Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài thơ Dục Thúy sơn | Văn mẫu lớp 10 Kết Nối Tri Thức

Văn mẫu lớp 10: Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài thơ Dục Thúy sơn gồm 2 bài văn mẫu khác nhau cực hay kèm theo gợi ý cách viết chi tiết. Qua đó giúp các em có thể tham khảo để nâng cao trình học văn học của mình với những bài văn mẫu hay sát với chương trình học.

Dàn ý vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài Dục Thúy sơn
1.Mở bài:
Giới thiệu vấn đề: cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài thơ Dục
Thúy sơn.
Khái quát vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi qua bài thơ: Dục Thúy sơn.
2. Thân bài:
2.1. Tình yêu thiên nhiên:
Qua những cảm nhận trực giác tưởng tượng, nhà văn đã gợi tả khung cảnh núi Dục
Thúy:
- "Liên hoa phù thủy thượng": hình ảnh ẩn dmới lạ, núi Dục Thúy như đóa sen
nổi trên mặt nước -> gợi khung cảnh thoát tục.
- "Tiên cảnh": nhấn mạnh núi Dục Thúy có vẻ đẹp như chốn bồng lai tiên cảnh rơi
xuống cõi trần gian "trụy trần gian".
- Những liên tưởng xuất hiện khi say ngắm thiên nhiên:
"Tháp ảnh trâm thanh ngọc": hình dung dáng núi soi bóng trên mặt nước giống
như cái trâm ngọc màu xanh.
"Ba quang kính thúy hoàn": so sánh ánh sáng sóng nước phản chiếu dáng núi
như đang soi mái tóc xanh biếc, mượt mà.
-> Đây các chi tiết đặc sắc, miêu tả cụ thể, cận cảnh núi Dục Thúy -> Nguyễn Trãi
có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế.
2.2. Tâm trạng hoài cổ và những suy ngẫm về cuộc đời:
- Hai câu thơ cuối là sự bộc lộ những suy tư về con người, về lịch sử và dân tộc:
"Hữu hoài": hoài niệm, nhớ tới Trương Hán Siêu - vị danh sĩ đời Trần.
Hình ảnh "Bi khắc tiển hoa ban" gợi nỗi niềm nhớ tiếc, thương xót của thi
nhân.
2.3. Đánh giá về đặc sắc nghệ thuật:
Nhiều hình ảnh ẩn dụ, so sánh độc đáo, thú vị.
Ngôn từ được sử dụng tinh xác.
3. Kết bài:
Khẳng định vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi.
Cm nhn v đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài thơ Dục Thúy sơn
Nguyễn Trãi tác gia lớn của dân tộc Việt Nam, ông đã rất nhiu những tác phẩm
ni tiếng nói về cảnh sông núi miêu tả v thiên nhiênng đc sắc. Bài thơ Dc
Thúy sơn đã nói v khung cảnh núi Dục Thúy, một v đẹp hùngvà nó không ch để
lại cho người đọc nhng cảm c sâu sc v khung cnh ấy người đọc còn cảm
nhận được mt tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu đất nưc ca Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi đã thành công trong việc mượn thiên nhiên để nói lên cảm xúc của chính
mình, những cảm xúc đang đan xen tạo n những khonh khắc riêng đã làm sống
động tâm hồn ý nghĩa mạnh m cho người đọc hôm nay mai sau. Khi tác giả
đang có tâm sự đó là nỗi buồn đối với đất nước, ông đang buồn rầu và những ni bun
đó được tri nghiệm trên cảnh thiên nhiên nơi đây, s din t đó mang những tâm
trng thun khiết sự lo lng v tình trạng nước nhà. Ngắm cnh t xa tác giả đang
c nhìn những s vt hiện tượng bên ngoài mình để những cái nhìn mới m da
diết nht, những hình ảnh đẹp đẽ của thiên nhiên nồng ghép với tâm trạng đượm bun
cũng đ lại cho bài thơ nhiều cảm xúc và tâm sự thi thế.
Những hình ảnh mang đậm giá trị sâu sắc qua những bia đá nó đã khắc ha nhiu cm
xúc trong tâm hồn ca mỗi con người không ch để lại cho con người những tình
cảm đối vi Dục Thúy Sơn n nói v tâm sự thi thế ca Nguyễn Trãi đối vi
đất nước đối với dân tộc của mình. Dù có ngắm nhìn cảnh thiên nhiên núi non hùng
và tráng lệ đến đâu thì tâm hồn Nguyễn Trãi vẫn là một tâm hồn tràn ngập tình yêu đất
nước, lo lắng cho tình hình thế s ông đã viết lên i thơ Dục Thúy sơn, một bài
thơ tả cnh ng tình gi gm ni, niềm tâm hồn mình đến với người đc.
Nguyễn Trãi tác gia lớn của dân tộc Việt Nam, ông đã rất nhiu những tác phẩm
ni tiếng nói về cảnh sông núi miêu tả v thiên nhiênng đc sắc. Bài thơ Dc
Thúy sơn đã nói v khung cảnh núi Dục Thúy, một v đẹp hùngvà nó không ch để
lại cho người đọc nhng cảm c sâu sc v khung cnh ấy người đọc còn cảm
nhận được mt tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu đất nưc ca Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi đã thành công trong việc mượn thiên nhiên để nói lên cảm xúc của chính
mình, nhng cảm xúc đang đan xen và tạo nên những khonh khắc riêng đã làm sng
động tâm hồn và ý nghĩa mạnh m cho ngưi đc hôm nay và mai sau. Khi tác gi
đang có tâm sự đó là ni buồn đối vi đt nưc, ông đang bun ru và những ni bun
đó được tri nghiệm trên cảnh thiên nhiên nơi đây, sự din t đó mang những tâm
trng thun khiết và s lo lng v tình trạng nưc nhà. Ngm cnh t xa tác giả đang
c nhìn những s vt hiện tượng bên ngoài mình để có những cái nhìn mới m và da
diết nht, những hình ảnh đẹp đẽ ca thiên nhiên nồng ghép với tâm trạng đượm bun
cũng đ lại cho bài thơ nhiều cảm xúc và tâm sự thi thế.
Những hình ảnh mang đậm giá tr sâu sc qua nhng bia đá nó đã khắc ha nhiu cm
xúc trong tâm hồn ca mi con ngưi nó không chỉ để lại cho con ngưi những tình
cm đi vi Dục Thúy Sơn mà nó còn nói v tâm sự thi thế ca Nguyễn Trãi đối vi
đất nưc đi với dân tộc ca mình. Dù có ngm nhìn cảnh thiên nhiên núi non hùng vĩ
và tráng lệ đến đâu thì tâm hồn Nguyễn Trãi vẫn là một tâm hồn tràn ngập tình yêu đất
nước, lo lắng cho tình hình thế s và ông đã viết lên bài thơ Dục Thúy sơn, mt bài
thơ tả cnh ng tình gi gm ni, niềm tâm hồn mình đến với người đc.
Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài Dục Thúy sơn
Nói về người anh hùng, nhà thơ, nhà văn kiệt xuất Nguyễn Trãi, vua Thánh Tông
từng câu thơ "Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo" ("Ức Trai lòng sáng tựa sao
khuê"). Quả đúng như vậy, đọc những sáng tác của ông, ta lại nhận thấy thi nhân
người tâm hồn trong trẻo, nhạy cảm, u thiên nhiên, con người quê hương đất
nước tha thiết. Điều này được thể hiện rất rõ trong tác phẩm "Dục Thúy sơn".
Trước hết, trong câu thơ mở đầu, nhà thơ giới thiệu chung về cảnh vật:
"Hải khẩu hữu tiên san;"
("Cửa biển có non tiên;")
Núi Dục Thúy được gọi bằng từ ngữ miều, đẹp đẽ "tiên san" - ngọn núi tiên.
Ngọn núi này có vị trí gần ngay cửa biển. Như vậy, chỉ với một câu thơ ngắn gọn gồm
5 tiếng, nhà thơ đã mang đến thông tin về núi Dục Thúy cùng lời khẳng định đây
chính là chốn tiên cảnh.
đã qua lại nhiều lần "tiền niên vãng hoàn" nhưng nhân vật trữ tình vẫn không
thôi choáng ngợp trước cảnh sắc tươi đẹp:
"Liên hoa phù thủy thượng;
Tiên cảnh trụy trần gian."
("Cảnh tiên rơi cõi tục;
Mặt nước nổi hoa sen.")
Với điểm nhìn từ xa, tầm bao quát rộng, con người thể quan sát toàn cảnh núi Dục
Thúy. Dáng núi được nhà thơ khéo léo ví von với đóa sen thanh cao nổi trên mặt nước
trong xanh thông qua hình ảnh ẩn dụ "Liên hoa phù thủy thượng". Trong nguyên văn,
câu thơ năm chữ không có bất kì một từ ngữ biểu thị sự so sánh nào. Thay vào đó, nhà
thơ sử dụng động từ "phù" mang nghĩa nổi. Dường như, núi Dục Thúy được đồng
nhất trực tiếp với đóa sen, gợi ra vẻ đẹp thoát tục, thanh cao như ý nghĩa biểu tượng
của loài hoa này. Đây quả hình ảnh bút pháp đặc sắc. Ngắm nhìn bức tranh toàn
cảnh nơi đây, thi cảm nhận cho rằng núi Dục Thúy chính là "tiên cảnh". Từ
"tiên" tiếp tục được sử dụng để nhấn mạnh vào vẻ huyền ảo, tráng lệ của ngọn núi.
Giờ đây, trong đôi mắt con người, Dục Thúy là cảnh đẹp ở chốn bồng lai rơi xuống hạ
giới, trần gian.
Tiếp đến, nhà thơ đi miêu tả cận cảnh, chi tiết khung cảnh thiên nhiên nên thơ:
"Tháp ảnh trâm thanh ngọc;
Ba quang kính thúy hoàn."
("Bóng tháp hình trâm ngọc;
Gương sông ánh tóc huyền.")
Có thể thấy, những liên tưởng thú vị đã xuất hiện khi con người say ngắm thiên nhiên.
Trong cảm nhận của nhân vật trữ tình, bóng tháp hiện trên mặt nước như cái trâm
ngọc màu xanh biếc, ánh sáng sóng ớc như chiếc gương soi mái tóc biếc. Hai cụm
từ "trâm ngọc", "ánh tóc huyền" gợi hình ảnh trẻ trung, trong sáng của người con gái
yêu kiều, duyên dáng. Từ đây, núi Dục Thúy hiện lên với nét đẹp trtình, thơ mộng.
Có thể nói, Nguyễn Trãi đã có những liên tưởng, bút pháp cùng mới mẻ, thú vị khi
khắc họa cảnh sắc thiên nhiên. Ông dùng vẻ đẹp của con người để so sánh, hình dung
vẻ đẹp của thiên nhiên. Đây cũng chính điểm làm nên sự khác biệt so với các nhà
thơ khác.
Đứng trước phong cảnh sơn nước hữu tình, nhà thơ đã bộc lộ nỗi niềm suy của bản
thân:
"Hữu hoài Trương Thiếu bảo;
Bi khắc tiển hoa ban."
("Nhớ xưa Trương Thiếu bảo;
Bia khắc dấu rêu hoen.")
"Hữu hoài" nghĩa chạnh nhớ, nhớ xưa. Đặt cụm từ này lên đầu câu, thi khéo
léo bày tỏ nỗi niềm thương nhớ tới vị danh đời Trần - người đặt tên cho núi Dục
Thúy, đồng thời, là tác giả của bài thơ văn khắc trên bia đá đầy "dấu rêu hoen". Chứng
kiến cảnh tượng "vật còn người mất", nhà thơ không khỏi xót thương, tiếc nhớ. Tấm
lòng "uống nước nhớ nguồn" như thấm đẫm trong từng vần thơ. Bên cạnh đó, hai câu
thơ cuối cũng là sự bộc lộ những suy ngẫm, trăn trở của thi nhân về con người, về lịch
sử và dân tộc.
Bằng hình ảnh so sánh thú vị, mới lạ, ngôn ngữ được sử dụng tinh xác, giàu sức gợi,
Nguyễn Trãi đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt sắc nơi núi Dục Thúy. Những
bút pháp liên ởng độc đáo trong miêu tả dáng núi đã cho thấy tâm hồn trong
sáng, nhạy cảm của nhà thơ. Đó là tấm lòng yêu mến, trân trọng vẻ đẹp thiên nhiên đất
trời. Hay còn là tâm trạng hoài cổ cùng suy ngẫm sâu xa về cuộc đời vô thường.
"Dục Thúy sơn" đã mang đến cho người đọc những hình dung cụ thể, nét về một
danh lam thắng cảnh của đất nước. Đọc bài thơ, ta có cảm giác như mình được tận mắt
chứng kiến vẻ đẹp núi Dục Thúy. Đồng thời, càng thêm hiểu hơn về tâm hồn thanh
cao, trong trẻo của người anh hùng Nguyễn Trãi.
| 1/6

Preview text:


Dàn ý vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài Dục Thúy sơn 1.Mở bài:
● Giới thiệu vấn đề: cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài thơ Dục Thúy sơn.
● Khái quát vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi qua bài thơ: Dục Thúy sơn. 2. Thân bài:
2.1. Tình yêu thiên nhiên:
Qua những cảm nhận trực giác và tưởng tượng, nhà văn đã gợi tả khung cảnh núi Dục Thúy:
- "Liên hoa phù thủy thượng": hình ảnh ẩn dụ mới lạ, ví núi Dục Thúy như đóa sen
nổi trên mặt nước -> gợi khung cảnh thoát tục.
- "Tiên cảnh": nhấn mạnh núi Dục Thúy có vẻ đẹp như chốn bồng lai tiên cảnh rơi
xuống cõi trần gian "trụy trần gian".
- Những liên tưởng xuất hiện khi say ngắm thiên nhiên:
● "Tháp ảnh trâm thanh ngọc": hình dung dáng núi soi bóng trên mặt nước giống
như cái trâm ngọc màu xanh.
● "Ba quang kính thúy hoàn": so sánh ánh sáng sóng nước phản chiếu dáng núi
như đang soi mái tóc xanh biếc, mượt mà.
-> Đây là các chi tiết đặc sắc, miêu tả cụ thể, cận cảnh núi Dục Thúy -> Nguyễn Trãi
có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế.
2.2. Tâm trạng hoài cổ và những suy ngẫm về cuộc đời:
- Hai câu thơ cuối là sự bộc lộ những suy tư về con người, về lịch sử và dân tộc:
● "Hữu hoài": hoài niệm, nhớ tới Trương Hán Siêu - vị danh sĩ đời Trần.
● Hình ảnh "Bi khắc tiển hoa ban" gợi nỗi niềm nhớ tiếc, thương xót của thi nhân.
2.3. Đánh giá về đặc sắc nghệ thuật:
● Nhiều hình ảnh ẩn dụ, so sánh độc đáo, thú vị.
● Ngôn từ được sử dụng tinh xác. 3. Kết bài:
Khẳng định vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi.
Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài thơ Dục Thúy sơn
Nguyễn Trãi là tác gia lớn của dân tộc Việt Nam, ông đã có rất nhiều những tác phẩm
nổi tiếng nói về cảnh sông núi và miêu tả về thiên nhiên vô cùng đặc sắc. Bài thơ Dục
Thúy sơn đã nói về khung cảnh núi Dục Thúy, một vẻ đẹp hùng vĩ và nó không chỉ để
lại cho người đọc những cảm xúc sâu sắc về khung cảnh ấy mà người đọc còn cảm
nhận được một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu đất nước của Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi đã thành công trong việc mượn thiên nhiên để nói lên cảm xúc của chính
mình, những cảm xúc đang đan xen và tạo nên những khoảnh khắc riêng đã làm sống
động tâm hồn và ý nghĩa mạnh mẽ cho người đọc hôm nay và mai sau. Khi tác giả
đang có tâm sự đó là nỗi buồn đối với đất nước, ông đang buồn rầu và những nỗi buồn
đó được trải nghiệm trên cảnh thiên nhiên nơi đây, sự diễn tả đó mang những tâm
trạng thuần khiết và sự lo lắng về tình trạng nước nhà. Ngắm cảnh từ xa tác giả đang
cố nhìn những sự vật hiện tượng bên ngoài mình để có những cái nhìn mới mẻ và da
diết nhất, những hình ảnh đẹp đẽ của thiên nhiên nồng ghép với tâm trạng đượm buồn
cũng để lại cho bài thơ nhiều cảm xúc và tâm sự thời thế.
Những hình ảnh mang đậm giá trị sâu sắc qua những bia đá nó đã khắc họa nhiều cảm
xúc trong tâm hồn của mỗi con người nó không chỉ để lại cho con người những tình
cảm đối với Dục Thúy Sơn mà nó còn nói về tâm sự thời thế của Nguyễn Trãi đối với
đất nước đối với dân tộc của mình. Dù có ngắm nhìn cảnh thiên nhiên núi non hùng vĩ
và tráng lệ đến đâu thì tâm hồn Nguyễn Trãi vẫn là một tâm hồn tràn ngập tình yêu đất
nước, lo lắng cho tình hình thế sự và ông đã viết lên bài thơ Dục Thúy sơn, một bài
thơ tả cảnh ngụ tình gửi gắm nỗi, niềm tâm hồn mình đến với người đọc.
Nguyễn Trãi là tác gia lớn của dân tộc Việt Nam, ông đã có rất nhiều những tác phẩm
nổi tiếng nói về cảnh sông núi và miêu tả về thiên nhiên vô cùng đặc sắc. Bài thơ Dục
Thúy sơn đã nói về khung cảnh núi Dục Thúy, một vẻ đẹp hùng vĩ và nó không chỉ để
lại cho người đọc những cảm xúc sâu sắc về khung cảnh ấy mà người đọc còn cảm
nhận được một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu đất nước của Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi đã thành công trong việc mượn thiên nhiên để nói lên cảm xúc của chính
mình, những cảm xúc đang đan xen và tạo nên những khoảnh khắc riêng đã làm sống
động tâm hồn và ý nghĩa mạnh mẽ cho người đọc hôm nay và mai sau. Khi tác giả
đang có tâm sự đó là nỗi buồn đối với đất nước, ông đang buồn rầu và những nỗi buồn
đó được trải nghiệm trên cảnh thiên nhiên nơi đây, sự diễn tả đó mang những tâm
trạng thuần khiết và sự lo lắng về tình trạng nước nhà. Ngắm cảnh từ xa tác giả đang
cố nhìn những sự vật hiện tượng bên ngoài mình để có những cái nhìn mới mẻ và da
diết nhất, những hình ảnh đẹp đẽ của thiên nhiên nồng ghép với tâm trạng đượm buồn
cũng để lại cho bài thơ nhiều cảm xúc và tâm sự thời thế.
Những hình ảnh mang đậm giá trị sâu sắc qua những bia đá nó đã khắc họa nhiều cảm
xúc trong tâm hồn của mỗi con người nó không chỉ để lại cho con người những tình
cảm đối với Dục Thúy Sơn mà nó còn nói về tâm sự thời thế của Nguyễn Trãi đối với
đất nước đối với dân tộc của mình. Dù có ngắm nhìn cảnh thiên nhiên núi non hùng vĩ
và tráng lệ đến đâu thì tâm hồn Nguyễn Trãi vẫn là một tâm hồn tràn ngập tình yêu đất
nước, lo lắng cho tình hình thế sự và ông đã viết lên bài thơ Dục Thúy sơn, một bài
thơ tả cảnh ngụ tình gửi gắm nỗi, niềm tâm hồn mình đến với người đọc.
Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài Dục Thúy sơn
Nói về người anh hùng, nhà thơ, nhà văn kiệt xuất Nguyễn Trãi, vua Lê Thánh Tông
từng có câu thơ "Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo" ("Ức Trai lòng sáng tựa sao
khuê"). Quả đúng như vậy, đọc những sáng tác của ông, ta lại nhận thấy thi nhân là
người có tâm hồn trong trẻo, nhạy cảm, yêu thiên nhiên, con người và quê hương đất
nước tha thiết. Điều này được thể hiện rất rõ trong tác phẩm "Dục Thúy sơn".
Trước hết, trong câu thơ mở đầu, nhà thơ giới thiệu chung về cảnh vật:
"Hải khẩu hữu tiên san;"
("Cửa biển có non tiên;")
Núi Dục Thúy được gọi bằng từ ngữ mĩ miều, đẹp đẽ là "tiên san" - ngọn núi tiên.
Ngọn núi này có vị trí gần ngay cửa biển. Như vậy, chỉ với một câu thơ ngắn gọn gồm
5 tiếng, nhà thơ đã mang đến thông tin về núi Dục Thúy cùng lời khẳng định đây
chính là chốn tiên cảnh.
Dù đã qua lại nhiều lần "tiền niên lũ vãng hoàn" nhưng nhân vật trữ tình vẫn không
thôi choáng ngợp trước cảnh sắc tươi đẹp:
"Liên hoa phù thủy thượng;
Tiên cảnh trụy trần gian."
("Cảnh tiên rơi cõi tục;
Mặt nước nổi hoa sen.")
Với điểm nhìn từ xa, tầm bao quát rộng, con người có thể quan sát toàn cảnh núi Dục
Thúy. Dáng núi được nhà thơ khéo léo ví von với đóa sen thanh cao nổi trên mặt nước
trong xanh thông qua hình ảnh ẩn dụ "Liên hoa phù thủy thượng". Trong nguyên văn,
câu thơ năm chữ không có bất kì một từ ngữ biểu thị sự so sánh nào. Thay vào đó, nhà
thơ sử dụng động từ "phù" mang nghĩa là nổi. Dường như, núi Dục Thúy được đồng
nhất trực tiếp với đóa sen, gợi ra vẻ đẹp thoát tục, thanh cao như ý nghĩa biểu tượng
của loài hoa này. Đây quả là hình ảnh và bút pháp đặc sắc. Ngắm nhìn bức tranh toàn
cảnh nơi đây, thi sĩ cảm nhận và cho rằng núi Dục Thúy chính là "tiên cảnh". Từ
"tiên" tiếp tục được sử dụng để nhấn mạnh vào vẻ huyền ảo, tráng lệ của ngọn núi.
Giờ đây, trong đôi mắt con người, Dục Thúy là cảnh đẹp ở chốn bồng lai rơi xuống hạ giới, trần gian.
Tiếp đến, nhà thơ đi miêu tả cận cảnh, chi tiết khung cảnh thiên nhiên nên thơ:
"Tháp ảnh trâm thanh ngọc;
Ba quang kính thúy hoàn."
("Bóng tháp hình trâm ngọc;
Gương sông ánh tóc huyền.")
Có thể thấy, những liên tưởng thú vị đã xuất hiện khi con người say ngắm thiên nhiên.
Trong cảm nhận của nhân vật trữ tình, bóng tháp hiện trên mặt nước như cái trâm
ngọc màu xanh biếc, ánh sáng sóng nước như chiếc gương soi mái tóc biếc. Hai cụm
từ "trâm ngọc", "ánh tóc huyền" gợi hình ảnh trẻ trung, trong sáng của người con gái
yêu kiều, duyên dáng. Từ đây, núi Dục Thúy hiện lên với nét đẹp trữ tình, thơ mộng.
Có thể nói, Nguyễn Trãi đã có những liên tưởng, bút pháp vô cùng mới mẻ, thú vị khi
khắc họa cảnh sắc thiên nhiên. Ông dùng vẻ đẹp của con người để so sánh, hình dung
vẻ đẹp của thiên nhiên. Đây cũng chính là điểm làm nên sự khác biệt so với các nhà thơ khác.
Đứng trước phong cảnh sơn nước hữu tình, nhà thơ đã bộc lộ nỗi niềm suy tư của bản thân:
"Hữu hoài Trương Thiếu bảo;
Bi khắc tiển hoa ban."
("Nhớ xưa Trương Thiếu bảo;
Bia khắc dấu rêu hoen.")
"Hữu hoài" có nghĩa là chạnh nhớ, nhớ xưa. Đặt cụm từ này lên đầu câu, thi sĩ khéo
léo bày tỏ nỗi niềm thương nhớ tới vị danh sĩ đời Trần - người đặt tên cho núi Dục
Thúy, đồng thời, là tác giả của bài thơ văn khắc trên bia đá đầy "dấu rêu hoen". Chứng
kiến cảnh tượng "vật còn người mất", nhà thơ không khỏi xót thương, tiếc nhớ. Tấm
lòng "uống nước nhớ nguồn" như thấm đẫm trong từng vần thơ. Bên cạnh đó, hai câu
thơ cuối cũng là sự bộc lộ những suy ngẫm, trăn trở của thi nhân về con người, về lịch sử và dân tộc.
Bằng hình ảnh so sánh thú vị, mới lạ, ngôn ngữ được sử dụng tinh xác, giàu sức gợi,
Nguyễn Trãi đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt sắc nơi núi Dục Thúy. Những
bút pháp và liên tưởng độc đáo trong miêu tả dáng núi đã cho thấy tâm hồn trong
sáng, nhạy cảm của nhà thơ. Đó là tấm lòng yêu mến, trân trọng vẻ đẹp thiên nhiên đất
trời. Hay còn là tâm trạng hoài cổ cùng suy ngẫm sâu xa về cuộc đời vô thường.
"Dục Thúy sơn" đã mang đến cho người đọc những hình dung cụ thể, rõ nét về một
danh lam thắng cảnh của đất nước. Đọc bài thơ, ta có cảm giác như mình được tận mắt
chứng kiến vẻ đẹp núi Dục Thúy. Đồng thời, càng thêm hiểu hơn về tâm hồn thanh
cao, trong trẻo của người anh hùng Nguyễn Trãi.