Câu 1: Phân tích lượng giá trị hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến
lượng giá trị của hàng hóa.
a) Lượng giá trị hàng hóa là gì?
Đo lượng lao động hao phí để tạo ra hàng hóa bằng thước đo thời gian như: một
giờ lao động, một ngày lao động, v...v.. Do đó, lượng giá trị của hàng hóa cũng
do thời gian lao động quyết định. Trong thực tế, một loại hàng hóa đưa ra thị
trường là do rất nhiều người sản xuất ra, nhưng mỗi người sản xuất do điều kiện
sản xuất, trình độ tay nghề là không giống nhau, nên thời gian lao động cá biệt
để sản xuất ra hàng hóa của họ khác nhau. Thời gian lao động cá biệt quyết định
lượng giá trị cá biệt của hàng hóa mà từng người sản xuất ra.
Vậy phải chăng lao động cá biệt nào càng lười biếng, vụng về, phải dùng nhiều
thời gian hơn để làm ra hàng hóa, thì hàng hóa đó càng có nhiều giá trị?
C.Mác viết: "Chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian lao động xã
hội cần thiết để sản xuất ra một giá trị sử dụng, mới quyết định đại lượng giá trị
của giá trị sử dụng ấy". Như vậy, thước đo lượng giá trị của hàng hóa được tính
bằng thời gian lao động xã hội cần thiết.
Trong cuốn “Tư bản”, C.Mác đã xác định: “giá trị hàng hoá là lao động trừu
tượng kết tinh trong hàng hoá”. Cho nên lượng giá trị hàng hoá nhiều hay ít là
tuỳ thuộc vào lượng lao động kết tinh trong hàng hoá. Lượng lao động hao phí
được đo bằng các đơn vị thời gian lao động như giờ, ngày, tháng, năm. Điều đó
không có nghĩa là lượng giá trị được đo bằng thời gian lao động cá biệt mà nó
phải được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết hay tất yếu “Thời gian lao
động xã hội cần thiết là thời gian lao động đòi hỏi để sản xuất ra một giá trị sử
dụng nào đó, trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội, với trình
độ thành thạo trung bình và cường độ lao động trung bình ”. Thời gian lao
động xã hội cần thiết thường được tính là thời gian lao động cá biệt của người
sản xuất hàng hoá nào cung cấp đại bộ phận hàng hoá đó cho thị trường.
Trong một xã hội có hàng triệu người sản xuất hàng hóa, với thời gian lao động
cá biệt hết sức khác biệt nhau, thì thông thường thời gian lao động xã hội cần
thiết gần sát với thời gian lao động cá biệt của những người sản xuất và cung
cấp đại bộ phận một loại hàng hóa nào đó trên thị trường
-Cấu thành lượng của lượng giá trị: bất kì một quá trình sản xuất đều có một yếu
tố cơ bản như sau: Nguyên, nhiên, vật liệu, máy móc, thiết bị, nhà xưởng ,hao
phí sức lao
-C.Mác đã xác định cấu thành lượng giá trị hàng hóa bao gồm có hai
+Giá trị cũ: bao gồm nguyên nhiên vật liệu , máy móc thiết bị nhà xưởng là
những sản phẩm đã có hao phí lao động quá khứ, trong quá trình sản xuất sẽ
chuyển dần giá trị đó sang sản phẩm
+Giá trị mới: do lao động sống của người sản xuất tạo ra
=>Việc phân chia lượng giá trị hàng hóa thành giá trị cũ và giá trị mới là cơ sở
để C.Mác tiếp tục nghiên cứu nguồn gốc, bản chất của giá trị hàng dư
Tóm lại : Lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa được sản xuất ra bao hàm hao
phí lao động quá khứ chứa trong các yếu tố vật tư, nguyên nhiên liệu đã tiêu
dùng để sản xuất ra hàng hóa đó) + hao phí lao động mới kết tinh thêm. b)
Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa.
Lượng giá trị trong một đơn vị hàng hóa được đo lường bởi thời gian lao động
xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó, cho nên, về nguyên tắc, những nhân
tố nào ảnh hưởng tới lượng thời gian hao phí xã hội cần thiết để sản xuất ra một
đơn vị hàng hóa tất sẽ ảnh hưởng tới lượng giá trị của hàng hóa đó. Có ba nhân
tố sau.
+ Năng suất lao động:
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động được tính bằng số
lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hay số lượng thời gian
hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Có hai loại năng suất lao động: năng suất lao động cá biệt và năng suất lao động
xã hội. Trên thị trường, hàng hóa được trao đổi không phải theo giá trị cá biệt
mà là giá trị xã hội.
Khi năng suất lao động tăng thì lượng giá trị hàng hóa sẽ như thế nào?
Năng suất lao động có ảnh hưởng đến giá trị xã hội của hàng hóa chính là năng
suất lao động xã hội. - Năng suất lao động xã hội càng tăng, thời gian lao động
xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa càng giảm, lượng giá trị của một đơn vị
sản phẩm càng ít. Ngược lại, năng suất lao động xã hội càng giảm, thì thời gian
lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa càng tăng và lượng giá trị của
một đơn vị sản phẩm càng nhiều. Lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa tỷ lệ
thuận với số lượng lao động kết tinh và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động xã
hội. Như vậy, muốn giảm giá trị của mỗi đơn vị hàng hóa xuống, thì ta phải tăng
năng suất lao động xã hội. Năng suất lao động lại tùy thuộc vào nhiều nhân tố
như: trình độ khéo léo của người lao động, sự phát triển của khoa học - kỹ thuật
và trình độ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, sự kết hợp xã hội của sản
xuất, hiệu quả của tư liệu sản xuất và các điều kiện tự nhiên.
Vì vậy, khi cường độ lao động tăng lên, thì lượng lao động hao phí trong cùng
một đơn vị thời gian cũng tăng lên và lượng sản phẩm được tạo ra cũng tăng lên
tương đương, còn lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm thì không đổi. Xét về
bản chất, tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao động.
Tuy nhiên, trong điều kiện trình độ sản xuất hàng hóa còn thấp, việc tăng cường
độ lao động có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tạo ra số lượng các giá trị sử
dụng nhiều hơn, góp phần thỏa mãn tốt nhu cầu của xã hội. Do cường độ lao
động chịu ảnh hưởng với các yếu tố sức khỏe thể chất, tâm lý, trình độ tay nghề,
thành thạo của người lao động, công tác tổ chức kỷ luật lao động. Nếu giải
quyết tốt những vấn đề này thì người lao động sẽ thao tác nhanh hơn, thuần thục
hơn, tập trung hơn, do đó tạo ra nhiều hàng hóa hơn.
Nguồn: onthisinhvien.com
+ Tính phức tạp của lao
- Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến lượng giá tr
của hàng hóa. Theo mức độ phức tạp của lao động, có thể chia lao động
thànhNlao động giản đơn và lao động phức tạp:
+ Lao động giản đơn là lao động mà một người lao động bình thường
không cần phải trải qua đào tạo cũng có thể thực hiện được.
+ Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện
mới có thể tiến hành được.
-Khi nghiên cứu tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, có một
+Về nội dung pháp lý sở hữu thể hiện những quy định mang tính chất pháp
lý cứ ai làm việc gì, nghề gì cũng đều tạo ra một lượng giá trị như nhau? -
C.Mác chỉ rõ: trong một giờ lao động, người thợ sửa chữa đồng hồ tạo ra
nhiều giá trị hơn người rửa bát. Bởi vì, lao động của người rửa bát là lao động
giản đơn, có nghĩa là bất kỳ một người bình thường nào, không phải trải qua
đào tạo, không cần có sự phát triển đặc biệt, cũng có thể làm được. Còn lao
động của người thợ sửa chữa đồng hồ là lao động phức tạp đòi hỏi phải có sự
đào tạo, phải có thời gian huấn luyện tay nghề.
=> Vì vậy, trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau, lao động phức
tạp tạo ra được nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn. Lao động phức tạp là
lao động giản đơn được nhân gấp bội lên. Để cho các hàng hóa do lao động giản
đơn tạo ra có thể quan hệ bình đẳng với các hàng hóa do lao động phức tạp tạo
ra, trong quá trình trao đổi người ta quy mọi lao động phức tạp thành lao động
giản đơn trung bình.
Như vậy: Lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng thời gian lao động xã hội
cần thiết, giản đơn trung bình.
Nguồn: giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin trang 45
Câu 2 : Tại sao nói phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội ch
nghĩa ở Việt Nam là tất yếu khách quan? Phân tích các đặc trưng của
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Là sinh viên
em phải làm gì để góp phần phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam?
a) Tại sao nói phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam là tất yếu khách quan?
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành theo
các quy luật của thị trường, đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập
một xã hội mà ở đó dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; có sự
điều tiết của nhà Nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có tính tất yếu
khách quan là do:
Một là hát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù
hợp với xu hướng phát triển khách quan của Việt Nam trong bối cảnh thế
giới hiện nay.
+ Như đã đề cập ở trên, nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa phát
triển ở trình độ cao. Khi có đủ các điều kiện cho sự tồn tại, phát triển nền kinh
tế hàng hoá, tự hình thành sự phát triển của nền kinh tế, hàng hóa theo các quy
luật tất yếu để cái trình độ của nền kinh tế thị trường, đó là tính quy luật ở Việt
Nam, các điều kiện cho sự hình thành được phát triển kinh tế thị trường nên
tồn tại khách quan. Do đó, sự hình hình kinh tế thị trường ở Việt Nam là tất
yếu khách quan.
+Mong muốn dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là mong
muốn chung các quốc gia trên thế giới. Do đó việc định hướng hướng tới xác
lập những giá trị đó trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là phù hợp và tất
yếu trong phát triển.
+Trong lịch sử đã có nền kinh tế hàng hoá giản đơn kiểu chiếm hữu nô lệ
phong kiến hay kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa tồn tại trong mỗi hình thái
kinh tế- xã hội, cụ thể, gắn bó hữu cơ và chịu sự chi phối của quan hệ sản xuất
thống trị trong xã hội.
+Nhìn lại lịch sử Việt Nam ta vốn đã hình thành nền kinh tế hàng hoá từ lâu.
Cuối thời phong kiến rồi bước sang thời kỳ Pháp thuộc và sau này là giai đoạn
kháng chiến chống Mỹ. Nền kinh tế hàng hóa từng bước phát triển. Do đó, ta
đã có nền tảng của kinh tế hàng hóa. Hơn nữa, ta lại sẳn có các điều kiện thúc
để phát triển kinh tế hàng hóa, ví dụ như thị trường cung cầu, thị trường lao
động ,vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên.. , do đó việc hình thành kinh tế thị
trường sẽ là vấn đề tất yếu khách quan.
Vậy tại sao phát triển kinh tế thị trường là tất yếu, nhưng tại sao lại phải
là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà không phải là các
kiểu kinh tế thị trường khác?
Kinh tế thị trường ở mỗi hình thái kinh tế, xã hội cụ thể sẽ phải chịu sự chi
phối của các quan hệ sản xuất thống trị hay nói một cách đơn giản, hiểu một
cách đơn giản là nó sẽ phát triển theo định hướng của Nhà nước thống trị.
Trong lịch sử đã sớm kiểu mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa được
coi là công cụ, phương tiện phát triển kinh tế của các nước tư bản phù hợp với
quyền lợi của bộ phận giai cấp thống trị và giai cấp tư sản . Ở Việt Nam đang
theo định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội và lý hệ tiêu chí “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là mục tiêu cần hướng tới. Sự lựa chọn
mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp với xu
hướng của thời đại và đặc biệt phù hợp với đặc điểm phát triển của dân tộc.
Mặt khác, xét về cái tiến trình lịch sử, loài người sẽ tuần tự phát triển từ thấp
đến cao : Cộng sản nguyên thủy- Chiếm hữu nô lệ- Phong kiến- Tư bản chủ
nghĩa-Xã hội chủ nghĩa( giai đoạn đầu của Xã hội công sản) Việt Nam quá độ
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa. Cho nên việc bỏ qua giai đoạn
phát triển kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hoàn toàn phù hợp với đặc điểm
tình hình của Việt Nam.
Hai là do tính ưu việt của kinh tế th trường trong thú đy phát triển Việt
Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường là phương thức phong bố nguồn lực hiệu quả mà loài người
đã đạt được so với các mô hình kinh tế thị trường là động lực đẩy lực lượng
sản xuất phát triển nhanh và hiệu quả cao. Dưới tác động của các quy luật th
trường, nền kinh tế luôn phát triển theo hướng năng động, kích thích tiến bộ
kỹ thuật- công nghệ, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và hạ
giá thành sản phẩm.
Ví dụ: sản xuất điện thoại, nhà sản xuất phải cải tiến mẫu mã, đổi mới công
nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm để cạnh tranh với các đối thủ
khác.
Nếu như so sánh nền kinh tế bao cấp với kinh tế thị trường hiện nay, thấy rằng
trong kinh tế thị trường chất lượng hàng hóa tốt hơn, số lượng hàng hóa đa
dạng phong phú hơn nhiều . Đó chính là tác động tích cực từ quy luật để cạnh
tranh, cung cầu mang lại.
Kinh tế thị trường có nhiều ưu việt và được coi là phương tiện để thực hiện
mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên thì kinh tế trường cũng luôn tiềm ẩn
khuyết tật và thất bại của thị trường. Ví dụ: độc quyền, ô nhiễm môi trường và
cạnh tranh không lành mạnh, vấn đề hàng giả, hàng nhái vì vậy là rất cần sự
can thiệp của nhà nước.
Xét trên góc độ đó, sự phát triển kinh tế thị trường không hề mâu thuẫn, gọi là
cơ sở vật chất tạo ra điều kiện thực hiện những mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Ba
là, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với nguyện
vọng mong muốn dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
của người dân Việt Nam.
Sự tồn tại của nền kinh tế thị trường nước ta tạo ra đồn lực quan trọng cho sự
phát triển của lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ
nghĩa xã hội. Với đặc điểm lịch sử của dân tộc, Việt Nam không thể lựa chọn
mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, chỉ có thể lựa chọn mô hình kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mới phù hợp với ý chí, nguyện vọng
đông đảo của nhân dân về một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Có thể xem phát triển kinh tế thị trường định hướng xã chủ
yếu là bước phát triển quan trọng và tất yếu cho sự phát triển từ sản xuất nhỏ
lên sản xuất lớn, là bước quá độ để đi lên chủ nghĩa xã hội.
b) Phân tích các đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Là sinh viên em phải làm gì để góp phần phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam?
Các đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam cụ thể là:
1. Về mục tiêu: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phương
thức để phát triển lực lương sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, văn minh. Đây là sự khác biệt cơ bản của kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Mục đích đó
bắt nguồn từ cơ sở kinh tế - xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và
là sự phản ảnh mục tiêu chính trị - xã hội mà Đảng, nhà nước và nhân dân ta
đang phần đầu.
2.Về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế
2.1 Về sở hữu
Sở hữu là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái sản
xuất xã hôi trên cơ sở chiếm hữu nguồn lực của quá trình sản xuất và kết quả
lao động tương ứng của quá trình sản xuất hay tải sản xuất ấy trong một điều
kiện lịch sử nhất định. Sở hữu hàm ý trong đó bao gồm có chủ thể sở hữu, đồi
tương sở hữu, lơi ích từ đổi tương sở hữu.
Mục đích của chủ thể sở hữu là nhằm thực hiện những lợi ích từ đổi tượng sở
hữu. Chẳng hạn như ở chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa thì đối tượng sở
hữu là tư bản và trí tuệ, chủ thể sở hữu là nhà tư bản, lợi ích có được từ đối
tượng sở hữu là giá trị thặng dư (có được do người có quyền sở hữu có quyền
phân phối kết quả lao động). Khác với việc chiếm hữu các sản phẩm tự nhiên,
sở hữu phản ánh việc chiếm hữu trước hết là các nguồn lực sản xuất, tiếp đến
là chiếm hữu kết quả lao động. Trong sự phát triển của các xã hội khác nhau,
đối tượng sở hữu trong các nấc thang phát triển có thể là nô lệ, có thể là ruộng
đất, có thể là tư bản, có thể là trí tuệ.
-Sở hữu bao hàm nội dung kinh tế và nội dung pháp lý
+Về nội dung kinh tế sở hữu là điều kiện của sản xuất là lợi ích kinh tế mà
chủ đề sở hữu được thụ hưởng khi sở hữu đối tượng sở hữu . Về mặt này sở
hữu là cơ sở để các chủ thể thực hiện lợi ích từ đối tượng sở hữu, không xác
lập quan hệ sở hữu sẽ không có cơ sở để thực hiện lợi ích kinh tế. Vì vậy khi
có sự thay đổi phạm vi và quy mô các đối tượng sở hữu , địa vị của các chủ
thể sở hữu sẽ thay đổi trong đời sống xã hội hiện thực.
+Về nội dung pháp lý sở hữu thể hiện những quy định mang tính chất pháp
luật về quyền hạn hay nghĩa vụ của chủ sở hữu. Trong trường hợp này, sở hữu
luôn là vấn đề quan trọng hàng đầu khi xây dựng và hoạch định cơ chế quản lý
nhà nước với quá trình phát triển nói chung. Vì vậy, về mặt pháp lý, cơ sở giả
định và đòi hỏi sự thừa nhận về mặt luật pháp. Khi đó, những lợi ích kinh tế mà
chủ thể sở hữu sẽ không bị cái chủ thể khác phản đối. Khi đó, việc thụ được coi
là chính đáng, hợp pháp.(nguồn: kinh tế chính trị Mác-Lênin trang 180)
2.2 Thành phần kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế có nhiều hình
thức ở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế tư nhân là động lực quan trong, kinh tế nhà nước kinh tế tập thể
cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phật triển một nền kinh tẻ độc lập, tự
chủ các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh
cùng phát triển theo pháp luật
Điều 51 (HIẾN PHÁP 2013)
1. Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩavới nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo.
2. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế
quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và
cạnh tranh theo pháp luật.
3. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá
nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các
ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Tài sản hợp pháp của cá nhân,
tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không b
quốc hữu hóa. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng
trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Đó là vấn đề có tính
tác nhằm đảm bảo đúng thì định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị
trường.
3.Về quan hệ quản lý nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại ở mọi quốc gia trên thế giới, nhà nước
đều phải can thiệp (điều tiết) quá trình phát triển kinh tế của đất nước nhằm
khắc phục những hạn chế, khuyết tật của kinh tế thị trường và định hướng
chúng theo mục tiêu đã định. Tuy nhiên, quan hệ quản lý và cơ chế quản lý
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có đặc
trưng riêng đó là: Nhà nước quản lý và thực hành cơ chế quản lý là nhà ước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng công sản, sư làm chủ và giám sát của nhân dân với mục
tiêu dùng kinh tế thị trường để xây dưng cơ sở vật chất kỳ thuật cho chủ nghĩa
xã hội, vì “dân giàu, nước mạnh dân chủ, công bằng, văn minh".
Nhà nước quản lý và thực hành cơ chế quản lý là nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
công sản, sư làm chủ và giám sát của nhân dân với mục tiêu dùng kinh tế thị
trường để xây dưng cơ sở vật chất kỳ thuật cho chủ nghĩa xã hội, vì “dân giàu,
nước mạnh dân chủ, công bằng, văn minh".
4. Về quan hệ phân phối
Quan hệ phân phối bị chi phối và quyết định bởi quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất. Nền kinh tế thị trường với sự đa dạng các hình thức sở hữu do vậy thích
ứng với nó sẽ có các loại hình phân phối khác nhau: phân phối theo kết quả
làm ra chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, theo mức đóng góp
vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã
hội. Trong cái hình thức phân phối đó phân phối theo lao động và hiệu quả
kinh tế phân phối theo phúc lợi là những hình thức phân phối cảnh định hướng
xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường.
5. Về quan hệ giữa gắng tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội..Nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải thực hiện
gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội; phát triển kinh tế đi đôi với
phát triển văn hóa - xã hội; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và từng giai đoạn phát
triển của kinh tế thị trường.Ở các nước Tue bản chủ nghĩa, vấn đề giải quyết
công bằng xã hội được đặt ra nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản trước
tác động tiêu cực của cơ chế thị trường.Tiến bộ và công bằng xã hội vừa
điều kiện bảo đảm cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế, vừa là mục
tiêu thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa . Thực hiện tiến
bộ, công bằng xã hội không phải là cào bằng hay bình quân chia đều các
nguồn lực của xã hội cho mọi người. Thực chất, một mặt dựa vào các chính
sách điều tiết thu nhập an sinh và phúc lợi xã hội. Mặt khác phải tạo ra
những điều kiện, tiền đề cần thiết để đảm bảo cho mọi người dân đều có cơ
hội như nhau trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục, y
tế, việc làm để họ có thể tự lo liệu và cải thiện đời sống của bản thân, gia
đình, đồng thời góp phần xây dựng đất nước.
(nguồn: giáo trình Kinh tế triết học Mác-Lênin)
Là sinh viên em phải làm gì để góp phần phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam?
Trong báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định trụ cột phát
triển đất nước gồm: phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là
then chốt; xây dựng văn hóa, con người làm nền tảng tinh thần; tăng cường
quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Để phát triển kinh tế - xã hội
thực sự trở thành trung tâm, trước hết phải xây dựng, hình thành cho nhân dân,
nhất là thế hệ thanh niên hiểu, biết, thực hành và thích ứng với nền kinh tế thị
trường song hành với mục tiêu xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN) - ý
thức hệ kinh tế thị trường XHCN.
Theo các nghiên cứu về chính trị học, xã hội học và tâm lý học thì ý thức hệ
các ý tưởng, nhận thức, giá trị và niềm tin chung. Thông qua ý thức hệ, các
thành viên trong nhóm người, cộng đồng người hoặc toàn xã hội diễn dịch lịch
sử và những sự kiện xã hội đương thời định hình thành các kỳ vọng, khát khao
hướng tới tương lai, có ảnh hưởng lớn đến hành động xã hội.
Theo từ điển chủ nghĩa cộng sản khoa học thì ý thức xã hội chủ nghĩa là tổng
hòa các hình thái ý thức xã hội khác nhau đặc trưng cho đời sống tinh thần của
xã hội xã hội trong quá trình nảy sinh, hình thành và phát triển của xã hội ấy. Ý
thức xã hội chù chứa đựng không những các quan điểm và tư tưởng lý luận đã
được hệ thống hóa của giai cấp công nhân và đội tiên phong của nó là Đảng
Cộng sản, mà còn chứa đựng những quan điểm và các khái niệm của quần
chúng, những tình cảm và tâm tư của họ nẩy sinh trong cuộc sống hàng ngày,
tức là tâm lý xã hội
Như vậy, ý thức hệ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
là ý tưởng, nhận thức, giá trị và niềm tin chung nhất về quan điểm, tư tưởng lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt
Nam, được biểu hiện thông qua nhận thức, tư duy và hành động của con người;
là quan niệm, khái niệm, tâm tư, tình cảm của người Việt Nam ở hiện tại kết
hợp với những tàn dư lịch sử làm điều kiện nẩy sinh những khát khao, kỳ vọng
và mục tiêu hướng tới tương lai. Chính vì vậy, khi xem xét ý thức hệ kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là xem xét những nét chung
nhất trong nhận thức, tư duy và hành động của con người Việt Nam cùng chịu
tác động các điều kiện tự nhiên và xã hội; xem xét các yếu tố lịch sử còn tàn dư
trong ý thức chung và những tác động làm ảnh hưởng đến tư duy, nhận thức và
hành động ở hiện tại.
Chính vì vậy bên cạnh là những người trẻ, đặc biệt là sinh viên bản thân em nói
riêng cũng như tất cả các sinh viên Việt Nam nói chung cần
+Học tập và nghiên cứu: Đầu tiên, hãy nỗ lực hoàn thiện kiến thức và kỹ năng
của bạn trong lĩnh vực mà bạn quan tâm. Tìm hiểu và nghiên cứu về các nguyên
tắc của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các mô hình kinh doanh
xã hội và các phương pháp phát triển bền vững. Trang bị về ý thức hệ kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi phải sàng lọc dạng đục khơi trong
và bổ sung những giá trị mới ở Việt Nam. Điều hòa những tác động tích cực với
tiêu cực nhằm tạo. Tác 4 duy hành động. sống đúng quy đạo sống lý tưởng cách
mạng đúng con đường phát triển của đất nước.
+Tham gia hoạt động xã hội: Tham gia vào các tổ chức, hội nhóm có mục tiêu
xã hội chủ nghĩa. Đây có thể là các tổ chức phi lợi nhuận, các nhóm nghiên cứu
xã hội, hoặc các dự án cộng đồng.
+Khởi nghiệp xã hội: Nếu bản thân có ý tưởng kinh doanh mang tính xã hội,
hãy cân nhắc khởi nghiệp trong lĩnh vực này. Điều này có thể là một cách hiệu
quả để kết hợp giữa mục tiêu tạo lợi nhuận và mục tiêu xã hội.
+Đặc biệt Sinh viên phải nâng cao nhận thức tư duy và hành động về đổi mới
sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ, nhất là những thành tựu của
công cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ về lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối
sống, văn hóa. Năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi của dân tộc, nhất là tinh
thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc về môi trường, điều kiện học tập, hoạt
động giải trí, rèn luyện được phát triển lành mạnh. Toàn diện, hài hòa cả về trí
tuệ, thể chất và giá trị thẩm mỹ về giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt
Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hội nhập quốc tế.,
+Tăng cường giáo dục: Tham gia vào các hoạt động giáo dục như dạy học, tư
vấn hoặc đào tạo để chia sẻ kiến thức và kỹ năng của bạn với những người
khác, đặc biệt là những người có ích kinh tế thấp.
+Tạo ra sản phẩm và dịch vụ có ý nghĩa xã hội: Nếu có khả năng, hãy phát triển
các sản phẩm hoặc dịch vụ có tác động tích cực đến cộng đồng và môi trường.
+Thúc đẩy những thay đổi chính sách: Tham gia vào các hoạt động vận động
cộng đồng và chính trị để thúc đẩy các chính sách và biện pháp hỗ trợ phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội.

Preview text:

Câu 1: Phân tích lượng giá trị hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến
lượng giá trị của hàng hóa.
a) Lượng giá trị hàng hóa là gì?
Đo lượng lao động hao phí để tạo ra hàng hóa bằng thước đo thời gian như: một
giờ lao động, một ngày lao động, v...v.. Do đó, lượng giá trị của hàng hóa cũng
do thời gian lao động quyết định. Trong thực tế, một loại hàng hóa đưa ra thị
trường là do rất nhiều người sản xuất ra, nhưng mỗi người sản xuất do điều kiện
sản xuất, trình độ tay nghề là không giống nhau, nên thời gian lao động cá biệt
để sản xuất ra hàng hóa của họ khác nhau. Thời gian lao động cá biệt quyết định
lượng giá trị cá biệt của hàng hóa mà từng người sản xuất ra.
Vậy phải chăng lao động cá biệt nào càng lười biếng, vụng về, phải dùng nhiều
thời gian hơn để làm ra hàng hóa, thì hàng hóa đó càng có nhiều giá trị?
C.Mác viết: "Chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian lao động xã
hội cần thiết để sản xuất ra một giá trị sử dụng, mới quyết định đại lượng giá trị
của giá trị sử dụng ấy". Như vậy, thước đo lượng giá trị của hàng hóa được tính
bằng thời gian lao động xã hội cần thiết.
Trong cuốn “Tư bản”, C.Mác đã xác định: “giá trị hàng hoá là lao động trừu
tượng kết tinh trong hàng hoá”. Cho nên lượng giá trị hàng hoá nhiều hay ít là
tuỳ thuộc vào lượng lao động kết tinh trong hàng hoá. Lượng lao động hao phí
được đo bằng các đơn vị thời gian lao động như giờ, ngày, tháng, năm. Điều đó
không có nghĩa là lượng giá trị được đo bằng thời gian lao động cá biệt mà nó
phải được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết hay tất yếu “Thời gian lao
động xã hội cần thiết là thời gian lao động đòi hỏi để sản xuất ra một giá trị sử
dụng nào đó, trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội, với trình
độ thành thạo trung bình và cường độ lao động trung bình ”
. Thời gian lao
động xã hội cần thiết thường được tính là thời gian lao động cá biệt của người
sản xuất hàng hoá nào cung cấp đại bộ phận hàng hoá đó cho thị trường.
Trong một xã hội có hàng triệu người sản xuất hàng hóa, với thời gian lao động
cá biệt hết sức khác biệt nhau, thì thông thường thời gian lao động xã hội cần
thiết gần sát với thời gian lao động cá biệt của những người sản xuất và cung
cấp đại bộ phận một loại hàng hóa nào đó trên thị trường
-Cấu thành lượng của lượng giá trị: bất kì một quá trình sản xuất đều có một yếu
tố cơ bản như sau: Nguyên, nhiên, vật liệu, máy móc, thiết bị, nhà xưởng ,hao phí sức lao
-C.Mác đã xác định cấu thành lượng giá trị hàng hóa bao gồm có hai
+Giá trị cũ: bao gồm nguyên nhiên vật liệu , máy móc thiết bị nhà xưởng là
những sản phẩm đã có hao phí lao động quá khứ, trong quá trình sản xuất sẽ
chuyển dần giá trị đó sang sản phẩm
+Giá trị mới: do lao động sống của người sản xuất tạo ra
=>Việc phân chia lượng giá trị hàng hóa thành giá trị cũ và giá trị mới là cơ sở
để C.Mác tiếp tục nghiên cứu nguồn gốc, bản chất của giá trị hàng dư
Tóm lại : Lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa được sản xuất ra bao hàm hao
phí lao động quá khứ chứa trong các yếu tố vật tư, nguyên nhiên liệu đã tiêu
dùng để sản xuất ra hàng hóa đó) + hao phí lao động mới kết tinh thêm. b)
Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa.

Lượng giá trị trong một đơn vị hàng hóa được đo lường bởi thời gian lao động
xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó, cho nên, về nguyên tắc, những nhân
tố nào ảnh hưởng tới lượng thời gian hao phí xã hội cần thiết để sản xuất ra một
đơn vị hàng hóa tất sẽ ảnh hưởng tới lượng giá trị của hàng hóa đó. Có ba nhân tố sau.
+ Năng suất lao động:
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động được tính bằng số
lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hay số lượng thời gian
hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Có hai loại năng suất lao động: năng suất lao động cá biệt và năng suất lao động
xã hội. Trên thị trường, hàng hóa được trao đổi không phải theo giá trị cá biệt mà là giá trị xã hội.
Khi năng suất lao động tăng thì lượng giá trị hàng hóa sẽ như thế nào?
Năng suất lao động có ảnh hưởng đến giá trị xã hội của hàng hóa chính là năng
suất lao động xã hội. - Năng suất lao động xã hội càng tăng, thời gian lao động
xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa càng giảm, lượng giá trị của một đơn vị
sản phẩm càng ít. Ngược lại, năng suất lao động xã hội càng giảm, thì thời gian
lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa càng tăng và lượng giá trị của
một đơn vị sản phẩm càng nhiều. Lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa tỷ lệ
thuận với số lượng lao động kết tinh và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động xã
hội. Như vậy, muốn giảm giá trị của mỗi đơn vị hàng hóa xuống, thì ta phải tăng
năng suất lao động xã hội. Năng suất lao động lại tùy thuộc vào nhiều nhân tố
như: trình độ khéo léo của người lao động, sự phát triển của khoa học - kỹ thuật
và trình độ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, sự kết hợp xã hội của sản
xuất, hiệu quả của tư liệu sản xuất và các điều kiện tự nhiên.
Vì vậy, khi cường độ lao động tăng lên, thì lượng lao động hao phí trong cùng
một đơn vị thời gian cũng tăng lên và lượng sản phẩm được tạo ra cũng tăng lên
tương đương, còn lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm thì không đổi. Xét về
bản chất, tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao động.
Tuy nhiên, trong điều kiện trình độ sản xuất hàng hóa còn thấp, việc tăng cường
độ lao động có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tạo ra số lượng các giá trị sử
dụng nhiều hơn, góp phần thỏa mãn tốt nhu cầu của xã hội. Do cường độ lao
động chịu ảnh hưởng với các yếu tố sức khỏe thể chất, tâm lý, trình độ tay nghề,
thành thạo của người lao động, công tác tổ chức kỷ luật lao động. Nếu giải
quyết tốt những vấn đề này thì người lao động sẽ thao tác nhanh hơn, thuần thục
hơn, tập trung hơn, do đó tạo ra nhiều hàng hóa hơn. Nguồn: onthisinhvien.com
+ Tính phức tạp của lao
- Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến lượng giá trị
của hàng hóa. Theo mức độ phức tạp của lao động, có thể chia lao động
thànhNlao động giản đơn và lao động phức tạp:
+ Lao động giản đơn là lao động mà một người lao động bình thường
không cần phải trải qua đào tạo cũng có thể thực hiện được.
+ Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện
mới có thể tiến hành được.
-Khi nghiên cứu tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, có một
+Về nội dung pháp lý sở hữu thể hiện những quy định mang tính chất pháp
lý cứ ai làm việc gì, nghề gì cũng đều tạo ra một lượng giá trị như nhau? -
C.Mác chỉ rõ: trong một giờ lao động, người thợ sửa chữa đồng hồ tạo ra
nhiều giá trị hơn người rửa bát. Bởi vì, lao động của người rửa bát là lao động
giản đơn, có nghĩa là bất kỳ một người bình thường nào, không phải trải qua
đào tạo, không cần có sự phát triển đặc biệt, cũng có thể làm được. Còn lao
động của người thợ sửa chữa đồng hồ là lao động phức tạp đòi hỏi phải có sự
đào tạo, phải có thời gian huấn luyện tay nghề.
=> Vì vậy, trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau, lao động phức
tạp tạo ra được nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn. Lao động phức tạp là
lao động giản đơn được nhân gấp bội lên. Để cho các hàng hóa do lao động giản
đơn tạo ra có thể quan hệ bình đẳng với các hàng hóa do lao động phức tạp tạo
ra, trong quá trình trao đổi người ta quy mọi lao động phức tạp thành lao động giản đơn trung bình.
Như vậy: Lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng thời gian lao động xã hội
cần thiết, giản đơn trung bình.
Nguồn: giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin trang 45
Câu 2 : Tại sao nói phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam là tất yếu khách quan? Phân tích các đặc trưng của
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Là sinh viên
em phải làm gì để góp phần phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam?
a) Tại sao nói phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam là tất yếu khách quan?
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành theo
các quy luật của thị trường, đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập
một xã hội mà ở đó dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; có sự
điều tiết của nhà Nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có tính tất yếu khách quan là do:
Một là hát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù
hợp với xu hướng phát triển khách quan của Việt Nam trong bối cảnh thế giới hiện nay.
+ Như đã đề cập ở trên, nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa phát
triển ở trình độ cao. Khi có đủ các điều kiện cho sự tồn tại, phát triển nền kinh
tế hàng hoá, tự hình thành sự phát triển của nền kinh tế, hàng hóa theo các quy
luật tất yếu để cái trình độ của nền kinh tế thị trường, đó là tính quy luật ở Việt
Nam, các điều kiện cho sự hình thành được phát triển kinh tế thị trường nên
tồn tại khách quan. Do đó, sự hình hình kinh tế thị trường ở Việt Nam là tất yếu khách quan.
+Mong muốn dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là mong
muốn chung các quốc gia trên thế giới. Do đó việc định hướng hướng tới xác
lập những giá trị đó trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là phù hợp và tất yếu trong phát triển.
+Trong lịch sử đã có nền kinh tế hàng hoá giản đơn kiểu chiếm hữu nô lệ
phong kiến hay kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa tồn tại trong mỗi hình thái
kinh tế- xã hội, cụ thể, gắn bó hữu cơ và chịu sự chi phối của quan hệ sản xuất
thống trị trong xã hội.
+Nhìn lại lịch sử Việt Nam ta vốn đã hình thành nền kinh tế hàng hoá từ lâu.
Cuối thời phong kiến rồi bước sang thời kỳ Pháp thuộc và sau này là giai đoạn
kháng chiến chống Mỹ. Nền kinh tế hàng hóa từng bước phát triển. Do đó, ta
đã có nền tảng của kinh tế hàng hóa. Hơn nữa, ta lại sẳn có các điều kiện thúc
để phát triển kinh tế hàng hóa, ví dụ như thị trường cung cầu, thị trường lao
động ,vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên.. , do đó việc hình thành kinh tế thị
trường sẽ là vấn đề tất yếu khách quan.
Vậy tại sao phát triển kinh tế thị trường là tất yếu, nhưng tại sao lại phải
là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà không phải là các
kiểu kinh tế thị trường khác?
Kinh tế thị trường ở mỗi hình thái kinh tế, xã hội cụ thể sẽ phải chịu sự chi
phối của các quan hệ sản xuất thống trị hay nói một cách đơn giản, hiểu một
cách đơn giản là nó sẽ phát triển theo định hướng của Nhà nước thống trị.
Trong lịch sử đã sớm có kiểu mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa được
coi là công cụ, phương tiện phát triển kinh tế của các nước tư bản phù hợp với
quyền lợi của bộ phận giai cấp thống trị và giai cấp tư sản . Ở Việt Nam đang
theo định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội và lý hệ tiêu chí “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là mục tiêu cần hướng tới. Sự lựa chọn
mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp với xu
hướng của thời đại và đặc biệt phù hợp với đặc điểm phát triển của dân tộc.
Mặt khác, xét về cái tiến trình lịch sử, loài người sẽ tuần tự phát triển từ thấp
đến cao : Cộng sản nguyên thủy- Chiếm hữu nô lệ- Phong kiến- Tư bản chủ
nghĩa-Xã hội chủ nghĩa( giai đoạn đầu của Xã hội công sản) Việt Nam quá độ
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa. Cho nên việc bỏ qua giai đoạn
phát triển kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hoàn toàn phù hợp với đặc điểm tình hình của Việt Nam.
Hai là do tính ưu việt của kinh tế thị trường trong thú đẩy phát triển Việt
Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường là phương thức phong bố nguồn lực hiệu quả mà loài người
đã đạt được so với các mô hình kinh tế thị trường là động lực đẩy lực lượng
sản xuất phát triển nhanh và hiệu quả cao. Dưới tác động của các quy luật thị
trường, nền kinh tế luôn phát triển theo hướng năng động, kích thích tiến bộ
kỹ thuật- công nghệ, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản phẩm.
Ví dụ: sản xuất điện thoại, nhà sản xuất phải cải tiến mẫu mã, đổi mới công
nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm để cạnh tranh với các đối thủ khác.
Nếu như so sánh nền kinh tế bao cấp với kinh tế thị trường hiện nay, thấy rằng
trong kinh tế thị trường chất lượng hàng hóa tốt hơn, số lượng hàng hóa đa
dạng phong phú hơn nhiều . Đó chính là tác động tích cực từ quy luật để cạnh tranh, cung cầu mang lại.
Kinh tế thị trường có nhiều ưu việt và được coi là phương tiện để thực hiện
mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên thì kinh tế trường cũng luôn tiềm ẩn
khuyết tật và thất bại của thị trường. Ví dụ: độc quyền, ô nhiễm môi trường và
cạnh tranh không lành mạnh, vấn đề hàng giả, hàng nhái vì vậy là rất cần sự
can thiệp của nhà nước.
Xét trên góc độ đó, sự phát triển kinh tế thị trường không hề mâu thuẫn, gọi là
cơ sở vật chất tạo ra điều kiện thực hiện những mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Ba
là, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với nguyện
vọng mong muốn dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
của người dân Việt Nam.
Sự tồn tại của nền kinh tế thị trường nước ta tạo ra đồn lực quan trọng cho sự
phát triển của lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ
nghĩa xã hội. Với đặc điểm lịch sử của dân tộc, Việt Nam không thể lựa chọn
mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, chỉ có thể lựa chọn mô hình kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mới phù hợp với ý chí, nguyện vọng
đông đảo của nhân dân về một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Có thể xem phát triển kinh tế thị trường định hướng xã chủ
yếu là bước phát triển quan trọng và tất yếu cho sự phát triển từ sản xuất nhỏ
lên sản xuất lớn, là bước quá độ để đi lên chủ nghĩa xã hội.
b) Phân tích các đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Là sinh viên em phải làm gì để góp phần phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam?
Các đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cụ thể là:
1. Về mục tiêu: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phương
thức để phát triển lực lương sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, văn minh. Đây là sự khác biệt cơ bản của kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Mục đích đó
bắt nguồn từ cơ sở kinh tế - xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và
là sự phản ảnh mục tiêu chính trị - xã hội mà Đảng, nhà nước và nhân dân ta đang phần đầu.
2.Về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế 2.1 Về sở hữu
Sở hữu là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái sản
xuất xã hôi trên cơ sở chiếm hữu nguồn lực của quá trình sản xuất và kết quả
lao động tương ứng của quá trình sản xuất hay tải sản xuất ấy trong một điều
kiện lịch sử nhất định. Sở hữu hàm ý trong đó bao gồm có chủ thể sở hữu, đồi
tương sở hữu, lơi ích từ đổi tương sở hữu.
Mục đích của chủ thể sở hữu là nhằm thực hiện những lợi ích từ đổi tượng sở
hữu. Chẳng hạn như ở chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa thì đối tượng sở
hữu là tư bản và trí tuệ, chủ thể sở hữu là nhà tư bản, lợi ích có được từ đối
tượng sở hữu là giá trị thặng dư (có được do người có quyền sở hữu có quyền
phân phối kết quả lao động). Khác với việc chiếm hữu các sản phẩm tự nhiên,
sở hữu phản ánh việc chiếm hữu trước hết là các nguồn lực sản xuất, tiếp đến
là chiếm hữu kết quả lao động. Trong sự phát triển của các xã hội khác nhau,
đối tượng sở hữu trong các nấc thang phát triển có thể là nô lệ, có thể là ruộng
đất, có thể là tư bản, có thể là trí tuệ.
-Sở hữu bao hàm nội dung kinh tế và nội dung pháp lý
+Về nội dung kinh tế sở hữu là điều kiện của sản xuất là lợi ích kinh tế mà
chủ đề sở hữu được thụ hưởng khi sở hữu đối tượng sở hữu . Về mặt này sở
hữu là cơ sở để các chủ thể thực hiện lợi ích từ đối tượng sở hữu, không xác
lập quan hệ sở hữu sẽ không có cơ sở để thực hiện lợi ích kinh tế. Vì vậy khi
có sự thay đổi phạm vi và quy mô các đối tượng sở hữu , địa vị của các chủ
thể sở hữu sẽ thay đổi trong đời sống xã hội hiện thực.
+Về nội dung pháp lý sở hữu thể hiện những quy định mang tính chất pháp
luật về quyền hạn hay nghĩa vụ của chủ sở hữu. Trong trường hợp này, sở hữu
luôn là vấn đề quan trọng hàng đầu khi xây dựng và hoạch định cơ chế quản lý
nhà nước với quá trình phát triển nói chung. Vì vậy, về mặt pháp lý, cơ sở giả
định và đòi hỏi sự thừa nhận về mặt luật pháp. Khi đó, những lợi ích kinh tế mà
chủ thể sở hữu sẽ không bị cái chủ thể khác phản đối. Khi đó, việc thụ được coi
là chính đáng, hợp pháp.(nguồn: kinh tế chính trị Mác-Lênin trang 180)
2.2 Thành phần kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế có nhiều hình
thức ở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế tư nhân là động lực quan trong, kinh tế nhà nước kinh tế tập thể
cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phật triển một nền kinh tẻ độc lập, tự
chủ các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh
cùng phát triển theo pháp luật
Điều 51 (HIẾN PHÁP 2013)
1. Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩavới nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
2. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế
quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và
cạnh tranh theo pháp luật.
3. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá
nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các
ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Tài sản hợp pháp của cá nhân,
tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị
quốc hữu hóa. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng
trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Đó là vấn đề có tính
tác nhằm đảm bảo đúng thì định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường.
3.Về quan hệ quản lý nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại ở mọi quốc gia trên thế giới, nhà nước
đều phải can thiệp (điều tiết) quá trình phát triển kinh tế của đất nước nhằm
khắc phục những hạn chế, khuyết tật của kinh tế thị trường và định hướng
chúng theo mục tiêu đã định. Tuy nhiên, quan hệ quản lý và cơ chế quản lý
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có đặc
trưng riêng đó là: Nhà nước quản lý và thực hành cơ chế quản lý là nhà ước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng công sản, sư làm chủ và giám sát của nhân dân với mục
tiêu dùng kinh tế thị trường để xây dưng cơ sở vật chất kỳ thuật cho chủ nghĩa
xã hội, vì “dân giàu, nước mạnh dân chủ, công bằng, văn minh".
Nhà nước quản lý và thực hành cơ chế quản lý là nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
công sản, sư làm chủ và giám sát của nhân dân với mục tiêu dùng kinh tế thị
trường để xây dưng cơ sở vật chất kỳ thuật cho chủ nghĩa xã hội, vì “dân giàu,
nước mạnh dân chủ, công bằng, văn minh".
4. Về quan hệ phân phối
Quan hệ phân phối bị chi phối và quyết định bởi quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất. Nền kinh tế thị trường với sự đa dạng các hình thức sở hữu do vậy thích
ứng với nó sẽ có các loại hình phân phối khác nhau: phân phối theo kết quả
làm ra chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, theo mức đóng góp
vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã
hội. Trong cái hình thức phân phối đó phân phối theo lao động và hiệu quả
kinh tế phân phối theo phúc lợi là những hình thức phân phối cảnh định hướng
xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường.
5. Về quan hệ giữa gắng tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội..Nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải thực hiện
gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội; phát triển kinh tế đi đôi với
phát triển văn hóa - xã hội; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và từng giai đoạn phát
triển của kinh tế thị trường.Ở các nước Tue bản chủ nghĩa, vấn đề giải quyết
công bằng xã hội được đặt ra nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản trước
tác động tiêu cực của cơ chế thị trường.Tiến bộ và công bằng xã hội vừa là
điều kiện bảo đảm cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế, vừa là mục
tiêu thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa . Thực hiện tiến
bộ, công bằng xã hội không phải là cào bằng hay bình quân chia đều các
nguồn lực của xã hội cho mọi người. Thực chất, một mặt dựa vào các chính
sách điều tiết thu nhập an sinh và phúc lợi xã hội. Mặt khác phải tạo ra
những điều kiện, tiền đề cần thiết để đảm bảo cho mọi người dân đều có cơ
hội như nhau trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục, y
tế, việc làm để họ có thể tự lo liệu và cải thiện đời sống của bản thân, gia
đình, đồng thời góp phần xây dựng đất nước.
(nguồn: giáo trình Kinh tế triết học Mác-Lênin)
Là sinh viên em phải làm gì để góp phần phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam?
Trong báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định trụ cột phát
triển đất nước gồm: phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là
then chốt; xây dựng văn hóa, con người làm nền tảng tinh thần; tăng cường
quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Để phát triển kinh tế - xã hội
thực sự trở thành trung tâm, trước hết phải xây dựng, hình thành cho nhân dân,
nhất là thế hệ thanh niên hiểu, biết, thực hành và thích ứng với nền kinh tế thị
trường song hành với mục tiêu xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN) - ý
thức hệ kinh tế thị trường XHCN.
Theo các nghiên cứu về chính trị học, xã hội học và tâm lý học thì ý thức hệ là
các ý tưởng, nhận thức, giá trị và niềm tin chung. Thông qua ý thức hệ, các
thành viên trong nhóm người, cộng đồng người hoặc toàn xã hội diễn dịch lịch
sử và những sự kiện xã hội đương thời định hình thành các kỳ vọng, khát khao
hướng tới tương lai, có ảnh hưởng lớn đến hành động xã hội.
Theo từ điển chủ nghĩa cộng sản khoa học thì ý thức xã hội chủ nghĩa là tổng
hòa các hình thái ý thức xã hội khác nhau đặc trưng cho đời sống tinh thần của
xã hội xã hội trong quá trình nảy sinh, hình thành và phát triển của xã hội ấy. Ý
thức xã hội chù chứa đựng không những các quan điểm và tư tưởng lý luận đã
được hệ thống hóa của giai cấp công nhân và đội tiên phong của nó là Đảng
Cộng sản, mà còn chứa đựng những quan điểm và các khái niệm của quần
chúng, những tình cảm và tâm tư của họ nẩy sinh trong cuộc sống hàng ngày, tức là tâm lý xã hội
Như vậy, ý thức hệ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
là ý tưởng, nhận thức, giá trị và niềm tin chung nhất về quan điểm, tư tưởng lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt
Nam, được biểu hiện thông qua nhận thức, tư duy và hành động của con người;
là quan niệm, khái niệm, tâm tư, tình cảm của người Việt Nam ở hiện tại kết
hợp với những tàn dư lịch sử làm điều kiện nẩy sinh những khát khao, kỳ vọng
và mục tiêu hướng tới tương lai. Chính vì vậy, khi xem xét ý thức hệ kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là xem xét những nét chung
nhất trong nhận thức, tư duy và hành động của con người Việt Nam cùng chịu
tác động các điều kiện tự nhiên và xã hội; xem xét các yếu tố lịch sử còn tàn dư
trong ý thức chung và những tác động làm ảnh hưởng đến tư duy, nhận thức và
hành động ở hiện tại.
Chính vì vậy bên cạnh là những người trẻ, đặc biệt là sinh viên bản thân em nói
riêng cũng như tất cả các sinh viên Việt Nam nói chung cần
+Học tập và nghiên cứu: Đầu tiên, hãy nỗ lực hoàn thiện kiến thức và kỹ năng
của bạn trong lĩnh vực mà bạn quan tâm. Tìm hiểu và nghiên cứu về các nguyên
tắc của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các mô hình kinh doanh
xã hội và các phương pháp phát triển bền vững. Trang bị về ý thức hệ kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi phải sàng lọc dạng đục khơi trong
và bổ sung những giá trị mới ở Việt Nam. Điều hòa những tác động tích cực với
tiêu cực nhằm tạo. Tác 4 duy hành động. sống đúng quy đạo sống lý tưởng cách
mạng đúng con đường phát triển của đất nước.
+Tham gia hoạt động xã hội: Tham gia vào các tổ chức, hội nhóm có mục tiêu
xã hội chủ nghĩa. Đây có thể là các tổ chức phi lợi nhuận, các nhóm nghiên cứu
xã hội, hoặc các dự án cộng đồng.
+Khởi nghiệp xã hội: Nếu bản thân có ý tưởng kinh doanh mang tính xã hội,
hãy cân nhắc khởi nghiệp trong lĩnh vực này. Điều này có thể là một cách hiệu
quả để kết hợp giữa mục tiêu tạo lợi nhuận và mục tiêu xã hội.
+Đặc biệt Sinh viên phải nâng cao nhận thức tư duy và hành động về đổi mới
sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ, nhất là những thành tựu của
công cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ về lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối
sống, văn hóa. Năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi của dân tộc, nhất là tinh
thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc về môi trường, điều kiện học tập, hoạt
động giải trí, rèn luyện được phát triển lành mạnh. Toàn diện, hài hòa cả về trí
tuệ, thể chất và giá trị thẩm mỹ về giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt
Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hội nhập quốc tế.,
+Tăng cường giáo dục: Tham gia vào các hoạt động giáo dục như dạy học, tư
vấn hoặc đào tạo để chia sẻ kiến thức và kỹ năng của bạn với những người
khác, đặc biệt là những người có ích kinh tế thấp.
+Tạo ra sản phẩm và dịch vụ có ý nghĩa xã hội: Nếu có khả năng, hãy phát triển
các sản phẩm hoặc dịch vụ có tác động tích cực đến cộng đồng và môi trường.
+Thúc đẩy những thay đổi chính sách: Tham gia vào các hoạt động vận động
cộng đồng và chính trị để thúc đẩy các chính sách và biện pháp hỗ trợ phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội.