Cảm nhận về bài thơ Ông đồ của Đình Liên
chọn lọc hay nhất
1. Cảm nhận về bài thơ Ông đồ của Đình Liên - mẫu 1
Dòng thời gian cứ trôi đi, mọi thứ cũng xoay chuyển dần đi vào ng để
lại những sự nuối tiếc khôn nguôi trong ng người, đặc biệt những vẻ đẹp
tài hoa đã vang bóng một thời. Trong văn hoá cổ truyền của dân tộc Việt Nam,
hình ảnh những ông đồ mỗi dịp Tết đến xuân về đã trở thành một hình ảnh
đặc trưng, một phần không thể thiếu trong dịp này. Nhưng dường n theo
thời gian hình ảnh ấy đã lùi dần vào quá khứ. Bắt nguồn từ nguồn cảm hứng
ấy, nhà thơ Đình Liên đã cho ra đời bài thơ Ông đồ. Bài thơ giống như
một sự hoài niệm, tiếc nuối cho một giá trị tinh thần sắp tàn lụi cũng một
tấm gương để phản chiếu một tâm hồn giàu tình thương sự hoài cổ của
chính tác giả.
Ngày xưa, những ông đồ người được học hành, đào tạo trong nền văn hoá
Nho giáo n họ khả năng viết chữ nho một cách điêu luyện rất đẹp.
Chính vậy, mỗi khi Tết đến các ông đồ thường bày đồ nghề để cho người
ta đến xin chữ với mong muốn một năm được thuận buồm xuôi gió. Hình ảnh
của ông đồ đã gắn liền với biết bao thế hệ, đã in đậm trong tâm trí của bao
người khi xuân về:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên ph đông người qua
Trên cành những cành hoa đào nở rộ khiến cho người đọc cảm nhận được
không khí của ngày Tết, của một mùa xuân mới đang kéo về. Con người
dường như trở nên khoan khoái, vui tươi để chuẩn bị cho một ngày lễ đặc
biệt trong một năm. Vào khoảnh khắc ấy, ông đồ lại bày những đồ nghề đơn
giản của mình, ch những "mực tàu, giấy đỏ" trên những con phố tấp nập
người qua lại để thể hiện tài năng của mình qua một công việc thật ý nghĩa.
Ông đồ được tác giả nhắc đến như một điều thân thương, quen thuộc. Trái
với khung cảnh tấp nập, đông đúc trên đường phố, ông đ vẫn ngồi đấy nh
dị nhưng lại tâm điểm nhận được rất nhiều sự chú ý. Nhà t đã vẽ nên
một bức tranh thật sống động, một bức tranh đầy đủ âm thanh, màu sắc
cả những ức tươi đẹp về những ngày xuân xưa. Hình ảnh ông đồ ngồi
trên phố ấy đã mở ra bốn câu thơ tiếp theo:
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen i
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay
Ông đ ngồi trên phố đông thật giản dị, thân quen vậy thế nhưng nhờ tài
hoa của mình ông đã thu hút được biết bao nhiêu người. Mọi người ai
cũng muốn xin chữ, xin những điều tốt đẹp từ ông. chắc hẳn ông đồ cũng
cảm thấy vui mừng trong lòng khi được nghe những câu nói "ngợi khen tài" từ
mọi người, điều đó thể hiện một sự trân trọng họ nh cho ông nên mới
"bao nhiêu người thuê viết". Hành động xin chữ ấy mang một ý nghĩa to
lớn, vừa đề cao việc học hành để kiến thức, đề cao những mối quan hệ
của mỗi con người hướng con người ta theo một con đường tốt đẹp nhất.
