế phát triển cao, đời sống vật chất của giai cấp thống trị Hy Lạp được nâng cao,
do đó thúc đẩy nhu cầu nâng cao không chỉ đối với đời sống vật chất còn cả về đời
sống tinh thần. duy khoa học của ngườiHy Lạp cổ đại đã vươn tới trình độ khái quát
hóa cao, hình thành những tiền đề, định lý, nguyên gtrị. Đây nơi sản sinh ra
những con người khổng lồ, kiến thức uyên bác với nhiều thành tựu lớn lao đóng góp cho
kho tàng khoa học tự nhiên của lịch sử nhân loại.
Các thành tựu chính
Thiên văn địa -
Thales.
+ Ông được mệnh danh “nhà toán học, nhà thiên văn học đầu tiên”, là người đã khai sinh
ra nền thiên văn học Hy Lạp cổ đại và là người hình thành trường phái khoa học Mile.
+ Ông đã học tập và kế thừa những thành tựu thiên văn học của Lưỡng Hà.
+ Là người dự báo chính xác về hiện tượng Nhật thực và Nguyệt thực. Năm 585 TCN, ông
tuyên bố với mọi người rằng ngày 28-5-558 sẽ có nhật thực. Quả nhiên như vậy.
+ Tuy nhiên ông đã nhận thức sai về Trái Đất vì ông cho rằng Trái Đất nổi trên nước, vòm
trời hình bán cầu úp trên mặt đất.
- Pithagore.
+ Ông cho rằng mọi sự vật hiện tượng trong vũ trụ đều có quy luật của nó. Ông tiến bộ hơn
Thales ông đã nhận thức được Trái đất hình cầu chuyển động theo 1 quỹ đạo nhất
định.
+ Là người đầu tiên dùng danh từ Cosmos để chỉ vũ trụ. - Aristarque.
+ Ông người đầu tiên nêu ra thuyết hệ thống mặt trời. Ông đã tính toán khá chính xác
khối lượng của Mặt trời, Mặt trăng, Trái đất và khoảng cách giữa các thiên thể.
+ Ông khẳng định “Không phải mặt trời xoay quanh Trái đất mà chính Trái đất xoay quanh
Mặt trời và mỗi ngày tự quay quanh nó một vòng”.
- Ératosthène.
+ Ông là người đầu tiên tính được độ nghiêng của trục quay Trái đất là 23’27.
+ Ông cũng người đầu tiên tính toán khá chính xác chu vi của Trái đất bằng cách đo độ
dài của đường xích đạo là 39.700 km, gần bằng con số ngày nay tính được.
lOMoARcPSD| 58707906
- Hecataus: Sống cùng thời với Thales, người đầu tiên vẽ được bản đồ thế giới, đây làbản
đồ địa lý sớm nhất trong lịch sử địa lý học phương Tây. Toán học - Thales:
+ Là người đầu tiên phát biểu định lý tỷ lệ thức (định lý Thales). Ông chứng minh được 2
góc đáy của tam giác cân bằng nhau, xác định tam giác bởi 1 cạnh và 2 góc kề bù hoặc tính
khoảng cách của 1 vật mà không đến gần được.
+ Ông là người đầu tiên tính được chiều cao của Kim tự tháp.
- Pithagore.
+ Ông nêu các định được chứng minh bằng suy luận logic chứ không phải bằng trực
giác.
+ Ông có đóng góp về bảng tính nhân, thập phân công thức nổi tiếng về tam giác vuông.
Ông còn phân biệt các loại số chẵn, số lẻ và số không chia hết. - Euclide: Với tác phẩm nổi
tiếng nhất bộ bản” gồm 13 cuốn được giữ lại đến ngày nay. Hệ thống định đề của
ông làm nền tảng xây dựng môn hình học phẳng hay còn gọi là hình học Euclide.
- Archimede.
+ Toán học: tính được số pi bằng 1 trị số chính xác và sớm nhất trong lịch sử phương Tây.
Ông đưa ra phương pháp tính diện tích hình nón, hình cầu, tìm được mối liên hệ giữa diện
tích toàn phần và thể tích hình cầu nội tiếp trong hình trụ.
+ Vật lý: ông là người đặt nền móng cho ngành cơ học và ứng dụng nó vào việc giải phóng
sức lao động của con người như: đòn bẩy, ròng rọc, chân vịt (dùng để hút nước); phát minh
ra nguyên lý đòn bẩy và nguyênvề thủy lực, định luật về vật nổi; phát minh ra ròng rọc,
đòn bẩy, máy bơm nước, máy bắn đá, bánh xe răng a, đường xoáy trôn ốc, nguyên lý hội
tụ ánh sáng của gương cầu lồi,... Y học
- Hippocrate.
+ Là người đầu tiên đặt cơ sở ban đầu cho sự phát triển của y học phương Tây và được tôn
vinh là ông tổ của ngành y học phương Tây.
+ Ông đã phát biểu những luận điểm quan trọng như: nguyên nhân của bệnh tật xuất phát
từ giới tự nhiên, khi đau thì người ta phải uống thuốc hết sức lưu ý đến vấn đề vệ sinh
ăn uống, khi cần thiết thì phải dùng đến thuật mổ xẻ để trị bệnh.
+ Ông người đầu tiên Châu Âu phát biểu về vấn đề y đức “Nghề thầy thuốc một
nghề hết sức quan trọng, hết sức đặc biệt liên quan đến sức khỏe tính mạng con
người. Do đó, không được dùng nghề nghiệp chuyên môn của mình để trục lợi”.
- Heraclide.
+ Ông là người đầu tiên nêu lên vấn đề dùng thuốc mê trong phẫu thuật.
+ Ý tưởng này của ông mãi đến năm 1840 người ta mới dùng ete để gây mê và năm 1861
thì dùng morphine để giảm đau.
lOMoARcPSD| 58707906
- Hêrôphin
+ Là người đầu tiên nêu ra luận điểm não là trung tâm hệ thần kinh, chỉ huy các hoạt động
của con người.
+ Ông cũng người đầu tiên đưa ra học thuyết về sự tuần hoàn của máu và phương pháp
khám bệnh thông qua việc bắt mạch (nhanh, chậm) của bệnh nhân.
Ảnh hưởng:
Người Hy Lạp đã khái quát ra những định , định đề của nhiều môn như toán, lý,.... =>
Những Định lý, định đđó ứng dụng hiệu quả trong cuộc sống. Đặt nền móng cho sự
ra đời của các khoa học sau này như định Pi-ta-go,định lí Ta-lét, định luật Ác-si-mét...
và là nền tảng của khoa học hiện đại
Lịch pháp học: người Hi Lạp biết làm ra lịch dựa trên sự di chuyển của Trái Đất xung
quanh Mặt Trời (dương lịch) => Thế giới ngày nay vẫn đang sử dụng dương lịch để tính
ngày tháng năm.
Y học: Thầy thuốc Hippocrates đã chữa bệnh bằng biện pháp uống thuốc hoặc phẫu thuật,
được mệnh danh “Cha đẻ của y học Phương Tây” => Tạo tiền đề cho ngoại khoa y
học hiện đại.
Những đóng p văn minh Hy-La cổ đại đã tiếp sức cho phong trào văn hóa Phục hưng,
văn minh phương Tây, đồng thời tạo một nền tảng khá vững chắc cho văn minh châu Âu
nói riêng và mang đến cho nền văn hóa thế giới nói chung những thành tựu bất hủ. Có thể
nói, nền văn minh Hy Lạp cổ đại đã sản sinh ra một đội ngũ các nhà bác học kiệt xuất,
cống hiến cho nhân loại những tài sản khoa học giá giá trị của vẫn trường tồn
trong xã hội hiện đại.
Phật giáo Bối
cảnh ra đời a)
Xã hội
- Các vương quốc lưu vực sông Hằng luôn mâu thuẫn, cạnh tranh thôn tính lẫn
nhaulàm tình hình chính trị bất ổn, tâm lý dân chúng bất an.
- Mâu thuẫn giữa đẳng cấp tăng lữ với quý tộc và sự phân hoá giai cấp mạnh mẽ. Sự tồntại
của chế độ đẳng cấp Varna khiến tình trạng bất bình đẳng trong xã hội. Sự cùng khổ của
các đẳng cấp dưới. Sự bất lực trong đấu tranh khi các cuộc đấu tranh trước đó đều thất
bại.
=> Tìm con đường giải thoát bằng tôn giáo b)
Kinh tế
- Công cụ bằng kim loại đã làm thay đổi bản chất của sản xuất.
- Nhiều ngành kinh tế đã ra đời ngày càng mở rộng, làm xuất hiện tầng lớp mới, trongđó
có thương nhân. Thương nhân tầng lớptiềm lực về kinh tế, nên muốn thay đổi địa
lOMoARcPSD| 58707906
vị trong hệ thống đẳng cấp. Tầng lớp này lúc đầu không được xếp vào đẳng cấp nào
cuối cùng bị đẩy xuống đẳng cấp lệ, đẳng cấp thấp hèn nhất. c) Tôn giáo (tiền đề
tưởng):
- Cuộc sống khổ cực càng làm cho nhân dân lao động thêm m ghét những kẻ bóc lộtmình,
oán ghét chế độ đẳng cấp, không còn tin vào các vị thần Bàlamôn. Những nghi lễ phức
tạp, những nghĩa vụ phiền toái, giáo lý ngày càng khó hiểu làm cho người dân ngày càng
xa rời tôn giáo này.
- Trong bối cảnh đó vào thế kỷ VI TCN Ấn Độ đã xuất hiện nhiều trường phái tôn
giáo,triết học mới chủ trương xa lánh thực tại, khổ hạnh, ép xác, tiêu cực, tự kỷ nhưng
1 điểm chung trực tiếp gián tiếp chống lại đạo Bàlamôn chế độ đẳng cấp, Phật
giáo cũng là một trong những trào lưu đó
Nói chung, nguyên nhân khiến cho Phật giáo được chấp nhận ở AD là vì:
- Giai cấp cầm quyền cho rằng Phật giáo không làm tổn hại đến lợi ích của họ, đồng
thờicũng không hài lòng với địa vị ưu đãi của những người theo đạo Bàlamôn nên họ ng
hộ đạo Phật.
- Học thuyết Phật giáo nhiều điểm phù hợp với nguyện vọng của nhân dân nên đượcquần
chúng hoan nghênh.
Người sáng lập: Theo truyền thuyết, người sáng lập ra đạo Phật là Thái tử Tất Đạt Đa Cô
Ta Ma sau khi trải qua quá trình tu hành, giác ngộ chân lý và lẽ sống sinh tử, người bắt đầu
đi truyền bá, giảng dạy giáo ng pháp hiệu Thích Ca u Ni. Các tín đồ phật
giáo lấy năm 544 TCN là năm thứ nhất theo Phật Lịch, họ cho đây là năm mà Đức Phật đã
nhập niết bàn.
Nội dung cơ bản của giáo lý Phật giáo:
- Thế giới quan: mọi vật việc đều do nhân duyên hòa hợp lại thành. Tâm nguồn
gốccủa vạn vật, mà tâm chỉ ở con người n con người là nguồn gốc của vạn vật, khác
với các tôn giáo khác: thần thánh tạo ra con người.
+ Chủ trương Vô tạo giả: vũ trụ, vạn vật, con người ko phải do vị thần linh nào sinh ra =>
Phủ định thuyết thần sinh ra vạn vật con người của đạo -la-môn những tôn giáo
lớn khác.
+ Thuyết ngã thường: ngã không những thực thể tồn tại một cách cố
định. Con người cũng chỉ thụ thể tập hợp bởi Ngũ uẩn chứ không phải là một thụ thtồn
tại lâu dài, điều này rất biện chứng duy vật, phủ nhận sự tồn tại vĩnh viễn của linh hồn
thể, ko linh hồn bất tử. Vô thường mọi sự vật đều trong quá trình sinh ra, biến
đổi và tiêu diệt chứ không bao giờ ổn định - quan điểm đạo Phật về sự chuyển hóa của thế
giới vật lý, đây chính là tính khoa học tiêu biểu của Phật giáo.
=> Đạo Phật một tôn giáo thần vai trò của con người vị trí trung tâm (Khác
với các tôn giáo khác lúc bấy giờ)
lOMoARcPSD| 58707906
- Nhân sinh quan: với tư tưởng trung tâm lý giải về chân tìm con đường giải
thoátkhỏi sự khổ đau. Một trong những giáo quan trọng nhất của đạo Phật là Tứ diệu
đế, bao gồm: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.
+ Khổ đế: Chỉ ra các nỗi khổ của con người; Sinh, lão, bệnh, tử, oán, cầu,… đều khổ,
khổ là vô cùng, vô tận.
+ Tập đế: Nguyên nhân của sự khổ; con người khổ là do con người “vô minh”, “tham ái”,
Ham muốn - Nghiệp - Luân Hồi
+ Diệt đế: Cách thức để con người tự chấm dứt nỗi khổ -> chấm dứt mọi ham muốn (=
tưởng giải thoát)
+ Đạo đế: Con đường diệt khổ, gồm Bát chính đạo + Ngũ giới + Lục độ + Thập thiện.
Quan điểm xã hội: Phật giáo không quan m đến chế độ đẳng cấp cho rằng nguồn gốc
xuất thân của mỗi người không phải điều kiện để được cứu vớt. Tất cả mọi người đều
bình đẳng một khi đã tu hành theo học thuyết của Phật. Đạo Phật mong muốn một hội
cai trị bởi vị vua có đạo đức, nhân dân được an cư lạc nghiệp (tính khoa học).
- Giới luật: đức Phật dạy tín đồ Phật tử hành trì Ngũ giới (5 giới luật của đạo Phật)
là: không sát sinh, không trộm cắp, không dâm, không nói dối, không uống ợu. - Hệ
thống giáo lý: cực kỳ đồ sộ, nhưng tập trung chủ yếu trong Tam tạng Kinh điển:
+ Kinh: ghi lại lời giảng của đức Phật
+ Luật: giới luật của người tu hành do đức Phật đề ra và được phát triển thêm
+ Luận: do các tu sĩ Phật giáo luận bàn, phát triển các tư tưởng, triết lý của tôn giáo này.
Quá trình phát triển của Phật giáo ở Ấn Độ và sự truyền bá tôn giáo này ra bên ngoài.
a) Quá trình phát triển của Phật giáo ở Ấn Độ
- Đạo Phật ra đời Ấn Độ khoảng giữa thiên niên kỷ I TCN, vào thời điểm rất
hưngthịnh của đạo Bàlamôn chế độ đẳng cấp. Với giáo đề cao lòng từ bi của con
người với đồng loại, chống lại chế độ đẳng cấp, với tinh thần bác ái, đạo Phật nhanh chóng
chinh phục được đông đảo các tầng lớp nhân dân Ấn Độ từ vua chúa đến nhân dân lao
động.
- Từ thế kỷ V TCN đến thế kỷ V SCN quá trình truyền phát triển đạo Phật,
từ khiĐức Phật viên tịch cho đến khi đạo Phật không còn phổ biến ở Ấn Độ. Quá trình đó
trải qua 4 hội nghị kết tập.
- Thế kỉ III đến thế kỉ II TCN, Phật giáo trở thành quốc giáo của Ấn Độ, đặc biệt
pháttriển rực rỡ dưới triều vua Asoka.
- Đến Đại hội kết tập kinh điển lần thứ IV, tức là khoảng 100 năm sau CN, Phật giáo
bắtđầu sự phân chia thành hai phái Tiểu thừa Đại thừa với nhiều quan điểm khác
nhau về cảnh giới Niết Bàn, về sự “tự giác giác tha”, một số nghi thức,…
lOMoARcPSD| 58707906
- Đến khoảng thế kỉ VI, Phật giáo suy tàn biến mất Ấn Độ. nhiều nguyên
nhân lýgiải cho việc Phật giáo bị tiêu diệt chính mảnh đất tôn giáo này sinh ra
phát triển đến cực thịnh:
Sự đấu tranh về mặt ởng gay gắt giữa Phật giáo Hindu giáo đặc biệt xoay quanh
vấn đề chế độ đẳng cấp. Đạo Hindu đã sự thay đổi cả về giáo để giành chiến thắng
trong cuộc đấu tranh ấy. Họ tuyên truyền Đức Phật một kiếp hóa thân của vị thần Vishnu,
lôi kéo các tín đồ Phật giáo quay lại với đạo Hindu. Bên cạnh đó, đẳng cấp La Môn
cũng sự thỏa hiệp, nhượng bộ với giai cấp thống trị Sát Đế Lị để ngược đãi các tín đồ
Phật giáo, bôi nhọ, hạ nhục các giáo lý, tu viện Phật giáo.
Sự truyền mang tính bạo lực của Hồi giáo đã phá hủy nhiều chùa chiền, tu viện, thánh
tích của Phật giáo.
Đến thế kỉ thứ VI, Phật giáo ở Ấn Độ đã bắt đầu có sự chia rẽ, hình thành nhiều tông phái
mới, tưởng của Phật giáo nguyên thủy ít nhiều bị biến đổi, phức tạp, trộn lẫn với
tưởng của một số tôn giáo khác. Một số ý kiến cũng cho rằng, sự suy tàn của đạo Phật cũng
bắt nguồn từ sự suy đồi của một bộ phận tu Phật giáo, xa lìa những giới luật của đức
Phật.
b) Sự truyền bá của Phật giáo ra bên ngoài
- Từ nửa sau thế kỷ III TCN, tức sau Đại hội lần thứ III, đạo Phật được truyền đến
SriLanka sau đó truyền bá vào Miến Điện, Thái Lan, Indonesia,…
- Cũng sau Đại hội kết tập kinh điển lần thứ IV, quá trình truyền Phật giáo qua nướcngoài
ngày càng phát triển. Đạo Phật được truyền mạnh mẽ sang Trung Á, Trung Quốc,
Đông Nam Á…
=> Phật giáo sự truyền bá và ảnh hưởng mạnh mẽ ra bên ngoài Ấn Độ. Hiện nay, Phật
giáo một trong những tôn giáo lớn nhất trên thế giới với số lượng tín đồ đông đảo. Nhiều
quốc gia đã chọn Phật giáo làm quốc giáo nThái Lan, Myanmar, Sri Lanka,… Ngày
Tam hợp của đức Phật đã được Liên hợp quốc công nhận ngày lễ tôn giáo mang nh
quốc tế.
Từ nội dung cơ bản của giáo lý Phật giáo. Hãy nêu suy nghĩ về: Mặc Phật giáo chưa
hoàn toàn khoa học nhưng trên nhiều phương diện, Phật giáo đã tính khoa học
mạnh mẽ.
Nhận xét quan điểm về Phật giáo Chưa
khoa học:
- Những quan niệm trong giáo lý Phật giáo chưa được xác thực tính đúng đắn hoàn toànbởi
mới được kiểm chứng bằng sự quan sát suy ngẫm thay các phương pháp thực
nghiệm khoa học. dụ: Tập đế cho rằng nguyên nhân của nỗi khổ là luân hồi, nguyên
nhân của luân hồi lại là nghiệp. Đây chỉ là một niềm tin mà đạo Phật tự đặt ra mà không
có minh chứng nào giải thích được có thật là có việc luân hồi hay không
lOMoARcPSD| 58707906
- Phật giáo chủ trương loại bỏ mọi ham muốn để thoát khỏi nỗi khổ, nhưng loại bỏ mọiham
muốn thì thế giới không thể tiếp tục vận động và phát triển.
Tính khoa học chặt chẽ:
- Theo thuyết tạo giả trong Phật giáo cho rằng thế gian này không do Đấng Sáng Tạohay
bất ai tạo ra cả. Đây điểm khác biệt với nhiều tôn giáo khác, cũng quan điểm
phù hợp với giới khoa học.
- Phật giáo hướng đến việc giải quyết các vấn đề của con người thông qua các
chiêmnghiệm, chân lý (tương tự đối với khoa học thì nó là các định lý, định luật)
- Những chân trong đạo Phật không phải ngẫu nhiên hay tự đặt ra, được rút ra
bằngcách: quan sát thế giới bên ngoài một cách khách quan và chỉ đưa ra các chân lý sau
khi đã nghiên cứu và xác chứng tính thực tại của nó.
VD: Hệ thống tu tập tâm của Phật giáo
- Giáo lý Phật giáo là một hệ thống bài bản và logic, có sự lập luận chặt chẽ, rõ ràng:
+ Trong Tứ diệu đế có Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế lần lượt nếu ra bản chất của loài
người là nỗi khổ, nguyên nhân của nỗi khổ là tham sân si, vậy thì cách diệt nỗi khổ chính
diệt tận gốc tham sân si, cuối cùng nếu ra cách để diệt tham sân si thông qua Bát
chính đạo.
+ Từ nền tảng Thuyết duyên khởi (mọi vật đều do nhân duyên hòa hợp thành) mà suy
ra được 3 thuyết: tạo giả (thế giới tự nhiên có, không do ai tạo ra cả); ngã (con
người cũng do nhân duyên kết hợp thành, thế cũng chỉ tập hợp của ngũ uẩn);
thường (vạn vật luôn biến đổi không ngừng, không có gì là vĩnh cửu)
Ai cũng có thể học học thuyết của Phật và được cứu vớt, không phân biệt tầng lớp (giống
như khoa học dành cho tất cả mọi người, không phân biệt tôn giáo, giới tính, độ tuổi).
Thậm chí còn vượt qua khoa học ở một số điểm:
+ Phật giáo vượt trên khoa học hiện đại việc chấp nhận lĩnh vực kiến thức rộng lớn
hơn tinh thần khoa học. + Khoa học xu hướng hướng ngoại thường không xem xét
nhu cầu để hòa hợp với môi trường do đó thế giới xung quanh bị ô nhiễm, trong khi
Phật giáo có xu hướng hướng nội và hướng tới sự phát triển nội tại của con người.
+ Khoa học không thể giúp con người chế ngự tâm mình cũng không đưa đến sự kiểm
soát đạo đức hay hướng đến mục đích thực sự của cuộc sống, nhưng Phật giáo lại làm được
điều đó. Giới khoa học cũng nói rằng: Nếu có một tôn giáo nào đáp ứng được nhu cầu của
khoa học hiện đại, thì đó Phật giáo. Phật giáo không cần từ bỏ quan điểm của mình để
đi theo khoa học. Vì Phật giáo bao gồm cả khoa học, cũng như vượt qua cả khoa học.
Ngày nay Phật giáo giữ vai trò quan trọng trong việc giữ gìn hòa bình, giữ gìn nếp sống tốt
đẹp, nhân ái, thương yêu của nhân loại, tổng số tín đồ Phật Giáo trên thế giới ước tính
487.540.000 người chiếm 7,1% dân số thế giới. Tại Việt Nam ước tính có hơn 14 triệu tín
đồ Phật Giáo chiếm 16,4 % dân số….
lOMoARcPSD| 58707906
Liên hệ Việt Nam:
Còn đối với Việt Nam, gần hai ngàn năm mặt ở Việt Nam, đạo Phật đã trải qua nhiều
thăng trầm cùng với lịch sử dân tộc, song thời nào Phật giáo cũng lấy đức Từ bi để giáo
hoá chúng sinh, lấy trí tuệ làm sự nghiệp. Phật giáo Việt Nam đã xây dựng cho mình truyền
thống yêu nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc. Với bản chất từ bi, yêu tự do, yêu hoà
bình, tôn trọng sự sống, GHPGVN hôm nay với phương châm hoạt động “Đạo pháp - Dân
tộc - Chủ nghĩa hội” luôn tích cực trong các phong trào tương thân tương ái, giúp đỡ
cộng đồng, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, xây dựng
hội bình đẳng và văn minh, xứng đáng là một tôn giáo “Hộ quốc - An dân”./.
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN, TRUYỀN BÁ THIÊN CHÚA GIÁO
Bối cảnh ra đời
sở kinh tế - hội: Năm 63 Trước công nguyên , tại Palestin nơi người Do Thái sống
xảy ra một cuộc nội chiến. Một trong những bên tham chiến đã cầu viện La Mã . Pompei -
một trong ba nhân vật trong chế độ tam hùng lần thứ nhất trong lịch sử La đem quân
chinh phục vùng đất này, trực tiếp cai trị hoặc chỉ định hoàng tử Palestin cai trị theo chủ
trương, quyền lợi của người La Mã.
Nô lệ, dân nghèo, thợ thủ công đều phải gánh chịu cuộc sống cực khổ, bất công, bị áp bức,
cuộc sống không lối thoát.
thế, nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra chống lại sự thống trị, bóc lột của nhà nước - ch
nô La Mã đặc biệt là người Zealot, nhưng đều bị đàn áp hết sức dã man. Khối quần chúng
nhất lệ, dân nghèo nảy sinh tâm bi quan, chán nản, tuyệt vọng, mất niềm tin vào
tự do, hạnh phúc trong cuộc sống hiện thực. Họ tìm lối thoát trong ảo tưởng về tôn giáo,
trông chờ vào sự cứu giúp của một lực lượng siêu nhiên thể giúp họ thoát khỏi ách thống
trị, xây dựng một vương quốc công bằng, bình đẳng. Do vậy, Kitô giáo trở thành tôn giáo
của những người bị áp bức, như nô lệ, dân nghèo, thợ thủ công,...
Cơ sở tư tưởng, tôn giáo :
Hình thành dựa trên thần thoại của các tôn giáo cổ phương Đông. Vùng đất Palestin
vùng đất sinh sống chủ yếu của người Do Thái phải chịu nhiều bất hạnh trong lịch sử của
mình. Tổ tiên của họ là người Hebre, một tộc người sống du mục nay đây mai đó. Khoảng
giữa thế kỷ XIII Trước công nguyên, dưới sự dẫn dắt của Moises, người Do Thái đã từ Ai
Cập trở về Palestin lập nên quốc gia Do Thái vào khoảng cuối thiên niên kỷ II Trước
công nguyên. Cũng kề từ đó, người Do Thái đã tin và đi theo một tôn giáo nhất thần - thờ
vị thần duy nhất đó Chúa Giêhôva, với sự truyền giáo của Moises. Họ tin rằng dân tộc
Do thái n được Chúa trọn, Chúa chỉ nói chuyện với người Do Thái thông qua Sứ giả
của Người Moises. Năm 586, quốc gia Do thái bị Tân Babilon cai trị, nền độc lập của
quốc gia này đã không còn tồn tại trong một thời gian dài sau đó. Trong bối cảnh như vậy,
các nhà tiên tri Do Thái giáo đã dự đoán và tuyên truyền rằng sẽ một vịChúa Cứu Thế
sắp xuống trần gian để cứu vớt loài người, tiêu diệt kẻ xấu, giải thoát những đau khổ của
con người, giải cứu khỏi kiếp nô lệ trầm luân.
lOMoARcPSD| 58707906
Về tư tưởng triết học: Từ giữa thế kỷ I Trước công nguyên trở đi, nhà nước La Mã chuyển
dần từ hưng thịnh sang suy thoái. Giai cấp chủ nô muốn lợi dụng tôn giáo để duy trì trật tự
hội. Do vậy triết học La chuyển dần sang duy tâm luận, quay về với trường phái
triết học khắc kỷ - Stoicism đựoc hinh thành ở Hy Lạp khoảng cuối thế kỷ IV Trước công
nguyên. Tiêu biểu cho trường phái này ở La Mã là các tư tưởng của Seneque và Philo.
Seneque : Ông muốn thiết lập một hệ thống luân lý dựa trên nguyên tắc khiêm nhường và
nhẫn nhục. Ông cho rằng thể xác gánh nặng của linh hồn, sự trừng phạt đối với linh
hồn. Cuộc sống trần gian chỉ khúc dạo đầu cho thế giới bên kia của linh hồn - thế giới
con người sau khi chết. Cái thế giới n kia ấy, nô lệ - nghèo khó, giàu có - quý tộc đều có
thể đạt được như nhau, nếu con người biết nhẫn nhục, nhường nhịn, chịu đựng gian khổ,
lấy sự phục tùng làm đức tính tốt đẹp nhất của con người.
Philo: thế giới vật chất, trong đó có cả con người là can nguyên của tội lỗi, thể xác là ngục
thất của linh hồn. Giữa thể xác và linh hồn có một vực thẳm không thể đến với nhau được
và trung gian của vực thẳm đó làcái mà ông gọi là Thiên Đạo - Đấng Cứu Thế. Con người
muốn được giải thoát chi cần có niềm tin và một cuộc sống đạo đức.
Quá trình truyền bá và phát triển
Giai đoạn 1 (từ thế kỷ I đến thế kỷ IV Sau công nguyên): Đây là giai đoạn Kitô giáo bị đàn
áp rất khốc liệt, chỉ một bộ phận tín đồ Palestine tham gia. Sau cái chết của Chúa
Jesus, các tông đồ đã bắt đầu đem giáo của ngài truyền ra ngoài Palestine. Năm 62,
thánh Paulo sang Roma để truyền đạo thì thấy ở đây đã có nhiều tín đồ Kitô giáo.
Ban đầu giới cầm quyền La giữ thái đkhoan dung đối với Kigiáo. Nhưng Chúa
Jesus cho rằng đế quốc La Mã là một "mụ đàn bà đầy tội lỗi – tức lên án tầng lớp giàu có,
thống trị đế quốc La sẽ sớm bị diệt vong", tín đKitô giáo sẽ được sống trong vương
quốc của Chúa. Đây chính là những yếu tố mới phủ nhận sự tồn tại của chế độ và nhà nước
chiếm hữu nô lệ La Mã. Điều đó khiến giới cầm quyền và quý tộc cămghét Kito giáo, cho
rằng tín đồ Kitô là lũ phiến loạn và tiến hành đàn áp khốc liệt, đẫm máu nhất là vụ đàn áp
vào năm 64, dưới thời hoàng đế Nêrông. Cho càng đàn áp thì Kitô giáo vẫn càng phát
triển.
Nguyên nhân : Chế độ chiếm hữu lệ ng phát triển thì sự phân hgiai cấp trong
hội càng sâu sắc, sự bần cùng hoá, áp bức, đàn áp, bóc lột càng tăng lên. Kitô tôn giáo
duy nhất mà giới lao động và những người nghèo khổ có thể tìm thấy được con đường giải
phóng.
Về tổ chức, lúc đầu các tín đồ đạo Kitô tổ chức thành những công xã vừa mang tính chất
tôn giáo, vừa giúp đỡlẫn nhau trong cuộc sống. Họ giúp người lao động, người nghèo tìm
công ăn việc làm. Đến thế kỉ II, các côngxã Kitô dần phát triển thành Giáo hội. Cuộc vận
động Kito giáo trong buổi đầu mang một ý nghĩa xả hội rất tích cực: Đó là cuộc vận động
của dân nghèo chống chế độ áp bức.
Về sau, Giáo hội đề ra nguyên tắc “vương quốc thì trả cho vua, thiên quốc thì trả cho Chúa
trời” tức không dính dáng đến chính trị. Sau hơn 200 năm truyền bá, Kitô giáo đã tạo được
một thế lực hết sức chặt chẽ, chủ yếu tại các thành phố lớn . Trước sự phát triển này và đàn
lOMoARcPSD| 58707906
áp mãi không được, giới cầm quyền La Mã quyết định “sống chung” , thay đổi chính sách
đối với Kito giáo.
Giai đoạn 2 (trong thế kỷ IV sau Công nguyên): Năm 311, Hoàng đế Galerius đình chỉ việc
sát hại các tín đồ Kitô giáo. Năm 313, Hoàng đế Constantin xác định địa vị hợp pháp của
giáo hội Kitô, nâng Kitô giáo lên địa vị quốc giáo. Năm 325, Hoàng đế Constantin ra lệnh
triệu tập Đại hội Kitô giáo lần thứ nhất tại Nicée. Đại hội đã giải quyết được 2 vấn đề lớn:
Thống nhất lại cuối cùng nội dung của Kinh thánh : Chọn ra 4 phần tương đối trùng khớp,
ít mâu thuẫn, loại bỏ bớt yếu tố mê tín dị đoan, thống nhất rồi đưa vào Tân ước
Chấn chỉnh tổ chức giáo hội.Sau đại hội này, Kitô giáo trở thành một bộ phận trong bộ máy
của giai cấp thống trị La MãNăm 337, Constantin hoàng đế La đầu tiên theo Kitô
giáo. Các quan lại cũng đua nhau theo Đạo. Ngân quĩ quốc gia cũng được chi ra để đóng
góp cho Nhà thờ. Đạo Kitô được truyền rộng khắp ra các tầng lớp hội quanh Địa
Trung Hải. Đến giai đoạn này, tính chất tiến bộ ban đầu của Kito giáo không còn nữa, các
giáo dần dần trở thành các quan lại của nhà nước, giáo hội trở thành công c trong tay
giai cấp thống trị. Dobất đồng trong sự giải thích thuyết “tam vị nhất thể” và cả việc đụng
chạm nhau về khu vực truyền đạo nên đến năm 1054, giáo hội Kiở La đã bị chia làm
hai : giáo hội Thiên chúa (giáo hội ở phương Tây, giáo hội La Mã) và giáo hội Chính thống
( giáo hội ở phương Đông, giáo hội Hy Lạp).
Về ý nghĩa lịch sử, Kitô giáo ra đời là biểu hiện phong trào phản kháng của đông đảo quần
chúng bị áp búc sau đó lan rộng ra các tầng lớp khác trong xã hội. Trải qua bao thăng trầm
lịch sử, Kitô giáo từ chỗ là tôn giáo của những người nghèo, chống lại chính quyền cai trị,
đã trở thành chỗ dựa vững chắc về tinh thần, vật chất của chính quyền Rôma và là một bộ
phận của chính quyền thống trị La Mã. Kito giáo ra đời một sự kiện lịch sử rất lớn lao
vì sau này nó đã tác động mạnh mẽ đến đời sống chính trị, kinh tế, xã hội và tư tưởng của
người Châu Âu.
Liên hệ Việt Nam:
Quá trình hình thành phát triển đạo Ki nước ta đã trải qua nhiều thăng trầm, biến
cố. Từ một tôn giáo hoàn toàn xa lạ với Việt Nam, đến nay Kigiáo là một trong những
tôn giáo có số người tin theo lớn thứ hai (với hơn 7 triệu triệu tín đồ) trong các tôn giáo có
mặt tại Việt Nam. Đồng thời khi đạo Ki tô vào Việt Nam cũng đã mang theo nhiều yếu tố
văn hóa phương y du nhập vào, làm cho văn hóa Việt Nam trở nên phong phú hơn, phát
triển thêm nhiều loại nh văn hóa nghệ thuật mới, trong đó đặc biệt nhất phải kể đến sự ra
đời của chữ Quốc ngữ. Cho đến nay đạo Ki tô đã được một nền móng tương đối vững
chắc nhờ từng bước hội nhập vào trong văn hoá Việt Nam theo đánh giá của các nhà khoa
học về tôn giáo này./.
Kết luận:
Kitô giáo là một bộ phận quan trọng của văn hóa phương Tây. Trải qua hơn 20 thế kỷ, tuy
có những giai đoạn thăng trầm, những biến thiên theo thời gian và thời cuộc, có lúc tưởng
chừng như diệt vong, nhưng cuối ng thì Kitô giáo đã chiếm một vị trí khá vững vàng
trên thế giới. Trong giai đoạn hiện nay, mặc dù Kitô giáo có thể đang xuống dốc ở châu Âu
lOMoARcPSD| 58707906
và ổn định ở Mỹ, tôn giáo ấy vẫn là một trong những tôn giáo phát triển nhanh nhất ở mọi
nơi trên thế giới. Hầu hết sự phát triển này có vẻ không do sự truyền giáo từ những người
Kitô giáo phương Tây mà do một phong trào có tính cơ sở

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58707906
Cách tiếp cận Lịch sử văn minh thế giới
Khái niệm văn minh:
Khái niệm này dịch từ ngôn ngữ phương Tây “Civilasation” (bắt nguồn từ chữ
Civitas – đô thị), chỉ trình độ phát triển cao của văn hóa.
“Văn minh là trạng thái tiến bộ cả về vật chất và tinh thần của xã hội loài người, tức
là trạng thái phát triển cao của nền văn hóa. Trái với văn minh là dã man” Ví dụ: Văn minh
Phương Đông, Văn minh Hy Lạp ...
Đặc trưng của văn minh:
Trạng thái phát triển cao của nền văn hóa, hay một “lát cắt” của lịch sử. Buổi đầu của thời
đại văn minh, tiêu chí chủ yếu là sự xuất hiện của nhà nước – tổ chức quản lý xã hội và
chữ viết – thành tựu tiêu biểu.
Thường nghiêng về yếu tố vật chất – kỹ thuật để xác định trình độ của một nền văn minh.
Ví dụ: văn minh nông nghiệp – dựa trên lao động chân tay của con người là chủ yếu, văn
minh công nghiệp – sức mạnh của máy móc
So sánh văn minh với văn hóa
Khái niệm: Văn hóa là tất cả những giá trị về vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra trong quá trình lịch sử để góp phần vào sự ổn định, tô điểm, làm đẹp cho cuộc
sống của con người và xã hội. Đặc trưng của văn hóa
Dùng để phân biệt con người với động vật, là đặc trưng riêng của xã hội loài người Không
được kế thừa về mặt sinh học (di truyền) mà phải học tập, giao lưu.
Là cách ứng xử đã được mẫu thức hoá. Tiêu chí so sánh Văn hóa Văn minh Nguồn gốc
Gắn bó nhiều với nông nghiệp trồng
Gắn bó nhiều với đô thị trọt Tính giá trị
Chứa cả giá trị vật chất và tinh thần
Thiên về giá trị vật chất – kĩ thuật Tính lịch sử Có bề dày lịch sử
Chỉ trình độ phát triển
Phạm vi, quy mô Có tính dân tộc, khu vực Có tính quốc tế
Thế nào là một nền văn minh?
Nền văn minh có thể hiểu như là văn hoá của một xã hội phức tạp, thể hiện phẩm
chất tiên tiến từ một xã hội thống nhất. Các nền văn minh có nền tảng văn hoá đa dạng,
bao gồm văn học, hội hoạ, kiến trúc, tôn giáo, tín ngưỡng,... được kết hợp hài hoà. Nền văn
minh có bản năng mở rộng ra khu vực khai sinh ban đầu, vươn xa và ảnh hưởng đến những vùng đất xa xôi khác.
Một nền văn minh hình thành trong một không gian địa lý nhất định, có một thời gian tồn
tại nhất định và có chủ nhân riêng. lOMoAR cPSD| 58707906
Một nền văn minh gồm 3 yếu tố:
Chức năng sản xuất ra của cải vật chất: minh thế giới: Thể hiện trình độ kiểm soát, chiếm
lĩnh của con người với thế giới tự nhiên, thông qua các hoạt động sản xuất ra của của vật
chất, các sinh hoạt kinh tế trong mỗi nền văn minh.
Chức năng điều chỉnh, tổ chức và phát triển xã hội: Thể hiện trình độ tổ chức và quản lí xã
hội thông qua bộ máy nhà nước, hệ thống pháp luật, các thể chế xã hội (giai cấp, tư tưởng,
tập quán xã hội, cộng đồng,...)
Chức năng tạo ra các sản phẩm tinh thần: Trình độ chiếm lĩnh thế giới tư duy và sáng tạo
văn hoá: Bao gồm tổng thể tri thức về thế giới khách quan được sáng tạo, khám phá (nghệ
thuật, tư tưởng, tôn giáo, khoa học,...)
Những cơ sở hình thành nền văn minh
Điều kiện tự nhiên (Vị trí địa lý – khí hậu): Xem điều kiện tự nhiên đã tạo những
thuận lợi gì cho nền văn minh đó ra đời và phát triển, tác động như thế nào đến bản chất,
thành tựu của các nền văn minh…
Thuận lợi: thời tiết ổn định, nguồn lao động dồi dào, giàu tài nguyên khoáng sản, ...
Khó khăn: thời tiết bất thường ( bão, lũ lụt, hán hạn, ...), chiến tranh, ...
Cư dân: xem cư dân, dân tộc nào là người sáng lập và là chủ nhân của nền văn minh
đó, quá trình chuyển tiếp, tiếp biến với văn minh của các dân tộc khác như thế nào …
Thời gian tồn tại: làm rõ quá trình hình thành, phát triển, suy vong, phục hưng của
các nền văn minh trong một tiến trình lịch sử cụ thể ...
Trình độ tổ chức sản xuất (kinh tế): trình độ sử dụng tư liệu sản xuất và tổ chức các
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, cách phân chia kết
quả lao động giữa các thành phần dân cư,…
Trình độ tổ chức - quản lý xã hội, tạo ra các sản phẩm tinh thần: xem kết cấu hạ tầng
xã hội như thế nào, mối quan hệ, mâu thuẫn giữa các giai tầng xã hội, cách tổ chức kiến
trúc thượng tầng xã hội… Thành tựu chính của văn minh
Chữ viết: quá trình hình thành, phát triển, cải tạo, ứng dụng… chữ viết, sự tác động
của chữ viết đến văn minh,.. Ví dụ: chữ tượng hình (Ai Cập), chữ Lệ (Trung Hoa) ..
Văn học: những sang tác văn học thể hiện niềm tin, ý chí, tình cảm của bộ phận dân
cư sang tại ra nền văn minh.
Sử học: quá trình hình thành nền sử học cùng những nhận xét, nhận định về các sự
kiện trong tiến trình lịch sử.
Nghệ thuật: tổng thể các mặt như hội họa, âm nhạc, điêu khắc,kiến trúc,…
Khoa học tự nhiên: các phát minh về toán học, vật lý, hóa học, sinh học,..xuất phát từ nhu cầu cuộc sống. lOMoAR cPSD| 58707906
Triết học: hệ thống tư tưởng quan điểm của bộ phận dân cư đó về cuộc sống, con người, xã hội…
Tôn giáo: các niềm tin và tín ngưỡng 8. Luật pháp: hệ thống quy tắc tổ chức, quản lý xã hội.
Luật pháp: hệ thống các quy tắc tổ chức, quản lý xã hội
Vai trò của Lịch sử văn minh thế giới đối với sự phát triển của nhân loại
Động lực thúc đẩy sự phát triển của nhân loại, giúp nhân loại đạt đến những thành
tựu phát triển đỉnh cao, góp phần ngày càng hoàn thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người,...
Cơ sở hình thành văn minh phương Đông - phương Tây của nhân loại Phương Đông Phương Tây Điều kiện tự nhiên
Lưu vực các con sông lớn: sông Biển, đảo, bán đảo rìa Địa Ấn, sông Hằng, sông Nin Trung Hải Thời gian hình thành
Ra đời sớm nhưng kết thúc Ra đời muộn hơn (thiên
muộn (từ thiên niên kỉ IV TCN) niên kỉ II TCN) Điều kiện kinh tế
Nông nghiệp → Thủ công Thủ công nghiệp → nghiệp → Thương mại Thương mại → Nông nghiệp Điều kiện chính trị
Nhà nước quân chủ chuyên chế Quân chủ → Thành tập quyền
bang/thị quốc → Dân chủ
→ Cộng hòa → Đế chế
Kết cấu giai cấp tầng Thống trị (vua, quý tộc, quan Thống trị và bị trị lớp XH
lại ...) và bị trị (nô lệ)
Các thành tựu khoa học tự nhiên của Ai Cập
Cơ sở hình thành

Nền văn minh Ai Cập cổ đại nằm ở Đông Bắc châu Phi, dọc theo vùng hạ lưu của lưu vực
sông Nile. Sông Nile dài hơn 6000 km, có 7 nhánh đổ ra Địa Trung Hải, là một trong những
con sông dài nhất thế giới. Hạ lưu sông có hình dáng tam giác, dài 700 km với hai bên lưu
vực sông đất đai phì nhiêu, màu mỡ nhờ lượng phù sa lớn bồi đắp, thuận lợi cho các loại
cây trồng phát triển. Ai Cập có nhiều tài nguyên khoáng sản như đồng, vàng, bạc và rất
nhiều mỏ đá vôi. Đó là nguyên liệu để làm công cụ sản xuất và vật liệu xây dựng. Quan
sát bầu trời ở sa mạc nên có điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu thiên văn như ít mây,
trong trẻo, có những điểm cao phù hợp. Điều kiện xã hội như: chế độ thuế khóa, chính sách
thu thuế…, nhân tố tín ngưỡng tôn giáo, nhân tố con người (tang lữ, thầy tế…)
Các thành tựu chính Toán học lOMoAR cPSD| 58707906
Do yêu cầu phải đo đạc lại ruộng đất bị nước sông Nile làm ngập và do cần phải tính toán
vật liệu trong các công trình xây dựng nên từ sớm, người Ai Cập đã có khá nhiều hiểu biết
đáng chú ý về toán học.
Về phép đếm: Người Ai Cập cổ đại ngay từ đầu đã biết dùng phép đếm lấy 10 làm cơ sở
(thập tiến vị). Dùng chữ tượng hình để biểu thị các chữ số nhưng vì không có cơ số 0 nên
cách viết chữ số của họ tương đối phức tạp.
Ví dụ: đơn vị: hình nhiều cái que, chục:
hình một đoạn dây thừng, trăm: hình
một vòng đoạn dây thừng, ngàn: hình cây sậy,....
Về các phép tính cơ bản, người Ai Cập chỉ mới biết phép cộng và phép trừ. Vì chưa biết
nhân và chia nên phải dùng phương pháp cộng và trừ liên tiếp.
Đến thời Trung vương quốc, mầm mống của đại số học đã xuất hiện. Ẩn số x được gọi là
“aha” nghĩa là “một đống”, ví dụ một số ngũ cốc chưa biết được số lượng thì gọi là “một
đống ngũ cốc”. Người Ai Cập đã biết được cấp số cộng và giải được phương trình bậc nhất.
Về hình học, họ đã biết cách tính diện tích hình tam giác, tứ giác, hình cầu; biết được số pi
là 3,16; biết tính thể tích hình tháp đáy vuông. Khi giải những bài tóan hình học không
gian phục vụ cho việc xây dựng Kim Tự Tháp, họ đã biết vận dụng mầm mống của lượng giác học. Thiên văn học
Để nắm vững được thời tiết và khai thác nguồn thuỷ lợi của sông Nile phục vụ cho canh
tác nông nghiệp, ở Ai Cập đã sớm ra đời Thiên văn học và lịch pháp.
Từ rất sớm, họ đã dùng những dụng cụ thô sơ như sợi dây dọi, mảnh ván có khe hở, ngồi
trên nóc đền miếu để quan sát bầu trời. Họ vẽ hình thiên thể lên trần các đền miếu, biết
được 12 cung hoàng đạo, biết được các hành tinh như thủy, kim, hỏa, thổ và mộc.
Để đo thời gian, từ thời cổ vương quốc người Ai Cập đã phát minh ra các nhật khuê (đồng
hồ mặt trời). Tuy nhiên, dụng cụ này chỉ xem được thời gian ban ngày và chỉ khi có nắng.
Đến thời Vương triều XVII, người Ai Cập phát minh ra đồng hồ nước. Loại đồng hồ này
đã khắc phục được nhược điểm của loại nhật khuê nói trên.
Thành tựu quan trọng nhất trong lĩnh vực thiên văn của người Ai Cập cổ đại là việc làm ra
lịch. Lịch Ai Cập được đặt ra dựa trên kết quả quan sát tinh tú và quy luật dâng nước của
sông Nile. Họ nhận thấy rằng buổi sáng sớm khi sao Lang (Sirius) bắt đầu mọc cũng là lúc
nước sông Nile bắt đầu dâng. Khoảng cách giữa hai lần mọc sao Lang là 365 ngày. Họ lấy
khoảng thời gian ấy làm một năm. Một năm được chia làm 12 tháng, mỗi tháng 30 ngày, 5
ngày còn thừa để vào cuối năm ăn tết. Năm mới của người Ai Cập bắt đầu từ ngày nước
sông Nile bắt đầu dâng (khoảng tháng 7 dương lịch). Một năm được chia làm ba mùa (mùa
nước dâng, mùa ngũ cốc, mùa Thu hoạch), mỗi mùa 4 tháng. lOMoAR cPSD| 58707906
Như vậy, lịch của người Ai Cập cổ đại là một loại lịch được phát minh rất sớm (vào khoảng
thiên kỷ thứ IV TCN), tương đối chính xác và thuận tiện. Tuy nhiên, lịch Ai Cập cổ đại so
với lịch mặt trời còn thiếu mất 1⁄4 ngày, nhưng lúc bấy giờ, họ chưa biết đặt ra năm nhuận. Y học
Do tục ướp xác thịnh hành, từ rất sớm, người Ai Cập đã hiểu biết tương đối về cấu tạo của
cơ thể người, tạo điều kiện cho y học có thể phát triển sớm khá nổi tiếng với các nước láng giềng.
Nhiều thành tựu của nền y học Ai Cập cổ đại được ghi trên giấy papyrus và truyền đạt lại
đến ngày nay. Các tài liệu ấy đề cập đến các vấn đề như nguyên nhân của bệnh tật, mô tả
về óc, quan hệ giữa tim và mạch máu, các loại bệnh, cách khám bệnh, khả năng chữa trị...
Về nguyên nhân chủ yếu của bệnh tật, người Ai Cập lúc bấy giờ đã nhận thức được rằng
đó không phải do ma quỷ hoặc do các mụ phù thủy gây nên mà là do sự không bình thường
của mạch máu. Tuy người Ai Cập chưa biết nhiều về sự tuần hoàn của máu nhưng họ cũng
đã nhận biết sự liên quan giữa tim và mạch máu. Nhận thức được óc và tim là 2 bộ phận
quan trọng của cơ thể con người.
Các tài liệu để lại còn mô tả nhiều loại bệnh như bệnh đường ruột và dạ dày, bệnh đường
hô hấp, bệnh ngoài da... Các tài liệu cũng ghi lại nhiều bài thuốc và phương pháp chữa trị.
Ví dụ, để chữa bệnh đường ruột, người ta dùng phương pháp rửa ruột hay cho nôn mửa.
Các thầy thuốc Ai Cập còn biết dùng phẫu thuật để chữa một số bệnh.
Việc chữa bệnh đã được chuyên môn hóa khá tỉ mỉ. Hêrôđốt cho biết rằng khi ông đến Ai
Cập du lịch thì thấy rằng: “Ở chỗ họ, y học chia thành nhiều chuyên môn, mỗi thầy thuốc
chữa trị một loại bệnh chứ không phải chữa rất nhiều bệnh. Khắp nơi đều có rất nhiều thầy thuốc...”.
Có thể nói người Ai Cập xứng đáng là những cư dân đầu tiên trên thế giới có ý thức chăm
sóc răng miệng. Do sống ở sa mạc nên thành phần thức ăn hằng ngày của họ chứa tương
đối nhiều cát. Loại cát này có tính mài mòn cao, khiến tuổi thọ men răng người Ai Cập rất
thấp, họ thường xuyên gặp những vấn đề răng miệng, thậm chí nguy hiểm đến mức tử
vong. Vì vậy, để bảo vệ răng miệng, người Ai Cập đã sáng chế ra hỗn hợp kem đánh răng
đầu tiên trên thế giới gồm bột móng bò, tro, vỏ trứng bị đốt cháy và đá bọt. Không chỉ phát
minh ra kem đánh răng, họ còn tạo ra kẹo làm thơm miệng mà ngày nay phần lớn chúng ta đều sử dụng.
Ngoài ra, các lĩnh vực khác như vật lý học, hóa học... cũng có những hiểu biết đáng kể.
Không thể tưởng tượng được rằng trong việc thiết kế và xây dựng các Kim Tự Tháp mà
cho đến nay vẫn rất vững bền lại thiếu những kiến thức về vật lý học nhất là về lực học.
* Không đủ thời gian Toán học
Xuất phát từ nhu cầu đo lại ruộng đất do nước sông Nin dâng xóa rang giới và tính toán
vật liệu khi xây dựng nên người Ai Cập có nhiều hiểu biết đáng chú ý về toán học. lOMoAR cPSD| 58707906
Họ dùng phép đếm thập vị tiến (lấy 10 làm cơ sở), biết dùng phép cộng trừ những chưa
biết nhân chia. Họ biết một số kiến thức đại số sơ giản
Về hình học, người Ai Cập tính được số Pi=3,16, chưa hẳn chính xác với số thực
3,141529…), tính được diện tích tam giác, hình cầu, thể tích hình tháp đáy vuông… Thiên văn học
Người Ai Cập đã vẽ được 12 cung hoàng đạo và biết được một số hành tinh như sao Thủy,
sao Kim, sao Hỏa, sao Mộc, sao Thổ.
Họ chế tạo được đồng hồ mặt trời và đồng hồ nước để đo thời gian song có nhiều nhược
điểm (đồng hồ mặt trời chỉ dùng được vào ban ngày và khi có nắng. Đồng hồ nước thì
không được chính xác lắm vì nước bay hơi)
Đặt ra lịch dựa vào kết quả quan sát bầu trời và quy luật dâng, hạ nước của sông Nin. Họ
đặt ra lịch có 365 ngày, mỗi tháng có 3 ngày và 5 ngày còn thừa để vào cuối năm. Năm
mới bắt đầu khi nước sông Nin dâng (tháng 7 dương lịch) và chia ra làm 3 mùa, mỗi mùa
4 tháng : mùa Nước dâng, mùa Ngũ cốc và mùa Thu hoạch. Lịch này tương đối chính xác
(thiếu ¼ ngày) song họ chưa biết đặt năm nhuận. Y học
Người Ai Cập giỏi cả nội khoa và ngoại khoa do họ có tục ướp xác. Khi ướp xác cần phải
mổ lấy nội tạng và óc. Do vậy họ biết rõ về cấu tạo cơ thể và một số chức năng của các cơ quan.
Họ cho rằng nguyên nhân bệnh tật là do sự không bình thường của mạch máu chứ không
phải do ma quỷ, biết được mối quan hệ giữ tim và máu…
Một số tài liệu cũng cho thấy họ đã mô tả được vài loại bệnh như đường ruột và dạ dày,
bệnh đường hô hấp, ngoài da… và phương pháp chữa trị.
Nhìn chung những hiểu biết của người Ai Cập khá đơn giản và dựa nhiều vào kinh nghiệm
song những hiểu biết đó chứng tỏ họ đã đạt được những thành tựu quan trọng của buổi đầu thời đại văn minh.
Ảnh hưởng/tác động của nó đến nhân loại hệ số thập
phân, phép tính cộng trừ, tính diện tích
Có thể nói rằng văn minh Ai Cập là một trong những nền văn minh phát triển rực
rỡ nhất của thế giới cổ đại. Bên cạnh thành tựu về khoa học tự nhiên, người dân Ai Cập
còn có những thành tựu vô cùng to lớn trên các lĩnh vực khác của đời sống như: chữ viết,
văn hoá, tôn giáo, kiến trúc, điêu khắc... mà ngày nay nhân loại không thể phủ nhận được.
Cho đến nay, những thành tựu ấy vẫn làm cho chúng ta thán phục và ngạc nhiên trước sức
sáng tạo kì diệu của Ai Cập thời cổ đại. lOMoAR cPSD| 58707906
Tóm lại, nền văn minh Ai Cập cổ đại đã để lại cho nhân loại nhiều thành tựu khoa
học tự nhiên tuyệt vời và đã có nhiều đóng góp trực tiếp đối với sự phát triển của nhiều
lĩnh vực trong nền văn hóa thế giới như số pi, cách tính diện tích tam giác tứ giác ....
Thành tựu khoa học tự nhiên của Hy Lạp cổ đại
Cơ sở/điều kiện hình thành

Nền kinh tế phát triển cao, đời sống vật chất của giai cấp thống trị Hy Lạp được nâng cao,
do đó thúc đẩy nhu cầu nâng cao không chỉ đối với đời sống vật chất mà còn cả về đời
sống tinh thần. Tư duy khoa học của ngườiHy Lạp cổ đại đã vươn tới trình độ khái quát
hóa cao, hình thành những tiền đề, định lý, nguyên lý có giá trị. Đây là nơi sản sinh ra
những con người khổng lồ, kiến thức uyên bác với nhiều thành tựu lớn lao đóng góp cho
kho tàng khoa học tự nhiên của lịch sử nhân loại.
Các thành tựu chính Thiên văn và địa lý - Thales.
+ Ông được mệnh danh là “nhà toán học, nhà thiên văn học đầu tiên”, là người đã khai sinh
ra nền thiên văn học Hy Lạp cổ đại và là người hình thành trường phái khoa học Mile.
+ Ông đã học tập và kế thừa những thành tựu thiên văn học của Lưỡng Hà.
+ Là người dự báo chính xác về hiện tượng Nhật thực và Nguyệt thực. Năm 585 TCN, ông
tuyên bố với mọi người rằng ngày 28-5-558 sẽ có nhật thực. Quả nhiên như vậy.
+ Tuy nhiên ông đã nhận thức sai về Trái Đất vì ông cho rằng Trái Đất nổi trên nước, vòm
trời hình bán cầu úp trên mặt đất. - Pithagore.
+ Ông cho rằng mọi sự vật hiện tượng trong vũ trụ đều có quy luật của nó. Ông tiến bộ hơn
Thales vì ông đã nhận thức được Trái đất hình cầu và chuyển động theo 1 quỹ đạo nhất định.
+ Là người đầu tiên dùng danh từ Cosmos để chỉ vũ trụ. - Aristarque.
+ Ông là người đầu tiên nêu ra thuyết hệ thống mặt trời. Ông đã tính toán khá chính xác
khối lượng của Mặt trời, Mặt trăng, Trái đất và khoảng cách giữa các thiên thể.
+ Ông khẳng định “Không phải mặt trời xoay quanh Trái đất mà chính Trái đất xoay quanh
Mặt trời và mỗi ngày tự quay quanh nó một vòng”. - Ératosthène.
+ Ông là người đầu tiên tính được độ nghiêng của trục quay Trái đất là 23’27.
+ Ông cũng là người đầu tiên tính toán khá chính xác chu vi của Trái đất bằng cách đo độ
dài của đường xích đạo là 39.700 km, gần bằng con số ngày nay tính được. lOMoAR cPSD| 58707906
- Hecataus: Sống cùng thời với Thales, là người đầu tiên vẽ được bản đồ thế giới, đây làbản
đồ địa lý sớm nhất trong lịch sử địa lý học phương Tây. Toán học - Thales:
+ Là người đầu tiên phát biểu định lý tỷ lệ thức (định lý Thales). Ông chứng minh được 2
góc đáy của tam giác cân bằng nhau, xác định tam giác bởi 1 cạnh và 2 góc kề bù hoặc tính
khoảng cách của 1 vật mà không đến gần được.
+ Ông là người đầu tiên tính được chiều cao của Kim tự tháp. - Pithagore.
+ Ông nêu các định lý được chứng minh bằng suy luận logic chứ không phải bằng trực giác.
+ Ông có đóng góp về bảng tính nhân, thập phân và công thức nổi tiếng về tam giác vuông.
Ông còn phân biệt các loại số chẵn, số lẻ và số không chia hết. - Euclide: Với tác phẩm nổi
tiếng nhất là bộ “Cơ bản” gồm 13 cuốn được giữ lại đến ngày nay. Hệ thống định đề của
ông làm nền tảng xây dựng môn hình học phẳng hay còn gọi là hình học Euclide. - Archimede.
+ Toán học: tính được số pi bằng 1 trị số chính xác và sớm nhất trong lịch sử phương Tây.
Ông đưa ra phương pháp tính diện tích hình nón, hình cầu, tìm được mối liên hệ giữa diện
tích toàn phần và thể tích hình cầu nội tiếp trong hình trụ.
+ Vật lý: ông là người đặt nền móng cho ngành cơ học và ứng dụng nó vào việc giải phóng
sức lao động của con người như: đòn bẩy, ròng rọc, chân vịt (dùng để hút nước); phát minh
ra nguyên lý đòn bẩy và nguyên lý về thủy lực, định luật về vật nổi; phát minh ra ròng rọc,
đòn bẩy, máy bơm nước, máy bắn đá, bánh xe răng cưa, đường xoáy trôn ốc, nguyên lý hội
tụ ánh sáng của gương cầu lồi,... Y học - Hippocrate.
+ Là người đầu tiên đặt cơ sở ban đầu cho sự phát triển của y học phương Tây và được tôn
vinh là ông tổ của ngành y học phương Tây.
+ Ông đã phát biểu những luận điểm quan trọng như: nguyên nhân của bệnh tật xuất phát
từ giới tự nhiên, khi đau thì người ta phải uống thuốc và hết sức lưu ý đến vấn đề vệ sinh
ăn uống, khi cần thiết thì phải dùng đến thuật mổ xẻ để trị bệnh.
+ Ông là người đầu tiên ở Châu Âu phát biểu về vấn đề y đức “Nghề thầy thuốc là một
nghề hết sức quan trọng, hết sức đặc biệt vì nó liên quan đến sức khỏe và tính mạng con
người. Do đó, không được dùng nghề nghiệp chuyên môn của mình để trục lợi”. - Heraclide.
+ Ông là người đầu tiên nêu lên vấn đề dùng thuốc mê trong phẫu thuật.
+ Ý tưởng này của ông mãi đến năm 1840 người ta mới dùng ete để gây mê và năm 1861
thì dùng morphine để giảm đau. lOMoAR cPSD| 58707906 - Hêrôphin
+ Là người đầu tiên nêu ra luận điểm não là trung tâm hệ thần kinh, chỉ huy các hoạt động của con người.
+ Ông cũng là người đầu tiên đưa ra học thuyết về sự tuần hoàn của máu và phương pháp
khám bệnh thông qua việc bắt mạch (nhanh, chậm) của bệnh nhân. Ảnh hưởng:
Người Hy Lạp đã khái quát ra những định lý, định đề của nhiều môn như toán, lý,.... =>
Những Định lý, định đề đó có ứng dụng hiệu quả trong cuộc sống. Đặt nền móng cho sự
ra đời của các khoa học sau này như định Lý Pi-ta-go,định lí Ta-lét, định luật Ác-si-mét...
và là nền tảng của khoa học hiện đại
Lịch pháp học: người Hi Lạp biết làm ra lịch dựa trên sự di chuyển của Trái Đất xung
quanh Mặt Trời (dương lịch) => Thế giới ngày nay vẫn đang sử dụng dương lịch để tính ngày tháng năm.
Y học: Thầy thuốc Hippocrates đã chữa bệnh bằng biện pháp uống thuốc hoặc phẫu thuật,
được mệnh danh là “Cha đẻ của y học Phương Tây” => Tạo tiền đề cho ngoại khoa và y học hiện đại.
Những đóng góp văn minh Hy-La cổ đại đã tiếp sức cho phong trào văn hóa Phục hưng,
văn minh phương Tây, đồng thời tạo một nền tảng khá vững chắc cho văn minh châu Âu
nói riêng và mang đến cho nền văn hóa thế giới nói chung những thành tựu bất hủ. Có thể
nói, nền văn minh Hy Lạp cổ đại đã sản sinh ra một đội ngũ các nhà bác học kiệt xuất,
cống hiến cho nhân loại những tài sản khoa học vô giá mà giá trị của nó vẫn trường tồn
trong xã hội hiện đại.
Phật giáo Bối
cảnh ra đời a) Xã hội
- Các vương quốc ở lưu vực sông Hằng luôn mâu thuẫn, cạnh tranh và thôn tính lẫn
nhaulàm tình hình chính trị bất ổn, tâm lý dân chúng bất an.
- Mâu thuẫn giữa đẳng cấp tăng lữ với quý tộc và sự phân hoá giai cấp mạnh mẽ. Sự tồntại
của chế độ đẳng cấp Varna khiến tình trạng bất bình đẳng trong xã hội. Sự cùng khổ của
các đẳng cấp dưới. Sự bất lực trong đấu tranh khi các cuộc đấu tranh trước đó đều thất bại.
=> Tìm con đường giải thoát bằng tôn giáo b) Kinh tế
- Công cụ bằng kim loại đã làm thay đổi bản chất của sản xuất.
- Nhiều ngành kinh tế đã ra đời và ngày càng mở rộng, làm xuất hiện tầng lớp mới, trongđó
có thương nhân. Thương nhân là tầng lớp có tiềm lực về kinh tế, nên muốn thay đổi địa lOMoAR cPSD| 58707906
vị trong hệ thống đẳng cấp. Tầng lớp này lúc đầu không được xếp vào đẳng cấp nào và
cuối cùng bị đẩy xuống đẳng cấp nô lệ, đẳng cấp thấp hèn nhất. c) Tôn giáo (tiền đề tư tưởng):
- Cuộc sống khổ cực càng làm cho nhân dân lao động thêm căm ghét những kẻ bóc lộtmình,
oán ghét chế độ đẳng cấp, không còn tin vào các vị thần Bàlamôn. Những nghi lễ phức
tạp, những nghĩa vụ phiền toái, giáo lý ngày càng khó hiểu làm cho người dân ngày càng xa rời tôn giáo này.
- Trong bối cảnh đó vào thế kỷ VI TCN ở Ấn Độ đã xuất hiện nhiều trường phái tôn
giáo,triết học mới chủ trương xa lánh thực tại, khổ hạnh, ép xác, tiêu cực, tự kỷ nhưng có
1 điểm chung là trực tiếp và gián tiếp chống lại đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp, Phật
giáo cũng là một trong những trào lưu đó
Nói chung, nguyên nhân khiến cho Phật giáo được chấp nhận ở AD là vì:
- Giai cấp cầm quyền cho rằng Phật giáo không làm tổn hại đến lợi ích của họ, đồng
thờicũng không hài lòng với địa vị ưu đãi của những người theo đạo Bàlamôn nên họ ủng hộ đạo Phật.
- Học thuyết Phật giáo có nhiều điểm phù hợp với nguyện vọng của nhân dân nên đượcquần chúng hoan nghênh.
Người sáng lập: Theo truyền thuyết, người sáng lập ra đạo Phật là Thái tử Tất Đạt Đa Cô
Ta Ma sau khi trải qua quá trình tu hành, giác ngộ chân lý và lẽ sống sinh tử, người bắt đầu
đi truyền bá, giảng dạy giáo lý và xưng pháp hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Các tín đồ phật
giáo lấy năm 544 TCN là năm thứ nhất theo Phật Lịch, họ cho đây là năm mà Đức Phật đã nhập niết bàn.
Nội dung cơ bản của giáo lý Phật giáo:
- Thế giới quan: mọi vật việc đều do nhân duyên hòa hợp lại mà thành. Tâm là nguồn
gốccủa vạn vật, mà tâm chỉ có ở con người nên con người là nguồn gốc của vạn vật, khác
với các tôn giáo khác: thần thánh tạo ra con người.
+ Chủ trương Vô tạo giả: vũ trụ, vạn vật, con người ko phải do vị thần linh nào sinh ra =>
Phủ định thuyết thần sinh ra vạn vật và con người của đạo Bà-la-môn và những tôn giáo lớn khác.
+ Thuyết Vô ngã và Vô thường: Vô ngã là không có những thực thể tồn tại một cách cố
định. Con người cũng chỉ là thụ thể tập hợp bởi Ngũ uẩn chứ không phải là một thụ thể tồn
tại lâu dài, điều này rất biện chứng và duy vật, phủ nhận sự tồn tại vĩnh viễn của linh hồn
cá thể, ko có linh hồn bất tử. Vô thường là mọi sự vật đều ở trong quá trình sinh ra, biến
đổi và tiêu diệt chứ không bao giờ ổn định - quan điểm đạo Phật về sự chuyển hóa của thế
giới vật lý, đây chính là tính khoa học tiêu biểu của Phật giáo.
=> Đạo Phật là một tôn giáo vô thần và vai trò của con người là ở vị trí trung tâm (Khác
với các tôn giáo khác lúc bấy giờ) lOMoAR cPSD| 58707906
- Nhân sinh quan: với tư tưởng trung tâm là lý giải về chân lý và tìm con đường giải
thoátkhỏi sự khổ đau. Một trong những giáo lý quan trọng nhất của đạo Phật là Tứ diệu
đế, bao gồm: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.
+ Khổ đế: Chỉ ra các nỗi khổ của con người; Sinh, lão, bệnh, tử, oán, cầu,… đều là khổ,
khổ là vô cùng, vô tận.
+ Tập đế: Nguyên nhân của sự khổ; con người khổ là do con người “vô minh”, “tham ái”,
Ham muốn - Nghiệp - Luân Hồi
+ Diệt đế: Cách thức để con người tự chấm dứt nỗi khổ -> chấm dứt mọi ham muốn (= tư tưởng giải thoát)
+ Đạo đế: Con đường diệt khổ, gồm Bát chính đạo + Ngũ giới + Lục độ + Thập thiện.
– Quan điểm xã hội: Phật giáo không quan tâm đến chế độ đẳng cấp vì cho rằng nguồn gốc
xuất thân của mỗi người không phải là điều kiện để được cứu vớt. Tất cả mọi người đều
bình đẳng một khi đã tu hành theo học thuyết của Phật. Đạo Phật mong muốn một xã hội
cai trị bởi vị vua có đạo đức, nhân dân được an cư lạc nghiệp (tính khoa học). -
Giới luật: đức Phật dạy tín đồ Phật tử hành trì Ngũ giới (5 giới luật của đạo Phật)
là: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. - Hệ
thống giáo lý: cực kỳ đồ sộ, nhưng tập trung chủ yếu trong Tam tạng Kinh điển:
+ Kinh: ghi lại lời giảng của đức Phật
+ Luật: giới luật của người tu hành do đức Phật đề ra và được phát triển thêm
+ Luận: do các tu sĩ Phật giáo luận bàn, phát triển các tư tưởng, triết lý của tôn giáo này.
Quá trình phát triển của Phật giáo ở Ấn Độ và sự truyền bá tôn giáo này ra bên ngoài.
a) Quá trình phát triển của Phật giáo ở Ấn Độ -
Đạo Phật ra đời ở Ấn Độ khoảng giữa thiên niên kỷ I TCN, vào thời điểm rất
hưngthịnh của đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp. Với giáo lý đề cao lòng từ bi của con
người với đồng loại, chống lại chế độ đẳng cấp, với tinh thần bác ái, đạo Phật nhanh chóng
chinh phục được đông đảo các tầng lớp nhân dân Ấn Độ từ vua chúa đến nhân dân lao động. -
Từ thế kỷ V TCN đến thế kỷ V SCN là quá trình truyền bá và phát triển đạo Phật,
từ khiĐức Phật viên tịch cho đến khi đạo Phật không còn phổ biến ở Ấn Độ. Quá trình đó
trải qua 4 hội nghị kết tập. -
Thế kỉ III đến thế kỉ II TCN, Phật giáo trở thành quốc giáo của Ấn Độ, đặc biệt
pháttriển rực rỡ dưới triều vua Asoka. -
Đến Đại hội kết tập kinh điển lần thứ IV, tức là khoảng 100 năm sau CN, Phật giáo
bắtđầu có sự phân chia thành hai phái Tiểu thừa và Đại thừa với nhiều quan điểm khác
nhau về cảnh giới Niết Bàn, về sự “tự giác giác tha”, một số nghi thức,… lOMoAR cPSD| 58707906 -
Đến khoảng thế kỉ VI, Phật giáo suy tàn và biến mất ở Ấn Độ. Có nhiều nguyên
nhân lýgiải cho việc Phật giáo bị tiêu diệt ở chính mảnh đất mà tôn giáo này sinh ra và
phát triển đến cực thịnh:
Sự đấu tranh về mặt tư tưởng gay gắt giữa Phật giáo và Hindu giáo đặc biệt xoay quanh
vấn đề chế độ đẳng cấp. Đạo Hindu đã có sự thay đổi cả về giáo lý để giành chiến thắng
trong cuộc đấu tranh ấy. Họ tuyên truyền Đức Phật là một kiếp hóa thân của vị thần Vishnu,
lôi kéo các tín đồ Phật giáo quay lại với đạo Hindu. Bên cạnh đó, đẳng cấp Bà La Môn
cũng có sự thỏa hiệp, nhượng bộ với giai cấp thống trị Sát Đế Lị để ngược đãi các tín đồ
Phật giáo, bôi nhọ, hạ nhục các giáo lý, tu viện Phật giáo.
Sự truyền bá mang tính bạo lực của Hồi giáo đã phá hủy nhiều chùa chiền, tu viện, thánh tích của Phật giáo.
Đến thế kỉ thứ VI, Phật giáo ở Ấn Độ đã bắt đầu có sự chia rẽ, hình thành nhiều tông phái
mới, tư tưởng của Phật giáo nguyên thủy ít nhiều bị biến đổi, phức tạp, trộn lẫn với tư
tưởng của một số tôn giáo khác. Một số ý kiến cũng cho rằng, sự suy tàn của đạo Phật cũng
bắt nguồn từ sự suy đồi của một bộ phận tu sĩ Phật giáo, xa lìa những giới luật của đức Phật.
b) Sự truyền bá của Phật giáo ra bên ngoài
- Từ nửa sau thế kỷ III TCN, tức là sau Đại hội lần thứ III, đạo Phật được truyền đến
SriLanka sau đó truyền bá vào Miến Điện, Thái Lan, Indonesia,…
- Cũng sau Đại hội kết tập kinh điển lần thứ IV, quá trình truyền bá Phật giáo qua nướcngoài
ngày càng phát triển. Đạo Phật được truyền bá mạnh mẽ sang Trung Á, Trung Quốc, Đông Nam Á…
=> Phật giáo có sự truyền bá và ảnh hưởng mạnh mẽ ra bên ngoài Ấn Độ. Hiện nay, Phật
giáo là một trong những tôn giáo lớn nhất trên thế giới với số lượng tín đồ đông đảo. Nhiều
quốc gia đã chọn Phật giáo làm quốc giáo như Thái Lan, Myanmar, Sri Lanka,… Ngày
Tam hợp của đức Phật đã được Liên hợp quốc công nhận là ngày lễ tôn giáo mang tính quốc tế.
Từ nội dung cơ bản của giáo lý Phật giáo. Hãy nêu suy nghĩ về: Mặc dù Phật giáo chưa
hoàn toàn khoa học nhưng trên nhiều phương diện, Phật giáo đã có tính khoa học mạnh mẽ.

Nhận xét quan điểm về Phật giáo Chưa khoa học:
- Những quan niệm trong giáo lý Phật giáo chưa được xác thực tính đúng đắn hoàn toànbởi
nó mới được kiểm chứng bằng sự quan sát và suy ngẫm thay vì các phương pháp thực
nghiệm khoa học. Ví dụ: Tập đế cho rằng nguyên nhân của nỗi khổ là luân hồi, mà nguyên
nhân của luân hồi lại là nghiệp. Đây chỉ là một niềm tin mà đạo Phật tự đặt ra mà không
có minh chứng nào giải thích được có thật là có việc luân hồi hay không lOMoAR cPSD| 58707906
- Phật giáo chủ trương loại bỏ mọi ham muốn để thoát khỏi nỗi khổ, nhưng loại bỏ mọiham
muốn thì thế giới không thể tiếp tục vận động và phát triển.
Tính khoa học chặt chẽ:
- Theo thuyết Vô tạo giả trong Phật giáo cho rằng thế gian này không do Đấng Sáng Tạohay
bất kì ai tạo ra cả. Đây là điểm khác biệt với nhiều tôn giáo khác, và cũng là quan điểm
phù hợp với giới khoa học.
- Phật giáo hướng đến việc giải quyết các vấn đề của con người thông qua các
chiêmnghiệm, chân lý (tương tự đối với khoa học thì nó là các định lý, định luật)
- Những chân lý trong đạo Phật không phải ngẫu nhiên hay tự đặt ra, mà được rút ra
bằngcách: quan sát thế giới bên ngoài một cách khách quan và chỉ đưa ra các chân lý sau
khi đã nghiên cứu và xác chứng tính thực tại của nó.
VD: Hệ thống tu tập tâm của Phật giáo
- Giáo lý Phật giáo là một hệ thống bài bản và logic, có sự lập luận chặt chẽ, rõ ràng:
+ Trong Tứ diệu đế có Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế lần lượt nếu ra bản chất của loài
người là nỗi khổ, nguyên nhân của nỗi khổ là tham sân si, vậy thì cách diệt nỗi khổ chính
là diệt tận gốc tham sân si, và cuối cùng là nếu ra cách để diệt tham sân si thông qua Bát chính đạo.
+ Từ nền tảng Thuyết duyên khởi (mọi vật đều do nhân duyên hòa hợp mà thành) mà suy
ra được 3 thuyết: vô tạo giả (thế giới tự nhiên mà có, không do ai tạo ra cả); vô ngã (con
người cũng do nhân duyên mà kết hợp thành, vì thế cũng chỉ là tập hợp của ngũ uẩn); vô
thường (vạn vật luôn biến đổi không ngừng, không có gì là vĩnh cửu) –
Ai cũng có thể học học thuyết của Phật và được cứu vớt, không phân biệt tầng lớp (giống
như khoa học là dành cho tất cả mọi người, không phân biệt tôn giáo, giới tính, độ tuổi).
Thậm chí còn vượt qua khoa học ở một số điểm:
+ Phật giáo vượt trên khoa học hiện đại ở việc nó chấp nhận lĩnh vực kiến thức rộng lớn
hơn tinh thần khoa học. + Khoa học có xu hướng hướng ngoại và thường không xem xét
nhu cầu để hòa hợp với môi trường và do đó thế giới xung quanh bị ô nhiễm, trong khi
Phật giáo có xu hướng hướng nội và hướng tới sự phát triển nội tại của con người.
+ Khoa học không thể giúp con người chế ngự tâm mình và cũng không đưa đến sự kiểm
soát đạo đức hay hướng đến mục đích thực sự của cuộc sống, nhưng Phật giáo lại làm được
điều đó. Giới khoa học cũng nói rằng: Nếu có một tôn giáo nào đáp ứng được nhu cầu của
khoa học hiện đại, thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần từ bỏ quan điểm của mình để
đi theo khoa học. Vì Phật giáo bao gồm cả khoa học, cũng như vượt qua cả khoa học.
Ngày nay Phật giáo giữ vai trò quan trọng trong việc giữ gìn hòa bình, giữ gìn nếp sống tốt
đẹp, nhân ái, thương yêu của nhân loại, tổng số tín đồ Phật Giáo trên thế giới ước tính
487.540.000 người chiếm 7,1% dân số thế giới. Tại Việt Nam ước tính có hơn 14 triệu tín
đồ Phật Giáo chiếm 16,4 % dân số…. lOMoAR cPSD| 58707906 Liên hệ Việt Nam:
Còn đối với Việt Nam, gần hai ngàn năm có mặt ở Việt Nam, đạo Phật đã trải qua nhiều
thăng trầm cùng với lịch sử dân tộc, song thời nào Phật giáo cũng lấy đức Từ bi để giáo
hoá chúng sinh, lấy trí tuệ làm sự nghiệp. Phật giáo Việt Nam đã xây dựng cho mình truyền
thống yêu nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc. Với bản chất từ bi, yêu tự do, yêu hoà
bình, tôn trọng sự sống, GHPGVN hôm nay với phương châm hoạt động “Đạo pháp - Dân
tộc - Chủ nghĩa xã hội” luôn tích cực trong các phong trào tương thân tương ái, giúp đỡ
cộng đồng, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, xây dựng xã
hội bình đẳng và văn minh, xứng đáng là một tôn giáo “Hộ quốc - An dân”./.
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN, TRUYỀN BÁ THIÊN CHÚA GIÁO Bối cảnh ra đời
Cơ sở kinh tế - xã hội: Năm 63 Trước công nguyên , tại Palestin nơi người Do Thái sống
xảy ra một cuộc nội chiến. Một trong những bên tham chiến đã cầu viện La Mã . Pompei -
một trong ba nhân vật trong chế độ tam hùng lần thứ nhất trong lịch sử La Mã đem quân
chinh phục vùng đất này, trực tiếp cai trị hoặc chỉ định hoàng tử Palestin cai trị theo chủ
trương, quyền lợi của người La Mã.
Nô lệ, dân nghèo, thợ thủ công đều phải gánh chịu cuộc sống cực khổ, bất công, bị áp bức,
cuộc sống không lối thoát.
Vì thế, nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra chống lại sự thống trị, bóc lột của nhà nước - chủ
nô La Mã đặc biệt là người Zealot, nhưng đều bị đàn áp hết sức dã man. Khối quần chúng
nhất là nô lệ, dân nghèo nảy sinh tâm lý bi quan, chán nản, tuyệt vọng, mất niềm tin vào
tự do, hạnh phúc trong cuộc sống hiện thực. Họ tìm lối thoát trong ảo tưởng về tôn giáo,
trông chờ vào sự cứu giúp của một lực lượng siêu nhiên có thể giúp họ thoát khỏi ách thống
trị, xây dựng một vương quốc công bằng, bình đẳng. Do vậy, Kitô giáo trở thành tôn giáo
của những người bị áp bức, như nô lệ, dân nghèo, thợ thủ công,...
Cơ sở tư tưởng, tôn giáo :
Hình thành dựa trên thần thoại của các tôn giáo cổ phương Đông. Vùng đất Palestin là
vùng đất sinh sống chủ yếu của người Do Thái phải chịu nhiều bất hạnh trong lịch sử của
mình. Tổ tiên của họ là người Hebre, một tộc người sống du mục nay đây mai đó. Khoảng
giữa thế kỷ XIII Trước công nguyên, dưới sự dẫn dắt của Moises, người Do Thái đã từ Ai
Cập trở về Palestin và lập nên quốc gia Do Thái vào khoảng cuối thiên niên kỷ II Trước
công nguyên. Cũng kề từ đó, người Do Thái đã tin và đi theo một tôn giáo nhất thần - thờ
vị thần duy nhất đó là Chúa Giêhôva, với sự truyền giáo của Moises. Họ tin rằng dân tộc
Do thái là dân được Chúa trọn, Chúa chỉ nói chuyện với người Do Thái thông qua Sứ giả
của Người là Moises. Năm 586, quốc gia Do thái bị Tân Babilon cai trị, nền độc lập của
quốc gia này đã không còn tồn tại trong một thời gian dài sau đó. Trong bối cảnh như vậy,
các nhà tiên tri Do Thái giáo đã dự đoán và tuyên truyền rằng sẽ có một vịChúa Cứu Thế
sắp xuống trần gian để cứu vớt loài người, tiêu diệt kẻ xấu, giải thoát những đau khổ của
con người, giải cứu khỏi kiếp nô lệ trầm luân. lOMoAR cPSD| 58707906
Về tư tưởng triết học: Từ giữa thế kỷ I Trước công nguyên trở đi, nhà nước La Mã chuyển
dần từ hưng thịnh sang suy thoái. Giai cấp chủ nô muốn lợi dụng tôn giáo để duy trì trật tự
xã hội. Do vậy triết học La Mã chuyển dần sang duy tâm luận, quay về với trường phái
triết học khắc kỷ - Stoicism đựoc hinh thành ở Hy Lạp khoảng cuối thế kỷ IV Trước công
nguyên. Tiêu biểu cho trường phái này ở La Mã là các tư tưởng của Seneque và Philo.
Seneque : Ông muốn thiết lập một hệ thống luân lý dựa trên nguyên tắc khiêm nhường và
nhẫn nhục. Ông cho rằng thể xác là gánh nặng của linh hồn, là sự trừng phạt đối với linh
hồn. Cuộc sống trần gian chỉ là khúc dạo đầu cho thế giới bên kia của linh hồn - thế giới
con người sau khi chết. Cái thế giới bên kia ấy, nô lệ - nghèo khó, giàu có - quý tộc đều có
thể đạt được như nhau, nếu con người biết nhẫn nhục, nhường nhịn, chịu đựng gian khổ,
lấy sự phục tùng làm đức tính tốt đẹp nhất của con người.
Philo: thế giới vật chất, trong đó có cả con người là can nguyên của tội lỗi, thể xác là ngục
thất của linh hồn. Giữa thể xác và linh hồn có một vực thẳm không thể đến với nhau được
và trung gian của vực thẳm đó làcái mà ông gọi là Thiên Đạo - Đấng Cứu Thế. Con người
muốn được giải thoát chi cần có niềm tin và một cuộc sống đạo đức.
Quá trình truyền bá và phát triển
Giai đoạn 1 (từ thế kỷ I đến thế kỷ IV Sau công nguyên): Đây là giai đoạn Kitô giáo bị đàn
áp rất khốc liệt, chỉ có một bộ phận tín đồ ở Palestine tham gia. Sau cái chết của Chúa
Jesus, các tông đồ đã bắt đầu đem giáo lý của ngài truyền bá ra ngoài Palestine. Năm 62,
thánh Paulo sang Roma để truyền đạo thì thấy ở đây đã có nhiều tín đồ Kitô giáo.
Ban đầu giới cầm quyền La Mã giữ thái độ khoan dung đối với Kitô giáo. Nhưng Chúa
Jesus cho rằng đế quốc La Mã là một "mụ đàn bà đầy tội lỗi – tức lên án tầng lớp giàu có,
thống trị và đế quốc La Mã sẽ sớm bị diệt vong", tín đồ Kitô giáo sẽ được sống trong vương
quốc của Chúa. Đây chính là những yếu tố mới phủ nhận sự tồn tại của chế độ và nhà nước
chiếm hữu nô lệ La Mã. Điều đó khiến giới cầm quyền và quý tộc cămghét Kito giáo, cho
rằng tín đồ Kitô là lũ phiến loạn và tiến hành đàn áp khốc liệt, đẫm máu nhất là vụ đàn áp
vào năm 64, dưới thời hoàng đế Nêrông. Cho dù càng đàn áp thì Kitô giáo vẫn càng phát triển.
Nguyên nhân : Chế độ chiếm hữu nô lệ càng phát triển thì sự phân hoá giai cấp trong xã
hội càng sâu sắc, sự bần cùng hoá, áp bức, đàn áp, bóc lột càng tăng lên. Kitô là tôn giáo
duy nhất mà giới lao động và những người nghèo khổ có thể tìm thấy được con đường giải phóng.
Về tổ chức, lúc đầu các tín đồ đạo Kitô tổ chức thành những công xã vừa mang tính chất
tôn giáo, vừa giúp đỡlẫn nhau trong cuộc sống. Họ giúp người lao động, người nghèo tìm
công ăn việc làm. Đến thế kỉ II, các côngxã Kitô dần phát triển thành Giáo hội. Cuộc vận
động Kito giáo trong buổi đầu mang một ý nghĩa xả hội rất tích cực: Đó là cuộc vận động
của dân nghèo chống chế độ áp bức.
Về sau, Giáo hội đề ra nguyên tắc “vương quốc thì trả cho vua, thiên quốc thì trả cho Chúa
trời” tức không dính dáng đến chính trị. Sau hơn 200 năm truyền bá, Kitô giáo đã tạo được
một thế lực hết sức chặt chẽ, chủ yếu tại các thành phố lớn . Trước sự phát triển này và đàn lOMoAR cPSD| 58707906
áp mãi không được, giới cầm quyền La Mã quyết định “sống chung” , thay đổi chính sách đối với Kito giáo.
Giai đoạn 2 (trong thế kỷ IV sau Công nguyên): Năm 311, Hoàng đế Galerius đình chỉ việc
sát hại các tín đồ Kitô giáo. Năm 313, Hoàng đế Constantin xác định địa vị hợp pháp của
giáo hội Kitô, nâng Kitô giáo lên địa vị quốc giáo. Năm 325, Hoàng đế Constantin ra lệnh
triệu tập Đại hội Kitô giáo lần thứ nhất tại Nicée. Đại hội đã giải quyết được 2 vấn đề lớn:
Thống nhất lại cuối cùng nội dung của Kinh thánh : Chọn ra 4 phần tương đối trùng khớp,
ít mâu thuẫn, loại bỏ bớt yếu tố mê tín dị đoan, thống nhất rồi đưa vào Tân ước
Chấn chỉnh tổ chức giáo hội.Sau đại hội này, Kitô giáo trở thành một bộ phận trong bộ máy
của giai cấp thống trị La MãNăm 337, Constantin là hoàng đế La Mã đầu tiên theo Kitô
giáo. Các quan lại cũng đua nhau theo Đạo. Ngân quĩ quốc gia cũng được chi ra để đóng
góp cho Nhà thờ. Đạo Kitô được truyền bá rộng khắp ra các tầng lớp xã hội quanh Địa
Trung Hải. Đến giai đoạn này, tính chất tiến bộ ban đầu của Kito giáo không còn nữa, các
giáo sĩ dần dần trở thành các quan lại của nhà nước, giáo hội trở thành công cụ trong tay
giai cấp thống trị. Dobất đồng trong sự giải thích thuyết “tam vị nhất thể” và cả việc đụng
chạm nhau về khu vực truyền đạo nên đến năm 1054, giáo hội Kitô ở La Mã đã bị chia làm
hai : giáo hội Thiên chúa (giáo hội ở phương Tây, giáo hội La Mã) và giáo hội Chính thống
( giáo hội ở phương Đông, giáo hội Hy Lạp).
Về ý nghĩa lịch sử, Kitô giáo ra đời là biểu hiện phong trào phản kháng của đông đảo quần
chúng bị áp búc sau đó lan rộng ra các tầng lớp khác trong xã hội. Trải qua bao thăng trầm
lịch sử, Kitô giáo từ chỗ là tôn giáo của những người nghèo, chống lại chính quyền cai trị,
đã trở thành chỗ dựa vững chắc về tinh thần, vật chất của chính quyền Rôma và là một bộ
phận của chính quyền thống trị La Mã. Kito giáo ra đời là một sự kiện lịch sử rất lớn lao
vì sau này nó đã tác động mạnh mẽ đến đời sống chính trị, kinh tế, xã hội và tư tưởng của người Châu Âu. Liên hệ Việt Nam:
Quá trình hình thành và phát triển đạo Ki tô ở nước ta đã trải qua nhiều thăng trầm, biến
cố. Từ một tôn giáo hoàn toàn xa lạ với Việt Nam, đến nay Ki tô giáo là một trong những
tôn giáo có số người tin theo lớn thứ hai (với hơn 7 triệu triệu tín đồ) trong các tôn giáo có
mặt tại Việt Nam. Đồng thời khi đạo Ki tô vào Việt Nam cũng đã mang theo nhiều yếu tố
văn hóa phương Tây du nhập vào, làm cho văn hóa Việt Nam trở nên phong phú hơn, phát
triển thêm nhiều loại hình văn hóa nghệ thuật mới, trong đó đặc biệt nhất phải kể đến sự ra
đời của chữ Quốc ngữ. Cho đến nay đạo Ki tô đã có được một nền móng tương đối vững
chắc nhờ từng bước hội nhập vào trong văn hoá Việt Nam theo đánh giá của các nhà khoa học về tôn giáo này./. Kết luận:
Kitô giáo là một bộ phận quan trọng của văn hóa phương Tây. Trải qua hơn 20 thế kỷ, tuy
có những giai đoạn thăng trầm, những biến thiên theo thời gian và thời cuộc, có lúc tưởng
chừng như diệt vong, nhưng cuối cùng thì Kitô giáo đã chiếm một vị trí khá vững vàng
trên thế giới. Trong giai đoạn hiện nay, mặc dù Kitô giáo có thể đang xuống dốc ở châu Âu lOMoAR cPSD| 58707906
và ổn định ở Mỹ, tôn giáo ấy vẫn là một trong những tôn giáo phát triển nhanh nhất ở mọi
nơi trên thế giới. Hầu hết sự phát triển này có vẻ không do sự truyền giáo từ những người
Kitô giáo phương Tây mà do một phong trào có tính cơ sở