Câu hỏi ôn tập chương 3 - Kinh tế chính trị | Trường Đại học CNTT Thành Phố Hồ Chí Minh
Câu hỏi ôn tập chương 3 - Kinh tế chính trị | Trường Đại học CNTT Thành Phố Hồ Chí Minh được được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Kinh tế chính trị (SS008)
Trường: Trường Đại học Công nghệ Thông tin, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
CÂU HỎI VÀ GỢI Ý TRẢ LỜI CHƯƠNG 3
MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC- LÊNIN
1. Phân tích đặc trưng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Sản xuất hàng hóa ra đời từ rất lâu nhưng phải đến giai đoạn phát triển của CNTB,
sản xuất hàng hóa mới trở thành thống trị và thúc đẩy xã hội loài người phát triển vượt
trội. Như vậy, phương thức sản xuất TBCN lấy sản xuất hàng hóa làm nền tảng. Nhưng
không phải sản xuất hàng hóa là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sản xuất hàng
hóa trở thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa khi thỏa mãn hai điều kiện:
- Sản phẩm với tư cách là hàng hóa và hàng hóa với tư cách là sản phẩm của tư bản.
- Sản xuất ra giá trị thặng dư là mục đích trực tiếp và là động cơ quyết định của việc sản xuất.
Từ 2 điều trên sẽ dẫn đến: tư liệu sản xuất giờ đây dưới hình thái tư bản và lao động
nói chung dưới hình thái lao động làm thuê. Do đó tư liệu sản xuất và sức lao động trở
thành hai nhân tố cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
2. Nguồn gốc, các hình thức biểu hiện và mục đích nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư của Karl Marx.
-Nguồn gốc GTTD: có sự tranh luận giữa các trường phái 2 vấn đề:
+ Vấn đề thứ nhất: giá trị thặng dư được tạo ra từ sản xuất hay lưu thông (chủ nghĩa
trọng thương, chủ nghĩa trọng nông, trường phái tư sản cổ điển).
+ Vấn đề thứ 2: yếu tố nào tạo ra giá trị thặng dư: nhà tư bản, lao động làm thuê, máy
móc thiết bị, khoa học kỹ thuật, vốn nhà tư bản bỏ ra…
Karl Marx kết luận: giá trị thặng dư TBCN được tạo ra trong lĩnh vực sản xuất
nhưng phải có lưu thông thì giá trị thặng dư mới thực hiện được. K. Marx cũng chỉ ra
rằng, lao động làm thuê của công nhân là nguồn gốc duy nhất tạo ra giá trị thặng dư TBCN.
- Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư TBCN: lợi nhuận, lợi tức, địa tô.
- Mục đích nghiên cứu giá trị thặng dư TBCN:
+ Giai cấp công nhân là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư nhưng nhà tư bản là người
hưởng thành quả đó do họ chiếm hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, đó là sự bất công.
+ Giai cấp công nhân phải liên kết lại, tổ chức chính đảng của mình – Đảng cộng
sản để lật đổ giai cấp tư sản, đưa xã hội tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
3. Phân tích tư bản là gì và mâu thuẫn công thức chung của tư bản.
- Tư bản là sự vận động của giá trị nhằm mang lại giá trị thặng dư. Sự vận động
này theo công thức (T-H-T’, với T’ = T + T).
Giá trị ở đây là hàng hóa, giá trị ở đây là tiền, nhưng hàng hóa (H) và tiền (T) ở đây
nhằm mang lại giá trị thặng dư (T). Mác nói rằng: “Nếu không mang hình thái hàng
hóa, tiền không thể trở thành tư bản được”. [Tư bản, tập thứ nhất, quyển 1, phần 1,
trang 202, NXB Sự thật, Hà Nội, 1984].
Như vậy, hàng hóa (H), tiền (T) có chức năng sinh ta giá trị thặng dư. H, T làm chức
năng này gọi là tư bản.
- Công thức chung của tư bản: T-H-T’ (với T’=T+T).
Các nhà tư bản bất cứ ngành nghề, lĩnh vực nào đều vận động chung công thức (T-
H-T’), bắt đầu bằng số tiền bỏ ra, sau đó mục đích là T’ (T’=T+T). K. Marx gọi đó là
công thức chung của tư bản.
- Mâu thuẫn công thức chung: tranh cãi về nguồn gốc T là mâu thuẫn công thức chung của tư bản.
+ Trường phái Trọng thương cho rằng lưu thông tạo ra T.
+ Trường phái Trọng nông cho rằng chỉ có sản xuất nông nghiệp mới tạo ra T.
+ Trường phái tư sản cổ điển cho rằng T tạo ra trong lĩnh vực sản xuất.
+ Karl Marx: T tạo ra trong lĩnh vực sản xuất nhưng cần phải có lưu thông mới thực hiện được.
4. Phân tích điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa. Tại sao hàng hóa sức lao
động lại đặc biệt?
- “Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ thể chất và tinh thần tồn tại trong
một cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi
sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó” [Tư bản, tập thứ nhất, quyển 1, phần 1, trang
218, NXB Sự thật, Hà Nội, 1984].
Năng lực lao động chưa phải là lao động, năng lực lao động chỉ mới là khả năng lao động mà thôi.
- Điều kiện sức lao động trở thành hàng hóa:
+ Người lao động phải được tự do: Nhà tư bản (chủ tiền) tìm trên thị trường mua hàng
hóa sức lao động. Người sở hữu sức lao động (người lao động) muốn bán phải chi phối
được sức lao động của mình nên phải là người tự do. Thế kỷ 19 (thời Karl Marx), nô lệ là
mặt hàng mua bán nhộn nhịp trên thế giới, cho nên người lao động phải được tự do mới
có quyền bán sức lao động của mình cho nhà tư bản.
+ Người lao động bị buộc phải tự nguyện bán sức lao động: do họ không có gì để
sống ngoài bán sức lao động. Muốn sống họ buộc phải tự nguyện. Buộc là không có gì để
sống phải bán, tự nguyện vì họ là người tự do nên bán trên tinh thần tự nguyện, không có
yếu tố bên ngoài ép buộc.
- Sức lao động là hàng hóa đặc biệt, bởi vì:
+ Hàng hóa người tồn tại trong cơ thể con người, không nhìn thấy được. Hàng hóa này
thể hiện khi bước ra khỏi quá trình lao động với tư cách là sản phẩm.
+ Hàng hóa này chỉ bán trong một thời gian nhất định trong ngày mà thôi.
+ Khi bán sức lao động, người bán vẫn không từ bỏ quyền sở hữu sức lao động ấy
+ Hàng hóa có giá trị tinh thần, lịch sử.
5. Tại sao nghiên cứu hàng hóa sức lao động là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn
công thức chung của tư bản.
Mâu thuẫn công thức chung của tư bản là tranh luận T tạo ra trong sản xuất hay
lưu thông. Vì công thức T-H-T’ nhầm tưởng chỉ phản ánh trong lưu thông.
Karl Marx kết luận rằng, nguồn gốc giá trị thặng dư được tạo ra trong quá trình sản
xuất nhưng cần phải có lưu thông thì giá trị thặng dư mới thực hiện được. Công thức
chung của tư bản ẩn chứa cả sản xuất và lưu thông, gồm 3 giai đoạn: lưu thông mua hàng,
sản xuất và lưu thông bán hàng. TLSX
T - H ……SX…… H’ – T’ SLĐ
Lưu thông mua hàng sản xuất lưu thông bán hàng
Marx chỉ ra rằng: nguồn gốc của giá trị thặng dư là do lao động công nhân làm thuê
tạo ra trong lĩnh vực sản xuất. Và phải có lưu thông thì mới thực hiện được sản xuất giá
trị thặng dư. Nghiên cứu hàng hóa sức lao động có tính chất đặc biệt là khi sử dụng nó,
nó tạo ra một giá trị mới, lớn hơn giá trị bản thân nó. Đây là nguồn gốc của giá trị thặng dư.
Vì vậy, nghiên cứu hàng hóa sức lao động là chìa khóa giải quyết mâu thuẫn
công thức chung của tư bản.
6. Giải thích: “Vậy là tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể
xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời
không phải trong lưu thông” [Tư bản, tập thứ nhất, quyển 1, phần 1, trang 218, NXB Sự thật, Hà Nội, 1984].
Tư bản xuất hiện trong sản xuất nhưng phải có lưu thông mới thực hiện được. Mác
giải thích: “Toàn bộ quá trình ấy, việc chuyển hóa tiền của hắn thành tư bản, diễn ra
trong lĩnh vực lưu thông và cũng không diễn ra trong lĩnh vực đó. Nhờ lưu thông – vì quá
trình đó được quyết định bởi việc mua sức lao động trên thị trường hàng hóa. Không
diễn ra trong lưu thông – vì lưu thông chỉ chuẩn bị cho quá trình làm tăng giá trị, nhưng
việc tăng giá trị thì lại diễn ra trong quá trình sản xuất” [Tư bản, tập thứ nhất, quyển 1,
phần 1, trang 252, NXB Sự thật, Hà Nội, 1984].
7. Nhà tư bản sử dụng hàng hóa sức lao động tạo ra giá trị mới và thuộc về nhà tư
bản. Điều này có tạo ra sự bất công cho người lao động hay không?
Nhà tư bản và người chủ sức lao động thực hiện mua bán hàng hóa sức lao động với
thỏa thuận về thời gian làm việc, điều kiện làm việc và mức tiền công... Hai bên làm đúng
những thỏa thuận như đã cam kết. Nhà tư bản thu được giá trị thặng dư là hợp lý và
không có bất công gì với người bán sức lao động. Marx viết: “…giá trị do việc tiêu dùng
sức lao động trong một ngày tạo ra sẽ gấp đôi giá trị hằng ngày của bản thân sức lao
động đó, - tình hình ấy chỉ là một điều may mắn đặc biệt cho người mua, chứ không phải
một sự bất công gì đối với người bán” [Tư bản, tập thứ nhất, quyển 1, phần 1, trang 251,
NXB Sự thật, Hà Nội, 1984].
8. Phân tích tại sao nhà tư bản mua hàng hóa sức lao động đúng giá trị (nguyên tắc
ngang giá), và không có sự bất công cho người bán mà vẫn được cho là bóc lột sức lao động làm thuê?
Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư phải dựa trên nguyên tắc mua bán, trao
đổi ngang giá. Marx viết: “Tất cả những điều kiện của bài tính được tôn trọng, và những
quy luật của trao đổi hàng hóa không hề vi phạm, vật ngang giá được trao đổi lấy vật
ngang giá. Với tư cách là người mua, nhà tư bản đã mua từng hàng hóa – bông, cọc sợi,
sức lao động – theo đúng giá trị của nó” [Tư bản, tập thứ nhất, quyển 1, phần 1, trang
251, NXB Sự thật, Hà Nội, 1984]. Mặt khác, nhà tư bản sử dụng hàng hóa sức lao động
tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó và thuộc về nhà tư bản, điều này không bất
công gì cho người bán – người lao động, nhưng điều kiện làm việc gọi là hợp pháp đến
giữa thế kỷ 19 đồng nghĩa với sự bóc lột sức lao động.
- Trẻ em 9 tuổi đã vào công xưởng làm việc thay vì đến trường.
- Ngày lao động: Luật công xưởng nước Anh 1833 (15h/ngày), 1847-1848 (12h/ngày),
1850 (10h/ngày). Đến 1886 mới áp dụng ngày làm việc 8h đầu tiên tại Hoa Kỳ.
- Tiền công rẻ mạt, giai cấp công nhân trở thành giai cấp vô sản.
Cho nên: việc sản xuất giá trị thặng dư TBCN là sự bóc lột sức lao động giai cấp công nhân.
9. Thế nào là nhà tư bản. Có nên khuyến khích các nhà tư bản phát triển ở Việt Nam hiện nay? - Nhà tư bản là:
+ Người chủ tiền công thức T-H-T’. Người chủ tiền khác với người dùng tiền của
mình. Tiền trong công thức T-H-T’ có thể là tiền huy động cổ phần, tiền vay hoặc bất cứ
khoản nào mà nhà tư bản làm chủ công thức đó.
+ Có quy mô đủ lớn để không trực tiếp vào quá trình sản xuất. Nhà tư bản trở thành
kẻ tập hợp, chỉ huy lao động, tức là chỉ huy sức lao động đang hoạt động để sản xuất giá trị thặng dư.
Khi người chủ tiền công thức T-H-T’ nhưng quy mô chưa đủ lớn thì để không tham
gia trực tiếp vào quá trình sản xuất gọi là tiểu tư sản.
- Có nên khuyến khích các nhà tư bản phát triển ở Việt Nam hiện nay hay không?
+ Trước đổi mới (12/1986), Việt Nam áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập
trung bao cấp, xóa bỏ triệt để sự tồn tại của các nhà tư bản, tiểu chủ. Việt Nam rơi vào
khủng hoảng kinh tế xã hội do quan hệ sản xuất không thích hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất.
+ Từ Đại hội VI (12/1986): Việt Nam tiến hành đổi mới đất nước, phát triển kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần. Đến đại hội IX (2001), Đảng đã xác định mô hình kinh tế
Việt Nam trong thời kỳ quá độ là Kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trong nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, thành phần kinh tế tư nhân được khuyến
khích phát triển không giới hạn.
Đặc biệt, Nghị quyết 11-NQ/TW ngày 03/06/2017, Đảng đã xác định Phát triển kinh
tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Kết luận: từ khi “đổi mới”, Việt Nam từ chỗ xóa bỏ, cấm đoán các nhà tư bản, tiểu
tư sản tồn tại thành thừa nhận, phát triển một số ngành, một số lĩnh vực nhất định. Đến
nay, Đảng đã xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Các nhà tư bản được khuyến khích phát triển không hạn chế
miễn là tuân thủ chủ trương của Đảng, pháp luật của nhà nước Việt Nam. 10.
Tại sao nói tiền công bị nhầm tưởng là giá cả của lao động. Người lao động
cần phải làm gì để cải thiện tiền công?
- Phân biệt người lao động, sức lao động và lao động.
+ Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ thể chất và tinh thần tồn tại trong
một cơ thể, trong một con người đang sống. Sức lao động tồn tại ở trạng thái loãng trong người lao động.
+ Sức lao động tồn tại trong người lao động.
+ Lao động là tiêu dùng sức lao động
+ Người lao động vận dụng sức lao động để sản xuất ra sản phẩm có ích gọi là lao động.
- Tại sao nói tiền công bị nhầm tưởng là giá cả của lao động.
Nhà tư bản (chủ tiền) đi mua hàng hóa sức lao động trên thị trường, nhưng họ không
gặp sức lao động mà họ gặp người lao động (chủ sức lao động). Để thực hiện việc mua
bán này, nhà tư bản bắt người lao động phải lao động trong thời gian đã thỏa thuận, nghĩa
là bắt người lao động phải tiêu dùng sức lao động hay người lao động phải lao động. Vì
vậy, người ta nhầm tưởng tiền công là giá cả của lao động.
Marx viết: “Tiền công xóa bỏ mọi vết tích phân chia ngày lao động thành lao động
cần thiết và lao động thặng dư, thành lao động được trả công và lao động không công.
Toàn bộ lao động thể hiện ra như là lao động được trả công” [Tư bản, tập thứ nhất,
quyển 1, phần 2, trang 45, NXB Sự thật, Hà Nội, 1984].
- Người lao động cần phải làm gì để cải thiện tiền công.
Tiền công là giá cả của hàng hóa sức lao động. Giá cả hàng hóa sức lao động phụ
thuộc vào 2 yếu tố: (1). Giá trị hàng hóa sức lao động và (2) Cung cầu hàng hóa sức lao động trên thị trường.
Cung cầu có xu hướng cân bằng nhau cho nên giá cả hàng hóa sức lao động phản
ánh giá trị hàng hóa sức lao động.
Để nâng cao được giá trị hàng hóa sức lao động của mình, người lao động phải nâng
cao giá trị sử dụng. Một số biện pháp nâng cao giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động: (1)
Kiến thức. (2) Kỹ năng. (3) Thái độ.
11. Phân tích các cặp tư bản bất biến, tư bản khả biến; tư bản cố định, tư bản lưu
động. Mối quan hệ giữa các cặp tư bản đó và ý nghĩa rút ra.
- Tư bản là sự vận động của giá trị nhằm mang lại giá trị thặng dư. Giá trị ở
đây là hàng (H), giá trị ở đây là tiền (T) vận động theo công thức (T-H-T’). Khi nhắc
tới các cặp tư bản: tư bản bất biến và tư bản khả biến; tư bản cố định và tư bản lưu động
thì tư bản ở hình thái hàng hóa (H).
Tư bản bất biến (C): là bộ phận biến thành tư liệu sản xuất, tức là thành nguyên liệu,
vật liệu phụ và tư liệu lao động, không thay đổi đại lượng giá trị của nó. Tư bản bất biến
tuy không thay đổi về giá trị nhưng lại thay đổi về giá trị sử dụng. Giá trị sử dụng cũ biến
đi để rồi lại xuất hiện dưới một hình thái giá trị sử dụng mới.
Tư bản khả biến (V): bộ phận tư bản biến thành sức lao động lại thay đổi giá trị của
nó trong quá trình sản xuất. Nó tái sản xuất ra vật ngang giá với bản thân nó và ngoài ra
còn sản xuất ra một số dư, tức là giá trị thặng dư.
Tư bản cố định (C1): là bộ phận tư bản tồn tại dưới dạng máy móc, thiết bị, nhà
xưởng…về hiện vật tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất nhưng giá trị của nó chuyển
dần vào sản phẩm mới thông qua khấu hao.
Tư bản lưu động (C2): là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng nguyên liệu,
nhiên liệu, vật liệu phụ, sức lao động…giá trị của nó được chuyển toàn bộ vào sản phẩm mới.
- Mối quan hệ giữa các cặp tư bản: T – H – T’
Tư bản bất biến (C=C1+C2) Tư bản khả biến (V) Tư bản cố định (C1)
Tư bản lưu động (C2 + V)
- Ý nghĩa của việc nghiên cứu:
+ Phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến: nhằm tìm ra nguồn
gốc của giá trị thặng dư. Tư bản khả biến (v) là nguồn gốc duy nhất của giá trị thặng dư.
Vai trò của tư bản bất biến là tiêu dùng sức lao động để tạo ra giá trị thặng dư. “Tư bản
bất biến chỉ tồn tại để thu hút lao động, và với mỗi giọt lao động thì thu hút được một
lượng giá trị thặng dư tương ứng” [Tư bản, tập thứ nhất, quyển 1, phần 1, trang 327,
NXB Sự thật, Hà Nội, 1984].
+ Phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động: phục vụ cho việc
quản lý trong sản xuất kinh doanh. Tư bản cố định bị hao mòn vô hình và hao mòn hữu
hình. Khoa học công nghệ ngày càng phát triển, máy móc ra đời với chất lượng, năng
suất ngày càng cao nhưng giá lại ngày càng rẻ. Việc lựa chọn phương pháp khấu hao phù
hợp sẽ giúp nhà tư bản tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.
12. Tỷ suất giá trị thặng dư và ý nghĩa rút ra?
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ lệ phần trăm giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến
tương ứng để sản xuất ra giá trị thặng dư đó, ký hiệu là m’. Công thức tính tỷ suất giá trị thặng dư là:
Ý nghĩa: tỷ suất giá trị thặng dư phản ánh chính xác mức độ tư bản bóc lột sức lao
động, hay mức độ nhà tư bản bóc lột người công nhân.
Khối lượng giá trị thặng dư: là tích số giữa giá trị thặng dư và tổng tư bản khả biến
đã được sử dụng. Ký hiệu M. M V Hoặc M = m’ x V
v: giá trị tư bản khả biến cho 1 giá trị sức lao động
V: Tổng tư bản khả biến.
13. Tuần hoàn, chu chuyển tư bản là gì?. Ý nghĩa của việc nghiên cứu tuần
hoàn và chu chuyển tư bản?
- Tuần hoàn tư bản: là sự vận động của tư bản trải qua ba giai đoạn, lần lượt mang
ba hình thái khác nhau, thực hiện ba chức năm khác nhau rồi quay lại với hình thái ban
đầu có kèm theo giá trị thặng dư. TLSX
T - H ……SX…… H’ – T’ SLĐ GĐ1: Lư u thông GĐ2: S n ả xuấất GĐ3: lư u thông Tư b n tềền t ả ệ T b ư n s ả n xuấất ả Tư bả n hàng hóa
- Chu chuyển tư bản: là quá trình tuần hòa tư bản lặp đi lặp lại không ngừng.
+ Thời gian chu chuyển = thời gian sản xuất + Thời gian lưu thông.
+ Tốc độ chu chuyển: là số vòng (lần) chu chuyển tư bản trong 1 năm. CH n = ch n: số vòng chu chuyển CH: thời gian trong năm
ch: thời gian cho 1 vòng chu chuyển.
- Ý nghĩa của việc nghiên cứu tuần hoàn và chu chuyển tư bản.
Tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản là 2 mặt chất và lượng trong sự vận động
của tư bản. Tuần hoàn tư bản nghiên cứu mặt chất, chu chuyển tư bản nghiên cứu mặt
lượng trong sự vận động của tư bản.
14. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư. Tại sao giá trị thặng dư siêu ngạch
là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối. Cho ví dụ về giá trị thặng
dư siêu ngạch? Ý nghĩa của việc nghiên cứu.
- Có hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư: phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
tuyệt đối và phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
+ Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: là
phương pháp được thực
hiện trên cơ sở kéo dài tuyệt đối ngày lao động của công nhân trong điều kiện thời gian
lao động cần thiết không đổi.
Ngày lao động trong lịch sử là đơn vị không cố định. Ngày lao động theo Luật công
xưởng nước Anh (1833) là 15h (từ 5h30 – 20h30). Giai đoạn 1844-1847 ngày lao động là
12h. Từ 01/1848 ngày lao động còn 11h. Năm 1886, ngày lao động còn 8h tại Hoa Kỳ.
Như vậy trong thời gian đầu, luật pháp quy định ngày lao động quá dài để tìm cách
thu được nhiều giá trị thặng dư nhất có thể. Khi phong trào công nhân đấu tranh thì ngày
lao động mới rút xuống dần dần và cố định còn 8h như ngày nay. Th i gian lao đ ờ ng c
ộ ấền thiềất (6h) Thờ i gian lao độ ng thặ ng dư (6h)