Những câu thơ trong đoạn t này đều tập trung vào miêu tả sự tài năng của
ông đồ. Những chữ ông viết ra không chỉ những con chữ bình thường, đó
còn một tác phẩm thư pháp với rất nhiều tầng ý nghĩa nghệ thuật trong
đó. HÌnh ảnh một ông đồ dáng vẻ khoan thai, tay đưa những nét nhẹ nhàng
viết từng chữ như "phượng múa rồng bay" càng cho thấy được cái tài, cái
tâm của ông đồ được thể hiện qua từng nét bút. Những nét chữ ấy đã chứa
đựng cả một tâm hồn, cả một sự tinh hoa cũng như những khát vọng, lý
tưởng của ông đồ. Những con chữ ông viết ra cả một sự sáng tạo không
ngừng nghỉ, một sự biến hoá những con chữ ấy thành những tác phẩm khác
nhau.
Thế nhưng đến đoạn thơ thứ ba, những sự vui tươi, hứng khởi hai đoạn
thơ đầu đã trùng xuống, những dòng suy nghĩ của tác giả đã trở về với thực
tại:
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Từ "nhưng" xuất hiện ngay đầu đoạn thơ như một dấu hiệu của sự biến động,
một sự chuyển biến dần dần đã được xuất hiện. Điệp t "mỗi" trong câu thơ
đầu tiên khiến cho cả không gian thời gian đều như dài ra, đều lắng đọng
trùng xuống. Cái sự kéo dài ấy như để tự an ủi cho thực tại giờ đây việc
xin chữ đang dần trở nên ít đi, mỗi năm lại càng thêm vắng vẻ. Tác giả cũng
tự đặt cho mình câu hỏi, cũng một câu hỏi về thời thế, không biết những
người thuê viết nay đâu, liệu phải những tình cảm họ nh cho chữ Nho
đã phai nhạt dần khi giờ đây chữ Quốc ng đang ngày càng phát triển theo
dòng chảy của thời đại. Người không được thuê viết nữa cũng khiến cho
những vật đã từng được sử dụng đ viết chữ kia cũng trở nên thấm đẫm nỗi
buồn. Những tờ giấy đỏ giờ đây chẳng n thắm nữa, mực thì đọng lại trong
nghiên với một nỗi sầu thảm.
Giờ đây, sự xuất hiện của ông đồ chẳng được mấy người quan tâm, trái
ngược hoàn toàn với những sự kính trọng, tin yêu của mọi người dành cho
ông đồ khi xưa:
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Hình ảnh của ông đ "vẫn ngồi đấy" giống như a, vẫn cái dáng vẻ điềm
đạm, cao quý như năm nào thế nhưng giờ đây người ta đáp lại ông bằng một
sự thờ ơ, lạnh nhạt, người đi qua đi lại nhưng chẳng ai hay biết đến ông. Tác
giả đã đứng từ xa quan sát rồi phải thốt lên đầy cay đắng ngậm ngùi, thốt
lên nỗi xót xa cho sự nghiệp của những ông đồ. Những sự lãng quên, sự
thờ ơ với những ông đ lúc này thật đáng khiến người đọc phải suy nghĩ
đồng cảm.
lẽ từ giây phút ấy việc xin chữ đầu năm đã trở thành một ức đẹp trong
tâm t của những người thuộc thế hệ , những người đã được tận mắt
chứng kiến, thưởng thức khoảng thời gian tươi đẹp của những ông đồ. Nhà
thơ đã khắc họa một bức chân dung rất thực về những ông đồ, đồng thời gửi
đến thông điệp tục xin chữ ngày Tết một truyền thống đẹp, đáng được lưu
truyền bởi đó không chỉ một phong tục, còn một giá trị văn hóa tinh
hoa của dân tộc.
Bài thơ "Ông đồ" một trong những thi phẩm đặc sắc nhất của nhà thơ Vũ
Đình Liên. i thơ đã thành công trong việc bộc lộ những tình cảm chân
thành của tác giả với một nét đẹp văn hoá của dân tộc - tục xin chữ đầu năm.
Dẫu cho thời gian trôi đi, Nho giáo không còn phát triển nữa thế nhưng
hình nh của ông đồ trong bài thơ sẽ luôn sống ng năm tháng.
2. Cảm nhận về bài thơ Ông đồ của Đình Liên - mẫu 2
Nhà thơ Đình Liên đến với thơ ca một cách đầy lặng lẽ thế nhưng cũng
không kém phần nổi bật. Mặc trong phong trào T mới, tên tuổi của ông
không được đình đám như những Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử hay Nguyễn
Bính... thế nhưng những ông tạo ra cũng đủ để làm nên một hiện tượng
khác thường. Bài t Ông đồ của ông được coi một trong những thành
công bậc nhất của ông. Nhà thơ sử dụng thể thơ năm chữ ngắn gọn ng với
ngôn từ thật giản dị thế nhưng đã gửi o đó biết bao nỗi niềm tâm sự về
nhân tình, thế thái. Bởi vậy mà Hoài Thanh đã nói về bài thơ này như sau: "Ít
i thơ nào bình dị cảm động đến vậy".
Mở đầu bài thơ, hình ảnh của ông đ đã hiện lên trong những suy nghĩ, hoài
niệm của nhà thơ về những ngày xưa :
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên ph đông người qua
Mỗi năm Tết đến xuân về, người ta lại bắt gặp hình ảnh của những ông đồ
bày đồ nghề đơn chỉ mực tàu, giấy đỏ trên những con phố đông đúc,
tấp nập người qua lại để cho chữ. Từ "lại" nghe thật hãnh diện, đã như
ngầm xác nhận một vị trí quan trọng của ông đồ trong ngày Tết. Dường như
ông đồ một phần không thể thiếu, một hình ảnh đã in đậm vào ức của
con người trong tết xưa. lẽ người ta cảm nhận được hương vị của Tết khi
nhìn thấy những ông đồ trên đường. Những câu thơ như vẽ nên trước
mắt người đọc một khung cảnh nhộn nhịp của những ngày Tết xưa. Trên
khắp các nẻo đường những tiếng gọi nhau, những lời chúc mừng nơi
góc phố đông những ông đồ đang ngồi đó, lặng lẽ dùng tài hoa của mình
để làm đẹp cho đời. Những nét bút thần kỳ của ông đồ được biết bao nhiêu
người trầm trồ, thán phục:
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen i
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay
Thế nhưng giờ đây khi thời thế đã đổi thay, những người u nhiệt thành
với chữ Nho dường như cũng ngày càng ít đi, phong tục treo chữ, xin chữ
ngày Tết cũng đã dần biến mất. Năm sau trở lại, những hình ảnh của ông đồ
trên con phố quen thuộc xưa kia đã trở nên thật khác lạ:
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Từ một khung cảnh náo nhiệt, tấp nập trong những ngày tết xưa, gi đây
những ông đ đã bị rơi vào một hoàn cảnh thật đáng thương. Vẫn trên sân
khấu quen thuộc ấy, thế nhưng những người xem đã vãn, một mình ông đồ
giờ đây ngồi đấy trông thật buồn. nỗi buồn của ông đồ cũng đã lan sang
những sự vật quen thuộc đồng hành với ông trong sự nghiệp cho chữ. Giờ
đây những t giấy đỏ đã bớt thắm, mực giờ đây đã đọng lại trong nghiên
lâu không được dùng. Giờ đây, trong cái thời người ta đua nhau "vứt bút
lông đi viết bút chì", ông đồ đã hoàn toàn trở thành quá khứ. Ông đồ vẫn ngồi
đấy thế nhưng chẳng n ai để ý tới ông:
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
ng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay
Từng câu t khiến cho không khí trở nên thật ảm đạm, khiến cho người đọc
cảm nhận được những sự hụt hẫng xót thương. Hình ảnh " vàng rơi" khiến
người đọc liên tưởng tới một sự lụi tàn. lẽ người đọc đã giật mình sực
nhớ đến việc mình đã đánh mất đi tình yêu với tinh hoa của dân tộc, cái thời
đại "nghiên cánh nhạn tách mái rừng Nhan Khổng - Vẫy đuôi kình toan vượt
bể Trình Chu" đang dần đến hồi kết. cuối cùng, sự kết thúc cũng thực sự
đến:
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Mùa xuân lại tới, thế nhưng giờ đây ông đồ không còn đó nữa. Cho ông
đã cố gắng sức để bám víu lấy hội thế nhưng lẽ ông không còn đủ
sức, đủ kiên nhẫn bởi "cơm áo không đùa với khách thơ". Giờ đây ông đồ đã
rút lui khỏi hội hiện tại, để lùi vào vãng. Tác giả cũng đã bày t những
nỗi băn khoăn, day dứt:
Những người muôn năm
Hồn đâu bây giờ?
Nhà thơ không chỉ xót thương cho nhân một ông đồ nào xót thương
cho cả một lớp người như ông. Tác giả sử dụng một câu hỏi tu từ để khép lại
bài thơ nhưng đã mở ra một câu hỏi cho người đọc suy ngẫm, trả lời:
những ông đồ tài hoa ấy giờ đây đã đi đâu về đâu.
Nói tóm lại, bài t Ông đồ của n thơ Đình Liên đã thể hiện một nỗi
niềm hoài cổ, một tình thương yêu của nhà thơ với những ông đồ thời sắp tàn
lụi. Tác phẩm của ông cũng muốn nhắc nhở người đọc cần phải biết trân
trọng quá khứ gìn giữ những giá trị tốt đẹp về văn hoá, tinh thần để không
phải nuối tiếc, ân hận.

Preview text:

Cảm nhận về bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên chọn lọc hay nhất
1. Cảm nhận về bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên - mẫu 1
Dòng thời gian cứ trôi đi, mọi thứ cũng xoay chuyển và dần đi vào dĩ vãng để
lại những sự nuối tiếc khôn nguôi trong lòng người, đặc biệt là những vẻ đẹp
tài hoa đã vang bóng một thời. Trong văn hoá cổ truyền của dân tộc Việt Nam,
hình ảnh những ông đồ mỗi dịp Tết đến xuân về đã trở thành một hình ảnh
đặc trưng, là một phần không thể thiếu trong dịp này. Nhưng dường như theo
thời gian hình ảnh ấy đã lùi dần vào quá khứ. Bắt nguồn từ nguồn cảm hứng
ấy, nhà thơ Vũ Đình Liên đã cho ra đời bài thơ Ông đồ. Bài thơ giống như
một sự hoài niệm, tiếc nuối cho một giá trị tinh thần sắp tàn lụi và cũng là một
tấm gương để phản chiếu một tâm hồn giàu tình thương và sự hoài cổ của chính tác giả.
Ngày xưa, những ông đồ là người được học hành, đào tạo trong nền văn hoá
Nho giáo nên họ có khả năng viết chữ nho một cách điêu luyện và rất đẹp.
Chính vì vậy, mỗi khi Tết đến các ông đồ thường bày đồ nghề để cho người
ta đến xin chữ với mong muốn một năm được thuận buồm xuôi gió. Hình ảnh
của ông đồ đã gắn liền với biết bao thế hệ, đã in đậm trong tâm trí của bao người khi xuân về: Mỗi năm hoa đào nở Lại thấy ông đồ già Bày mực tàu giấy đỏ Bên phố đông người qua
Trên cành những cành hoa đào nở rộ khiến cho người đọc cảm nhận được
không khí của ngày Tết, của một mùa xuân mới đang kéo về. Con người
dường như trở nên khoan khoái, vui tươi để chuẩn bị cho một ngày lễ đặc
biệt trong một năm. Vào khoảnh khắc ấy, ông đồ lại bày những đồ nghề đơn
giản của mình, chỉ là những "mực tàu, giấy đỏ" trên những con phố tấp nập
người qua lại để thể hiện tài năng của mình qua một công việc thật ý nghĩa.
Ông đồ được tác giả nhắc đến như một điều thân thương, quen thuộc. Trái
với khung cảnh tấp nập, đông đúc trên đường phố, ông đồ vẫn ngồi đấy bình
dị nhưng lại là tâm điểm nhận được rất nhiều sự chú ý. Nhà thơ đã vẽ nên
một bức tranh thật sống động, một bức tranh có đầy đủ âm thanh, màu sắc
và cả những kí ức tươi đẹp về những ngày xuân xưa. Hình ảnh ông đồ ngồi
trên phố ấy đã mở ra bốn câu thơ tiếp theo:
Bao nhiêu người thuê viết Tấm tắc ngợi khen tài Hoa tay thảo những nét Như phượng múa rồng bay
Ông đồ ngồi trên phố đông thật giản dị, thân quen là vậy thế nhưng nhờ tài
hoa của mình mà ông đã thu hút được biết bao nhiêu người. Mọi người ai
cũng muốn xin chữ, xin những điều tốt đẹp từ ông. Và chắc hẳn ông đồ cũng
cảm thấy vui mừng trong lòng khi được nghe những câu nói "ngợi khen tài" từ
mọi người, điều đó thể hiện một sự trân trọng mà họ dành cho ông nên mới
có "bao nhiêu người thuê viết". Hành động xin chữ ấy mang một ý nghĩa to
lớn, vừa đề cao việc học hành để có kiến thức, đề cao những mối quan hệ
của mỗi con người và hướng con người ta theo một con đường tốt đẹp nhất.
Những câu thơ trong đoạn thơ này đều tập trung vào miêu tả sự tài năng của
ông đồ. Những chữ ông viết ra không chỉ là những con chữ bình thường, đó
còn là một tác phẩm thư pháp với rất nhiều tầng ý nghĩa nghệ thuật ở trong
đó. HÌnh ảnh một ông đồ dáng vẻ khoan thai, tay đưa những nét nhẹ nhàng
viết từng chữ như "phượng múa rồng bay" càng cho thấy được cái tài, cái
tâm của ông đồ được thể hiện qua từng nét bút. Những nét chữ ấy đã chứa
đựng cả một tâm hồn, cả một sự tinh hoa cũng như những khát vọng, lý
tưởng của ông đồ. Những con chữ ông viết ra là cả một sự sáng tạo không
ngừng nghỉ, một sự biến hoá những con chữ ấy thành những tác phẩm khác nhau.
Thế nhưng đến đoạn thơ thứ ba, những sự vui tươi, hứng khởi ở hai đoạn
thơ đầu đã trùng xuống, những dòng suy nghĩ của tác giả đã trở về với thực tại: Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Từ "nhưng" xuất hiện ngay đầu đoạn thơ như một dấu hiệu của sự biến động,
một sự chuyển biến dần dần đã được xuất hiện. Điệp từ "mỗi" trong câu thơ
đầu tiên khiến cho cả không gian và thời gian đều như dài ra, đều lắng đọng
và trùng xuống. Cái sự kéo dài ấy như để tự an ủi cho thực tại giờ đây việc
xin chữ đang dần trở nên ít đi, mỗi năm lại càng thêm vắng vẻ. Tác giả cũng
tự đặt cho mình câu hỏi, cũng là một câu hỏi về thời thế, không biết những
người thuê viết nay đâu, liệu có phải những tình cảm họ dành cho chữ Nho
đã phai nhạt dần khi giờ đây chữ Quốc ngữ đang ngày càng phát triển theo
dòng chảy của thời đại. Người không được thuê viết nữa cũng khiến cho
những vật đã từng được sử dụng để viết chữ kia cũng trở nên thấm đẫm nỗi
buồn. Những tờ giấy đỏ giờ đây chẳng còn thắm nữa, mực thì đọng lại trong
nghiên với một nỗi sầu thảm.
Giờ đây, sự xuất hiện của ông đồ chẳng được mấy người quan tâm, nó trái
ngược hoàn toàn với những sự kính trọng, tin yêu của mọi người dành cho ông đồ khi xưa: Ông đồ vẫn ngồi đấy Qua đường không ai hay
Hình ảnh của ông đồ "vẫn ngồi đấy" giống như xưa, vẫn là cái dáng vẻ điềm
đạm, cao quý như năm nào thế nhưng giờ đây người ta đáp lại ông bằng một
sự thờ ơ, lạnh nhạt, người đi qua đi lại nhưng chẳng ai hay biết đến ông. Tác
giả đã đứng từ xa quan sát và rồi phải thốt lên đầy cay đắng ngậm ngùi, thốt
lên vì nỗi xót xa cho sự nghiệp của những ông đồ. Những sự lãng quên, sự
thờ ơ với những ông đồ lúc này thật đáng khiến người đọc phải suy nghĩ và đồng cảm.
Có lẽ từ giây phút ấy việc xin chữ đầu năm đã trở thành một kí ức đẹp trong
tâm trí của những người thuộc thế hệ cũ, những người đã được tận mắt
chứng kiến, thưởng thức khoảng thời gian tươi đẹp của những ông đồ. Nhà
thơ đã khắc họa một bức chân dung rất thực về những ông đồ, đồng thời gửi
đến thông điệp tục xin chữ ngày Tết là một truyền thống đẹp, đáng được lưu
truyền bởi đó không chỉ là một phong tục, mà còn là một giá trị văn hóa tinh hoa của dân tộc.
Bài thơ "Ông đồ" là một trong những thi phẩm đặc sắc nhất của nhà thơ Vũ
Đình Liên. Bài thơ đã thành công trong việc bộc lộ những tình cảm chân
thành của tác giả với một nét đẹp văn hoá của dân tộc - tục xin chữ đầu năm.
Dẫu cho thời gian có trôi đi, Nho giáo không còn phát triển nữa thế nhưng
hình ảnh của ông đồ trong bài thơ sẽ luôn sống cùng năm tháng.
2. Cảm nhận về bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên - mẫu 2
Nhà thơ Vũ Đình Liên đến với thơ ca một cách đầy lặng lẽ thế nhưng cũng
không kém phần nổi bật. Mặc dù trong phong trào Thơ mới, tên tuổi của ông
không được đình đám như những Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử hay Nguyễn
Bính.. thế nhưng những gì ông tạo ra cũng đủ để làm nên một hiện tượng
khác thường. Bài thơ Ông đồ của ông được coi là một trong những thành
công bậc nhất của ông. Nhà thơ sử dụng thể thơ năm chữ ngắn gọn cùng với
ngôn từ thật giản dị thế nhưng đã gửi vào đó biết bao nỗi niềm tâm sự về
nhân tình, thế thái. Bởi vậy mà Hoài Thanh đã nói về bài thơ này như sau: "Ít
có bài thơ nào bình dị mà cảm động đến vậy".
Mở đầu bài thơ, hình ảnh của ông đồ đã hiện lên trong những suy nghĩ, hoài
niệm của nhà thơ về những ngày xưa cũ: Mỗi năm hoa đào nở Lại thấy ông đồ già Bày mực tàu giấy đỏ Bên phố đông người qua
Mỗi năm Tết đến xuân về, người ta lại bắt gặp hình ảnh của những ông đồ
bày đồ nghề đơn sơ chỉ có mực tàu, giấy đỏ trên những con phố đông đúc,
tấp nập người qua lại để cho chữ. Từ "lại" nghe thật hãnh diện, nó đã như
ngầm xác nhận một vị trí quan trọng của ông đồ trong ngày Tết. Dường như
ông đồ là một phần không thể thiếu, là một hình ảnh đã in đậm vào kí ức của
con người trong tết xưa. Có lẽ người ta cảm nhận được hương vị của Tết khi
mà nhìn thấy những ông đồ trên đường. Những câu thơ như vẽ nên trước
mắt người đọc một khung cảnh nhộn nhịp của những ngày Tết xưa. Trên
khắp các nẻo đường là những tiếng gọi nhau, những lời chúc mừng và nơi
góc phố đông là những ông đồ đang ngồi đó, lặng lẽ dùng tài hoa của mình
để làm đẹp cho đời. Những nét bút thần kỳ của ông đồ được biết bao nhiêu
người trầm trồ, thán phục:
Bao nhiêu người thuê viết Tấm tắc ngợi khen tài Hoa tay thảo những nét Như phượng múa rồng bay
Thế nhưng giờ đây khi thời thế đã đổi thay, những người yêu và nhiệt thành
với chữ Nho dường như cũng ngày càng ít đi, phong tục treo chữ, xin chữ
ngày Tết cũng đã dần biến mất. Năm sau trở lại, những hình ảnh của ông đồ
trên con phố quen thuộc xưa kia đã trở nên thật khác lạ: Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Từ một khung cảnh náo nhiệt, tấp nập trong những ngày tết xưa, giờ đây
những ông đồ đã bị rơi vào một hoàn cảnh thật đáng thương. Vẫn trên sân
khấu quen thuộc ấy, thế nhưng những người xem đã vãn, một mình ông đồ
giờ đây ngồi đấy trông thật buồn. Và nỗi buồn của ông đồ cũng đã lan sang
những sự vật quen thuộc đồng hành với ông trong sự nghiệp cho chữ. Giờ
đây những tờ giấy đỏ đã bớt thắm, mực giờ đây đã đọng lại trong nghiên vì
lâu không được dùng. Giờ đây, trong cái thời mà người ta đua nhau "vứt bút
lông đi viết bút chì", ông đồ đã hoàn toàn trở thành quá khứ. Ông đồ vẫn ngồi
đấy thế nhưng chẳng còn ai để ý tới ông: Ông đồ vẫn ngồi đấy Qua đường không ai hay Lá vàng rơi trên giấy Ngoài trời mưa bụi bay
Từng câu thơ khiến cho không khí trở nên thật ảm đạm, khiến cho người đọc
cảm nhận được những sự hụt hẫng xót thương. Hình ảnh "lá vàng rơi" khiến
người đọc liên tưởng tới một sự lụi tàn. Có lẽ người đọc đã giật mình sực
nhớ đến việc mình đã đánh mất đi tình yêu với tinh hoa của dân tộc, cái thời
đại "nghiên cánh nhạn tách mái rừng Nhan Khổng - Vẫy đuôi kình toan vượt
bể Trình Chu" đang dần đến hồi kết. Và cuối cùng, sự kết thúc cũng thực sự đến: Năm nay đào lại nở Không thấy ông đồ xưa
Mùa xuân lại tới, thế nhưng giờ đây ông đồ không còn ở đó nữa. Cho dù ông
đã cố gắng sức để bám víu lấy xã hội thế nhưng có lẽ ông không còn có đủ
sức, đủ kiên nhẫn bởi "cơm áo không đùa với khách thơ". Giờ đây ông đồ đã
rút lui khỏi xã hội hiện tại, để lùi vào dĩ vãng. Tác giả cũng đã bày tỏ những nỗi băn khoăn, day dứt:
Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ?
Nhà thơ không chỉ xót thương cho cá nhân một ông đồ nào mà là xót thương
cho cả một lớp người như ông. Tác giả sử dụng một câu hỏi tu từ để khép lại
bài thơ nhưng nó đã mở ra một câu hỏi cho người đọc suy ngẫm, trả lời:
những ông đồ tài hoa ấy giờ đây đã đi đâu về đâu.
Nói tóm lại, bài thơ Ông đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên đã thể hiện một nỗi
niềm hoài cổ, một tình thương yêu của nhà thơ với những ông đồ thời sắp tàn
lụi. Tác phẩm của ông cũng muốn nhắc nhở người đọc cần phải biết trân
trọng quá khứ và gìn giữ những giá trị tốt đẹp về văn hoá, tinh thần để không
phải nuối tiếc, ân hận.
Document Outline

  • Cảm nhận về bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên chọn l
    • 1. Cảm nhận về bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên - m
    • 2. Cảm nhận về bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên - m