Câu hỏi lý thuyết ôn tập - Kinh tế vi mô | Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội

Câu hỏi lý thuyết ôn tập - Kinh tế vi mô | Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

1) VN đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế quan trọng trong sự nghiệp đổi mới đất nước(cuối năm
1986). Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia kinh tế, tính đến nay VN vẫn chưa phải là một nước CN.
Bằng những số liệu thực tế của nền kinh tế Việt Nam hiện nay, hãy chứng minh nhận định trên của
các chuyên gia là có cơ sở.
Trả lời: Tình hình kinh tế hiện nay, Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2022 ước tính tăng
8,02%[2] so với năm trước, đạt mức tăng cao nhất trong giai đoạn 2011-2022 do nền kinh tế khôi phục[3]
trở lại. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2022 duy trì tăng trưởng ổn đ>nh, giữ vững vai trò trụ
đỡ của nền kinh tế. Sản xuất công nghiệp quý IV/2022 có xu hướng tăng chậm lại, tốc độ tăng giá tr> tăng
thêm ước đạt 3,6% so với cùng kỳ năm trước . Tính chung cả năm 2022, giá tr> tăng thêm ngành công [10]
nghiệp tăng 7,69% so với năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,10%.
Công nghiệp hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình phát triển vì nó đưa cả
nền sản xuất vật chất và đời sống văn hóa - xã hội của đất nước lên trình độ mới. Ở mỗi thời kỳ l>ch sử,
căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa có nội dung và bước đi cụ thể, phù hợp.
Đến nay, l>ch sử nhân loại đã chứng kiến 4 cuộc cách mạng công nghiệp, cũng là các cuộc cách mạng
khoa học - kỹ thuật nói chung. Cuộc thứ nhất, vào cuối thế kỷ XVIII, khai sinh ra nền công nghiệp cơ khí,
tạo ra dây chuyền sản xuất hàng loạt, sản xuất hàng hóa, kinh tế th> trường… Cuộc thứ hai diễn ra vào
cuối thế kỷ XIX, đưa đến sự ra đời của nền công nghiệp và xã hội điện khí hóa; tạo tiền đề để chủ nghĩa
tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh lên độc quyền đế quốc. Cuộc thứ ba, vào giữa thập kỷ 70 của thế kỷ
XX, mở ra thời đại điện tử hóa, tin học hóa. Cuộc thứ tư, từ đầu thế kỷ XXI, đánh dấu bước ngoặt chuyển
đổi số của toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của con người. Mỗi cuộc cách mạng tạo ra một trình độ
công nghệ ngày càng hiện đại cho quá trình công nghiệp hóa lâu dài của nhân loại.
Đối với Việt Nam, khi chính thức bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng chủ trương tiến
hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, và từ cuối thế kỷ XX đến nay, quá trình này được xác đ>nh đầy
đủ là công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là một quá trình kinh tế, kỹ thuật - công nghệ và kinh tế - xã hội
toàn diện, sâu rộng nhằm chuyển đổi nền sản xuất và xã hội Việt Nam từ trình độ nông nghiệp lạc hậu lên
trình độ công nghiệp với các trình độ công nghệ ngày càng tiên tiến, hiện đại, văn minh.
Qua dẫn chứng về số liệu ta thấy ngành công nghiệp nước ta vẫn chưa thực sự phát triển đúng với tiềm
năng của nó, vẫn còn nhiều mặt hạn chế khiến cho đất nước vẫn chưa phát triển thành một nước công
nghiệp. Việt Nam khẳng đ>nh phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá để từng bước thực hiện mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
học đất nước đòi hỏi phải có nguồn lực.
Đối với Việt Nam, cả hai loại nguồn lực tài chính và tài nguyên thiên nhiên đều hạn chế nên, theo kinh
nghiệm của nhiều quốc gia đi trước, nguồn lực con người đương nhiên sẽ đóng vai trò quyết đ>nh.
thiếu thốn về mặt nguồn lực nhất là khả năng con người còn hạn chế nên chưa tạo ra được nhiều loại máy
móc hiện đại phục vụ cho quá trình phát triển công nghiệp, nguồn lực tài nguyên thiên nhiên còn b> khai
thác bừa bãi nhiều, Mô hình CNH, HĐH của V xt Nam vẫn còn đang trong quá trình hoàn thiện; chưa
được cụ thể hóa thành những tiêu chí cụ thể của môxt nước công nghiệp. Thực hiện CNH, HĐH chưa bằng
thể chế của nền kinh tế th> trường, tuân theo các quy luật khách quan của cơ chế th> trường. Chiến lược
CNH, HĐH trong thời gian dài chưa xác đ>nh rõ trọng tâm, trọng điểm cần thiết cho từng giai đoạn phấn
đấu. Nhiều cơ chế, chính sách còn thiếu, hoặc thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng k>p nhu cầu phát triển của nền
kinh tế. CNH, HĐH theo yêu cầu “rút ngắn”, cũng chưa làm rõ được những nội dung cơ bản, và động lực
để thực hiện quá trình CNH, HĐH rút ngắn. Xu hướng kinh tế thế giới: Công nghiệp thế giới có xu hướng
tăng chậm hơn, trong khi áp lực cạnh tranh giữa các nước công nghiệp mới và đang phát triển càng “gay
gắt”. Do khoa học và công nghệ phát triển nhanh, nhiều nền kinh tế đang phát triển sẽ b> ảnh hưởng từ
nguy cơ chuyển sang thời kỳ hậu công nghiệp sớm hơn so với dự kiến. Phát triển kinh tế và ngành công
nghiệp: Tăng trưởng kinh tế nước ta vẫn dựa nhiều vào đầu tư vốn và tăng trưởng tín dụng, chậm chuyển
sang phát triển theo chiều sâu, dựa trên khoa học công nghệ và tri thức. Do đó, nền kinh tế nước ta phát
triển thiếu bền vững, chất lượng tăng trưởng không cao. Tỷ trọng các ngành trong cơ cấu kinh tế, vẫn còn
khoảng cách lớn để đạt đến mức là một nước có nền kinh tế phát triển. Quá trình chuyển d>ch cơ cấu kinh
tế chậm, đang đặt ra các thách thức đối với nước ta trong việc thực hiện các mục tiêu CNH, HĐH. Chỉ số
GDP/người: Từ năm 2000 đến nay, GDP/người của nước ta đã tăng khá nhanh, đến năm 2018 đạt 2.590
USD/người, gấp hơn 6,6 lần so với năm 2000. Tính theo sức mua tương đương thì GDP/người của Việt
Nam hiện đạt khoảng 7.435 USD/người.
Từ số liệu các năm cho thấy, mặc dù GDP/người của Việt Nam đã có những bước cải thiện so với mức
bình quân của thế giới (từ 26,0% năm 2000, lên 34,2% năm 2010 và 41,3% năm 2018), tuy nhiên trong
gần 20 năm phát triển kinh tế đã qua cho thấy, khoảng cách chệch lệch của Việt Nam với thế giới vẫn còn
ở mức khá cao. So sánh tương đối với một số quốc gia trong “Các nước mới công nghiệp” (NICs) thì Việt
Nam hiện tương đương với Ấn Độ (đạt 7.874 USD); thấp hơn Philipine (8.936 USD); bằng 1/2 của
Indonesia, Nam Phi, Braxin và từ 1/3-1/4 của Mexico, Thổ Nhĩ Kỳ và Malaysia.
Có thể nói hiện nay, chỉ số GDP/người là một vấn đề lớn của nền kinh tế nước ta, trong việc tính toán và
xây dựng mục tiêu phát triển kinh tế trong các giai đoạn tới.
2) Phân tích mô hình 2 khu vực của Arthur Lewis và đề xuất khả năng áp dụng vào hoàn cảnh VN,
nhằm tìm ra con đường phát triển kinh tế cho VN hiện nay.
Trả lời: Mô hình 2 khu vực của Arthur Lewis là mô hình đưa ra các giải thích về mối quan hệ giữa nông
nghiệp và công nghiệp trong quá trình tăng trưởng gọi là “Mô hình hai khu vực cổ điển”. Mô hình này
phân tích quá trình tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển.
Đặc trưng: là phân chia nền kinh tế thành 2 khu vực công nghiệp và nông nghiệp trong nền kinh tế nh>
nguyên và nghiên cứu quá trình di chuyển lao động giữa hai khu vực. Khu vực nông nghiệp, ở mức độ tồn
tại, có dư thừa lao động và lao động dư thừa này dần dần được chuyển sang khu vực công nghiệp. Sự phát
triển của khu vực công nghiệp quyết đ>nh quá trình tăng trưởng của nền kinh tế, phụ thuộc vào khả năng
thu hút lao động dư thừa do khu vực nông nghiệp tạo nên và khả năng đó lại phụ thuộc vào tốc độ tích lũy
vốn của khu vực công nghiệp. Mô hình Lewis trên một mức độ nhất đ>nh còn giải thích nguồn gốc những
hậu quả xã hội, của sự phân hóa giàu nghèo trong quá trình tăng trưởng kinh tế.
Cơ sở nghiên cứu:
Khu vực nông nghiệp có lợi nhuận biên giảm dần theo quy mô và tiến tới bằng 0. Nguyên nhân: do quy
mô sản xuất nn ngày càng tăng lên đòi hỏi phải sử dụng đất đai ngày càng xấu hơn, dẫn đến chi phí sản
xuất tăng dần.
Khi ruộng đất có xu hướng cạn kiệt dần thì lao động trong khu vực nông nghiệp vẫn tiếp tục tăng và dẫn
đến hiện tượng dư thừa ngày càng phổ biến. Ở thành th> lao động dư thừa khi họ có khả năng làm việc, có
mong muốn làm việc nhưng không tìm được việc. Ở nông thôn lao động dư thừa khi họ có việc làm
nhưng năng suất lao động thấp. Sản phẩm cận biên của lao động giảm dần và tiến tới bằng không.
Quan điểm đầu tư:
Giai đoạn 1 (NN dư thừa LĐ): tăng trưởng phụ thuộc vào quy mô tích lũy, đầu tư của công nghiệp. Tập
trung đầu tư cho công nghiệp
Giai đoạn 2 (khi hết dư thừa LĐ): đầu tư từ lợi nhuận dùng để:Đầu tư cho NN theo chiều sâu (tăng
NSLĐ). Đầu tư cho CN, nhất là các ngành CN phục vụ cho NN
Kết luận: Khu vực nông nghiệp mang tính trì trệ tuyệt đối, cần giảm dần quy mô, tỷ lệ đầu tư, chuyển
nhân lực dư thừa vào công nghiệp và mở rộng quy mô, tỷ lệ đầu tư, chuyển nhân lực dư thừa vào công
nghiệp và mở rộng quy mô, tốc độ của công nghiệp để tiếp tục duy trì tăng trưởng.
Áp dụng vào nền kinh tế VN
Hiện tượng dư thừa lao động tại VN bắt nguồn từ:
Gia tăng dân số, gia tăng áp lực việc làm không tương thích với khả năng tạo việc làm từ nội bộ nền kinh
tế.
Mâu thuẫn giữa cơ cấu lao động với cơ cấu ngành nghề của nền kinh tế.
Chất lượng đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu của th> trường.
Mâu thuận giữa nhu cầu giải quyết việc làm với năng lực tổ chức giải quyết việc làm.
Đề xuất mô hình chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp theo hướng phát
triển bền vững ở Việt Nam trong những năm tới.
Kiến ngh> chuyển từ mô hình thu hút lao động thông qua phát triển các khu công nghiệp là chủ yếu sang
mô hình đa dạng hóa các hình thức tạo việc làm, kết hợp tạo việc làm ở các khu công nghiệp và đô th>, coi
trọng XKLĐ, lấy phát triển ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn là chủ yếu để thu hút lao động ở khu
vực nông nghiệp, giảm sức ép dân số cho khu vực đô th>.
Đẩy mạnh phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn qua các hình thức kinh tế hộ, kinh tế
HTX,…
Tiếp tục phát triển và tổ chức lại hợp lý hệ thống đô th>, đẩy mạnh đô th> hóa nông thôn để giảm tải cho
các đô th> lớn.
Tổ chức giải quyết việc làm cho lao động ở khu vực nông nghiệp thông qua XKLĐ.
3) Phân tích các hình thức biểu hiện của công bằng xã hội và sử dụng dữ liệu kinh tế tại
Vn hiện nay để đánh giá về thực trạng công bằng ở Vn.
Một là, công bằng xã hội thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế th> trường đ>nh hướng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Từ năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước; và, một trong những dấu ấn quan trọng là quan điểm phát triển nền kinh tế th> trường
(KTTT) đã bước đầu được đ>nh hình. Từ tiền đề quan trọng đó, thể chế KTTT đ>nh hướng xã hội chủ
nghĩa (XHCN) ngày càng được hoàn thiện và được chứng minh tính đúng đắn trên thực tế khi giúp đất
nước ta thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, kinh tế tăng trưởng nhanh, xã hội ổn đ>nh, đời sống
nhân dân ngày càng được cải thiện. Song, lại có một thực tế nảy sinh, cùng với thành tựu đạt được về
kinh tế trong quá trình phát triển KTTT, khoảng cách giàu - nghèo lại tăng lên. Nhìn vào hiện tượng đó,
có ý kiến cho rằng, nếu Việt Nam thực hiện KTTT sẽ không thể có công bằng xã hội (CBXH), tức là, thực
hiện KTTT sẽ phải chấp nhận hy sinh CBXH để đổi lấy sự tăng trưởng kinh tế. Hai là, thực hiện công
bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển kinh tế. Trước đổi mới và ở giai đoạn đầu của đổi mới, đã
từng có không ít ý kiến cho rằng, Việt Nam còn nghèo, kinh tế chưa phát triển, cho nên, nhiệm vụ trước
mắt là phát triển kinh tế, khi nào kinh tế phát triển cao mới có nền tảng, điều kiện vật chất để thực hiện
CBXH. Ý kiến này thoáng qua dường như có vẻ hợp lý, nhưng thực chất không phù hợp với quan điểm,
mục tiêu của Đảng ta cũng như bản chất của chế độ XHCN mà Việt Nam đang xây dựng Ba là, công bằng
xã hội không có nghĩa là cào bằng, “bình quân chủ nghĩa”. Trên thực tế, sự đồng nhất CBXH với bình
đẳng xã hội đã từng là cơ sở lý luận của chủ nghĩa bình quân, của quan niệm sai lầm cho rằng không thể
đạt được đồng thời mục tiêu kép là công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế. Do đó, quan điểm trên đây là
một bước tiến trong tư duy của Đảng về CBXH trong điều kiện KTTT đ>nh hướng XHCN. Bốn là, thực
hiện phân phối phù hợp - điều kiện căn bản để có công bằng xã hội Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả
khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho
mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình”(11). Và, phải quan tâm “xây dựng,
thực hiện các chính sách phù hợp với các giai tầng xã hội;... giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội
bức xúc, những mâu thuẫn có thể dẫn đến xung đột xã hội... quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ
phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu
hướng gia tăng phân hóa giàu – nghèo Đến nay sau hơn 35 năm đổi mới, quá trình thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội đã đạt được những thành tựu to lớn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, việc gắn kết phát triển
kinh tế với phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội đã được
thực hiện có hiệu quả; tạo cơ sở kích thích, khơi dậy và phát huy tính tích cực, năng động của con người.
Nhờ vậy, các giai tầng xã hội và các chủ thể kinh tế tự do, tự chủ đầu tư, phát triển kinh tế, xã hội, nâng
cao thu nhập và chất lượng cuộc sống cả về vật chất và tinh thần. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ
tuổi giảm từ 6,9% của năm 2001 xuống 3,22% năm 2021. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình trong 35
năm qua đạt khoảng 7%/năm. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng hơn 23 lần, từ 159 USD/năm
(1985) lên 3.743 USD/năm (2021). Kim ngạch xuất, nhập khẩu tăng từ 2,4 tỷ USD (1990) lên 660 tỷ
USD (2021). Công tác xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả nổi bật, được Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế
đánh giá cao. Việt Nam là một trong 30 quốc gia đầu tiên trên thế giới và là nước đầu tiên ở châu Á áp
dụng chuẩn nghèo đa chiều. Tỷ lệ hộ nghèo mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống
còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều…
Đây là cơ sở, điều kiện có tính quyết đ>nh để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
4) Phân tích thực trạng bình đẳng giới hiện nay ở Việt Nam. Hãy so sánh vấn đề bình đẳng giới ở
khu vực thành thị và nông thôn, so sánh bình đẳng giới giữa miền Bắc, miền Trung và miền nam,
giữa các dân tộc đang sinh sống trên lãnh thổ VN.
TL: Ở Việt Nam hiện nay, vấn đề bình đẳng giới vẫn là một vấn đề đáng quan ngại. Mặc dù các chính
sách đã được triển khai, và cũng đã đem lại những kết quả nhất đ>nh khi phụ nữ ngày càng có tiếng nói
trong xã hội. Tuy nhiên, ở đâu đó bất bình đẳng giới vẫn còn tồn tại và kìm hãm sự phát triển tốt nhất của
xã hội.
Trên thực tế, phụ nữ và các bé gái ở Việt Nam vẫn còn ch>u nhiều thiệt thòi so với nam giới trên một số
lĩnh vực nhất đ>nh. Tình trạng này diễn ra nhiều ở những vùng kém phát triển hay đồng bào dân tộc thiểu
số.
_ So sánh bình đẳng giới ở nông thôn và thành th>:
* Ở nông thôn
- Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về th> trường lao động và đào tạo nghề với các thông tin tách biệt theo
giới tính.
- Phát triển các trung tâm đào tạo nghề và giới thiệu việc làm cho phụ nữ.
- Tăng cường khả năng tiếp cận của phụ nữ với các nguồn vốn tín dụng, vốn từ chương trình xóa đói,
giảm nghèo, tạo điều kiện để phụ nữ được tập huấn về cách sử dụng các nguồn vốn đó.
- Có các biện pháp bảo đảm cho phụ nữ được tiếp cận bình đẳng về giáo dục, được nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ
- Có chế độ khuyến khích phụ nữ ở vùng sâu, vùng xa và vùng dân tộc ít người được học trung học, vào
các trường nội trú, trường cao đẳng và đại học.
- Thực hiện chính sách hỗ trợ phụ nữ và trẻ em gái b> nghèo, có các biện pháp điều chỉnh sự tách biệt về
giới trong ngành học, kết hợp giới vào các chương trình hướng nghiệp, rà soát sách giáo khoa và loại bỏ
các quan niệm, hình ảnh rập khuôn về giới.
- Nâng cao tỷ lệ nữ ở các v> trí quản lý ở các cấp và bậc học.
- Xây dựng các quỹ khuyến học cho nữ và xác đ>nh chỉ tiêu nữ ở các khóa đào tạo và đào tạo lại ở các
ngành và các cấp.
- Giảm dần gánh nặng công việc gia đình cho phụ nữ thông qua chú trọng đầu tư vào công nghệ phục vụ
gia đình, các dự án nước sạch và năng lượng nông thôn
* Ở thành th>:
- Thông qua các hoạt động tuyên truyền nhằm góp phần nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi của các
tầng lớp nhân dân đối với công tác bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới
- Giảm thiểu, tiến tới chấm dứt tình trạng bạo lực, xâm hại đối với phụ nữ và trẻ em; đẩy mạnh công tác
phòng ngừa, phát hiện và ngăn chặn, xử lý k>p thời các vụ bạo lực, xâm hại đối với phụ nữ và trẻ em.
- Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về các chính sách an sinh xã hội, bình đẳng giới và phòng
ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới bằng nhiều hình phong phú, đa dạng
- Tăng cường giáo dục kiến thức, kỹ năng bảo vệ, phòng ngừa bạo lực, xâm hại cho phụ nữ và trẻ em, các
thành viên gia đình, người làm công tác bình đẳng giới và trẻ em
_ Bình đẳng giới giữa các dân tộc
Các dân tộc đều là “anh em ruột th>t”. Đàn bà ngang quyền đàn ông. Mọi công dân ở Việt Nam đều được
bảo đảm quyền tham gia hệ thống chính tr>, tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, ứng cử vào Quốc hội
và Hội đồng nhân dân các cấp. Những năm gần đây tỷ lệ người dân tộc thiểu số tham gia vào bộ máy
chính tr> ngày càng tăng. Số lượng đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số luôn chiếm tỷ lệ cao so với
tỷ lệ dân số. Trong 4 nhiệm kỳ Quốc hội liên tiếp, số đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số chiếm từ
15,6% đến 17,27%, cao hơn tỷ lệ người dân tộc thiểu số trên tổng số dân là 14,35%.
Nhờ những chính sách và chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, tình hình kinh tế, xã hội ở các
vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được cải thiện rõ rệt. Từ năm 2007 đến nay đã có 118.530 hộ
đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn được vay vốn, 33.969 hộ được hỗ trợ phát triển sản xuất,
80.218 hộ được hỗ trợ mở rộng quy mô chăn nuôi, 4.343 hộ được hỗ trợ mở rộng sang ngành nghề d>ch
vụ.
5) Hãy đề xuất các biện pháp chống lại nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em VN. Hãy sử dụng các tư liệu
của ngành truyền thông để đánh giá về công tác này.
Thực trạng: Trong 2 năm 2005-2006, cả nước phát hiện 568 vụ, 993 đối tượng phạm tội buôn bán phụ nữ,
trẻ em. Trong số 1.518 nạn nhân, số phụ nữ b> lừa bán ở lứa tuổi từ 18 đến 35 chiếm đa số, gồm 511 vụ
với 882 đối tượng tham gia.” -“ So với năm 2005, số vụ buôn bán PNTE của năm 2006 được phát hiện
nhiều hơn 72%; số đối tượng tăng 89% và số người b> hại tăng 138%” -“Từ năm 1998 đến nay (9 năm) cả
nước xác đ>nh được 33 tuyến, 139 đ>a bàn trọng điểm thường diễn ra hoạt động buôn bán PNTE ra nước
ngoài; đưa vào diện quản lý 2.048 đối tượngvới 654 đối tượng có liên quan, lập danh sách 5746 PNTE b>
bán ra nước ngoài; 7940 PNTE vắng mặt lâu ngày tại đ>a phương nghi đã b> bán.”
Mặc dù phong trào phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em (PNTE) được thực hiện rộng khắp
trên phạm vi toàn quốc, nhất là PNTE ở các vùng có nguy cơ cao đã được nâng cao, song tình hình hoạt
động của tội phạm buôn bán PNTE vẫn diễn biến phức tạp. Tính chất và qui mô hoạt động phạm tội có
chiều hướng gia tăng, có tổ chức chặt chẽ và xuyên quốc gia…Bọn tội phạm thường lợi dụng triệt để số
PNTE ở các vùng nông thôn nghèo, có trình độ học vấn thấp,hoàn cảnh kinh tế khó khăn, hứa tìm việc
làm thích hợp, nhẹ nhàng ở thành phố, th> xã với mức lương ổn đ>nh, sau đó tìm mọi cách đưa qua biên
giới bán cho các chủ chứa hoặc các tổ chức tội phạm ở nước ngoài.”
Đề xuất giải pháp:
Phải có sự phối hợp chặt chẽ về pháp luật với các nước láng giềng liên quan: Để có thể kiểm soát ngăn
chận việc buôn bán PNTE qua biên giới, VIỆT NAM phải có sự phối hợp chặt chẽ với chính quyền các
nước láng giềng có liên quan như Trung Quốc và Campuchia trong việc phòng, chống tội phạm này với
việc hoàn chỉnh khung pháp lý phù hợp với đặc điểm tình hình của mỗi nước, và luật phải được thi hành
nghiêm minh rốt ráo.
Hiện nay, tại Campuchia dù có luật về bài trừ nạn mua bán phụ nữ trẻ em có từ 1996 nhưng đến nay kết
quả thực hiện cũng rất hạn chế, lại chỉ bắt được một vài vụ nhỏ xảy ra trong nội đ>a, những vụ buôn người
xuyên biên giới thì chưa phát hiện được trong khi chưa có luật về mại dâm và chưa có luật về bằng chứng
nên khó khăn trong xét xử loại tội phạm này. Thời gian đưa ra xét xử các vụ án liên quan tới mua bán phụ
nữ, trẻ em cũng rất lâu, sơ thẩm từ 4 đến 6 tháng, phúc thẩm từ 1 đến 2 năm, làm cho nạn nhân chán nản
không muốn tham gia tố tụng.. Đó là chưa kể đa số nạn nhân ra trước tòa đều lên tiếng bảo vệ chủ chứa,
nói b> cảnh sát ép khai như vậy.
Xóa đói giảm nghèo- Nâng cao trình độ dân trí: Theo kết quả nghiên cứu về thực trạng phụ nữ, trẻ em b>
lừa bán ra nước ngoài do Bộ Công an hợp tác với tổ chức UNICEF (Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc) thực
hiện, nguyên nhân chủ yếu để dẫn đến tình trạng trên ngày càng tăng là do đời sống kinh tế còn nghèo
nàn, trình độ dân trí, sự hiểu biết còn thấp. Trong số trên 1.750 nạn nhân của những vụ “buôn người”, có
hơn một nửa là người mù chữ hoặc chỉ dừng lại ở cấp tiểu học. Nghề nghiệp của các nạn nhân trước khi
b> lừa bán ra nước ngoài chủ yếu là làm ruộng và thất nghiệp. Những khó khăn trong cuộc sống, hạn chế
về trình độ nhận thức đã “đẩy” họ trở thành “miếng mồi” ngon cho những tên “buôn người”.
Như vậy, phải giải quyết bài toán xã hội là sự đói nghèo cả 2 mặt vật chất lẫn tinh thần, vì việc phòng
chống tệ nạn buôn bán PNTE chỉ đạt được hiệu quả tích cực với sự tham gia của chính những đối tượng
có nguy cơ trở thành nạn nhân. Nói một cách cụ thể, là làm sao cho tất cả người dân có đời sống kinh tế
ổn đ>nh, có công ăn việc làm, có khả năng thu nhập để có thể thỏa mãn phần nào nhu cầu đời sống trong
nền kinh tế th> trường có quá nhiều hàng hóa, tiện nghi. Thêm vào đó, người dân phải có nền tảng tri thức
tối thiểu để không chỉ hiểu được những điều luật pháp cấm đoán mà còn phải nhận thức được giá tr> nhân
bản của chính mình mà không làm những điều đi ngược với đạo đức xã hội.
Để làm được điều này, cần có chính sách hỗ trợ tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập qua dạy
nghề, cho vay vốn…cho đối tượng phụ nữ có nguy cơ cao ở những vùng khó khăn, song song với việc
trang b> kiến thức cho họ về nguy cơ b> buôn bán với viễn ảnh tương lai đen tối nếu chẳng may b> sa vào.
Thực tế hiện nay, chỉ mới tại thành phố Hồ Chí Minh, được Hội Liên Hiệp Phụ nữ các cấp triển khai có
hiệu quả các chương trình hỗ trợ cho vay vốn, tìm việc làm….nhưng vẫn còn một số nơi còn ngại khó
chưa thực sự tích cực, nên hiệu quả còn hạn chế.
Vấn đề thực sự xóa mù chữ, phổ cập giáo dục cũng hết sức cần thiết cho những đối tượng có nguy cơ trở
thành nạn nhân của tội phạm buôn bán PNTE, vì nhờ đó họ có thể tiếp cận với mọi thông tin từ các
phương tiện truyền thông để tự bảo vệ mình. Đồng thời sự mở mang trí óc bằng kiến thức học hành căn
bản cũng giúp rất nhiều cho con người nhận ra những điều phải trái.
Cần đưa vào chương trình giáo dục ở bậc Tiểu học và Trung học vấn đề buôn bán PNTE với những
phương thức phòng ngừa trong môi trường xã hội phức tạp cũng như giúp cho các em thấy được tính chất
phi nhân tội ác của để các em hình thành ý thức đạo đức ngay từ tuổi nhỏ. Do vậy, ngành giáo dục cũng
phải dự phần tham gia chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán PNTE.
Tăng cường hiệu quả của việc tuyên truyền phổ biến giáo dục: Mặt khác, phải triển khai rộng rãi chương
trình hành động qua các cuộc tuyên truyền phổ biến giáo dục thường xuyên đến nhân dân, mà các đoàn
thể đ>a phương, khu phố, tổ dân phố là lực lượng nòng cốt, để vừa giúp người dân cảnh giác đối với thủ
đoạn của bọn tội phạm, vừa xây dựng họ thành lực lượng phòng, chống, phát hiện k>p thời bọn tội phạm
ngay khi chúng manh nha tội ác. Đồng thời cũng cần có biện pháp đối với những loại người vô tình, thờ ơ
trước tội ác. Nếu có sự góp tay của quần chúng thì không thể nào tồn tại những điểm tập kết phụ nữ, trẻ
em như đã xảy ra rất nhiều trong thời gian qua tại tp.HCM. Ngoài ra cũng sẽ có tác động dối với thành
phần phụ nữ lười lao động, có khuynh hướng thích sống thiên về bản năng hưởng thụ, sẵn sàng bán rẻ
danh dự, thân xác mình, mà “chương trình 3 giảm” của thành phố đã có những biện pháp để nhằm đẩy lùi
tệ nạn mãi dâm, nhưng vẫn còn tồn tại lén lút, và đây cũng chính là những đầu mối nguy cơ dẫn dắt cho
việc buôn bán PNTE ra nước ngoài.
Đối với trẻ em, đã có Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em các cấp ch>u trách nhiệm. Tuy nhiên, thành thật
mà nói, lực lượng này ở nhiều đ>a phương còn thiếu năng lực và nhiệt tình, cho nên vẫn còn rất nhiều tình
trạng trẻ em bỏ học, trẻ em b> cha mẹ ngược đãi, b> bán, mà không hề được đ>a phương quan tâm. Nếu
mỗi phường, mỗi xã chú ý hơn đến từng gia đình để biết được hoàn cảnh của các em trong đ>a phương
mình và sẵn sàng can thiệp giúp đỡ k>p thời, chận đứng mọi trường hợp vi phạm quyền trẻ em, để các em
được sống trong sự chở che, bảo bọc của người lớn, thì vấn đề buôn bán trẻ em không thể nào tồn tại.
6) Phân tích nguyên nhân của tình trạng nghèo đói tại VN. Sử dụng số liệu của ngành truyền thông
để minh họa cho các phân tích nêu trên và đề xuất các giải pháp cụ thể của công cuộc xóa đói giảm
nghèo tại VN.
Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn các nhu cầu cơ bản của con
người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế – xã hội và
phong tục tập quán của đ>a phương”. Đói nghèo ở Việt Nam không chỉ được nhìn nhận ở phương diện
thiếu thốn những nhu cầu vật chất tối thiểu như ăn mặc, giáo dục, y tế mà ở cả phương diện thu nhập hạn
chế, thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để đảm bảo tiêu dùng trong những lúc khó khăn và dễ b> tổn
thương trước những đột biến bất lợi, ít có khả năng truyền đạt nhu cầu và những khó khăn tới người có
khả năng giải quyết, ít được tham gia vào quá trình ra quyết đ>nh.
Nguyên nhân mang tính lịch sử:
Việt Nam xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu, lại phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh lâu dài và
gian khổ, những tổn thất về con người, về vật chất và tinh thần do chiến tranh để lại là trở ngại ảnh hưởng
lớn đến việc phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam.
Sau khi thống nhất, Nhà nước Việt Nam đã thực thi một số chính sách kinh tế không thành công đã để lại
tác động xấu đến nền kinh tế làm suy kiệt nguồn lực của Nhà nước và Nhân dân.
Các ngành sản xuất ở Việt Nam xuất phát điểm là yếu kém, cụ thể: sản xuất nông nghiệp đơn điệu, sản
xuất công nghiệp thiếu hiệu quả, nền thương nghiệp tư nhân không phát triển, nền thương nghiệp quốc
doanh không đủ sức cung cấp hàng hoá và d>ch vụ cho nhu cầu xã hội.
Một bộ phận lao động dư thừa ở nông thôn không được đào tạo, không được khuyến khích ra thành th>
lao động. Thất nghiệp tăng cao trong thời gian trước đổi mới.
Số liệu truyền thông minh hoạ cho các phân tích trên: tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo đã tăng từ 5,2% (năm
2020) lên 9,35% (năm 2022). Điều này đồng nghĩa với việc Việt Nam có thêm 10 triệu người nghèo trong
giai đoạn 2021-2025. Đây là thông tin được đưa ra tại Lễ Công bố Báo cáo Nghèo đa chiều: Thúc đẩy
giảm nghèo nhanh và bền vững theo mọi chiều cạnh và mọi nơi ở Việt Nam.
Tỷ lệ hộ thiếu hụt các d>ch vụ xã hội cơ bản có xu hướng giảm qua các năm ở đa số các chỉ số. Điều này
cho thấy các hộ gia đình Việt Nam tiếp cận ngày càng tốt hơn với các d>ch vụ xã hội cơ bản. Riêng năm
2020, do tác động của đại d>ch Covid-19 nên xu hướng giảm này không còn tiếp diễn ở một số chỉ số. Chỉ
số có mức độ thiếu hụt nhiều nhất là bảo hiểm y tế, tuy nhiên đây cũng là chỉ số có mức giảm nhanh nhất,
từ 40,6% năm 2016 giảm xuống còn 19,5% năm 2020. Khám chữa bệnh và giáo dục trẻ em là các chỉ số
có mức độ thiếu hụt rất ít. Các chỉ số có mức độ thiếu hụt không thay đổi đáng kể qua các năm là tài sản
tiếp cận thông tin, khám chữa bệnh, giáo dục trẻ em và giáo dục người lớn.
MPI chung cả nước giảm từ 0,035 năm 2016 xuống còn 0,016 năm 2020 cho thấy tình trạng nghèo đa
chiều ở Việt Nam đã được cải thiện đáng kể. Xu hướng này diễn ra ở cả khu vực thành th>, nông thôn và 6
vùng kinh tế. Tình trạng nghèo đa chiều trong giai đoạn 2016-2020 được cải thiện là do tỷ lệ hộ nghèo
(độ rộng của nghèo) giảm nhanh, còn mức độ thiếu hụt (độ sâu của nghèo) không có sự thay đổi đáng kể.
Tình trạng nghèo đa chiều vẫn còn có sự chênh lệch tương đối lớn giữa khu vực thành th> và nông thôn.
Năm 2020, MPI của khu vực nông thôn là 0,019 cao gần gấp 2 lần khu vực thành th> chỉ là 0,010. Các
vùng có tình trạng nghèo đa chiều cao gồm: Tây Nguyên, Trung du và miền núi phía Bắc và Đồng bằng
sông Cửu Long. Đồng bằng sông Hồng là vùng có tình trạng nghèo đa chiều thấp nhất.
Nguyên nhân từ thực tiễn:
Do Chính phủ thường xuyên điều chỉnh mức chuẩn nghèo cho tiếp cận với mức chuẩn nghèo thế giới, đối
với các nước đang phát triển hiện nay mức là 1USD/người/ngày. Số lượng dân cư sống ở các vùng nông
thôn cao 67,86% (năm 2014), trong khi đó tổng sản phẩm quốc dân ở khu vực nông thôn rất thấp. Hệ số
Gini là 0,434 và hệ số chênh lệch thu nhập giữa các nhóm thu nhập là 9,35 nên sự bất bình đẳng cao.
Người dân, đặc biệt là nông dân ch>u nhiều rủi ro, thiên tai, d>ch bệnh, thất nghiệp, giá cả tăng cao, chính
sách thay đổi, hệ thống hành chính kém minh bạch, quan liêu, tham nhũng, do đó nguy cơ tái nghèo cao.
Nền kinh tế Việt Nam đang phát triển nhưng chưa nhanh và không đảm bảo tính bền vững.
Giải pháp:
Tiếp tục triển khai thực hiện các chính sách dân tộc đang còn hiệu lực thi hành, đặc biệt quan tâm giải
quyết các khó khan trong đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số rất ít người, đảm bảo mức sống
của các dân tộc này tương đương với các dân tộc khác trong vùng theo mục tiêu Đề án đề ra đến năm
2025 .
Chủ động phối hợp cùng với các sở, ngành, đ>a phương tham mưu Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh triển
khai có hiệu quả Chương trình Mục tiêu Quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu
số và miền núi giai đoạn 2021-2030 theo nguyên tắc: “Nhà nước và Nhân dân cùng làm”.
Đổi mới tư duy tổ chức thực hiện triển khai chính sách dân tộc theo hướng phân cấp cho huyện, xã trực
tiếp quản lý nguồn lực, ch>u trách nhiệm tổ chức thực hiện các dự án cụ thể;, chuyển hướng đầu tư phát
triển tập trung giải quyết những vấn đề bức thiết về đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số, như: tình
trạng thiếu đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt; thực hiện các giải pháp hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo sinh
kế như: Hỗ trợ trồng rừng, bảo vệ rừng; hỗ trợ phát triển sản xuất, xác đ>nh cơ cấu cây trồng, vật nuôi chủ
lực để sản xuất hàng hóa tập trung, tạo ra các sản phẩm có giá tr> cao; kết nối tiêu thụ hàng hóa giữa vùng
dân tộc thiểu số với th> trường trong nước và quốc tế để đồng bào ổn đ>nh cuộc sống; đồng thời, chú trọng
việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao vùng dân tộc thiểu số và miền núi trong nông nghiệp, xây
dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững.
Đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, lãnh đạo các cấp, các
ngành và đồng bào dân tộc thiểu số về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với công tác giảm
nghèo vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Đổi mới hơn nữa nội dung thông tin, tuyên truyền, bảo đảm
thiết thực, hiệu quả, để đồng bào hiểu rõ mục đích, ý nghĩa và tin tưởng thực hiện chính sách giảm nghèo;
nhân rộng mô hình điển hình tiên tiến, đồng thời khơi dậy truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, ý chí
tự lực, tự cường, nỗ lực vươn lên thoát nghèo bền vững, làm giàu chính đáng. Phát huy vai trò tích cực
của già làng, người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số trong công tác tuyên truyền, vận động quần
chúng.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện các Chương trình Mục tiêu Quốc gia ở
các cấp. Huy động cả hệ thống chính tr> vào cuộc để cùng theo dõi, giám sát quá trình triển khai thực hiện
để đảm bảo thực hiện thắng lợi các mục tiêu của các Chương trình đề ra.
Chúng ta cần tăng cường hiệu quả công tác truyền thông để huy động tối đa nguồn lực cho giảm nghèo,
khơi dậy ý chí vươn lên chủ động thoát nghèo của người nghèo. Bên cạnh đó, phải tổ chức tập huấn nâng
cao năng lực, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác giảm nghèo các cấp về nghiệp vụ, quy trình,
công cụ, phần mềm rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo.
7) Trong tgian gần đây tình trạng thất nghiệp của sinh viên mới ra trường gia tăng đáng kể. Nhiều
trường hợp sv ra trường đến 2-3 năm vẫn không tìm được việc làm. Hãy phân tích những nguyên
nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng nói trên và đề xuất giải pháp nhằm giải quyết tình trạng sv ra
trường ko có việc làm.
Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO): “Thất nghiệp là tình trạng tồn tại một số người trong lực lượng lao
động muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền lương th>nh hành”.
Thực trạng: Theo số liệu mới nhất của Tổng cục Thống kê, đến quý 1 năm 2017, trong tổng lực lượng lao
động cả nước có gần 918 nghìn lao động thiếu việc làm và lao động thất nghiệp là 1,14 triệu người. Trong
quý 1 năm 2017, hiện có gần 85,0% lao động thiếu việc làm sinh sống ở khu vực nông thôn. Xét về khác
biệt giới, th> phần lao động nam thiếu việc là cao hơn so với lao động nữ (52,2% và 47,8 % tổng số lao
động thiếu việc cả nước). Đồng thời, tình trạng thất nghiệp ở khu vực thành th> hiện thấp hơn, chỉ chiếm
khoảng 47,6% tổng số lao động thất nghiệp cả nước. Hơn nữa, dựa trên kết quả điều tra lao động việc làm
quý 1 năm 2017 cũng cho thấy lao động thất nghiệp nam là đông hơn so với lao động nữ (chiếm 58,9% và
41,1% trong tổng số lao động thất nghiệp cả nước). Nếu xem xét tình trạng thất nghiệp theo trình độ
chuyên môn kỹ thuật (CMKT) tức là sinh viên ra trường có trình độ chuyên môn nhất đ>nh, trong quý 1
năm 2016, có tới hơn 32,3% số lao động thất nghiệp cả nước là lao động đã qua đào tạo chuyên nghiệp
hoặc nghề từ 3 tháng trở lên. Trong đó, nhóm lao động có trình độ từ đại học trở lên chiếm th> phần lớn
nhất, khoảng 38,6% tổng số lao động thất nghiệp nhóm này. 6 nhóm ngành/nghề đào tạo hiện có tỷ trọng
lao động thất nghiệp có trình độ CMKT từ 3 tháng trở lên theo thứ tự là “Kinh doanh và quản lý -
30,3%”, “Công nghệ kỹ thuật - 13,4%”, “Sức khỏe - 10,7%”, “D>ch vụ vận tải - 9,5%” và “Khoa học giáo
dục và đào tạo giáo viên - 9,0%”. Chỉ khoảng 3,6% nhóm lao động thất nghiệp có trình độ CMKT là có 2
bằng/chứng chỉ đào tạo trở lên.
Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên:
Không có đ>nh hướng nghề nghiệp trước khi học
Ở Việt Nam, việc chọn nghề phụ thuộc rất nhiều vào quyết đ>nh của các bậc phụ huynh. Với tâm lý luôn
muốn che chở, bao bọc con, các bậc cha mẹthường thiên về những ngành “an toàn”, mang lại danh tiếng,
như kỹ sư, bác sĩ,… và con cái thì cũng thụ động, cha mẹ chọn ngành gì con học ngành đó. Mặt khác, xu
hướng th> trường cũng là một điều đáng nói. Một số bạn trẻ còn có xu hướng chạy theo các nghề “hot” để
theo k>p bạn bè, chứ không thực sự vì đam mê và đúng sở trường.
Những thông tin trên như là một hồi chuông cảnh báo cho thực trạng đ>nh hướng nghề hiện nay khi mà
các học sinh hầu như không có một đ>nh hướng nghề cho bản thân, không biết mình thích gì và có thể làm
gì sau này, đâu là điểm mạnh và điểm yếu của bản thân? Không biết đ>nh hướng và lựa chọn cho mình
ngành học phù hợp, sinh viên sẽ dẫn đến tình trạng chán nản, kết quả học tập sút kèm, không có sự yêu
thích và tâm huyết,… Vì vậy, việc đ>nh hướng nghề nghiệp cho tương lại đóng vai trò hết sức quan trọng
trong việc tạo dựng một sự nghiệp thành công.
2.2. Sinh viên ra trường thiếu kỹ năng làm việc
Nhiều doanh nghiệp lớn cho biết:“Kỹ năng của sinh viên mới ra trường là chưa hình thành nếu không
muốn nói là không có”. Sinh viên ra trường hiện nay có kiến thức nhưng thiếu kỹ năng, đặc biệt là các kỹ
năng cần thiết để làm việc. Một số bạn trẻ còn cho rằng, các nhà tuyển dụng chỉ cần tuyển người có năng
lực chuyên môn, vi tính thành thạo, ngoại ngữ bằng A, B, C… Chính vì thế, các bạn đổ xô rủ nhau đi học
bằng này bằng kia, khóa học này khóa học kia, nhưng các bạn không hề biết rằng, các chủ doanh nghiệp
và công ty, nhất là các công ty nước ngoài luôn chú trọng đến các kỹ năng làm việc, kỹ năng giao tiếp,
ứng xử, kỹ năng làm việc theo nhóm, khả năng lập kế hoạch mục tiêu, xử lý nhanh những khó khăn trong
tình huống bất ngờ…
Mặc dù, quá trình tìm việc cũng không phải dễ dàng gì. Trừ một số bạn có mối quan hệ rộng rãi hay được
cha mẹ gửi gắm, số còn lại, đa phần các bạn còn quá thụ động trong quá trình tìm việc. Các bạn chưa tự
tin vào bản thân, thiếu ngh> lực và dũng cảm để đương đầu với những khó khăn, thậm chí có bạn còn
chưa rõ mình thích làm gì, thích làm công việc như thế nào. Các bạn không biết rằng, trong môi trường
công việc đầy cạnh tranh và năng động, trang b> tốt cho mình các kỹ năng giao tiếp, đàm phán, thuyết
trình, quản lý thời gian,… mới thực sự là yếu tố quyết đ>nh giúp bạn khác biệt và làm việc hiệu quả.
2.3. Chất lượng đào tạo chưa thực sự gắn với nhu cầu xã hội
Một nguyên nhân khác là do các trường đại học, cao đẳng còn xem nhẹ phần thực hành mà quá đặt nặng
lý thuyết. Ngoài ra, còn do chương trình đào tạo ở các trường vẫn theo lối tư duy cũ, thiếu thực tế, cơ sở
vật chất nghèo nàn…
Chúng ta chuyển dần từ giáo dục truyền thống, giáo dục thời đại công nghiệp sang giáo dục thời đại thông
tin. Đây là hệ thống giáo dục mới tập trung phần lớn vào kiến thức kỹ thuật và ứng dụng của công nghệ
để giải quyết các vấn đề kinh doanh, sinh viên học chính thức nền tảng không chỉ trong nhà trường, mà
còn tiếp tục trong cả đời họ vì không ngại lúc nào cũng thay đổi.
Ngoài ra, chúng ta cải tiến kỹ năng công nghiệp cho mọi người dân, tạo cho người dân có trí thức sẵn có
để làm việc, đây là nhân tố chính cho tăng trưởng kinh tế của đ>a phương. Đặc biệt, chúng ta thay đổi tư
duy nên nhìn nhận các trường đại học như là một doanh nghiệp, họ có thể đào tạo sinh viên đúng thực
chất bằng việc cộng tác với công nghiệp gắn với nhu cầu th> trường và cập nhật chương trình đào tạo
tương ứng.
2.4. Trình độ ngoại ngữ vẫn còn nhiều hạn chế
Một trong các lý do tạo nên làn sóng “cử nhân thất nghiệp” chính là vấn đề tiếng Anh. Chỉ có được động
lực học, cách học phù hợp, khoa học, áp dụng vào môi trường thực tế mới có thể nâng cao trình độ tiếng
Anh, đáp ứng được nhu cầu của nhà tuyển dụng.
2.5. Luôn than trách và đổ lỗi cho số phận
Đó là điều mà sinh viên vẫn thường làm để che đậy sự lười nhác của bản thân. Luôn đổ lỗi cho không có
chỉ tiêu rồi đào tạo nhưng không đảm bảo đầu ra. Tốt nghiệp và ngồi chờ nhà tuyển dụng. Luôn than trách
không có việc làm, đó là điều càng khiến sinh viên vùi mình sâu hơn vào nguy cơ thất nghiệp. Đỗ lỗi cho
không có cơ hội việc làm, đỗ lỗi cho chất lượng đào tạo của giáo dục…
3. Giải pháp
- Về phía sinh viên:
Cần đ>nh hướng sơ bộ về nghề nghiệp của mình trong tương lai. Học sinh, sinh viên cần thay đổi nhận
thức, hiểu được đầu ra của ngành học. Cần học những ngành nghề mà trong đó có sự đam mê, yêu thích
của bản thân và phù hợp với khả năng của mình. Đồng thời, các giảng viên của nhà trường nên kết hợp
cùng với lãnh đạo của các doanh nghiệp trao đổi và đ>nh hướng nghề nghiệp phù hợp với từng tân sinh
viên, dựa trên việc phân tích tính cách, đặc điểm gia đình, sở thích...của từng cá nhân để đưa ra lời
khuyên cho các em nên chọn ngành nào phù hợp với mình, có cơ hội việc là tốt nhất và phát huy được
năng lực cao nhất.
Trải nghiệm thực tế tại các doanh nghiệp là điều vô cùng quan trọng. Nâng cao chất lượng đào tạo, kỹ
năng làm việc cho sinh viên cần có sự kết hợp giữa sinh viên và nhà trường. Việc học đi đôi với thực
hành, học đến đâu có thể thực hành đến đó để việc giảng dạy không còn mang ý nghĩa trừu tượng mà còn
mang tính ứng dụng thiết thực. Sinh viên cần thực hiện nghiêm túc trong quá trình đi kiến tập, thực tập.
Nếu sinh viên coi hoạt động kiến tập, thực tập cho hết môn thì sẽ không khác gì vẫn chạy theo lý thuyết
mà không có thực tế.
Sinh viên cần nghiêm túc học hành ngay khi đang còn ngồi trên ghế nhà trường. Sự nghiêm khắc trong
quá trình học tập của bản thân sẽ giúp sinh viên tự rèn luyện tính cách, kỹ năng đồng thời đạt kết quả tốt
trong quá trình học tập, sẽ giúp ích rất nhiều cho công việc chuyên môn ngay sau khi ra trường.
- Về phía Nhà nước:
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế th> trường lao động, tạo khung pháp lý phù hợp, bảo đảm đối xử bình đẳng
giữa người sử dụng lao động và người lao động. Thực hiện đúng các luật về lao động, tiền lương tối thiểu,
bảo hiểm lao động, xuất khẩu lao động, pháp lệnh đình công... Người lao động được quyền hưởng lương
đúng với số lượng và chất lượng lao động họ đã bỏ ra, phải được bảo đảm về chỗ ở và những điều kiện
môi trường lao động, an sinh khác theo đúng luật pháp.
Thứ hai, Nhà nước cùng các doanh nghiệp cần phải quan tâm đào tạo công nhân trình độ cao, trình độ
lành nghề, trình độ văn hóa đối với lao động trẻ, khỏe, nhất là khu vực nông thôn để cung ứng cho các
vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, khu du l>ch, d>ch vụ và xuất khẩu lao động.
Thứ ba, đa dạng hóa các loại hình th> trường, các lớp dạy nghề của Nhà nước, của tư nhân và quốc tế; áp
dụng cơ chế th> trường trong dạy nghề, dần dần hình thành th> trường dạy nghề phù hợp với pháp luật.
Thực hiện quy hoạch đầu tư tập trung hệ thống dạy nghề, kỹ thuật thực hành qua lao động trực tiếp; đặc
biệt là xây dựng các trường dạy nghề trọng điểm quốc gia.
Thứ tư, thực hiện hiệu quả dự án hỗ trợ đào tạo giảng viên; xây dựng cơ chế xác đ>nh chỉ tiêu tuyển sinh
đào tạo trung cấp, đào tạo cao đẳng, đại học hàng năm trên cơ sở nhu cầu của th> trường lao động, năng
lực đào tạo và tỷ lệ người học tốt nghiệp có việc làm của cơ sở đào tạo; chỉ đạo các cơ sở đào tạo đầu tư
nâng cao điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo, hợp tác với đơn v> sử dụng lao động để xây dựng chương
trình đào tạo cân đối giữa lý thuyết và thực hành, xây dựng chuẩn đầu ra, hỗ trợ sinh viên thực tập và
đánh giá sinh viên tốt nghiệp theo yêu cầu của th> trường lao động.
8) Theo tổ chức lao động quốc tế(ILO), năng suất lao động của VN thấp và chậm được cải thiện.
Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng tăng trưởng và phát triển kinh tế của VN. Bằng các
tư liệu và số liệu thu thập được trên các phương tiện truyền thông, hãy chứng minh đánh giá trên
của ILO và dề xuất các giải pháp nâng cao năng suất lao động của VN.
Năng suất lao động là yếu tố quyết đ>nh nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và của từng doanh
nghiệp, có ý nghĩa quan trọng đối với thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Tăng năng suất lao động
là mục tiêu hàng đầu mà các quốc gia trên thế giới đang hướng đến để thoát khỏi tình trạng kém phát triển
và trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Ý nghĩa của tăng năng suất lao động đối với tăng trưởng
kinh tế càng trở nên quan trọng hơn khi các yếu tố đầu vào như vốn, đất đai, tài nguyên trở nên khan
hiếm, nguồn lao động đang b> ảnh hưởng do xu thế già hóa dân số trong tương lai.
Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới trong hơn 35 năm qua đã đạt những thành tựu quan trọng về phát triển
kinh tế. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn đ>nh; các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm; đặc biệt là duy trì
được nh>p tăng trưởng GDP ở mức cao, thu nhập bình quân đầu người được cải thiện đáng kể. Mặc dù
vậy, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao; chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được
yêu cầu của quá trình phát triển; đời sống một bộ phận dân cư còn khó khăn; Việt Nam vẫn là nước có
mức năng suất lao động thấp và có khoảng cách khá xa với các nước trong khu vực. Cải thiện và thúc đẩy
nâng cao năng suất lao động là một trong những vấn đề cốt lõi đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay, là
điều kiện tiên quyết để đưa Việt Nam thu hẹp trình độ phát triển với các nước trong khu vực, thích ứng
với xu thế toàn cầu và chống chọi tốt với các cú sốc từ bên ngoài
Năng suất lao động (NSLĐ) phản ánh năng lực tạo ra của cải, hiệu suất lao động cụ thể trong quá trình
sản xuất, được đo bằng số sản phẩm hay lượng giá tr> tạo ra trong một đơn v> thời gian hoặc lượng thời
gian lao động sử dụng để sản xuất ra một đơn v> sản phẩm.
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), NSLĐ tính bằng số sản phẩm hàng hóa, d>ch vụ
cuối cùng được tạo ra cho một đơn v> lao động tham gia vào hoạt động sản xuất. Trong đó, hàng hoá và
d>ch vụ cuối cùng được tạo ra của nền kinh tế là Tổng sản phẩm trong nước (GDP); lao động tham gia
vào hoạt động sản xuất tạo ra GDP phản ánh thời gian, công sức, kỹ năng của lực lượng lao động và
thường được tính bằng số lao động đang làm việc hoặc giờ công lao động.
TH•C TR–NG N—NG SUẤT LAO Đ˜NG VIỆT NAM GIAI ĐO–N 2011-2020
Trong giai đoạn 2011-2020, bối cảnh khu vực và thế giới có những yếu tố thuận lợi và khó khăn đan xen,
diễn biến phức tạp hơn so với dự báo đã tác động đến phát triển kinh tế trong nước như: Kinh tế thế giới
phục hồi chậm sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu 2007-2008; rủi ro trên th>
trường tài chính, tiền tệ quốc tế gia tăng;…
Ở trong nước, những năm đầu giai đoạn 2011-2020, nền kinh tế tiềm ẩn nhiều rủi ro, lạm phát cao, nợ
công tăng nhanh, tỉ lệ nợ xấu cao; sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Tác động, ảnh hưởng từ bên
ngoài tăng, cạnh tranh ngày càng gay gắt, trong khi độ mở của nền kinh tế cao, sức chống ch>u còn hạn
chế. Biến đổi khí hậu, thiên tai, d>ch bệnh diễn ra trên diện rộng đã ảnh rất nghiêm trọng đến hầu hết các
ngành, lĩnh vực, các hoạt động kinh tế, xã hội và đời sống nhân dân. Nhưng nhờ sự nỗ lực cao của các
cấp, các ngành và của cả hệ thống chính tr>; sự đồng thuận, nhất trí của toàn dân, kinh tế nước ta từng
bước phát triển vững chắc, đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện, tình hình chính tr> và xã
hội ổn đ>nh, v> thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc nâng cao NSLĐ, bình quân mỗi năm
trong giai đoạn 2011-2020, tốc độ tăng NSLĐ của toàn nền kinh tế đạt 5,29%. Đây là kết quả thể hiện
thành công đáng ghi nhận của Việt Nam trong việc nỗ lực phấn đấu nâng cao NSLĐ.
Tính theo sức mua tương đương (PPP 2017), NSLĐ của Việt Nam giai đoạn 2011-2020 tăng bình quân
5,4%/năm, cao hơn mức tăng bình quân của Ma-lai-xi-a (1,3%/năm); Hàn Quốc (1,5%/năm); Xin-ga-po
(1,7%/năm); Thái Lan (2,2%/năm); In-đô-nê-xi-a (2,6%/năm); Phi-li-pin (3,5%/năm). Nhờ đó, Việt Nam
đã thu hẹp được khoảng cách tương đối với một số nước ASEAN có trình độ phát triển cao hơn. Nếu năm
2011 NSLĐ của Xin-ga-po, Ma-lai-xi-a, Thái Lan, In-đô-nê-xi-a, Phi-li-pin lần lượt gấp NSLĐ của Việt
Nam 12,4 lần; 4,3 lần; 2,1 lần; 1,7 lần và 1,3 lần thì đến năm 2020 khoảng cách tương đối này giảm
xuống tương ứng còn 8,8 lần; 3 lần; 1,7 lần; 1,3 lần và 1,2 lần. So với một số nền kinh tế lớn của châu Á,
khoảng cách tương đối về NSLĐ của Việt Nam so với Hàn Quốc giảm từ 6,1 lần xuống 4,3 lần; Nhật Bản
từ 6,8 lần xuống 4,1 lần7.
Tuy nhiên, mức NSLĐ của Việt Nam hiện nay vẫn rất thấp so với các nước trong khu vực, đáng chú ý là
chênh lệch tuyệt đối vẫn tiếp tục gia tăng. Tính theo PPP 2017, NSLĐ của Việt Nam năm 2020 đạt 18,4
nghìn USD, chỉ bằng 11,3% mức năng suất của Xin-ga-po; 23% của Hàn Quốc; 24,4% của Nhật Bản;
33,1% của Ma-lai-xi-a; 59,1% của Thái Lan; 60,3% của Trung Quốc; 77% của In-đô-nê-xi-a và bằng
86,5% NSLĐ của Phi-li-pin. NSLĐ của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á chỉ cao hơn NSLĐ của
Cam-pu-chia (gấp 2,4 lần); My-an-ma (1,6 lần); Lào (gấp 1,2 lần).
Chênh lệch tuyệt đối mức NSLĐ (PPP 2017) của Xin-ga-po và Việt Nam tăng từ 130,4 nghìn USD năm
2011 lên 144,1 nghìn USD năm 2020; tương tự, của Hàn Quốc từ 58,8 nghìn USD lên 61,8 nghìn USD;
Trung Quốc từ 6,1 nghìn USD lên 12,1 nghìn USD; Ấn Độ từ 1,3 nghìn USD lên 1,8 nghìn USD. Điều
này cho thấy khoảng cách và thách thức mà nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt để có thể bắt k>p mức
NSLĐ của các nước có trình độ phát triển hơn là khá lớn.
Để thực hiện được mục tiêu tăng trưởng thì chìa khóa chính là nâng cao NSLĐ, điều này có ý nghĩa quan
trọng đối với tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Nếu năng suất thấp sẽ là yếu tố cản trở tăng trưởng kinh tế
cả về tốc độ và tính bền vững. Do đó, thúc đẩy tăng NSLĐ hiện đang là mục tiêu quan trọng được Việt
Nam chú trọng; đặc biệt là nâng cao NSLĐ trong doanh nghiệp - khu vực đóng vai trò quyết đ>nh tới nâng
cao NSLĐ của toàn bộ nền kinh tế.
Trong giai đoạn 2011-2020, tăng NSLĐ ngày càng có mức đóng góp ý nghĩa đối với tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam. Trước năm 2015, độ doãng giữa tốc độ tăng GDP và tốc độ tăng NSLĐ lớn hơn nhiều so
với giai đoạn từ năm 2015 trở lại đây. Điều này cho thấy, tăng trưởng kinh tế dựa vào tăng NSLĐ ngày
càng tăng lên.
Giải pháp:
NSLĐ là yếu tố quyết đ>nh nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và của từng doanh nghiệp. Nâng
cao NSLĐ là vấn đề quan trọng để phát triển nhanh, bền vững. Tuy nhiên, làm thế nào để tăng NSLĐ
luôn là vấn đề khó đối với mọi doanh nghiệp, quốc gia. Nền tảng của một chiến lược phát triển tập trung
vào NSLĐ là sự thống nhất giữa Chính phủ, doanh nghiệp, Viện Nghiên cứu, người lao động, các cơ quan
truyền thông về những nguyên tắc của chiến lược đó. Khi đã đạt được đồng thuận, cần có sự cam kết
mạnh mẽ và giám sát hiệu quả để thúc đẩy những nỗ lực của các cá thể trên phạm vi cả nước nhằm cải
thiện NSLĐ.
- Đảm bảo sự hợp tác chặt chẽ giữa Chính phủ, khu vực tư nhân, công đoàn, hiệp hội ngành, tổ chức giáo
dục nghề nghiệp đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy tăng NSLĐ.
- Để đưa những nguyên tắc của chiến lược trên thành hành động cụ thể, cần xây dựng các thể chế, cơ chế
và phong trào nhằm thúc đẩy NSLĐ. Việc thành lập Hội đồng NSLĐ Quốc gia là một mô hình hay mà
Việt Nam có thể học tập từ kinh nghiệm của các nước đi trước.
126
- Cần tập trung nguồn lực để thiết kế các chiến lược toàn diện, thống nhất, theo đó tiếp cận vấn đề theo
hai mặt. Một mặt là các chiến lược tăng NSLĐ theo ngành cụ thể; mặt khác là các chương trình áp dụng
cho cả nền kinh tế nhằm hỗ trợ năng lực, nghiên cứu phát triển, lộ trình tăng NSLĐ của doanh nghiệp vừa
và nhỏ, các chương trình tăng trưởng toàn diện.
- Chính phủ cần hỗ trợ cả doanh nghiệp và người lao động để họ hiểu về những thay đổi từ đó tự điều
chỉnh để thích hợp với quá trình thúc đẩy NSLĐ; cần tiếp tục học hỏi từ những điển hình tốt về tăng
NSLĐ của các quốc gia trên thông qua hợp tác quốc tế; thay đổi tư duy để đưa văn hóa NSLĐ vào ý thức
của người dân.
Hiện nay, trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, làm thay đổi phương thức
sản xuất - kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi chuyển đổi sang kinh tế tri thức. Do đó lợi thế về nguồn lao
động dồi dào, nhân công giá rẻ dần mất ưu thế, thay vào đó nguồn lực mới cho tăng trưởng là năng suất
và chất lượng lao động, năng lực sáng tạo và tiềm lực khoa học công nghệ. Vì vậy, giải quyết bài toán về
tăng NSLĐ cần có chiến lược, giải pháp tổng thể để tạo chuyển biến đột phá, cần thực hiện một số giải
pháp sau
Giải pháp về cơ chế, chính sách của Nhà nước
(1) Cải cách thể chế
(2) Đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng
(3) Chính sách phát triển khoa học công nghệ, tăng cường hệ thống đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp
(4) Tháo gỡ rào cản tài chính đối với doanh nghiệp
(5) Chính sách tiền lương, tiền công
(6) Về giáo dục, đào tạo
Giải pháp về doanh nghiệp
(1) Xác đ>nh mô hình sản xuất phù hợp
(2) Hoàn thiện quản tr> sản xuất
(3) Đổi mới máy móc thiết b> và quy trình công nghệ
(4) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
(5) Nâng cao chất lượng sản phẩm
(6) Tăng cường sự liên kết giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp
Giải pháp về người lao động
(1) Tham gia các lớp học chung về NSLĐ để người lao động hiểu khái quát chung thế nào là NSLĐ và
tăng NSLĐ, thấy được ý nghĩa của việc nâng cao NSLĐ vừa là quyền lợi, vừa là trách nhiệm của người
lao động và nâng cao NSLĐ sẽ mang lại lợi ích cho doanh nghiệp, cho xã hội và đặc biệt cho chính bản
thân người lao động (do tăng NSLĐ là cơ sở để tăng lương và thu nhập cho người lao động).
(2) Nâng cao ý thức, kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp vì điều này không chỉ mang lại lợi ích cho
doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với chính người lao động. Khi có ý thức tổ chức kỷ luật
tốt, làm việc nghiêm túc, ch>u khó học hỏi, rèn luyện tay nghề... thì người lao động sẽ nâng cao NSLĐ
của chính bản thân mình, tạo uy tín trong môi trường làm việc và có cơ hội để nâng cao thu nhập. Vì vậy,
cần có sự nỗ lực từ lãnh đạo doanh nghiệp và người lao động để góp phần hình thành hệ ý thức, kỷ luật
chung của người lao động.
(3) Cần nỗ lực, rèn luyện, phấn đấu, nâng cao trình độ học vấn, tay nghề, khẳng đ>nh năng lực... để thăng
tiến, rèn luyện cho mình tác phong làm việc chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi trong xu thế phát
triển hiện nay. Đây là yêu cầu tất yếu, nếu không đáp ứng được thì người lao động có thể b> đào thải trong
quá trình phát triển chung của doanh nghiệp.
9) Đánh giá tác động của thảm họa môi trường Formosa đến cả 3 khía cạnh là KT – XH – MT ở các
tỉnh miền Trung của VN…
Tác động về mặt kinh tế của hiện tượng cá chết hàng loạt sẽ thông qua 2 kênh. Thứ nhất là tác động trực
tiếp đến những ngành có liên quan như nuôi trồng khai thác và chế biến thủy sản, nghề muối, du l>ch. Thứ
hai là trong trung và dài hạn, nhiều ngành khác trong nền kinh tế sẽ ch>u tác động lan tỏa dây chuyền.
Ngoài ra, những thiệt hại về môi trường biển, nguồn lợi thủy sản, uy tín chỉ dẫn đ>a lý, sinh kế người dân
và gắn kết xã hội lâu dài, to lớn và rất khó đánh giá. Đánh giá hiện tượng cá chết hàng loạt ở biển miền
Trung trong sự cố môi trường nghiêm trọng do Formosa gây ra đã gây một cú sốc bất lợi cho nền kinh tế
nói chung, một tổn thất lớn cho khu vực b> ảnh hưởng trực tiếp nói riêng. Đây là tiếng chuông dữ dội
cảnh báo về hậu quả môi trường trong quá trình phát triển.
Sự cố môi trường đã gây tác hại xấu, trực tiếp đến các ngành đánh bắt, nuôi trồng, chế biến thủy, hải sản,
làm muối, d>ch vụ hậu cần nghề cá, du l>ch; làm xáo trộn an ninh trật tự, gây tâm lý bức xúc, bất an trong
một bộ phận nhân dân. Thật đáng tiếc là trong những ngày vừa qua, một số đối tượng cực đoan, lợi dụng
chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước với “những bàn tay đen” của các thế lực phản
động bên ngoài đã kêu gọi, kích động giáo dân tụ tập đông người, biểu tình, tuần hành, gây rối trật tự
công cộng, thậm chí ngang nhiên tấn công người thi hành công vụ, gây mất trật tự an toàn giao thông, làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến ổn đ>nh an ninh chính tr>, trật tự, an toàn xã hội của khu vực miền Trung.
Những “cái loa thâm độc này” cố tình biến vụ việc Formosa làm điểm nhấn để tăng cường khoét sâu mâu
thuẫn giữa giáo dân nói riêng và nhân dân nói chung với chính quyền đ>a phương. Những kẻ xấu đã mang
danh bảo vệ môi trường biển để chống phá Đảng, Nhà nước, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân và đoàn
kết lương-giáo, phá hoại cuộc sống bình yên của mảnh đất miền Trung được đắp xây từ xương máu của
biết bao Anh hùng liệt sỹ.
Thiệt hại sản lượng hải sản khai thác ven bờ và vùng lộng ước tính khoảng 1.600 tấn/tháng; diện tích nuôi
tôm b> chết hoàn toàn là 5,7 ha tương đương 9 triệu tôm giống và khoảng 7 tấn tôm thương phẩm sắp đến
kỳ thu hoạch; có trên 3.000 ha nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh đã thả giống b> nhiễm độ mặn cao,
môi trường suy giảm nên tôm chậm lớn, xuất hiện bệnh và có trên 350 ha nuôi tôm b> chết rải rác.
Ngoài ra, có 1.613 lồng nuôi cá b> chết (khoảng 30.000m ), tương đương 140 tấn cá; có 6,7 ha diện tích
3
nuôi ngao b> chết, tương đương 67 tấn; có trên 10 ha nuôi cua b> chết do sự cố môi trường.
Có nên đánh đổi môi trường để lấy tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn hay không?
Không nên đánh đổi môi trường để lấy tăng trưởng kinh tế ngắn hạn. Kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn,
kinh tế carbon thấp là con đường để đưa đất nước phát triển bền vững. Cần khắc phục và loại bỏ ngay tư
tưởng chạy theo lợi ích kinh tế trước mắt mà bỏ qua trách nhiệm bảo vệ môi trường; không hy sinh môi
trường để đánh đổi lấy kinh tế... Nếu đánh đổi môi trường để lấy tăng trưởng kinh tế trong thời gian ngắn
sẽ gây hậu quả rất nghiêm trọng, cái giá phải trả để khôi phục môi trường sau lấy tăng trưởng còn đắt hơn
gấp nhiều lần so với mức tăng trưởng kinh tế đạt được. Đó có thể là một sự đánh đổi sai lầm. Ngoài ra ô
nhiễm môi trường ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến đời sống và sức khoẻ của người dân.
10) VN là một nước có tiềm năng lớn về sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, trong thực tế, giá trị do
ngành nông nghiệp tạo ra còn khiêm tốn so với tiềm năng...
Đối với Việt Nam, l>ch sử canh tác hữu cơ đã hình thành từ lâu, song do cơ chế chính sách và th> trường
tiêu thụ, khả năng ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất hữu cơ còn hạn chế. Hơn nữa
trong thời gian dài, Việt Nam chưa có tổ chức nông nghiệp hữu cơ, mãi đến năm 2012, Hiệp hội Nông
nghiệp hữu cơ Việt Nam mới ra đời. Do đó, diện tích nông nghiệp hữu cơ ở nước ta còn khiêm tốn, tập
trung ở một số tỉnh, thành phố như: Bến Tre, Hà Nội, Hòa Bình, Lâm Đồng, Thành phố Hồ Chí Minh, Hà
Nam và Ninh Thuận,… Hiện nay, sản phẩm hữu cơ tiêu thụ chủ yếu trong nước và xuất khẩu đến th>
trường các nước như: Nhật Bản, Anh, Hàn Quốc, Singapore và Nga,…Việt Nam đứng thứ 5 các quốc gia
có diện tích nông nghiệp hữu cơ ở Châu Á.
Bên cạnh những kết quả đạt được, sản xuất nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam cũng đối diện với những khó
khăn, thách thức
Thực trạng phát triển ngành Nông nghiệp Việt Nam: Năm 2020, mặc dù phải gánh ch>u thời tiết bất
thường, thiên tai, d>ch bệnh (d>ch tả lợn châu Phi trên cả nước, d>ch Covid-19…), nhưng nhờ đẩy mạnh áp
dụng khoa học - kỹ thuật, tái cơ cấu sản xuất, ngăn ngừa kiểm soát d>ch bệnh, nên ngành Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn vẫn vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện tốt “mục tiêu kép” vừa phát triển
ngành, vừa phòng, chống hiệu quả d>ch bệnh. Giá tr> sản xuất toàn Ngành trong năm ước 2020 tăng
2,75% so với năm 2019. Trong đó, nông nghiệp tăng 2,7%; lâm nghiệp tăng 2,4%; thủy sản tăng 3,3%;
GDP toàn ngành dự kiến tăng 2,65%, giúp bảo đảm an ninh lương thực trong bất cứ hoàn cảnh nào. Công
tác xây dựng thể chế, cải cách hành chính có sự chuyển biến tích cực, góp phần nâng cao năng lực cạnh
tranh của ngành. Cùng với cây lúa, nhiều loại cây lương thực truyền thống, giá th> thấp cũng có xu hướng
giảm mạnh về diện tích. Trong lĩnh vực trồng trọt, đã chuyển đổi khoảng 200.000 ha trồng lúa kém hiệu
quả sang các cây trồng khác có hiệu quả cao hơn, đồng thời tăng cường chuyển đổi cơ cấu giống, đẩy
mạnh thâm canh phòng trừ sâu bệnh, ứng dụng khoa học kỹ thuật và cơ giới hóa để tăng năng suất, chất
lượng, giảm chi phí sản xuất.
Tuy vậy, số lượng doanh nghiệp nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số các doanh nghiệp
cả nước, có tới 95% doanh nghiệp nông nghiệp có quy mô nhỏ và vừa. Lĩnh vực này tại Việt Nam cũng
thu hút chưa đến 1% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), trong khi mức trung bình trên thế giới vào
khoảng 3%. Tính đến hết năm 2019, vốn FDI vào nông nghiệp chỉ đạt 3,5 tỷ USD, chiếm tỷ trọng rất thấp
trong tổng vốn FDI vào Việt Nam. Số lượng nhà đầu tư cũng chưa nhiều, trong đó các nước như Đài
Loan, quần đảo Virgin (Anh), Singapore, Thái Lan đã chiếm hơn 50% tổng vốn đầu tư FDI vào nông
nghiệp Việt Nam. Đây là những thách thức lớn trong nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển liên kết
sản xuất theo chuỗi sản phẩm nông nghiệp. Theo đánh giá của các chuyên gia, có tới 85% - 90% lượng
hàng nông sản của nước ta đưa ra th> trường thế giới phải thông qua trung gian bằng các “thương hiệu”
nước ngoài. Vì vậy, việc b> bán giá thấp, b> o ép vẫn là những câu chuyện thường ngày đối với hàng hóa
Việt Nam khi xuất khẩu. Đó là chưa kể tới rào cản chống bán phá giá, môi trường, rào cản kỹ thuật.
Giải pháp:
- Thúc đẩy chuyển đổi số ngành nông nghiệp
- Chuyển đổi số ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn có vai trò đặc biệt quan trọng trong cơ cấu lại
ngành nông nghiệp, phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung, quy mô lớn theo hướng hiện đại, giá tr>
gia tăng cao và bền vững, khẳng đ>nh vai trò “trụ đỡ” của nền kinh tế, trở thành “thước đo mức độ bền
vững của quốc gia”.
- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp thành phố; đẩy mạnh cải cách hành
chính, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; phát huy vai trò của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính tr> - xã hội, xã hội nghề nghiệp, có chính sách huy động vốn và hỗ trợ
tài chính thích hợp.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về nông nghiệp, nông dân, nông thôn của cán bộ,
đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân, chú trọng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực.
- Đẩy mạnh tái cơ cấu, phát triển ngành nông nghiệp toàn diện, theo hướng hiện đại và chuyển dich cơ
cấu kinh tế nông thôn, thực hiện xây dựng nông thôn mới gắn với đô th> hóa, đổi mới và phát triển các
hình thức tổ chức sản xuất, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho nông thôn, đẩy mạnh nghiên cứu,
chuyển giao và ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất nông nghiệp.
- Hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm và phát triển th> trường.
- Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học
- Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn.
| 1/14

Preview text:

1) VN đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế quan trọng trong sự nghiệp đổi mới đất nước(cuối năm
1986). Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia kinh tế, tính đến nay VN vẫn chưa phải là một nước CN.

Bằng những số liệu thực tế của nền kinh tế Việt Nam hiện nay, hãy chứng minh nhận định trên của
các chuyên gia là có cơ sở.
Trả lời: Tình hình kinh tế hiện nay, Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2022 ước tính tăng
8,02%[2] so với năm trước, đạt mức tăng cao nhất trong giai đoạn 2011-2022[3] do nền kinh tế khôi phục
trở lại. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2022 duy trì tăng trưởng ổn đ>nh, giữ vững vai trò trụ
đỡ của nền kinh tế. Sản xuất công nghiệp quý IV/2022 có xu hướng tăng chậm lại, tốc độ tăng giá tr> tăng
thêm ước đạt 3,6% so với cùng kỳ năm trước[10]. Tính chung cả năm 2022, giá tr> tăng thêm ngành công
nghiệp tăng 7,69% so với năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,10%.
Công nghiệp hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình phát triển vì nó đưa cả
nền sản xuất vật chất và đời sống văn hóa - xã hội của đất nước lên trình độ mới. Ở mỗi thời kỳ l>ch sử,
căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa có nội dung và bước đi cụ thể, phù hợp.
Đến nay, l>ch sử nhân loại đã chứng kiến 4 cuộc cách mạng công nghiệp, cũng là các cuộc cách mạng
khoa học - kỹ thuật nói chung. Cuộc thứ nhất, vào cuối thế kỷ XVIII, khai sinh ra nền công nghiệp cơ khí,
tạo ra dây chuyền sản xuất hàng loạt, sản xuất hàng hóa, kinh tế th> trường… Cuộc thứ hai diễn ra vào
cuối thế kỷ XIX, đưa đến sự ra đời của nền công nghiệp và xã hội điện khí hóa; tạo tiền đề để chủ nghĩa
tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh lên độc quyền đế quốc. Cuộc thứ ba, vào giữa thập kỷ 70 của thế kỷ
XX, mở ra thời đại điện tử hóa, tin học hóa. Cuộc thứ tư, từ đầu thế kỷ XXI, đánh dấu bước ngoặt chuyển
đổi số của toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của con người. Mỗi cuộc cách mạng tạo ra một trình độ
công nghệ ngày càng hiện đại cho quá trình công nghiệp hóa lâu dài của nhân loại.
Đối với Việt Nam, khi chính thức bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng chủ trương tiến
hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, và từ cuối thế kỷ XX đến nay, quá trình này được xác đ>nh đầy
đủ là công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là một quá trình kinh tế, kỹ thuật - công nghệ và kinh tế - xã hội
toàn diện, sâu rộng nhằm chuyển đổi nền sản xuất và xã hội Việt Nam từ trình độ nông nghiệp lạc hậu lên
trình độ công nghiệp với các trình độ công nghệ ngày càng tiên tiến, hiện đại, văn minh.
Qua dẫn chứng về số liệu ta thấy ngành công nghiệp nước ta vẫn chưa thực sự phát triển đúng với tiềm
năng của nó, vẫn còn nhiều mặt hạn chế khiến cho đất nước vẫn chưa phát triển thành một nước công
nghiệp. Việt Nam khẳng đ>nh phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá để từng bước thực hiện mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
học đất nước đòi hỏi phải có nguồn lực.
Đối với Việt Nam, cả hai loại nguồn lực tài chính và tài nguyên thiên nhiên đều hạn chế nên, theo kinh
nghiệm của nhiều quốc gia đi trước, nguồn lực con người đương nhiên sẽ đóng vai trò quyết đ>nh. Vì
thiếu thốn về mặt nguồn lực nhất là khả năng con người còn hạn chế nên chưa tạo ra được nhiều loại máy
móc hiện đại phục vụ cho quá trình phát triển công nghiệp, nguồn lực tài nguyên thiên nhiên còn b> khai
thác bừa bãi nhiều, Mô hình CNH, HĐH của Viê x
t Nam vẫn còn đang trong quá trình hoàn thiện; chưa
được cụ thể hóa thành những tiêu chí cụ thể của mô xt nước công nghiệp. Thực hiện CNH, HĐH chưa bằng
thể chế của nền kinh tế th> trường, tuân theo các quy luật khách quan của cơ chế th> trường. Chiến lược
CNH, HĐH trong thời gian dài chưa xác đ>nh rõ trọng tâm, trọng điểm cần thiết cho từng giai đoạn phấn
đấu. Nhiều cơ chế, chính sách còn thiếu, hoặc thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng k>p nhu cầu phát triển của nền
kinh tế. CNH, HĐH theo yêu cầu “rút ngắn”, cũng chưa làm rõ được những nội dung cơ bản, và động lực
để thực hiện quá trình CNH, HĐH rút ngắn. Xu hướng kinh tế thế giới: Công nghiệp thế giới có xu hướng
tăng chậm hơn, trong khi áp lực cạnh tranh giữa các nước công nghiệp mới và đang phát triển càng “gay
gắt”. Do khoa học và công nghệ phát triển nhanh, nhiều nền kinh tế đang phát triển sẽ b> ảnh hưởng từ
nguy cơ chuyển sang thời kỳ hậu công nghiệp sớm hơn so với dự kiến. Phát triển kinh tế và ngành công
nghiệp: Tăng trưởng kinh tế nước ta vẫn dựa nhiều vào đầu tư vốn và tăng trưởng tín dụng, chậm chuyển
sang phát triển theo chiều sâu, dựa trên khoa học công nghệ và tri thức. Do đó, nền kinh tế nước ta phát
triển thiếu bền vững, chất lượng tăng trưởng không cao. Tỷ trọng các ngành trong cơ cấu kinh tế, vẫn còn
khoảng cách lớn để đạt đến mức là một nước có nền kinh tế phát triển. Quá trình chuyển d>ch cơ cấu kinh
tế chậm, đang đặt ra các thách thức đối với nước ta trong việc thực hiện các mục tiêu CNH, HĐH. Chỉ số
GDP/người: Từ năm 2000 đến nay, GDP/người của nước ta đã tăng khá nhanh, đến năm 2018 đạt 2.590
USD/người, gấp hơn 6,6 lần so với năm 2000. Tính theo sức mua tương đương thì GDP/người của Việt
Nam hiện đạt khoảng 7.435 USD/người.
Từ số liệu các năm cho thấy, mặc dù GDP/người của Việt Nam đã có những bước cải thiện so với mức
bình quân của thế giới (từ 26,0% năm 2000, lên 34,2% năm 2010 và 41,3% năm 2018), tuy nhiên trong
gần 20 năm phát triển kinh tế đã qua cho thấy, khoảng cách chệch lệch của Việt Nam với thế giới vẫn còn
ở mức khá cao. So sánh tương đối với một số quốc gia trong “Các nước mới công nghiệp” (NICs) thì Việt
Nam hiện tương đương với Ấn Độ (đạt 7.874 USD); thấp hơn Philipine (8.936 USD); bằng 1/2 của
Indonesia, Nam Phi, Braxin và từ 1/3-1/4 của Mexico, Thổ Nhĩ Kỳ và Malaysia.
Có thể nói hiện nay, chỉ số GDP/người là một vấn đề lớn của nền kinh tế nước ta, trong việc tính toán và
xây dựng mục tiêu phát triển kinh tế trong các giai đoạn tới.
2) Phân tích mô hình 2 khu vực của Arthur Lewis và đề xuất khả năng áp dụng vào hoàn cảnh VN,
nhằm tìm ra con đường phát triển kinh tế cho VN hiện nay.
Trả lời: Mô hình 2 khu vực của Arthur Lewis là mô hình đưa ra các giải thích về mối quan hệ giữa nông
nghiệp và công nghiệp trong quá trình tăng trưởng gọi là “Mô hình hai khu vực cổ điển”. Mô hình này
phân tích quá trình tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển.
Đặc trưng: là phân chia nền kinh tế thành 2 khu vực công nghiệp và nông nghiệp trong nền kinh tế nh>
nguyên và nghiên cứu quá trình di chuyển lao động giữa hai khu vực. Khu vực nông nghiệp, ở mức độ tồn
tại, có dư thừa lao động và lao động dư thừa này dần dần được chuyển sang khu vực công nghiệp. Sự phát
triển của khu vực công nghiệp quyết đ>nh quá trình tăng trưởng của nền kinh tế, phụ thuộc vào khả năng
thu hút lao động dư thừa do khu vực nông nghiệp tạo nên và khả năng đó lại phụ thuộc vào tốc độ tích lũy
vốn của khu vực công nghiệp. Mô hình Lewis trên một mức độ nhất đ>nh còn giải thích nguồn gốc những
hậu quả xã hội, của sự phân hóa giàu nghèo trong quá trình tăng trưởng kinh tế. Cơ sở nghiên cứu:
Khu vực nông nghiệp có lợi nhuận biên giảm dần theo quy mô và tiến tới bằng 0. Nguyên nhân: do quy
mô sản xuất nn ngày càng tăng lên đòi hỏi phải sử dụng đất đai ngày càng xấu hơn, dẫn đến chi phí sản xuất tăng dần.
Khi ruộng đất có xu hướng cạn kiệt dần thì lao động trong khu vực nông nghiệp vẫn tiếp tục tăng và dẫn
đến hiện tượng dư thừa ngày càng phổ biến. Ở thành th> lao động dư thừa khi họ có khả năng làm việc, có
mong muốn làm việc nhưng không tìm được việc. Ở nông thôn lao động dư thừa khi họ có việc làm
nhưng năng suất lao động thấp. Sản phẩm cận biên của lao động giảm dần và tiến tới bằng không. Quan điểm đầu tư:
Giai đoạn 1 (NN dư thừa LĐ): tăng trưởng phụ thuộc vào quy mô tích lũy, đầu tư của công nghiệp. Tập
trung đầu tư cho công nghiệp
Giai đoạn 2 (khi hết dư thừa LĐ): đầu tư từ lợi nhuận dùng để:Đầu tư cho NN theo chiều sâu (tăng
NSLĐ). Đầu tư cho CN, nhất là các ngành CN phục vụ cho NN
Kết luận: Khu vực nông nghiệp mang tính trì trệ tuyệt đối, cần giảm dần quy mô, tỷ lệ đầu tư, chuyển
nhân lực dư thừa vào công nghiệp và mở rộng quy mô, tỷ lệ đầu tư, chuyển nhân lực dư thừa vào công
nghiệp và mở rộng quy mô, tốc độ của công nghiệp để tiếp tục duy trì tăng trưởng.
Áp dụng vào nền kinh tế VN
Hiện tượng dư thừa lao động tại VN bắt nguồn từ:
Gia tăng dân số, gia tăng áp lực việc làm không tương thích với khả năng tạo việc làm từ nội bộ nền kinh tế.
Mâu thuẫn giữa cơ cấu lao động với cơ cấu ngành nghề của nền kinh tế.
Chất lượng đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu của th> trường.
Mâu thuận giữa nhu cầu giải quyết việc làm với năng lực tổ chức giải quyết việc làm.
Đề xuất mô hình chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp theo hướng phát
triển bền vững ở Việt Nam trong những năm tới.
Kiến ngh> chuyển từ mô hình thu hút lao động thông qua phát triển các khu công nghiệp là chủ yếu sang
mô hình đa dạng hóa các hình thức tạo việc làm, kết hợp tạo việc làm ở các khu công nghiệp và đô th>, coi
trọng XKLĐ, lấy phát triển ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn là chủ yếu để thu hút lao động ở khu
vực nông nghiệp, giảm sức ép dân số cho khu vực đô th>.
Đẩy mạnh phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn qua các hình thức kinh tế hộ, kinh tế HTX,…
Tiếp tục phát triển và tổ chức lại hợp lý hệ thống đô th>, đẩy mạnh đô th> hóa nông thôn để giảm tải cho các đô th> lớn.
Tổ chức giải quyết việc làm cho lao động ở khu vực nông nghiệp thông qua XKLĐ.
3) Phân tích các hình thức biểu hiện của công bằng xã hội và sử dụng dữ liệu kinh tế tại
Vn hiện nay để đánh giá về thực trạng công bằng ở Vn.

Một là, công bằng xã hội thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế th> trường đ>nh hướng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Từ năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước; và, một trong những dấu ấn quan trọng là quan điểm phát triển nền kinh tế th> trường
(KTTT) đã bước đầu được đ>nh hình. Từ tiền đề quan trọng đó, thể chế KTTT đ>nh hướng xã hội chủ
nghĩa (XHCN) ngày càng được hoàn thiện và được chứng minh tính đúng đắn trên thực tế khi giúp đất
nước ta thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, kinh tế tăng trưởng nhanh, xã hội ổn đ>nh, đời sống
nhân dân ngày càng được cải thiện. Song, lại có một thực tế nảy sinh, cùng với thành tựu đạt được về
kinh tế trong quá trình phát triển KTTT, khoảng cách giàu - nghèo lại tăng lên. Nhìn vào hiện tượng đó,
có ý kiến cho rằng, nếu Việt Nam thực hiện KTTT sẽ không thể có công bằng xã hội (CBXH), tức là, thực
hiện KTTT sẽ phải chấp nhận hy sinh CBXH để đổi lấy sự tăng trưởng kinh tế. Hai là, thực hiện công
bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển kinh tế. Trước đổi mới và ở giai đoạn đầu của đổi mới, đã
từng có không ít ý kiến cho rằng, Việt Nam còn nghèo, kinh tế chưa phát triển, cho nên, nhiệm vụ trước
mắt là phát triển kinh tế, khi nào kinh tế phát triển cao mới có nền tảng, điều kiện vật chất để thực hiện
CBXH. Ý kiến này thoáng qua dường như có vẻ hợp lý, nhưng thực chất không phù hợp với quan điểm,
mục tiêu của Đảng ta cũng như bản chất của chế độ XHCN mà Việt Nam đang xây dựng Ba là, công bằng
xã hội không có nghĩa là cào bằng, “bình quân chủ nghĩa”. Trên thực tế, sự đồng nhất CBXH với bình
đẳng xã hội đã từng là cơ sở lý luận của chủ nghĩa bình quân, của quan niệm sai lầm cho rằng không thể
đạt được đồng thời mục tiêu kép là công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế. Do đó, quan điểm trên đây là
một bước tiến trong tư duy của Đảng về CBXH trong điều kiện KTTT đ>nh hướng XHCN. Bốn là, thực
hiện phân phối phù hợp - điều kiện căn bản để có công bằng xã hội Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả
khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho
mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình”(11). Và, phải quan tâm “xây dựng,
thực hiện các chính sách phù hợp với các giai tầng xã hội;... giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội
bức xúc, những mâu thuẫn có thể dẫn đến xung đột xã hội... quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ
phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu
hướng gia tăng phân hóa giàu – nghèo Đến nay sau hơn 35 năm đổi mới, quá trình thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội đã đạt được những thành tựu to lớn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, việc gắn kết phát triển
kinh tế với phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội đã được
thực hiện có hiệu quả; tạo cơ sở kích thích, khơi dậy và phát huy tính tích cực, năng động của con người.
Nhờ vậy, các giai tầng xã hội và các chủ thể kinh tế tự do, tự chủ đầu tư, phát triển kinh tế, xã hội, nâng
cao thu nhập và chất lượng cuộc sống cả về vật chất và tinh thần. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ
tuổi giảm từ 6,9% của năm 2001 xuống 3,22% năm 2021. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình trong 35
năm qua đạt khoảng 7%/năm. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng hơn 23 lần, từ 159 USD/năm
(1985) lên 3.743 USD/năm (2021). Kim ngạch xuất, nhập khẩu tăng từ 2,4 tỷ USD (1990) lên 660 tỷ
USD (2021). Công tác xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả nổi bật, được Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế
đánh giá cao. Việt Nam là một trong 30 quốc gia đầu tiên trên thế giới và là nước đầu tiên ở châu Á áp
dụng chuẩn nghèo đa chiều. Tỷ lệ hộ nghèo mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống
còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều…
Đây là cơ sở, điều kiện có tính quyết đ>nh để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
4) Phân tích thực trạng bình đẳng giới hiện nay ở Việt Nam. Hãy so sánh vấn đề bình đẳng giới ở
khu vực thành thị và nông thôn, so sánh bình đẳng giới giữa miền Bắc, miền Trung và miền nam,

giữa các dân tộc đang sinh sống trên lãnh thổ VN.
TL: Ở Việt Nam hiện nay, vấn đề bình đẳng giới vẫn là một vấn đề đáng quan ngại. Mặc dù các chính
sách đã được triển khai, và cũng đã đem lại những kết quả nhất đ>nh khi phụ nữ ngày càng có tiếng nói
trong xã hội. Tuy nhiên, ở đâu đó bất bình đẳng giới vẫn còn tồn tại và kìm hãm sự phát triển tốt nhất của xã hội.
Trên thực tế, phụ nữ và các bé gái ở Việt Nam vẫn còn ch>u nhiều thiệt thòi so với nam giới trên một số
lĩnh vực nhất đ>nh. Tình trạng này diễn ra nhiều ở những vùng kém phát triển hay đồng bào dân tộc thiểu số.
_ So sánh bình đẳng giới ở nông thôn và thành th>: * Ở nông thôn
- Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về th> trường lao động và đào tạo nghề với các thông tin tách biệt theo giới tính.
- Phát triển các trung tâm đào tạo nghề và giới thiệu việc làm cho phụ nữ.
- Tăng cường khả năng tiếp cận của phụ nữ với các nguồn vốn tín dụng, vốn từ chương trình xóa đói,
giảm nghèo, tạo điều kiện để phụ nữ được tập huấn về cách sử dụng các nguồn vốn đó.
- Có các biện pháp bảo đảm cho phụ nữ được tiếp cận bình đẳng về giáo dục, được nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
- Có chế độ khuyến khích phụ nữ ở vùng sâu, vùng xa và vùng dân tộc ít người được học trung học, vào
các trường nội trú, trường cao đẳng và đại học.
- Thực hiện chính sách hỗ trợ phụ nữ và trẻ em gái b> nghèo, có các biện pháp điều chỉnh sự tách biệt về
giới trong ngành học, kết hợp giới vào các chương trình hướng nghiệp, rà soát sách giáo khoa và loại bỏ
các quan niệm, hình ảnh rập khuôn về giới.
- Nâng cao tỷ lệ nữ ở các v> trí quản lý ở các cấp và bậc học.
- Xây dựng các quỹ khuyến học cho nữ và xác đ>nh chỉ tiêu nữ ở các khóa đào tạo và đào tạo lại ở các ngành và các cấp.
- Giảm dần gánh nặng công việc gia đình cho phụ nữ thông qua chú trọng đầu tư vào công nghệ phục vụ
gia đình, các dự án nước sạch và năng lượng nông thôn * Ở thành th>:
- Thông qua các hoạt động tuyên truyền nhằm góp phần nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi của các
tầng lớp nhân dân đối với công tác bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới
- Giảm thiểu, tiến tới chấm dứt tình trạng bạo lực, xâm hại đối với phụ nữ và trẻ em; đẩy mạnh công tác
phòng ngừa, phát hiện và ngăn chặn, xử lý k>p thời các vụ bạo lực, xâm hại đối với phụ nữ và trẻ em.
- Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về các chính sách an sinh xã hội, bình đẳng giới và phòng
ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới bằng nhiều hình phong phú, đa dạng
- Tăng cường giáo dục kiến thức, kỹ năng bảo vệ, phòng ngừa bạo lực, xâm hại cho phụ nữ và trẻ em, các
thành viên gia đình, người làm công tác bình đẳng giới và trẻ em
_ Bình đẳng giới giữa các dân tộc
Các dân tộc đều là “anh em ruột th>t”. Đàn bà ngang quyền đàn ông. Mọi công dân ở Việt Nam đều được
bảo đảm quyền tham gia hệ thống chính tr>, tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, ứng cử vào Quốc hội
và Hội đồng nhân dân các cấp. Những năm gần đây tỷ lệ người dân tộc thiểu số tham gia vào bộ máy
chính tr> ngày càng tăng. Số lượng đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số luôn chiếm tỷ lệ cao so với
tỷ lệ dân số. Trong 4 nhiệm kỳ Quốc hội liên tiếp, số đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số chiếm từ
15,6% đến 17,27%, cao hơn tỷ lệ người dân tộc thiểu số trên tổng số dân là 14,35%.
Nhờ những chính sách và chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, tình hình kinh tế, xã hội ở các
vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được cải thiện rõ rệt. Từ năm 2007 đến nay đã có 118.530 hộ
đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn được vay vốn, 33.969 hộ được hỗ trợ phát triển sản xuất,
80.218 hộ được hỗ trợ mở rộng quy mô chăn nuôi, 4.343 hộ được hỗ trợ mở rộng sang ngành nghề d>ch vụ.
5) Hãy đề xuất các biện pháp chống lại nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em VN. Hãy sử dụng các tư liệu
của ngành truyền thông để đánh giá về công tác này.

Thực trạng: Trong 2 năm 2005-2006, cả nước phát hiện 568 vụ, 993 đối tượng phạm tội buôn bán phụ nữ,
trẻ em. Trong số 1.518 nạn nhân, số phụ nữ b> lừa bán ở lứa tuổi từ 18 đến 35 chiếm đa số, gồm 511 vụ
với 882 đối tượng tham gia.” -“ So với năm 2005, số vụ buôn bán PNTE của năm 2006 được phát hiện
nhiều hơn 72%; số đối tượng tăng 89% và số người b> hại tăng 138%” -“Từ năm 1998 đến nay (9 năm) cả
nước xác đ>nh được 33 tuyến, 139 đ>a bàn trọng điểm thường diễn ra hoạt động buôn bán PNTE ra nước
ngoài; đưa vào diện quản lý 2.048 đối tượngvới 654 đối tượng có liên quan, lập danh sách 5746 PNTE b>
bán ra nước ngoài; 7940 PNTE vắng mặt lâu ngày tại đ>a phương nghi đã b> bán.”
Mặc dù phong trào phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em (PNTE) được thực hiện rộng khắp
trên phạm vi toàn quốc, nhất là PNTE ở các vùng có nguy cơ cao đã được nâng cao, song tình hình hoạt
động của tội phạm buôn bán PNTE vẫn diễn biến phức tạp. Tính chất và qui mô hoạt động phạm tội có
chiều hướng gia tăng, có tổ chức chặt chẽ và xuyên quốc gia…Bọn tội phạm thường lợi dụng triệt để số
PNTE ở các vùng nông thôn nghèo, có trình độ học vấn thấp,hoàn cảnh kinh tế khó khăn, hứa tìm việc
làm thích hợp, nhẹ nhàng ở thành phố, th> xã với mức lương ổn đ>nh, sau đó tìm mọi cách đưa qua biên
giới bán cho các chủ chứa hoặc các tổ chức tội phạm ở nước ngoài.” Đề xuất giải pháp:
Phải có sự phối hợp chặt chẽ về pháp luật với các nước láng giềng liên quan: Để có thể kiểm soát ngăn
chận việc buôn bán PNTE qua biên giới, VIỆT NAM phải có sự phối hợp chặt chẽ với chính quyền các
nước láng giềng có liên quan như Trung Quốc và Campuchia trong việc phòng, chống tội phạm này với
việc hoàn chỉnh khung pháp lý phù hợp với đặc điểm tình hình của mỗi nước, và luật phải được thi hành nghiêm minh rốt ráo.
Hiện nay, tại Campuchia dù có luật về bài trừ nạn mua bán phụ nữ trẻ em có từ 1996 nhưng đến nay kết
quả thực hiện cũng rất hạn chế, lại chỉ bắt được một vài vụ nhỏ xảy ra trong nội đ>a, những vụ buôn người
xuyên biên giới thì chưa phát hiện được trong khi chưa có luật về mại dâm và chưa có luật về bằng chứng
nên khó khăn trong xét xử loại tội phạm này. Thời gian đưa ra xét xử các vụ án liên quan tới mua bán phụ
nữ, trẻ em cũng rất lâu, sơ thẩm từ 4 đến 6 tháng, phúc thẩm từ 1 đến 2 năm, làm cho nạn nhân chán nản
không muốn tham gia tố tụng.. Đó là chưa kể đa số nạn nhân ra trước tòa đều lên tiếng bảo vệ chủ chứa,
nói b> cảnh sát ép khai như vậy.
Xóa đói giảm nghèo- Nâng cao trình độ dân trí: Theo kết quả nghiên cứu về thực trạng phụ nữ, trẻ em b>
lừa bán ra nước ngoài do Bộ Công an hợp tác với tổ chức UNICEF (Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc) thực
hiện, nguyên nhân chủ yếu để dẫn đến tình trạng trên ngày càng tăng là do đời sống kinh tế còn nghèo
nàn, trình độ dân trí, sự hiểu biết còn thấp. Trong số trên 1.750 nạn nhân của những vụ “buôn người”, có
hơn một nửa là người mù chữ hoặc chỉ dừng lại ở cấp tiểu học. Nghề nghiệp của các nạn nhân trước khi
b> lừa bán ra nước ngoài chủ yếu là làm ruộng và thất nghiệp. Những khó khăn trong cuộc sống, hạn chế
về trình độ nhận thức đã “đẩy” họ trở thành “miếng mồi” ngon cho những tên “buôn người”.
Như vậy, phải giải quyết bài toán xã hội là sự đói nghèo cả 2 mặt vật chất lẫn tinh thần, vì việc phòng
chống tệ nạn buôn bán PNTE chỉ đạt được hiệu quả tích cực với sự tham gia của chính những đối tượng
có nguy cơ trở thành nạn nhân. Nói một cách cụ thể, là làm sao cho tất cả người dân có đời sống kinh tế
ổn đ>nh, có công ăn việc làm, có khả năng thu nhập để có thể thỏa mãn phần nào nhu cầu đời sống trong
nền kinh tế th> trường có quá nhiều hàng hóa, tiện nghi. Thêm vào đó, người dân phải có nền tảng tri thức
tối thiểu để không chỉ hiểu được những điều luật pháp cấm đoán mà còn phải nhận thức được giá tr> nhân
bản của chính mình mà không làm những điều đi ngược với đạo đức xã hội.
Để làm được điều này, cần có chính sách hỗ trợ tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập qua dạy
nghề, cho vay vốn…cho đối tượng phụ nữ có nguy cơ cao ở những vùng khó khăn, song song với việc
trang b> kiến thức cho họ về nguy cơ b> buôn bán với viễn ảnh tương lai đen tối nếu chẳng may b> sa vào.
Thực tế hiện nay, chỉ mới tại thành phố Hồ Chí Minh, được Hội Liên Hiệp Phụ nữ các cấp triển khai có
hiệu quả các chương trình hỗ trợ cho vay vốn, tìm việc làm….nhưng vẫn còn một số nơi còn ngại khó
chưa thực sự tích cực, nên hiệu quả còn hạn chế.
Vấn đề thực sự xóa mù chữ, phổ cập giáo dục cũng hết sức cần thiết cho những đối tượng có nguy cơ trở
thành nạn nhân của tội phạm buôn bán PNTE, vì nhờ đó họ có thể tiếp cận với mọi thông tin từ các
phương tiện truyền thông để tự bảo vệ mình. Đồng thời sự mở mang trí óc bằng kiến thức học hành căn
bản cũng giúp rất nhiều cho con người nhận ra những điều phải trái.
Cần đưa vào chương trình giáo dục ở bậc Tiểu học và Trung học vấn đề buôn bán PNTE với những
phương thức phòng ngừa trong môi trường xã hội phức tạp cũng như giúp cho các em thấy được tính chất
phi nhân tội ác của để các em hình thành ý thức đạo đức ngay từ tuổi nhỏ. Do vậy, ngành giáo dục cũng
phải dự phần tham gia chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán PNTE.
Tăng cường hiệu quả của việc tuyên truyền phổ biến giáo dục: Mặt khác, phải triển khai rộng rãi chương
trình hành động qua các cuộc tuyên truyền phổ biến giáo dục thường xuyên đến nhân dân, mà các đoàn
thể đ>a phương, khu phố, tổ dân phố là lực lượng nòng cốt, để vừa giúp người dân cảnh giác đối với thủ
đoạn của bọn tội phạm, vừa xây dựng họ thành lực lượng phòng, chống, phát hiện k>p thời bọn tội phạm
ngay khi chúng manh nha tội ác. Đồng thời cũng cần có biện pháp đối với những loại người vô tình, thờ ơ
trước tội ác. Nếu có sự góp tay của quần chúng thì không thể nào tồn tại những điểm tập kết phụ nữ, trẻ
em như đã xảy ra rất nhiều trong thời gian qua tại tp.HCM. Ngoài ra cũng sẽ có tác động dối với thành
phần phụ nữ lười lao động, có khuynh hướng thích sống thiên về bản năng hưởng thụ, sẵn sàng bán rẻ
danh dự, thân xác mình, mà “chương trình 3 giảm” của thành phố đã có những biện pháp để nhằm đẩy lùi
tệ nạn mãi dâm, nhưng vẫn còn tồn tại lén lút, và đây cũng chính là những đầu mối nguy cơ dẫn dắt cho
việc buôn bán PNTE ra nước ngoài.
Đối với trẻ em, đã có Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em các cấp ch>u trách nhiệm. Tuy nhiên, thành thật
mà nói, lực lượng này ở nhiều đ>a phương còn thiếu năng lực và nhiệt tình, cho nên vẫn còn rất nhiều tình
trạng trẻ em bỏ học, trẻ em b> cha mẹ ngược đãi, b> bán, mà không hề được đ>a phương quan tâm. Nếu
mỗi phường, mỗi xã chú ý hơn đến từng gia đình để biết được hoàn cảnh của các em trong đ>a phương
mình và sẵn sàng can thiệp giúp đỡ k>p thời, chận đứng mọi trường hợp vi phạm quyền trẻ em, để các em
được sống trong sự chở che, bảo bọc của người lớn, thì vấn đề buôn bán trẻ em không thể nào tồn tại.
6) Phân tích nguyên nhân của tình trạng nghèo đói tại VN. Sử dụng số liệu của ngành truyền thông
để minh họa cho các phân tích nêu trên và đề xuất các giải pháp cụ thể của công cuộc xóa đói giảm
nghèo tại VN.
Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn các nhu cầu cơ bản của con
người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế – xã hội và
phong tục tập quán của đ>a phương”. Đói nghèo ở Việt Nam không chỉ được nhìn nhận ở phương diện
thiếu thốn những nhu cầu vật chất tối thiểu như ăn mặc, giáo dục, y tế mà ở cả phương diện thu nhập hạn
chế, thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để đảm bảo tiêu dùng trong những lúc khó khăn và dễ b> tổn
thương trước những đột biến bất lợi, ít có khả năng truyền đạt nhu cầu và những khó khăn tới người có
khả năng giải quyết, ít được tham gia vào quá trình ra quyết đ>nh.
Nguyên nhân mang tính lịch sử:
Việt Nam xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu, lại phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh lâu dài và
gian khổ, những tổn thất về con người, về vật chất và tinh thần do chiến tranh để lại là trở ngại ảnh hưởng
lớn đến việc phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam.
Sau khi thống nhất, Nhà nước Việt Nam đã thực thi một số chính sách kinh tế không thành công đã để lại
tác động xấu đến nền kinh tế làm suy kiệt nguồn lực của Nhà nước và Nhân dân.
Các ngành sản xuất ở Việt Nam xuất phát điểm là yếu kém, cụ thể: sản xuất nông nghiệp đơn điệu, sản
xuất công nghiệp thiếu hiệu quả, nền thương nghiệp tư nhân không phát triển, nền thương nghiệp quốc
doanh không đủ sức cung cấp hàng hoá và d>ch vụ cho nhu cầu xã hội.
Một bộ phận lao động dư thừa ở nông thôn không được đào tạo, không được khuyến khích ra thành th>
lao động. Thất nghiệp tăng cao trong thời gian trước đổi mới.
Số liệu truyền thông minh hoạ cho các phân tích trên: tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo đã tăng từ 5,2% (năm
2020) lên 9,35% (năm 2022). Điều này đồng nghĩa với việc Việt Nam có thêm 10 triệu người nghèo trong
giai đoạn 2021-2025. Đây là thông tin được đưa ra tại Lễ Công bố Báo cáo Nghèo đa chiều: Thúc đẩy
giảm nghèo nhanh và bền vững theo mọi chiều cạnh và mọi nơi ở Việt Nam.
Tỷ lệ hộ thiếu hụt các d>ch vụ xã hội cơ bản có xu hướng giảm qua các năm ở đa số các chỉ số. Điều này
cho thấy các hộ gia đình Việt Nam tiếp cận ngày càng tốt hơn với các d>ch vụ xã hội cơ bản. Riêng năm
2020, do tác động của đại d>ch Covid-19 nên xu hướng giảm này không còn tiếp diễn ở một số chỉ số. Chỉ
số có mức độ thiếu hụt nhiều nhất là bảo hiểm y tế, tuy nhiên đây cũng là chỉ số có mức giảm nhanh nhất,
từ 40,6% năm 2016 giảm xuống còn 19,5% năm 2020. Khám chữa bệnh và giáo dục trẻ em là các chỉ số
có mức độ thiếu hụt rất ít. Các chỉ số có mức độ thiếu hụt không thay đổi đáng kể qua các năm là tài sản
tiếp cận thông tin, khám chữa bệnh, giáo dục trẻ em và giáo dục người lớn.
MPI chung cả nước giảm từ 0,035 năm 2016 xuống còn 0,016 năm 2020 cho thấy tình trạng nghèo đa
chiều ở Việt Nam đã được cải thiện đáng kể. Xu hướng này diễn ra ở cả khu vực thành th>, nông thôn và 6
vùng kinh tế. Tình trạng nghèo đa chiều trong giai đoạn 2016-2020 được cải thiện là do tỷ lệ hộ nghèo
(độ rộng của nghèo) giảm nhanh, còn mức độ thiếu hụt (độ sâu của nghèo) không có sự thay đổi đáng kể.
Tình trạng nghèo đa chiều vẫn còn có sự chênh lệch tương đối lớn giữa khu vực thành th> và nông thôn.
Năm 2020, MPI của khu vực nông thôn là 0,019 cao gần gấp 2 lần khu vực thành th> chỉ là 0,010. Các
vùng có tình trạng nghèo đa chiều cao gồm: Tây Nguyên, Trung du và miền núi phía Bắc và Đồng bằng
sông Cửu Long. Đồng bằng sông Hồng là vùng có tình trạng nghèo đa chiều thấp nhất.
Nguyên nhân từ thực tiễn:
Do Chính phủ thường xuyên điều chỉnh mức chuẩn nghèo cho tiếp cận với mức chuẩn nghèo thế giới, đối
với các nước đang phát triển hiện nay mức là 1USD/người/ngày. Số lượng dân cư sống ở các vùng nông
thôn cao 67,86% (năm 2014), trong khi đó tổng sản phẩm quốc dân ở khu vực nông thôn rất thấp. Hệ số
Gini là 0,434 và hệ số chênh lệch thu nhập giữa các nhóm thu nhập là 9,35 nên sự bất bình đẳng cao.
Người dân, đặc biệt là nông dân ch>u nhiều rủi ro, thiên tai, d>ch bệnh, thất nghiệp, giá cả tăng cao, chính
sách thay đổi, hệ thống hành chính kém minh bạch, quan liêu, tham nhũng, do đó nguy cơ tái nghèo cao.
Nền kinh tế Việt Nam đang phát triển nhưng chưa nhanh và không đảm bảo tính bền vững. Giải pháp:
Tiếp tục triển khai thực hiện các chính sách dân tộc đang còn hiệu lực thi hành, đặc biệt quan tâm giải
quyết các khó khan trong đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số rất ít người, đảm bảo mức sống
của các dân tộc này tương đương với các dân tộc khác trong vùng theo mục tiêu Đề án đề ra đến năm 2025 .
Chủ động phối hợp cùng với các sở, ngành, đ>a phương tham mưu Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh triển
khai có hiệu quả Chương trình Mục tiêu Quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu
số và miền núi giai đoạn 2021-2030 theo nguyên tắc: “Nhà nước và Nhân dân cùng làm”.
Đổi mới tư duy tổ chức thực hiện triển khai chính sách dân tộc theo hướng phân cấp cho huyện, xã trực
tiếp quản lý nguồn lực, ch>u trách nhiệm tổ chức thực hiện các dự án cụ thể;, chuyển hướng đầu tư phát
triển tập trung giải quyết những vấn đề bức thiết về đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số, như: tình
trạng thiếu đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt; thực hiện các giải pháp hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo sinh
kế như: Hỗ trợ trồng rừng, bảo vệ rừng; hỗ trợ phát triển sản xuất, xác đ>nh cơ cấu cây trồng, vật nuôi chủ
lực để sản xuất hàng hóa tập trung, tạo ra các sản phẩm có giá tr> cao; kết nối tiêu thụ hàng hóa giữa vùng
dân tộc thiểu số với th> trường trong nước và quốc tế để đồng bào ổn đ>nh cuộc sống; đồng thời, chú trọng
việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao vùng dân tộc thiểu số và miền núi trong nông nghiệp, xây
dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững.
Đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, lãnh đạo các cấp, các
ngành và đồng bào dân tộc thiểu số về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với công tác giảm
nghèo vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Đổi mới hơn nữa nội dung thông tin, tuyên truyền, bảo đảm
thiết thực, hiệu quả, để đồng bào hiểu rõ mục đích, ý nghĩa và tin tưởng thực hiện chính sách giảm nghèo;
nhân rộng mô hình điển hình tiên tiến, đồng thời khơi dậy truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, ý chí
tự lực, tự cường, nỗ lực vươn lên thoát nghèo bền vững, làm giàu chính đáng. Phát huy vai trò tích cực
của già làng, người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số trong công tác tuyên truyền, vận động quần chúng.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện các Chương trình Mục tiêu Quốc gia ở
các cấp. Huy động cả hệ thống chính tr> vào cuộc để cùng theo dõi, giám sát quá trình triển khai thực hiện
để đảm bảo thực hiện thắng lợi các mục tiêu của các Chương trình đề ra.
Chúng ta cần tăng cường hiệu quả công tác truyền thông để huy động tối đa nguồn lực cho giảm nghèo,
khơi dậy ý chí vươn lên chủ động thoát nghèo của người nghèo. Bên cạnh đó, phải tổ chức tập huấn nâng
cao năng lực, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác giảm nghèo các cấp về nghiệp vụ, quy trình,
công cụ, phần mềm rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo.
7) Trong tgian gần đây tình trạng thất nghiệp của sinh viên mới ra trường gia tăng đáng kể. Nhiều
trường hợp sv ra trường đến 2-3 năm vẫn không tìm được việc làm. Hãy phân tích những nguyên
nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng nói trên và đề xuất giải pháp nhằm giải quyết tình trạng sv ra
trường ko có việc làm.

Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO): “Thất nghiệp là tình trạng tồn tại một số người trong lực lượng lao
động muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền lương th>nh hành”.
Thực trạng: Theo số liệu mới nhất của Tổng cục Thống kê, đến quý 1 năm 2017, trong tổng lực lượng lao
động cả nước có gần 918 nghìn lao động thiếu việc làm và lao động thất nghiệp là 1,14 triệu người. Trong
quý 1 năm 2017, hiện có gần 85,0% lao động thiếu việc làm sinh sống ở khu vực nông thôn. Xét về khác
biệt giới, th> phần lao động nam thiếu việc là cao hơn so với lao động nữ (52,2% và 47,8 % tổng số lao
động thiếu việc cả nước). Đồng thời, tình trạng thất nghiệp ở khu vực thành th> hiện thấp hơn, chỉ chiếm
khoảng 47,6% tổng số lao động thất nghiệp cả nước. Hơn nữa, dựa trên kết quả điều tra lao động việc làm
quý 1 năm 2017 cũng cho thấy lao động thất nghiệp nam là đông hơn so với lao động nữ (chiếm 58,9% và
41,1% trong tổng số lao động thất nghiệp cả nước). Nếu xem xét tình trạng thất nghiệp theo trình độ
chuyên môn kỹ thuật (CMKT) tức là sinh viên ra trường có trình độ chuyên môn nhất đ>nh, trong quý 1
năm 2016, có tới hơn 32,3% số lao động thất nghiệp cả nước là lao động đã qua đào tạo chuyên nghiệp
hoặc nghề từ 3 tháng trở lên. Trong đó, nhóm lao động có trình độ từ đại học trở lên chiếm th> phần lớn
nhất, khoảng 38,6% tổng số lao động thất nghiệp nhóm này. 6 nhóm ngành/nghề đào tạo hiện có tỷ trọng
lao động thất nghiệp có trình độ CMKT từ 3 tháng trở lên theo thứ tự là “Kinh doanh và quản lý -
30,3%”, “Công nghệ kỹ thuật - 13,4%”, “Sức khỏe - 10,7%”, “D>ch vụ vận tải - 9,5%” và “Khoa học giáo
dục và đào tạo giáo viên - 9,0%”. Chỉ khoảng 3,6% nhóm lao động thất nghiệp có trình độ CMKT là có 2
bằng/chứng chỉ đào tạo trở lên.
Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên:
Không có đ>nh hướng nghề nghiệp trước khi học
Ở Việt Nam, việc chọn nghề phụ thuộc rất nhiều vào quyết đ>nh của các bậc phụ huynh. Với tâm lý luôn
muốn che chở, bao bọc con, các bậc cha mẹthường thiên về những ngành “an toàn”, mang lại danh tiếng,
như kỹ sư, bác sĩ,… và con cái thì cũng thụ động, cha mẹ chọn ngành gì con học ngành đó. Mặt khác, xu
hướng th> trường cũng là một điều đáng nói. Một số bạn trẻ còn có xu hướng chạy theo các nghề “hot” để
theo k>p bạn bè, chứ không thực sự vì đam mê và đúng sở trường.
Những thông tin trên như là một hồi chuông cảnh báo cho thực trạng đ>nh hướng nghề hiện nay khi mà
các học sinh hầu như không có một đ>nh hướng nghề cho bản thân, không biết mình thích gì và có thể làm
gì sau này, đâu là điểm mạnh và điểm yếu của bản thân? Không biết đ>nh hướng và lựa chọn cho mình
ngành học phù hợp, sinh viên sẽ dẫn đến tình trạng chán nản, kết quả học tập sút kèm, không có sự yêu
thích và tâm huyết,… Vì vậy, việc đ>nh hướng nghề nghiệp cho tương lại đóng vai trò hết sức quan trọng
trong việc tạo dựng một sự nghiệp thành công.
2.2. Sinh viên ra trường thiếu kỹ năng làm việc
Nhiều doanh nghiệp lớn cho biết:“Kỹ năng của sinh viên mới ra trường là chưa hình thành nếu không
muốn nói là không có”. Sinh viên ra trường hiện nay có kiến thức nhưng thiếu kỹ năng, đặc biệt là các kỹ
năng cần thiết để làm việc. Một số bạn trẻ còn cho rằng, các nhà tuyển dụng chỉ cần tuyển người có năng
lực chuyên môn, vi tính thành thạo, ngoại ngữ bằng A, B, C… Chính vì thế, các bạn đổ xô rủ nhau đi học
bằng này bằng kia, khóa học này khóa học kia, nhưng các bạn không hề biết rằng, các chủ doanh nghiệp
và công ty, nhất là các công ty nước ngoài luôn chú trọng đến các kỹ năng làm việc, kỹ năng giao tiếp,
ứng xử, kỹ năng làm việc theo nhóm, khả năng lập kế hoạch mục tiêu, xử lý nhanh những khó khăn trong tình huống bất ngờ…
Mặc dù, quá trình tìm việc cũng không phải dễ dàng gì. Trừ một số bạn có mối quan hệ rộng rãi hay được
cha mẹ gửi gắm, số còn lại, đa phần các bạn còn quá thụ động trong quá trình tìm việc. Các bạn chưa tự
tin vào bản thân, thiếu ngh> lực và dũng cảm để đương đầu với những khó khăn, thậm chí có bạn còn
chưa rõ mình thích làm gì, thích làm công việc như thế nào. Các bạn không biết rằng, trong môi trường
công việc đầy cạnh tranh và năng động, trang b> tốt cho mình các kỹ năng giao tiếp, đàm phán, thuyết
trình, quản lý thời gian,… mới thực sự là yếu tố quyết đ>nh giúp bạn khác biệt và làm việc hiệu quả.
2.3. Chất lượng đào tạo chưa thực sự gắn với nhu cầu xã hội
Một nguyên nhân khác là do các trường đại học, cao đẳng còn xem nhẹ phần thực hành mà quá đặt nặng
lý thuyết. Ngoài ra, còn do chương trình đào tạo ở các trường vẫn theo lối tư duy cũ, thiếu thực tế, cơ sở vật chất nghèo nàn…
Chúng ta chuyển dần từ giáo dục truyền thống, giáo dục thời đại công nghiệp sang giáo dục thời đại thông
tin. Đây là hệ thống giáo dục mới tập trung phần lớn vào kiến thức kỹ thuật và ứng dụng của công nghệ
để giải quyết các vấn đề kinh doanh, sinh viên học chính thức nền tảng không chỉ trong nhà trường, mà
còn tiếp tục trong cả đời họ vì không ngại lúc nào cũng thay đổi.
Ngoài ra, chúng ta cải tiến kỹ năng công nghiệp cho mọi người dân, tạo cho người dân có trí thức sẵn có
để làm việc, đây là nhân tố chính cho tăng trưởng kinh tế của đ>a phương. Đặc biệt, chúng ta thay đổi tư
duy nên nhìn nhận các trường đại học như là một doanh nghiệp, họ có thể đào tạo sinh viên đúng thực
chất bằng việc cộng tác với công nghiệp gắn với nhu cầu th> trường và cập nhật chương trình đào tạo tương ứng.
2.4. Trình độ ngoại ngữ vẫn còn nhiều hạn chế
Một trong các lý do tạo nên làn sóng “cử nhân thất nghiệp” chính là vấn đề tiếng Anh. Chỉ có được động
lực học, cách học phù hợp, khoa học, áp dụng vào môi trường thực tế mới có thể nâng cao trình độ tiếng
Anh, đáp ứng được nhu cầu của nhà tuyển dụng.
2.5. Luôn than trách và đổ lỗi cho số phận
Đó là điều mà sinh viên vẫn thường làm để che đậy sự lười nhác của bản thân. Luôn đổ lỗi cho không có
chỉ tiêu rồi đào tạo nhưng không đảm bảo đầu ra. Tốt nghiệp và ngồi chờ nhà tuyển dụng. Luôn than trách
không có việc làm, đó là điều càng khiến sinh viên vùi mình sâu hơn vào nguy cơ thất nghiệp. Đỗ lỗi cho
không có cơ hội việc làm, đỗ lỗi cho chất lượng đào tạo của giáo dục… 3. Giải pháp - Về phía sinh viên:
Cần đ>nh hướng sơ bộ về nghề nghiệp của mình trong tương lai. Học sinh, sinh viên cần thay đổi nhận
thức, hiểu được đầu ra của ngành học. Cần học những ngành nghề mà trong đó có sự đam mê, yêu thích
của bản thân và phù hợp với khả năng của mình. Đồng thời, các giảng viên của nhà trường nên kết hợp
cùng với lãnh đạo của các doanh nghiệp trao đổi và đ>nh hướng nghề nghiệp phù hợp với từng tân sinh
viên, dựa trên việc phân tích tính cách, đặc điểm gia đình, sở thích...của từng cá nhân để đưa ra lời
khuyên cho các em nên chọn ngành nào phù hợp với mình, có cơ hội việc là tốt nhất và phát huy được năng lực cao nhất.
Trải nghiệm thực tế tại các doanh nghiệp là điều vô cùng quan trọng. Nâng cao chất lượng đào tạo, kỹ
năng làm việc cho sinh viên cần có sự kết hợp giữa sinh viên và nhà trường. Việc học đi đôi với thực
hành, học đến đâu có thể thực hành đến đó để việc giảng dạy không còn mang ý nghĩa trừu tượng mà còn
mang tính ứng dụng thiết thực. Sinh viên cần thực hiện nghiêm túc trong quá trình đi kiến tập, thực tập.
Nếu sinh viên coi hoạt động kiến tập, thực tập cho hết môn thì sẽ không khác gì vẫn chạy theo lý thuyết mà không có thực tế.
Sinh viên cần nghiêm túc học hành ngay khi đang còn ngồi trên ghế nhà trường. Sự nghiêm khắc trong
quá trình học tập của bản thân sẽ giúp sinh viên tự rèn luyện tính cách, kỹ năng đồng thời đạt kết quả tốt
trong quá trình học tập, sẽ giúp ích rất nhiều cho công việc chuyên môn ngay sau khi ra trường. - Về phía Nhà nước:
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế th> trường lao động, tạo khung pháp lý phù hợp, bảo đảm đối xử bình đẳng
giữa người sử dụng lao động và người lao động. Thực hiện đúng các luật về lao động, tiền lương tối thiểu,
bảo hiểm lao động, xuất khẩu lao động, pháp lệnh đình công... Người lao động được quyền hưởng lương
đúng với số lượng và chất lượng lao động họ đã bỏ ra, phải được bảo đảm về chỗ ở và những điều kiện
môi trường lao động, an sinh khác theo đúng luật pháp.
Thứ hai, Nhà nước cùng các doanh nghiệp cần phải quan tâm đào tạo công nhân trình độ cao, trình độ
lành nghề, trình độ văn hóa đối với lao động trẻ, khỏe, nhất là khu vực nông thôn để cung ứng cho các
vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, khu du l>ch, d>ch vụ và xuất khẩu lao động.
Thứ ba, đa dạng hóa các loại hình th> trường, các lớp dạy nghề của Nhà nước, của tư nhân và quốc tế; áp
dụng cơ chế th> trường trong dạy nghề, dần dần hình thành th> trường dạy nghề phù hợp với pháp luật.
Thực hiện quy hoạch đầu tư tập trung hệ thống dạy nghề, kỹ thuật thực hành qua lao động trực tiếp; đặc
biệt là xây dựng các trường dạy nghề trọng điểm quốc gia.
Thứ tư, thực hiện hiệu quả dự án hỗ trợ đào tạo giảng viên; xây dựng cơ chế xác đ>nh chỉ tiêu tuyển sinh
đào tạo trung cấp, đào tạo cao đẳng, đại học hàng năm trên cơ sở nhu cầu của th> trường lao động, năng
lực đào tạo và tỷ lệ người học tốt nghiệp có việc làm của cơ sở đào tạo; chỉ đạo các cơ sở đào tạo đầu tư
nâng cao điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo, hợp tác với đơn v> sử dụng lao động để xây dựng chương
trình đào tạo cân đối giữa lý thuyết và thực hành, xây dựng chuẩn đầu ra, hỗ trợ sinh viên thực tập và
đánh giá sinh viên tốt nghiệp theo yêu cầu của th> trường lao động.
8) Theo tổ chức lao động quốc tế(ILO), năng suất lao động của VN thấp và chậm được cải thiện.
Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng tăng trưởng và phát triển kinh tế của VN. Bằng các
tư liệu và số liệu thu thập được trên các phương tiện truyền thông, hãy chứng minh đánh giá trên

của ILO và dề xuất các giải pháp nâng cao năng suất lao động của VN.
Năng suất lao động là yếu tố quyết đ>nh nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và của từng doanh
nghiệp, có ý nghĩa quan trọng đối với thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Tăng năng suất lao động
là mục tiêu hàng đầu mà các quốc gia trên thế giới đang hướng đến để thoát khỏi tình trạng kém phát triển
và trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Ý nghĩa của tăng năng suất lao động đối với tăng trưởng
kinh tế càng trở nên quan trọng hơn khi các yếu tố đầu vào như vốn, đất đai, tài nguyên trở nên khan
hiếm, nguồn lao động đang b> ảnh hưởng do xu thế già hóa dân số trong tương lai.
Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới trong hơn 35 năm qua đã đạt những thành tựu quan trọng về phát triển
kinh tế. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn đ>nh; các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm; đặc biệt là duy trì
được nh>p tăng trưởng GDP ở mức cao, thu nhập bình quân đầu người được cải thiện đáng kể. Mặc dù
vậy, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao; chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được
yêu cầu của quá trình phát triển; đời sống một bộ phận dân cư còn khó khăn; Việt Nam vẫn là nước có
mức năng suất lao động thấp và có khoảng cách khá xa với các nước trong khu vực. Cải thiện và thúc đẩy
nâng cao năng suất lao động là một trong những vấn đề cốt lõi đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay, là
điều kiện tiên quyết để đưa Việt Nam thu hẹp trình độ phát triển với các nước trong khu vực, thích ứng
với xu thế toàn cầu và chống chọi tốt với các cú sốc từ bên ngoài
Năng suất lao động (NSLĐ) phản ánh năng lực tạo ra của cải, hiệu suất lao động cụ thể trong quá trình
sản xuất, được đo bằng số sản phẩm hay lượng giá tr> tạo ra trong một đơn v> thời gian hoặc lượng thời
gian lao động sử dụng để sản xuất ra một đơn v> sản phẩm.
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), NSLĐ tính bằng số sản phẩm hàng hóa, d>ch vụ
cuối cùng được tạo ra cho một đơn v> lao động tham gia vào hoạt động sản xuất. Trong đó, hàng hoá và
d>ch vụ cuối cùng được tạo ra của nền kinh tế là Tổng sản phẩm trong nước (GDP); lao động tham gia
vào hoạt động sản xuất tạo ra GDP phản ánh thời gian, công sức, kỹ năng của lực lượng lao động và
thường được tính bằng số lao động đang làm việc hoặc giờ công lao động.
TH•C TR–NG N—NG SUẤT LAO Đ˜NG VIỆT NAM GIAI ĐO–N 2011-2020
Trong giai đoạn 2011-2020, bối cảnh khu vực và thế giới có những yếu tố thuận lợi và khó khăn đan xen,
diễn biến phức tạp hơn so với dự báo đã tác động đến phát triển kinh tế trong nước như: Kinh tế thế giới
phục hồi chậm sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu 2007-2008; rủi ro trên th>
trường tài chính, tiền tệ quốc tế gia tăng;…
Ở trong nước, những năm đầu giai đoạn 2011-2020, nền kinh tế tiềm ẩn nhiều rủi ro, lạm phát cao, nợ
công tăng nhanh, tỉ lệ nợ xấu cao; sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Tác động, ảnh hưởng từ bên
ngoài tăng, cạnh tranh ngày càng gay gắt, trong khi độ mở của nền kinh tế cao, sức chống ch>u còn hạn
chế. Biến đổi khí hậu, thiên tai, d>ch bệnh diễn ra trên diện rộng đã ảnh rất nghiêm trọng đến hầu hết các
ngành, lĩnh vực, các hoạt động kinh tế, xã hội và đời sống nhân dân. Nhưng nhờ sự nỗ lực cao của các
cấp, các ngành và của cả hệ thống chính tr>; sự đồng thuận, nhất trí của toàn dân, kinh tế nước ta từng
bước phát triển vững chắc, đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện, tình hình chính tr> và xã
hội ổn đ>nh, v> thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc nâng cao NSLĐ, bình quân mỗi năm
trong giai đoạn 2011-2020, tốc độ tăng NSLĐ của toàn nền kinh tế đạt 5,29%. Đây là kết quả thể hiện
thành công đáng ghi nhận của Việt Nam trong việc nỗ lực phấn đấu nâng cao NSLĐ.
Tính theo sức mua tương đương (PPP 2017), NSLĐ của Việt Nam giai đoạn 2011-2020 tăng bình quân
5,4%/năm, cao hơn mức tăng bình quân của Ma-lai-xi-a (1,3%/năm); Hàn Quốc (1,5%/năm); Xin-ga-po
(1,7%/năm); Thái Lan (2,2%/năm); In-đô-nê-xi-a (2,6%/năm); Phi-li-pin (3,5%/năm). Nhờ đó, Việt Nam
đã thu hẹp được khoảng cách tương đối với một số nước ASEAN có trình độ phát triển cao hơn. Nếu năm
2011 NSLĐ của Xin-ga-po, Ma-lai-xi-a, Thái Lan, In-đô-nê-xi-a, Phi-li-pin lần lượt gấp NSLĐ của Việt
Nam 12,4 lần; 4,3 lần; 2,1 lần; 1,7 lần và 1,3 lần thì đến năm 2020 khoảng cách tương đối này giảm
xuống tương ứng còn 8,8 lần; 3 lần; 1,7 lần; 1,3 lần và 1,2 lần. So với một số nền kinh tế lớn của châu Á,
khoảng cách tương đối về NSLĐ của Việt Nam so với Hàn Quốc giảm từ 6,1 lần xuống 4,3 lần; Nhật Bản
từ 6,8 lần xuống 4,1 lần7.
Tuy nhiên, mức NSLĐ của Việt Nam hiện nay vẫn rất thấp so với các nước trong khu vực, đáng chú ý là
chênh lệch tuyệt đối vẫn tiếp tục gia tăng. Tính theo PPP 2017, NSLĐ của Việt Nam năm 2020 đạt 18,4
nghìn USD, chỉ bằng 11,3% mức năng suất của Xin-ga-po; 23% của Hàn Quốc; 24,4% của Nhật Bản;
33,1% của Ma-lai-xi-a; 59,1% của Thái Lan; 60,3% của Trung Quốc; 77% của In-đô-nê-xi-a và bằng
86,5% NSLĐ của Phi-li-pin. NSLĐ của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á chỉ cao hơn NSLĐ của
Cam-pu-chia (gấp 2,4 lần); My-an-ma (1,6 lần); Lào (gấp 1,2 lần).
Chênh lệch tuyệt đối mức NSLĐ (PPP 2017) của Xin-ga-po và Việt Nam tăng từ 130,4 nghìn USD năm
2011 lên 144,1 nghìn USD năm 2020; tương tự, của Hàn Quốc từ 58,8 nghìn USD lên 61,8 nghìn USD;
Trung Quốc từ 6,1 nghìn USD lên 12,1 nghìn USD; Ấn Độ từ 1,3 nghìn USD lên 1,8 nghìn USD. Điều
này cho thấy khoảng cách và thách thức mà nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt để có thể bắt k>p mức
NSLĐ của các nước có trình độ phát triển hơn là khá lớn.
Để thực hiện được mục tiêu tăng trưởng thì chìa khóa chính là nâng cao NSLĐ, điều này có ý nghĩa quan
trọng đối với tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Nếu năng suất thấp sẽ là yếu tố cản trở tăng trưởng kinh tế
cả về tốc độ và tính bền vững. Do đó, thúc đẩy tăng NSLĐ hiện đang là mục tiêu quan trọng được Việt
Nam chú trọng; đặc biệt là nâng cao NSLĐ trong doanh nghiệp - khu vực đóng vai trò quyết đ>nh tới nâng
cao NSLĐ của toàn bộ nền kinh tế.
Trong giai đoạn 2011-2020, tăng NSLĐ ngày càng có mức đóng góp ý nghĩa đối với tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam. Trước năm 2015, độ doãng giữa tốc độ tăng GDP và tốc độ tăng NSLĐ lớn hơn nhiều so
với giai đoạn từ năm 2015 trở lại đây. Điều này cho thấy, tăng trưởng kinh tế dựa vào tăng NSLĐ ngày càng tăng lên. Giải pháp:
NSLĐ là yếu tố quyết đ>nh nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và của từng doanh nghiệp. Nâng
cao NSLĐ là vấn đề quan trọng để phát triển nhanh, bền vững. Tuy nhiên, làm thế nào để tăng NSLĐ
luôn là vấn đề khó đối với mọi doanh nghiệp, quốc gia. Nền tảng của một chiến lược phát triển tập trung
vào NSLĐ là sự thống nhất giữa Chính phủ, doanh nghiệp, Viện Nghiên cứu, người lao động, các cơ quan
truyền thông về những nguyên tắc của chiến lược đó. Khi đã đạt được đồng thuận, cần có sự cam kết
mạnh mẽ và giám sát hiệu quả để thúc đẩy những nỗ lực của các cá thể trên phạm vi cả nước nhằm cải thiện NSLĐ.
- Đảm bảo sự hợp tác chặt chẽ giữa Chính phủ, khu vực tư nhân, công đoàn, hiệp hội ngành, tổ chức giáo
dục nghề nghiệp đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy tăng NSLĐ.
- Để đưa những nguyên tắc của chiến lược trên thành hành động cụ thể, cần xây dựng các thể chế, cơ chế
và phong trào nhằm thúc đẩy NSLĐ. Việc thành lập Hội đồng NSLĐ Quốc gia là một mô hình hay mà
Việt Nam có thể học tập từ kinh nghiệm của các nước đi trước. 126
- Cần tập trung nguồn lực để thiết kế các chiến lược toàn diện, thống nhất, theo đó tiếp cận vấn đề theo
hai mặt. Một mặt là các chiến lược tăng NSLĐ theo ngành cụ thể; mặt khác là các chương trình áp dụng
cho cả nền kinh tế nhằm hỗ trợ năng lực, nghiên cứu phát triển, lộ trình tăng NSLĐ của doanh nghiệp vừa
và nhỏ, các chương trình tăng trưởng toàn diện.
- Chính phủ cần hỗ trợ cả doanh nghiệp và người lao động để họ hiểu về những thay đổi từ đó tự điều
chỉnh để thích hợp với quá trình thúc đẩy NSLĐ; cần tiếp tục học hỏi từ những điển hình tốt về tăng
NSLĐ của các quốc gia trên thông qua hợp tác quốc tế; thay đổi tư duy để đưa văn hóa NSLĐ vào ý thức của người dân.
Hiện nay, trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, làm thay đổi phương thức
sản xuất - kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi chuyển đổi sang kinh tế tri thức. Do đó lợi thế về nguồn lao
động dồi dào, nhân công giá rẻ dần mất ưu thế, thay vào đó nguồn lực mới cho tăng trưởng là năng suất
và chất lượng lao động, năng lực sáng tạo và tiềm lực khoa học công nghệ. Vì vậy, giải quyết bài toán về
tăng NSLĐ cần có chiến lược, giải pháp tổng thể để tạo chuyển biến đột phá, cần thực hiện một số giải pháp sau
Giải pháp về cơ chế, chính sách của Nhà nước (1) Cải cách thể chế
(2) Đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng
(3) Chính sách phát triển khoa học công nghệ, tăng cường hệ thống đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp
(4) Tháo gỡ rào cản tài chính đối với doanh nghiệp
(5) Chính sách tiền lương, tiền công
(6) Về giáo dục, đào tạo
Giải pháp về doanh nghiệp
(1) Xác đ>nh mô hình sản xuất phù hợp
(2) Hoàn thiện quản tr> sản xuất
(3) Đổi mới máy móc thiết b> và quy trình công nghệ
(4) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
(5) Nâng cao chất lượng sản phẩm
(6) Tăng cường sự liên kết giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp
Giải pháp về người lao động
(1) Tham gia các lớp học chung về NSLĐ để người lao động hiểu khái quát chung thế nào là NSLĐ và
tăng NSLĐ, thấy được ý nghĩa của việc nâng cao NSLĐ vừa là quyền lợi, vừa là trách nhiệm của người
lao động và nâng cao NSLĐ sẽ mang lại lợi ích cho doanh nghiệp, cho xã hội và đặc biệt cho chính bản
thân người lao động (do tăng NSLĐ là cơ sở để tăng lương và thu nhập cho người lao động).
(2) Nâng cao ý thức, kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp vì điều này không chỉ mang lại lợi ích cho
doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với chính người lao động. Khi có ý thức tổ chức kỷ luật
tốt, làm việc nghiêm túc, ch>u khó học hỏi, rèn luyện tay nghề... thì người lao động sẽ nâng cao NSLĐ
của chính bản thân mình, tạo uy tín trong môi trường làm việc và có cơ hội để nâng cao thu nhập. Vì vậy,
cần có sự nỗ lực từ lãnh đạo doanh nghiệp và người lao động để góp phần hình thành hệ ý thức, kỷ luật
chung của người lao động.
(3) Cần nỗ lực, rèn luyện, phấn đấu, nâng cao trình độ học vấn, tay nghề, khẳng đ>nh năng lực... để thăng
tiến, rèn luyện cho mình tác phong làm việc chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi trong xu thế phát
triển hiện nay. Đây là yêu cầu tất yếu, nếu không đáp ứng được thì người lao động có thể b> đào thải trong
quá trình phát triển chung của doanh nghiệp.
9) Đánh giá tác động của thảm họa môi trường Formosa đến cả 3 khía cạnh là KT – XH – MT ở các
tỉnh miền Trung của VN…

Tác động về mặt kinh tế của hiện tượng cá chết hàng loạt sẽ thông qua 2 kênh. Thứ nhất là tác động trực
tiếp đến những ngành có liên quan như nuôi trồng khai thác và chế biến thủy sản, nghề muối, du l>ch. Thứ
hai là trong trung và dài hạn, nhiều ngành khác trong nền kinh tế sẽ ch>u tác động lan tỏa dây chuyền.
Ngoài ra, những thiệt hại về môi trường biển, nguồn lợi thủy sản, uy tín chỉ dẫn đ>a lý, sinh kế người dân
và gắn kết xã hội lâu dài, to lớn và rất khó đánh giá. Đánh giá hiện tượng cá chết hàng loạt ở biển miền
Trung trong sự cố môi trường nghiêm trọng do Formosa gây ra đã gây một cú sốc bất lợi cho nền kinh tế
nói chung, một tổn thất lớn cho khu vực b> ảnh hưởng trực tiếp nói riêng. Đây là tiếng chuông dữ dội
cảnh báo về hậu quả môi trường trong quá trình phát triển.
Sự cố môi trường đã gây tác hại xấu, trực tiếp đến các ngành đánh bắt, nuôi trồng, chế biến thủy, hải sản,
làm muối, d>ch vụ hậu cần nghề cá, du l>ch; làm xáo trộn an ninh trật tự, gây tâm lý bức xúc, bất an trong
một bộ phận nhân dân. Thật đáng tiếc là trong những ngày vừa qua, một số đối tượng cực đoan, lợi dụng
chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước với “những bàn tay đen” của các thế lực phản
động bên ngoài đã kêu gọi, kích động giáo dân tụ tập đông người, biểu tình, tuần hành, gây rối trật tự
công cộng, thậm chí ngang nhiên tấn công người thi hành công vụ, gây mất trật tự an toàn giao thông, làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến ổn đ>nh an ninh chính tr>, trật tự, an toàn xã hội của khu vực miền Trung.
Những “cái loa thâm độc này” cố tình biến vụ việc Formosa làm điểm nhấn để tăng cường khoét sâu mâu
thuẫn giữa giáo dân nói riêng và nhân dân nói chung với chính quyền đ>a phương. Những kẻ xấu đã mang
danh bảo vệ môi trường biển để chống phá Đảng, Nhà nước, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân và đoàn
kết lương-giáo, phá hoại cuộc sống bình yên của mảnh đất miền Trung được đắp xây từ xương máu của
biết bao Anh hùng liệt sỹ.
Thiệt hại sản lượng hải sản khai thác ven bờ và vùng lộng ước tính khoảng 1.600 tấn/tháng; diện tích nuôi
tôm b> chết hoàn toàn là 5,7 ha tương đương 9 triệu tôm giống và khoảng 7 tấn tôm thương phẩm sắp đến
kỳ thu hoạch; có trên 3.000 ha nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh đã thả giống b> nhiễm độ mặn cao,
môi trường suy giảm nên tôm chậm lớn, xuất hiện bệnh và có trên 350 ha nuôi tôm b> chết rải rác.
Ngoài ra, có 1.613 lồng nuôi cá b> chết (khoảng 30.000m3), tương đương 140 tấn cá; có 6,7 ha diện tích
nuôi ngao b> chết, tương đương 67 tấn; có trên 10 ha nuôi cua b> chết do sự cố môi trường.
Có nên đánh đổi môi trường để lấy tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn hay không?
Không nên đánh đổi môi trường để lấy tăng trưởng kinh tế ngắn hạn. Kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn,
kinh tế carbon thấp là con đường để đưa đất nước phát triển bền vững. Cần khắc phục và loại bỏ ngay tư
tưởng chạy theo lợi ích kinh tế trước mắt mà bỏ qua trách nhiệm bảo vệ môi trường; không hy sinh môi
trường để đánh đổi lấy kinh tế... Nếu đánh đổi môi trường để lấy tăng trưởng kinh tế trong thời gian ngắn
sẽ gây hậu quả rất nghiêm trọng, cái giá phải trả để khôi phục môi trường sau lấy tăng trưởng còn đắt hơn
gấp nhiều lần so với mức tăng trưởng kinh tế đạt được. Đó có thể là một sự đánh đổi sai lầm. Ngoài ra ô
nhiễm môi trường ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến đời sống và sức khoẻ của người dân.
10) VN là một nước có tiềm năng lớn về sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, trong thực tế, giá trị do
ngành nông nghiệp tạo ra còn khiêm tốn so với tiềm năng...

Đối với Việt Nam, l>ch sử canh tác hữu cơ đã hình thành từ lâu, song do cơ chế chính sách và th> trường
tiêu thụ, khả năng ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất hữu cơ còn hạn chế. Hơn nữa
trong thời gian dài, Việt Nam chưa có tổ chức nông nghiệp hữu cơ, mãi đến năm 2012, Hiệp hội Nông
nghiệp hữu cơ Việt Nam mới ra đời. Do đó, diện tích nông nghiệp hữu cơ ở nước ta còn khiêm tốn, tập
trung ở một số tỉnh, thành phố như: Bến Tre, Hà Nội, Hòa Bình, Lâm Đồng, Thành phố Hồ Chí Minh, Hà
Nam và Ninh Thuận,… Hiện nay, sản phẩm hữu cơ tiêu thụ chủ yếu trong nước và xuất khẩu đến th>
trường các nước như: Nhật Bản, Anh, Hàn Quốc, Singapore và Nga,…Việt Nam đứng thứ 5 các quốc gia
có diện tích nông nghiệp hữu cơ ở Châu Á.
Bên cạnh những kết quả đạt được, sản xuất nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam cũng đối diện với những khó khăn, thách thức
Thực trạng phát triển ngành Nông nghiệp Việt Nam: Năm 2020, mặc dù phải gánh ch>u thời tiết bất
thường, thiên tai, d>ch bệnh (d>ch tả lợn châu Phi trên cả nước, d>ch Covid-19…), nhưng nhờ đẩy mạnh áp
dụng khoa học - kỹ thuật, tái cơ cấu sản xuất, ngăn ngừa kiểm soát d>ch bệnh, nên ngành Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn vẫn vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện tốt “mục tiêu kép” vừa phát triển
ngành, vừa phòng, chống hiệu quả d>ch bệnh. Giá tr> sản xuất toàn Ngành trong năm ước 2020 tăng
2,75% so với năm 2019. Trong đó, nông nghiệp tăng 2,7%; lâm nghiệp tăng 2,4%; thủy sản tăng 3,3%;
GDP toàn ngành dự kiến tăng 2,65%, giúp bảo đảm an ninh lương thực trong bất cứ hoàn cảnh nào. Công
tác xây dựng thể chế, cải cách hành chính có sự chuyển biến tích cực, góp phần nâng cao năng lực cạnh
tranh của ngành. Cùng với cây lúa, nhiều loại cây lương thực truyền thống, giá th> thấp cũng có xu hướng
giảm mạnh về diện tích. Trong lĩnh vực trồng trọt, đã chuyển đổi khoảng 200.000 ha trồng lúa kém hiệu
quả sang các cây trồng khác có hiệu quả cao hơn, đồng thời tăng cường chuyển đổi cơ cấu giống, đẩy
mạnh thâm canh phòng trừ sâu bệnh, ứng dụng khoa học kỹ thuật và cơ giới hóa để tăng năng suất, chất
lượng, giảm chi phí sản xuất.
Tuy vậy, số lượng doanh nghiệp nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số các doanh nghiệp
cả nước, có tới 95% doanh nghiệp nông nghiệp có quy mô nhỏ và vừa. Lĩnh vực này tại Việt Nam cũng
thu hút chưa đến 1% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), trong khi mức trung bình trên thế giới vào
khoảng 3%. Tính đến hết năm 2019, vốn FDI vào nông nghiệp chỉ đạt 3,5 tỷ USD, chiếm tỷ trọng rất thấp
trong tổng vốn FDI vào Việt Nam. Số lượng nhà đầu tư cũng chưa nhiều, trong đó các nước như Đài
Loan, quần đảo Virgin (Anh), Singapore, Thái Lan đã chiếm hơn 50% tổng vốn đầu tư FDI vào nông
nghiệp Việt Nam. Đây là những thách thức lớn trong nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển liên kết
sản xuất theo chuỗi sản phẩm nông nghiệp. Theo đánh giá của các chuyên gia, có tới 85% - 90% lượng
hàng nông sản của nước ta đưa ra th> trường thế giới phải thông qua trung gian bằng các “thương hiệu”
nước ngoài. Vì vậy, việc b> bán giá thấp, b> o ép vẫn là những câu chuyện thường ngày đối với hàng hóa
Việt Nam khi xuất khẩu. Đó là chưa kể tới rào cản chống bán phá giá, môi trường, rào cản kỹ thuật. Giải pháp:
- Thúc đẩy chuyển đổi số ngành nông nghiệp
- Chuyển đổi số ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn có vai trò đặc biệt quan trọng trong cơ cấu lại
ngành nông nghiệp, phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung, quy mô lớn theo hướng hiện đại, giá tr>
gia tăng cao và bền vững, khẳng đ>nh vai trò “trụ đỡ” của nền kinh tế, trở thành “thước đo mức độ bền vững của quốc gia”.
- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp thành phố; đẩy mạnh cải cách hành
chính, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; phát huy vai trò của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính tr> - xã hội, xã hội nghề nghiệp, có chính sách huy động vốn và hỗ trợ tài chính thích hợp.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về nông nghiệp, nông dân, nông thôn của cán bộ,
đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân, chú trọng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực.
- Đẩy mạnh tái cơ cấu, phát triển ngành nông nghiệp toàn diện, theo hướng hiện đại và chuyển dich cơ
cấu kinh tế nông thôn, thực hiện xây dựng nông thôn mới gắn với đô th> hóa, đổi mới và phát triển các
hình thức tổ chức sản xuất, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho nông thôn, đẩy mạnh nghiên cứu,
chuyển giao và ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất nông nghiệp.
- Hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm và phát triển th> trường.
- Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học
- Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn.