Cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Dục Thúy sơn | Văn mẫu lớp 10 Kết Nối Tri Thức

Văn mẫu lớp 10: Cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Dục Thúy sơn gồm bài văn mẫu cực hay kèm theo gợi ý cách viết chi tiết. Qua đó giúp các em có thể tham khảo để nâng cao trình học văn học của mình với những bài văn mẫu hay sát với chương trình học.

Dàn ý bức tranh thiên nhiên trong bài Dục Thúy Sơn
1. M bài:
- Gii thiu vấn đề: Bc tranh thiên nhiên trong bài thơ Dục Thúy sơn.
2. Thân bài:
*Bc tranh thiên nhiên núi Dục Thúy:
- Bc tranh toàn cảnh núi Dục Thúy được miêu tả thông qua điểm nhìn từ xa:
"Liên hoa phù thủy thượng": dáng núi giống như đóa sen thanh cao, nổi trên
mt nưc -> hình ảnh n d độc đáo, thú v.
"Tiên cnh": cảnh đẹp chốn tiên, "trụy": rơi t trên cao xuống -> nhn mnh
núi Dục Thúy chính là cảnh đẹp chn bồng lai tiên cảnh rơi xuống cõi trần.
- Núi Dục Thúy được gi t cn cnh:
"Tháp ảnh": bóng của ngọn tháp soi lên mặt nước, "trâm thanh ngọc": chiếc
trâm ngọc màu xanh -> hình ảnh so sánh thú vị, ví bóng tháp soi trên mặt nước
giống như cái trâm cài tóc của người con gái.
"Ba quang": ánh sáng sóng nước, "thúy hoàn": mái tóc biếc -> liên ởng ánh
sáng sóng nước giống như chiếc gương, dáng núi phản chiếu trên dòng c
như đang soi mái tóc biếc.
*Đánh giá về đặc sc ngh thut:
- S dụng thành công biện pháp so sánh, ẩn d.
- Hình ảnh thơ mĩ lệ, giàu sức gi.
- Ngôn t cô đng.
3. Kết bài:
- Khẳng định v đẹp bc tranh thiên nhiên.
Cm nhn bức tranh thiên nhiên trong bài Dục Thúy sơn
T trưc tới nay, thiên nhiên luôn là đề tài, là nguồn cm hứng vô tn cho biết bao nhà
văn, nhà thơ. Các tác gi đã họa nên vô vàn cảnh sắc tươi đẹp trong nhng sáng tác
ca mình. Ta bt gp phong cnh trong tro đất Phật Hương Sơn trong "Hương Sơn
phong cnh" - Chu Mnh Trinh hay bức tranh quê hương thanh bình trong "Thiên
trường vãn vọng" - Trần Nhân Tông,... Nguyễn Trãi cũng không ngoi lệ. Ông đã
mang đến nhiều tác phẩm viết v đề tài này, góp phần làm nên sự phong phú cho nn
thơ ca trung đại. Tiêu biểu nht phi k đến thi phm "Dục Thúy sơn", rút từ tp "c
Trai thi tp". Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, nên thơ được khc họa trong bài thơ đã
để li cho bạn đọc n tượng sâu đậm, khó phai.
Ngay câu thơ mở đầu, thi nhân đã khẳng định núi Dục Thúy chính là "tiên san"-
ngọn núi tiên:
"Hi khu hữu tiên san;
Tiền niên lũ vãng hoàn."
("Ca biển có non tiên;
Tng qua li my phen.")
Ngọn núi được mệnh danh "núi thơ" có v trí gần ngay ca biển. Dù đã nhiều ln qua
lại nhưng nhân vật tr tình vẫn cm thấy núi Dục Thúy tht đẹp, như chốn tiên cảnh
vy. Cm t "tiên san" đã nhấn mạnh vào cnh sc trong trẻo, thoát tục nơi đây.
Để miêu t bc tranh toàn cảnh, nhà văn quan sát, cảm nhn t xa, qua điểm nhìn rộng
lớn, khái quát:
"Liên hoa phù thủy thưng;
Tiên cảnh try trn gian."
("Cảnh tiên rơi cõi tc;
Mt nưc ni hoa sen.")
Hình nh n d "Liên hoa phù thủy thượng" và từ "phù" đã góp phn lt t khung
cnh núi Dục Thúy. Dáng núi cao lớn, kì vĩ được ví với đóa sen thanh cao nổi trên
mt nước. Trong câu thơ phiên âm, ta thấy nhà thơ không hề s dng t ng biu th
vic so sánh mà ch ng động t "phù". Như vậy, Nguyễn Trãi coi dáng núi và hoa
sen giống nhau hoàn toàn, đến mức có thể hợp làm một. Hình ảnh đóa sen mang ý
nghĩa biểu tượng, gi nhc đến s thun khiết, thoát tục. Gi đây, núi Dục Thúy cũng
giống như loài hoa kia, đẹp đến độ tinh khôi, trong trẻo, ng như "cảnh tiên rơi cõi
tc" vy. T "trụy" mang nghĩa rơi, rớt. Viết "tiên cảnh trụy", nhà thơ như muốn nhn
mnh phong cảnh sơn thủy hữu tình nơi đây chính là cảnh đẹp t chốn tiên rơi xuống
dương thế.
Bc tranh thiên nhiên núi Dục Thúy tiếp tục được khc họa qua cái nhìn cận cnh, c
th:
"Tháp ảnh trâm thanh ngọc;
Ba quang kính thúy hoàn."
("Bóng tháp hình trâm ngọc;
Gương sông ánh tóc huyền.")
Khi xưa, Trương Hán Siêu - người đặt tên cho ngọn núi, từng viết trong "Dục Thúy
sơn" rằng "Trung lưu quang tháp ảnh," ("Lòng sông in bóng tháp,"). Tiếp bước tin
nhân, Nguyễn Trãi cũng miêu tả hình ảnh bóng tháp soi trên mặt nước. Tuy nhiên, câu
thơ của ông có hồn, tr tình hơn nhờ việc so sánh bóng tháp giống như cái trâm ngọc
xanh. Kế đến, hình ảnh sóng nước đưc gi t c th qua liên tưởng "ba sông kính
thúy hoàn". Ánh sáng dòng nước như chiếc gương khổng lồ, còn dáng núi phản chiếu
trên b mặt như đang soi mái tóc xanh biếc. Có thể thy, ch với hai câu thơ ngắn gn,
Nguyễn Trãi đã làm ni bt v đẹp tuyt sc núi Dục Thúy. Qua đây, ta cũng thấy
được bút pháp ngh thut tài hoa, độc đáo của thi sĩ. Trong thơ cổ, các tác giả thưng
ly chun mực thiên nhiên để khc họa nét đẹp con người. Còn Nguyễn Trãi thì hoàn
toàn ngưc lại. Như vy, nhng yếu t "phá cách" về ngh thuật cũng là một nét đặc
sc của tác phẩm.
Vi hình ảnh thơ mĩ lệ, giàu sức gợi, ngôn từ cô đọng cùng việc s dụng thành công
biện pháp so sánh "Tháp ảnh trâm thanh ngọc;/ Ba quang kính thúy hoàn", ẩn d
"Liên hoa phù thủy thượng", thi sĩ đã miêu tả rõ nét bức tranh tươi đp, huyn ảo như
chn cảnh tiên ở núi Dc Thúy. Những liên tưởng, hình dung mới l trong tác phẩm
cũng cho thấy tâm hồn nhy cm, tấm lòng yêu mến thiên nhiên ca Nguyễn Trãi.
Giống như bao bài thơ viết v danh lam thng cnh ca đất nưc, "Dc Thúy sơn" đã
mang đến cho bạn đọc mt khung cảnh non nước hữu tình. Đồng thi, giúp ta hiu
hơn về v đẹp tâm hn ca nhà thơ - một con người nhy cm, lãng mạn và phóng
khoáng.
| 1/4

Preview text:


Dàn ý bức tranh thiên nhiên trong bài Dục Thúy Sơn 1. Mở bài:
- Giới thiệu vấn đề: Bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Dục Thúy sơn. 2. Thân bài:
*Bức tranh thiên nhiên núi Dục Thúy:
- Bức tranh toàn cảnh núi Dục Thúy được miêu tả thông qua điểm nhìn từ xa:
• "Liên hoa phù thủy thượng": dáng núi giống như đóa sen thanh cao, nổi trên
mặt nước -> hình ảnh ẩn dụ độc đáo, thú vị.
• "Tiên cảnh": cảnh đẹp ở chốn tiên, "trụy": rơi từ trên cao xuống -> nhấn mạnh
núi Dục Thúy chính là cảnh đẹp chốn bồng lai tiên cảnh rơi xuống cõi trần.
- Núi Dục Thúy được gợi tả cận cảnh:
• "Tháp ảnh": bóng của ngọn tháp soi lên mặt nước, "trâm thanh ngọc": chiếc
trâm ngọc màu xanh -> hình ảnh so sánh thú vị, ví bóng tháp soi trên mặt nước
giống như cái trâm cài tóc của người con gái.
• "Ba quang": ánh sáng sóng nước, "thúy hoàn": mái tóc biếc -> liên tưởng ánh
sáng sóng nước giống như chiếc gương, dáng núi phản chiếu trên dòng nước
như đang soi mái tóc biếc.
*Đánh giá về đặc sắc nghệ thuật:
- Sử dụng thành công biện pháp so sánh, ẩn dụ.
- Hình ảnh thơ mĩ lệ, giàu sức gợi. - Ngôn từ cô đọng. 3. Kết bài:
- Khẳng định vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên.
Cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong bài Dục Thúy sơn
Từ trước tới nay, thiên nhiên luôn là đề tài, là nguồn cảm hứng vô tận cho biết bao nhà
văn, nhà thơ. Các tác giả đã họa nên vô vàn cảnh sắc tươi đẹp trong những sáng tác
của mình. Ta bắt gặp phong cảnh trong trẻo ở đất Phật Hương Sơn trong "Hương Sơn
phong cảnh" - Chu Mạnh Trinh hay bức tranh quê hương thanh bình trong "Thiên
trường vãn vọng" - Trần Nhân Tông,... Nguyễn Trãi cũng không ngoại lệ. Ông đã
mang đến nhiều tác phẩm viết về đề tài này, góp phần làm nên sự phong phú cho nền
thơ ca trung đại. Tiêu biểu nhất phải kể đến thi phẩm "Dục Thúy sơn", rút từ tập "Ức
Trai thi tập". Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, nên thơ được khắc họa trong bài thơ đã
để lại cho bạn đọc ấn tượng sâu đậm, khó phai.
Ngay ở câu thơ mở đầu, thi nhân đã khẳng định núi Dục Thúy chính là "tiên san"- ngọn núi tiên:
"Hải khẩu hữu tiên san;
Tiền niên lũ vãng hoàn."
("Cửa biển có non tiên;
Từng qua lại mấy phen.")
Ngọn núi được mệnh danh "núi thơ" có vị trí gần ngay cửa biển. Dù đã nhiều lần qua
lại nhưng nhân vật trữ tình vẫn cảm thấy núi Dục Thúy thật đẹp, như chốn tiên cảnh
vậy. Cụm từ "tiên san" đã nhấn mạnh vào cảnh sắc trong trẻo, thoát tục ở nơi đây.
Để miêu tả bức tranh toàn cảnh, nhà văn quan sát, cảm nhận từ xa, qua điểm nhìn rộng lớn, khái quát:
"Liên hoa phù thủy thượng;
Tiên cảnh trụy trần gian."
("Cảnh tiên rơi cõi tục;
Mặt nước nổi hoa sen.")
Hình ảnh ẩn dụ "Liên hoa phù thủy thượng" và từ "phù" đã góp phần lột tả khung
cảnh ở núi Dục Thúy. Dáng núi cao lớn, kì vĩ được ví với đóa sen thanh cao nổi trên
mặt nước. Trong câu thơ phiên âm, ta thấy nhà thơ không hề sử dụng từ ngữ biểu thị
việc so sánh mà chỉ dùng động từ "phù". Như vậy, Nguyễn Trãi coi dáng núi và hoa
sen giống nhau hoàn toàn, đến mức có thể hợp làm một. Hình ảnh đóa sen mang ý
nghĩa biểu tượng, gợi nhắc đến sự thuần khiết, thoát tục. Giờ đây, núi Dục Thúy cũng
giống như loài hoa kia, đẹp đến độ tinh khôi, trong trẻo, ngỡ như "cảnh tiên rơi cõi
tục" vậy. Từ "trụy" mang nghĩa rơi, rớt. Viết "tiên cảnh trụy", nhà thơ như muốn nhấn
mạnh phong cảnh sơn thủy hữu tình nơi đây chính là cảnh đẹp từ chốn tiên rơi xuống dương thế.
Bức tranh thiên nhiên núi Dục Thúy tiếp tục được khắc họa qua cái nhìn cận cảnh, cụ thể:
"Tháp ảnh trâm thanh ngọc;
Ba quang kính thúy hoàn."
("Bóng tháp hình trâm ngọc;
Gương sông ánh tóc huyền.")
Khi xưa, Trương Hán Siêu - người đặt tên cho ngọn núi, từng viết trong "Dục Thúy
sơn" rằng "Trung lưu quang tháp ảnh," ("Lòng sông in bóng tháp,"). Tiếp bước tiền
nhân, Nguyễn Trãi cũng miêu tả hình ảnh bóng tháp soi trên mặt nước. Tuy nhiên, câu
thơ của ông có hồn, trữ tình hơn nhờ việc so sánh bóng tháp giống như cái trâm ngọc
xanh. Kế đến, hình ảnh sóng nước được gợi tả cụ thể qua liên tưởng "ba sông kính
thúy hoàn". Ánh sáng dòng nước như chiếc gương khổng lồ, còn dáng núi phản chiếu
trên bề mặt như đang soi mái tóc xanh biếc. Có thể thấy, chỉ với hai câu thơ ngắn gọn,
Nguyễn Trãi đã làm nổi bật vẻ đẹp tuyệt sắc ở núi Dục Thúy. Qua đây, ta cũng thấy
được bút pháp nghệ thuật tài hoa, độc đáo của thi sĩ. Trong thơ cổ, các tác giả thường
lấy chuẩn mực thiên nhiên để khắc họa nét đẹp con người. Còn Nguyễn Trãi thì hoàn
toàn ngược lại. Như vậy, những yếu tố "phá cách" về nghệ thuật cũng là một nét đặc sắc của tác phẩm.
Với hình ảnh thơ mĩ lệ, giàu sức gợi, ngôn từ cô đọng cùng việc sử dụng thành công
biện pháp so sánh "Tháp ảnh trâm thanh ngọc;/ Ba quang kính thúy hoàn", ẩn dụ
"Liên hoa phù thủy thượng", thi sĩ đã miêu tả rõ nét bức tranh tươi đẹp, huyền ảo như
chốn cảnh tiên ở núi Dục Thúy. Những liên tưởng, hình dung mới lạ trong tác phẩm
cũng cho thấy tâm hồn nhạy cảm, tấm lòng yêu mến thiên nhiên của Nguyễn Trãi.
Giống như bao bài thơ viết về danh lam thắng cảnh của đất nước, "Dục Thúy sơn" đã
mang đến cho bạn đọc một khung cảnh non nước hữu tình. Đồng thời, giúp ta hiểu
hơn về vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ - một con người nhạy cảm, lãng mạn và phóng khoáng.