Câu hỏi ôn tập LSĐ. Trường Đại học Nguyễn Tất Thành

Vào tháng 11 năm 1939 sự chuyển hướng sự chỉ đạo chiến lược của Đảng được thể hiện trong
Hội nghị Trung ương lần thứ 6, được tiếp tục trong hội nghị trung ương lần thứ 7 vào tháng 11. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

| 1/34

Preview text:

lOMoARcPSD| 45562685 Phần 1: Câu 3 điểm
Câu 1: Cơ sở để Đảng đề ra nội dung chuyển hướng chỉ đạo a) Bối cảnh lịch sử:
- Trên thế giới: Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, Pháp tham chiến với tư cách là kẻ thù số
mộtcủa Việt Nam ta bấy giờ đã tham chiến, mục đích là để phân chia thuộc địa và thị trường thế
giới. Chính điều này đã kéo nhân dân các nước thuộc địa vào vòng xoáy của cuộc chiến khi đế
quốc Pháp lấy nhân nhân Việt Nam ra làm bia đỡ đạn, tăng cường áp bức bóc lột nhân dân các
nước thuộc địa. Phát xít Đức tấn công Liên Xô làm cho tính chất của cuộc chiến tranh chuyển từ
phi nghĩa sang chính nghĩa. Cuộc chiến tranh giữa lực lượng dân chủ ưu chuộng hoà bình thế
giới chống lại Phát xít. Tháng 6 năm 1940, Pháp đầu hàng Đức và khi chính quốc thua thì hệ
thống thuộc địa lung lay. Ngày 8/12/1941, Nhật tấn công Trân Châu cảng của Trung Quốc. Tháng
12/1941, chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, Nhật đánh chiếm nhiều thuộc địa của Mỹ và Anh.
- Ở VN: Ngày 28 tháng 9 năm 1939, Toàn quyền Đông Dương ra chỉ định cấm tuyên truyền
cộngsản, đặt ĐCS Đông Dương ra ngoài vòng pháp luật và giải tán các hội, nghiệp đoàn, đóng
cửa các tờ báo, các NXB, cấm hội họp tụ tập. Thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến tàn
bạo, phát xít hoá bộ máy thống trị khiến cho mâu thuẫn ngày một sâu sắc. Tuy nhiên mâu thuẩn
chỉ bị đẩy lên đỉnh điểm khi Nhật tấn công nước ta vào tháng 9 năm 1940, Pháp ký hiệp định đầu
hàng Nhật, nhân dân ta phải chịu cảnh “một cổ hai tròng”. Nhật thi hành chính sách đổ lúa trồng
đay lên nước ta gây nên nạn đói và khiến cho hơn 2 triệu đồng bào Bắc Kì chết đói. Ngày
17/01/1940, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ và nhiều đồng chí Trung ương bị địch bắt. Nhân dân
ta đã nhiều lần đứng dậy chống lại ách áp bức bóc lột đó. Tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa Bắc
Sơn (9 - 1940), khởi nghĩa Nam Kì (11 - 1940), binh biến Đô Lương (1 - 1941). Các cuộc nổi
dậy vũ trang đó đã chứng tỏ ý thức quật cường, tinh thần anh dũng bất khuất của nhân dân Việt
Nam, giáng những đòn phủ đầu chí tử vào thực dân Pháp, đồng thời nghiêm khắc cảnh cáo phát
xít Nhật khi chúng vừa mới đặt chân vào Đông Dương. Tuy nhiên, do kẻ thù còn mạnh, lực lượng
cách mạng chưa được chuẩn bị đầy đủ… nên trước sau đều bị thất bại nhưng nó như những tiếng
súng báo hiệu cho thời kì mới – thời kì giải phóng dân tộc. Ngày 28/01/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc sau 30 năm bôn ba ở nước ngoài trở về nước và làm việc tại Cao Bằng, từ đó, Đảng chủ
trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược tại HNTƯ lần thứ VIII do Bác chủ trì từ ngày 10
19/5/1941 tại Pắc Bó (Cao Bằng). Bác tìm thấy con đường cứu nước giải phóng dân tộc là con
đường đi theo Cách Mạng tháng 10 tại Nga, một lần nữa Bác quay trở về để chứng minh rằng
cái quan điểm của Bác vào năm 1930 là hoàn toàn đúng đắn khi Việt Nam là đất nước nửa thuộc địa nửa phong kiến. b) Nội dung:
- Vào tháng 11 năm 1939 sự chuyển hướng sự chỉ đạo chiến lược của Đảng được thể hiện trongHội
nghị Trung ương lần thứ 6, được tiếp tục trong hội nghị trung ương lần thứ 7 vào tháng 11 năm
1940 và được hoàn chỉnh trong hội nghị trung ương lần thứ 8 vào tháng 5 năm 1941.
- Một là, đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu: (4) lOMoARcPSD| 45562685
+ Vạch rõ mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa các dân tộc
Đông Dương với bọn đế quốc-phát xít xâm lược Pháp-Nhật + Xác định nhiệm vụ bức thiết nhất
của CM là giải phóng dân tộc
+ Chủ trương tiếp tục tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay bằng
các khẩu hiệu “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo. Thực
hiện giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng công”, tiến tới thực hiện “Người cày có ruộng”
+ Hội nghị chủ trương giải quyết vđ dân tộc trong khuôn khổ mỗi nước Đông Dương. Trước đấy
trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Bác cho rằng cần thành lập ra Đảng Cộng sản Việt
Nam, nhưng sau này theo tinh thần Quốc tế Cộng sản thì thành lập Đảng cộng sản Đông Dương.
Tuy nhiên cần phải giải quyết vấn đề dân tộc tại Việt Nam. Song các dân tộc ở Đông Dương phải
đoàn kết với nhau chống kẻ thù chung là Pháp - Nhật, đồng thời liên hệ mật thiết với Liên Xô và
các lực lượng dân chủ chống phát xít.
- Hai là, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạngnhằm
mục tiêu giải phóng dân tộc: (3)
+ Quyết định thành lập ở VN 1 mặt trận lấy tên là Việt Minh, bao gồm các tổ chức quần chúng
mang tên Cứu quốc nhằm tập hợp, đoàn kết mọi lực lượng quần chúng nd chống lại kẻ thù + Coi
việc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân chống lại kẻ thù
chính là đế quốc-phát xít Pháp và Nhật tay sai
+ Sau khởi nghĩa thắng lợi sẽ lập ra nước VN dân chủ cộng hoà.
- Ba là, chủ trương tiến tới cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền: (2)
+ Vạch rõ khởi nghĩa vũ trang muốn giành thắng lợi phải nổ ra đúng thời cơ, phải có đủ ĐK chủ quan và khách quan
+ Chủ trương đi từ khởi nghĩa từng phần tiến tới Tổng khởi nghĩa.
Câu 2: Chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta tạo nên một cuộc khủng
hoảng chính trị sâu sắc
- Bác viết: “Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ trong một năm hoặc một năm rưỡi. Thời gianrất
gấp, ta cần chuẩn bị cho nhanh.”. Trong vòng chưa đầy 1 năm, đã có cơ hội mở ra cho ta thực
hiện tổng Khởi nghĩa đấu tranh giành chính quyền.
- Kẻ thù của nhân dân ta có sự thay đổi khi nó không còn là thực dân Pháp mà khi Nhật đảochính
Pháp vào ngày 9 tháng 3 năm 1945 để độc chiếm Đông Dương thì Nhật đã trở thành kẻ thù chính chủ yếu.
- Cuối năm 1944 – đầu năm 1945 ưu thế chiến trường nghiêng về phe Đồng Minh khi Anh và
Mĩgiải phóng Pháp, Liên Xô liên tiếp giành được thắng lợi lớn, đánh cho Đức ra khỏi ¾ lãnh thổ,
giải phóng hàng loạt các nước ra khỏi khu vực Đông Âu. Ở Pháp, tướng Charles de Gaulle về
nước giải phóng Paris đầu năm 1945, Pháp chuẩn bị lực lượng đánh Nhật ở Đông Dương. Mỹ
đánh bại Nhật ở Philippin. Con đường của Nhật tới Đông Dương bị khống chế, Pháp chuẩn bị
đánh Nhật khi quân đồng minh vào nên Nhật đã đánh Pháp trước để trừ hậu họa.
- Đáng lẽ Nhật có thể đuổi Pháp đi từ trước nhưng đến năm 1945 mới đến năm 1945 Nhật mớiđuổi
Pháp đi là vì khi Nhật vào thì Pháp tỏ ra ngoan ngoãn phục tùng Nhật, cùng với Nhật bóc lột
Đông Dương và Nhật có quá nhiều thuộc địa lại thấy Pháp ngoan ngoãn như vậy nên chưa đuổi
Pháp. Sau khi Pháp mất nước năm 1940 vào tay Phát xít Đức thì một chính phủ mới đã thành lập
ở Pháp là chính phủ phát xít thân phát xít Đức. Do vậy cũng có nghĩa là giai đoạn từ năm 1940
đến đầu năm 1945, chính phủ Pháp ở chính quốc là đồng minh của Nhật (cùng theo phe phát xít)
nên Nhật không nỡ đuổi đồng minh của mình. lOMoARcPSD| 45562685
- Không sớm thì muộn Nhật đảo chính Pháp vì Đông Dương là cứ điểm xào huyệt cuối cùng
màphát xít Nhật có thể dựa dẫm chính vì vậy dùng mọi cách để chiếm được.
- Vào đêm ngày 9 tháng 3 năm 1945 hội nghị mở rộng tại Đỉnh Bàng – Bắc Ninh đã được diễnra.
- Ngày 12/3/1945 chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”a) Nội dung:
- Ngày 9-3-1945 là một cuộc đảo chính, mục đích là truất quyền Pháp, tước khí giới của
Pháp,chiếm hẳn lấy Đông Dương làm thuộc địa riêng của chủ nghĩa đế quốc Nhật.
- Chỉ thị nhận định: Cuộc đảo chính của Nhật lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương đã tạo ramột
cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc. Đáng lẽ vào năm 1940 khi Nhật nhảy vào thì Nhật phải xây
dựng bộ máy cai trị mới nhưng mà vì muốn mai chóng vơ vét tài nguyên nên Nhật dùng luôn bộ
máy của Thực dân Pháp. Và bây giờ Nhật tự tay cắt bỏ đi hệ thống tay sai của mình: cái cũ mất
đi cái mới chưa được hình thành khiến cho tầng lớp trung gian hoang mang không biết đi đâu về
đâu tạo nên khoảng chống quyền lực. Nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa chín muồi. Tuy nhiên,
hiện đang có những cơ hội tốt làm cho những điều kiện khởi nghĩa nhanh chóng được chín muồi.
- Chỉ thị xác định: Sau đảo chính phát xít Nhật là kẻ thù trước mắt và duy nhất của nhân dânĐông
Dương, vì vậy phải thay khẩu hiệu “ Đánh đuổi đế quốc phát xít Pháp - Nhật” bằng khẩu hiệu
“Đánh đuổi phát xít Nhật”.
- Chỉ thị chủ trương: Phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề chocuộc
tổng khởi nghĩa. Muốn vậy những hình thức đấu tranh và tuyên truyền phải cao hơn và mạnh bạo
hơn như tuyên truyền xung phong có vũ trang, biểu tình tuần hành thị uy....... - Chỉ thị nêu rõ
phương châm đấu tranh: Phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng phần, mở rộng căn cứ
địa Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên. Đây
là phương pháp duy nhất đóng vai trò chủ động trong việc đánh đuổi phát xít Nhật và sẵn
sàng chuyển sang hình thức tổng khởi nghĩa khi có điều kiện.
- Chỉ thị dự kiến: Điều kiện thuận lợi để tiến hành tổng khởi nghĩa là khi quân Đồng Minh kéovào
Đông Dương đánh Nhật, quân Nhật kéo ra mặt trận ngăn cản để phía sau sơ hở. Hay cách mạng
Nhật bùng nổ và chính quyền cách mạng nhân dân được thành lập, hoặc Nhật để mất nước như
Pháp năm 1940 và quân đội viễn chinh của Nhật mất tinh thần. Nếu Nhật mất nước thì ta sẽ thực
hiện tổng khởi nghĩa đấu tranh giành chính quyền (chính là lúc Thiên thời địa lợi nhân hoà đối
với cách mạng Việt Nam).
- Tuy nhiên Đảng ta cũng nêu rõ rằng ta không được ỷ lại vào người mà bó tay mình trong khitình
thế chuyển biến thuận lợi mà phải nêu cao tinh thần dựa vào sức mình là chính, khẳng định tính
tích cực và chủ động của ta. Tháng 8 năm 1945, sau khi Nhật phải gánh 2 quả bom nguyên tử
của Đế quốc Mĩ thì quân Nhật hoang mang dao động đến tột độ; quân Đồng Minh kéo vào giải
giáp quân Nhật; quân Nhật phải đấu tranh, chống trả; quân Đồng Minh và ta tạo thành thế hai
gọng kìm để tiêu diệt phát xít Nhật. Câu 3: Tưởng Pháp
+ Trước 6/3/1946, hoà hoãn với Tưởng để chống Pháp ở miền Nam
Với danh nghĩa là quân đồng minh sau thoả thuận ở Hội Nghị Potsdam thì vai trò của Tưởng và
Pháp là ngang nhau. Áp dụng chủ trương của Lênin về hào hoãn sau CMT10 Nga có thù trong
giặc ngoài thì Nga đã kí hoà hoãn vói 14 nước đế quốc bên ngoài để tập trung lực lượng chống
phản động trong nước. Năm 1920, Nga đã thành công chống thù trong giặc ngoài vật nên Lênin
đã lết luận rằng: trong tình thế đối đầu với nhiều kẻ thù thfi phải thực hiện hoà hoãn và chọn hoà
với kẻ thù ít nguy hiểm trước. Để có lợi cho cách mạng thì dù có hoà với kẻ cướp ta cũng phải
hoà. Thực tế thì Việt Nam chỉ có thể đối đầu với từng kẻ thù một chứ không thể đối đầu cả 2 cùng lOMoARcPSD| 45562685
1 lúc. Mục đích của Tưởng là trút gánh nặng về kinh tế và chúng có thể rút quân về nước bất cứ
lúc nào nếu tình hình cách mạng của Trung Quốc có sự thay đổi. Ngược lại thì Pháp lại có mục
đích là chính trị, quyết tâm quay trở lại Việt Nam xâm lược lần thứ 2, đặt ách thống trị lên Việt
nam lúc bấy giờ. Hoà hoãn thì phải đi kèm với dự đồng ý của hai bên mà Pháp lại không muốn
hoà hoãn với chúng ta nhưng Tưởng sẽ chấp thuận hoà hoãn nếu như có quyền lợi. Tưởng trong
phe Đồng minh đến tước vũ khí của phát xít Nhật nên ta không được phép đánh Tưởng.
Đảng ta thực hiện chủ trương “thêm bạn bớt thù”. Pháp lăm le muốn Tưởng nhanh chóng về nước
để Pháp ra miền Bắc nhưng nếu ta hoà với Tưởng thì sẽ đẩy mâu thuẫn giữa Tưởng và Pháp trở
nên gay gắt. Tưởng là kẻ thù ít nguy hiểm hơn Pháp, bởi vì Pháp mới là kẻ thù nguy hiểm nhất, kẻ
thù chủ yếu của Cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ, vậy nên chúng ta cần tập trung đánh với Pháp
trước và hoà Tưởng. Trong lúc này Tưởng cũng muốn hoà với ta vì Tưởng muốn ở lại lâu dài để
củng cố địa vị tay sai và để tiếp tục mặc cả với Pháp. Lúc này nếu ta muốn hoà với Pháp cũng
không được vì Pháp đang muốn đánh nhanh thắng nhanh từ miền Nam ra miền Bắc. Hoá với
Tường nhằm khoét sâu mâu thuẫn, lợi dụng mâu thuẫn trong hàng lối kẻ thù giữa 2 tập đoàn đế
quốc Anh – Pháp, Mỹ - Tưởng về quyền lợi Đông Dương, tránh nguy cơ Pháp cấu kết với Tưởng
hòng tiêu duyệt quân ta. Việc áp dụng lí luận về hoà hoãn của Lênin phù hợp với hoàn cảnh của
đất nước cho thấy sự sáng suốt của Đảng ta, vừa là nhân nhượng nhưng cũng biến nó thành cơ hội
để tranh thủ tạo bước tiến mới cho cách mạng Việt Nam.
* Biện pháp nhân nhượng với quân Tưởng của Đảng vào tháng 9/1945 đến tháng 2/1946 Nêu cao
khẩu hiệu “Hoa – Việt thân thiện”, thực hiên phương pháp, chính sách tiêu cực đề kháng. Thực
hiện biện pháp nhân nhượng quyền lợi về nhiều mặt:
Chính trị: Tháng 11/1945, để gạt mũi nhọn tấn công của kẻ thù vào, ĐCS Đông Dương tuyên bố
tự giải tán nhưng thực chất là rút vào hoạt động bí mật nhằm giữ vững vai trò lãnh đạo của chính
quyền nhân dân. Chỉ để lại công khai là “Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương” và đây
chính là nơi những người Cộng sản ra vào hoạt động.
Chấp nhận nhường 70 ghế trong quốc hội mà không cần bầu cử và 4 ghế bộ trưởng trong chính
phủ cho Việt quốc Việt cách tay sai của Tưởng. Thực chất thời kì này ta thực hiện đa nguyên chính
trị, chính phủ lúc này là chính phủ liên hiệp 3 bên, bao gồm: người của mặt trận Việt Minh, người
yêu nước không đảng phái và người của Việt quốc, Việt cách. Tuy nhiên thì các ghế trong chính
phủ, ghế nào quan trọng, chủ chốt thì là của ta và người yêu nước không đảng phái còn ghế nào
rắc rối, khó khăn thì là người của Việt quốc Việt cách như: Bộ trưởng bộ ngoại giao, bộ trưởng bộ
canh nông, bộ trưởng bộ văn hóa.
Kinh tế: Chấp nhận cung cấp lương thực, thực phẩm nuôi 20 vạn quân Tưởng. Tiêu 2 loại tiền:
Quan kim, Quốc tệ (2 loại tiền mất giá ở Trung Quốc).
Quân sự: Các đơn vị vũ trang tỉnh táo, không gây xung đột đề kháng, lực lượng vũ trang đóng xa
quân Tưởng, tránh xung đột trực tiếp với quân Tưởng và tay sai để tránh mắc vào cạm bẫy khiêu
khích, kiếm cớ lật bổ chính quyền cách mạng. - Kết quả:
Hạn chế thấp nhất hoạt động khiêu khích lật đổ chính quyền của quân Tưởng và tay sai của chúng.
Tập trung được lực lượng đánh Pháp ở miền Nam.
+ Từ 6/3/1946 đến 19/12/1946, hoà hoãn với Pháp nhằm đẩy quân đội Trung Hoa Dân quốc ra khỏi miền Bắc
Trung Quốc bị ví như những miếng bánh ngọt được chia ra, thực dân Pháp được hưởng một số
quyền lợi. Tưởng và Pháp thoả hiệp với nhau. Ngày 28/02/1946, Tưởng và Pháp kí hiệp ước Hoa lOMoARcPSD| 45562685
Pháp – Hiệp ước Trùng Khánh hai bên trao đổi quyền lợi với nhau. Pháp trả đặc quyền có được
Trung Hoa còn Tưởng cho Pháp đem quân kiểm soát miền Bắc. Việc này đã hợp pháp hoá việc
Pháp quay trở lại Đông Dương lần thứ 2.
Ngày 28 – 2 – 1946, Pháp và Tưởng kí Hiệp ước Trùng Khánh, thỏa thuận mua bán quyền lợi với
nhau. Tưởng đã đồng ý cho Pháp kéo quân ra miền Bắc Việt Nam thay thế quân Tưởng để tước
khí giới của quân đội phát xít. Việc làm này nhằm hợp pháp hóa việc Pháp quay trở lại Đông Dương lần thứ 2.
Hiệp ước đã đặt nhân dân ta trước sự lựa chọn: hoặc là cầm vũ khí kháng chiến chống Pháp; hoặc
là hòa hoãn với Pháp để đuổi Tưởng và tranh thủ thời gian củng cố lực lượng.
Đứng trước thời khắc gay go, chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã ra quyết sách lịch sử, sáng suốt
“Hòa để tiến”. Ngày 6/3/1946, ta kí với Pháp “Hiệp định sơ bộ”, hòa hoãn với Pháp.
Ta phải hòa với Pháp vì:
+ So sánh lực lượng không cân sức, đằng sau Pháp có cả phe đồng minh và nhất là quân Mỹ. Kinh
tế còn kém phát triển, chính trị chưa ổn định. Sau năm 1945 ta vẫn trong vòng vây phong tỏa của
các nước đế quốc, chưa nước nào đặt quan hệ ngoại giao với ta. Hòa với Pháp thì ta tránh được
tình thế bất lợi: phải đối phó cùng một lúc với nhiều kẻ thù trong lúc lực lượng của ta còn non yếu.
+ Hòa với Pháp để dùng bàn tay của Pháp đuổi 20 vạn quân Tưởng ra khỏi miền Bắc. Khi có hiệp
định pháp lý cho Pháp ra thì Tưởng không còn lý do gì ở lại và đồng thời lực lượng phản động
Việt quốc Việt cách cũng phải về theo. Ta vừa loại bỏ được ngoại xâm và nội phản. + Việc nhân
nhượng với Pháp, buộc chúng phải công nhận Việt Nam là quốc gia độc lập, tự do, có Chính phủ
tự chủ, có nghị viện, quân đội, tài chính riêng,... làm cơ sở pháp lý để ta tiếp tục đấu tranh với Pháp.
+ Ta có thêm thời gian hòa hoãn cần thiết để tiếp tục xây dựng lực lượng, củng cố chính quyền,
chuẩn bị chu đáo mọi mặt cho cuộc kháng chiến chống Pháp lâu dài về sau.
+ Để tỏ thiện chí hòa bình, đáp ứng mong muốn của nhân dân Pháp và nhân dân thế giới ưa chuộng
hòa bình, không muốn chiến tranh xảy ra, do đó ta có thể tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ.
→ Việc hòa Pháp là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết trong bối cảnh ta vừa giành được chính quyền,
lực lượng còn non trẻ, công tác chuẩn bị còn yếu, ta cần thời gian để xây dựng, củng cố mọi mặt
cho cuộc kháng chiến tất yếu sau này. Nó thể hiện sự sáng suốt của Đảng và chủ tịch HCM trong
việc nhân nhượng nhưng có nguyên tắc.
Khi cuộc họp trù bị ở Đà Lạt vào tháng 6 năm 1946 không đi đến kết quả. Tháng 7 Bác tham dự
hội nghị ở Fontainebleau, đi liền 2 tháng từ tháng 7 đến tháng 9 năm 1946. Bác mời cụ Huỳnh
Thúc Kháng giữ vị trí phó chủ tịch nước. Cụ tiễn Bác lên đường sang Pháp thì cụ hỏi: “Tại sao
Bác lại bỏ đi trong bối cnahr nước sôi lửa bỏng như thế này?”. Trong khi quần chúng nhân dân rần
rộ lên tin là Chỉnh chủ tịch HCM bán nước vì Bác đã đồng ý cho Pháp đem quân kiểm soát miền
Bắc Việt Nam thay cho Tưởng. Nhưng mà Bắc lại dặn cụ là: ở nước nhà là cụ chỉ cần nhớ tuân
thủ nguyên tắc là dĩ bất biến, ứng vạn biến tức là trong mọi điều kiện thì cái không thể thay đổi
được là làm thế nào để có thể giữ được chính quyền.
Sau này kí với Pháp bản Tạm ước 14/9 để tranh thủ có thêm thời gian hoà hoãn cho sau này.
Ý nghĩa của việc hòa hoãn với Pháp:
Mặc dù thực dân Pháp bội ước nhưng thực tế lịch sử đã chứng minh việc ký Hiệp định sơ bộ 6-3
(Hoà để tiến và đồng ý đem quân ra Bắc thay cho Tưởng), 9/3 ra chỉ thị Hoà để tiến và Tạm ước
14-9 là một chủ trương sách lược đúng đắn của Đảng, Chính phủ và chủ tịch HCM. Tuy nhiên
thì việc kí kết không được nhân dân ủng hộ và đây đã trở thành một bước ngoặt khó khăn cho lOMoARcPSD| 45562685
Cách Mạng Việt Nam. Nếu lúc ấy ta quyết định đánh Pháp thay vì hoà Pháp thì chúng ta sẽ nhận
được sự ủng hộ và khí thế của quần chúng nhân dân do ảnh hưởng của thành công CMT8.
Đó là một mẫu mực tuyệt vời về việc lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù và sự nhân nhượng
có nguyên tắc. Nhờ đó chúng ta đã loại trừ được một kẻ thù nguy hiểm là quân đội Tưởng. Tranh
thủ thời gian hòa hoãn Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tích cực đẩy mạnh sản xuất ổn định đời sống,
tích trữ lương thực phát triển lực lượng vũ trang, xây dựng các chiến khu, mở rộng khối đại đoàn
kết toàn dân, củng cố vững chắc chính quyền nhân dân, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến
lâu dài chống thực dân pháp, đồng thời làm cho dư luận quốc tế chú ý ủng hộ nguyện vọng hòa
bình, tự do của dân tộc VN.
Thực tiễn lịch sử của thời kỳ này đã đem lại cho Đảng ta nhiều kinh nghiệm quý báu:
Thứ nhất, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng. Mặc dù Đảng rút vào hoạt động bí mật, nhưng vẫn
không ngừng củng cố và phát triển. Trong điều kiện có nhiều đảng phái tham gia chính quyền,
Đảng vẫn giữ vai trò lãnh đạo nhà nước một cách khéo léo. Vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố
quyết định bảo đảm việc giữ vững bản chất cách mạng của chính quyền nhân dân.
Thứ hai, xây dựng khối đoàn kết toàn dân, dựa vào dân. Phát huy độ sức mạnh của nhân dân ta
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chính quyền. Chính quyền được xây dựng sau Cách mạng
Tháng Tám thực sự của dân, do dân và vì dân. Chính phủ đã thực hiện những chính sách thiết thực
như: bầu cử dân chủ, chính sách ruộng đất, xoá nạn mù chữ... để nhân dân có thể hưởng những
quyền lợi do chế độ mới đem lại, từ đó ủng hộ, tin tưởng tuyệt đối vào chính quyền, vào Đảng.
Thứ ba, lợi dụng triệt để mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, tập trung mũi nhọn vào kẻ thù chính,
nguy hiểm nhất. Giai đoạn này, chúng ta đã lợi dụng mâu thuẫn (Anh - Pháp, Mỹ -Tưởng, mâu
thuẫn giữa các nhóm trong chính quyền và quân đội Tưởng, mâu thuẫn trong nội bộ thực dân Pháp)
để phân hoá, làm suy yếu các kẻ thù, tranh thủ xây dựng lực lượng và bảo vệ được chính quyền nhân dân. a) Ý nghĩa
- Những chủ trường của Đảng trong giai đoạn này có ý nghĩa hết sức quan trọng. Chỉ thị đã xácđịnh
đúng kẻ thù chính của dân tộc Việt Nam là thực dân Pháp xâm lược. Đồng thời, đã chỉ ra kịp thời
những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược cách mạng , nhát là nêu rõ nhiệm nhiệm vụ chiến
lược mới của cách mạng Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám là xây dựng đất nước đi đôi với
bảo vệ đất nước. Đề ra những biện pháp, nhiệm vụ cụ thể về dối nội, đối ngoại để khắc phục nạn
đói, nạn dốt, chống giặc ngoài, bảo vệ chính quyền cách mạng.
- Những nội dung của chủ trương kháng chiến kiến quốc được Đảng ta tập trung chỉ đạo thựchiện
trên thực tế với tinh thần kiên quyết, khẩn trương, linh hoạt, sáng tạo, trước hết là trong giai đoạn
từ tháng 9 năm 1945 đến cuối năm 1946. Như việc bầu cử quốc hội, lập Chính phủ chính thức,
ban hành Hiến pháp, xây dựng các đoàn thể nhân dân, khôi phục sản xuất, ổn định đời sống nhân
dân, xoá nạn mù chữ, khai giảng năm học mới, tậ luyện quân sự, thực hiện hoà với quân tưởng ở
miền Bắc để chống thực dân Pháp ở miền Nam và hoà với Pháp để đuổi Tưởng về nước.
Câu 4: Cương lĩnh chính trị đầu tiên thể hiện tinh thần độc lập tự chủ sáng tạo?
Cương lĩnh chính trị - Ngọn cờ tư tưởng lý luận chỉ đạo sự nghiệp cách mạng của chúng ta. Tuy
còn vắn tắt nhưng nó là cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc, đúng đắn và sáng tạo, nhuần
nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tính dân tộc nhân văn. Độc lập, tự do là tư tưởng cốt
lõi của cương lĩnh này. - Tính khoa học đúng đắn:
+ Cương lĩnh chính trị được xây dựng dựa trên cơ sở quán triệt, vận dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo
và phát triển các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lenin, truyền thống tinh hoa văn hóa dân lOMoARcPSD| 45562685
tộc, phản ánh đúng thực tiễn cách mạng Việt Nam. Nó vừa có tính lý luận khoa học vừa có tính
thực tiễn sâu sắc, kết hợp tính giai cấp và tính dân tộc, đáp ứng yêu cầu bức thiết của cách mạng
và nguyện vọng cháy bỏng của nhân dân.
- Tính độc lập, tự chủ:
+ Cương lĩnh chính trị là sản phẩm thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam, nó là
bảo vật quốc gia, là kết tinh tư tưởng, cống hiến vĩ đại của Hồ Chí Minh. Cương lĩnh là của riêng
người Việt Nam, dưới ngọn cờ chỉ đạo của Đảng, nó không bị lệ thuộc hay bị áp đặt bởi bất kì một
tổ chức nào khác. Với tư tưởng cốt lõi bao trùm là độc lập, tự do, cương lĩnh chính trị đã vạch rõ
con đường cách mạng của Đảng đã lựa chọn, đó là con đường kết hợp: giương cao ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Tính sáng tạo: + Thứ nhất, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng vào tháng 2 năm 1930 đãxác
định mục tiêu chiến lược của Cách Mạng Việt Nam. Đó chính là từ việc phân tích thực trạng và
mâu thuẫn trong XHVN thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc VN với đế quốc ngày
càng gay gắt, Đảng đã xác định rõ mẫu thuẫn từ đó đi đến xác định đường lối chiến lược của
CMVN là “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới XH cộng
sản”. Mục tiêu này đã làm rõ nội dung của cách mạng thuộc địa nằm trong phạm trù của cách mạng vô sản.
+ Nhiệm vụ chủ yếu của CMVN đưa chia về 3 lĩnh vực. Đầu tiên là về chính trị thì “Đánh đổ đế
quốc chủ nghĩa thực dân Pháp và bọn phong kiến”, “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”,
“Lập chính phủ công nông binh” và “Tổ chức quân đội công nông”. Về kinh tế thì thủ tiêu hết các
thứ quốc trái; tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn (công nghiệp, ngân hàng…) của TBCN Pháp giao
cho chính phủ công nông; tịch thu ruộng đất của đế quốc làm của công và chia cho dân cày nghèo;
bỏ sưu thuế cho dân nghèo; thi hành luật ngày làm 8 giờ… Về xã hội thì “Dân chúng được tự do
tổ chức. Nam nữ bình quyền. Phổ thông giáo dục theo công nông hóa”. + Con đường CMVN trải
qua hai giai đoạn: Cách mạng tư sản dân quyền và Cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai giai đoạn này
kế tiếp nhau, “không có bức tường nào ngăn cách”. Những nhiệm vụ thể hiện đầy đủ yếu tố dân
tộc (Chống đế quốc) và dân chủ (Chống phong kiến) trên tất cả các lĩnh vực, trong đó, chống đế
quốc, giành độc lập dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
+ Lực lượng nòng cốt của cách mạng nước ta là công nông, đồng thời thấy được các giai cấp và
tầng lớp khác cũng là lực lượng lãnh đạo cách mạng cần phải liên minh hoặc lôi kéo hay trung lập.
Đảng phải thu phục được đại bộ phận giai cấp mình; thu phục được dân cày, hết sức liên lạc với
tiểu tư sản, trí thức, trung nông; phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam thì CM phải lợi
dụng, ít lâu làm họ đứng trung lập. Phát huy được truyền thống yêu nước của dân tộc ta; từ đó, xây
dựng được khối đại đoàn kết dân tộc nhằm thực hiện được nhiệm vụ hàng đầu. + Phương pháp
tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc
là bằng con đường bạo lực cách mạng của quần chúng,
“không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp”, có sách
lược thích hợp để lôi kéo tiểu tư sản, trí thức và trung nông về phía giai cấp vô sản nhưng kiên
quyết: “bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ”.
+ Giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trong đó Đảng là đội tiên phong.
Khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Điều này hoàn toàn phù hợp với cách mạng nước ta, vì phải có chính đảng của giai cấp vô sản với
đường lối cách mạng đúng đắn mới lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giành thắng lợi.
+ Tinh thần đoàn kết quốc tế thì tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của các dân tộc bị áp bức và giai
cấp vô sản thế giới, nhất là Pháp. “Trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập,
phải đồng thời tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới”. lOMoARcPSD| 45562685
Câu 5: Phân tích dân chủ dân tộc - Từ
năm 30-39 giải quyết vấn đề gì?
- Từ năm 39-45 giải quyết vấn đề gì?
- Tại sao và trên cơ sở nào Đảng ta thực hiện nhiệm vụ đó?
Trong giai đoạn 1930 – 1945, vấn đề dân tộc và vấn đề dân chủ được xem là hai nhiệm vụ quan
trọng nhất của cách mạng Việt Nam. Ngay từ khi Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời năm 1930, hai
nhiệm vụ này đã được xác định rõ ràng trong Chính cương vắn tắt của Đảng được thông qua tại
Hội nghị thành lập Đảng do Hồ Chí Minh khởi thảo. Chính cương đã xác định rõ con đường tiến
lên của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản”. Trong Luận cương chính trị được thông qua tại Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (10 - 1930) cũng đã chỉ ra các bước tiến triển của cách mạng Việt Nam là:
Trong lúc đầu sẽ là cuộc cách mạng tư sản dân quyền tiếp sau đó sẽ tiếp tục đấu tranh thẳng lên
con đường xã hội chủ nghĩa. Như vậy hai nhà lãnh đạo lỗi lạc của Việt Nam là Hồ CHí Minh và
Trần Phú đều nhấn mạnh hai nhiệm vụ quan trọng của cách mạng Việt Nam là "tư sản dân quyền
cách mạng" (cách mạng giải phóng dân tộc, đánh đổ thực dân, đế quốc) và "thổ địa cách mạng"
(cách mạng dân chủ, chống phong kiến). Tuy nhiên, hai nhiệm vụ này lại được các nhà lãnh đạo
xác định khác nhau: nhiệm vụ nào làm trước, nhiệm vụ nào làm sau? hay cùng làm một lúc? Tất
cả những câu hỏi này cũng là sự trăn trở, tư duy không ngừng của các nhà lãnh đạo Việt Nam thời
kì đó - nó cũng thể hiện sự nhận thức từng bước của Đảng Cộng sản Việt Nam cùng với những
điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam qua từng thời kì.
Sự khác nhau giữa Chính cương và Luận cương đã thể hiện tư duy phản biện trong Đảng, không
chấp nhận quan điểm một chiều. Quan điểm của Hồ Chí Minh trong Chính cương nhấn mạnh
nhiệm vụ dân tộc làm trước, nhiệm vụ dân chủ làm sau. Với quan điểm này Hồ Chí Minh đã kêu
gọi và tập hợp hầu hết các tầng lớp nhân dân đứng về phía công nông để thực hiện cuộc cách mạng
dân tộc nhân dân. Nhưng quan điểm của Trần Phú trong Luận cương lại ngược lại: nhấn mạnh
nhiệm vụ dân chủ, sau mới thực hiện nhiệm vụ dân tộc. Vì thế Trần Phú mới chỉ thấy được vai trò
của lực lượng đấu tranh chính là lực công nông mà chưa thấy hết vai trò của các lực lượng khác trong xã hội.
Tháng 10/ 1930 sau khi Luận cương ra đời, được sự ủng hộ của Quốc tế cộng sản, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Đông dương và Trần Phú, cao trào Xô Viết Nghệ tĩnh đã nổ ra - cao trào là điển hình của việc thực
hiện nhiệm vụ dân chủ, công nông kéo lên đập phá chính quyền tại địa phương ở một vai huyện
như Thanh Chương, Nghệ An. Sau khi giành được huyện lị trong thời gian ngắn, quan lại phong
kiến địa phương được sự hậu thuẫn của thực dân pháp đã dành lại huyện lị nhanh chóng và tiến
hành cuộc đàn áp đẫm máu lực lượng cách mạng của chúng ta.
Năm 1932 - 1935 là giai đoạn khủng bố trắng của địch, Đảng cộng sản non trẻ của chúng ta bị
đàn áp và tiêu diệt trên trên tất cả các miền của Tố quốc. Nhưng thời điểm này Đảng Cộng sản
Đông Dương tiếp tục nhiệm vụ dân chủ với ngọn cở "Trí, phú, địa, hào đào tận gốc chốc tận rễ"
đây tiếp tục là một sai lầm khi đặt nhiệm vụ dân chủ trước nhiệm vụ dân tộc vì "nước mất thì nhà tan".
Giai đoạn cuối 1935 Đảng ta đã cố gắng phục hồi các tổ chức đảng và bình tĩnh để đưa ra những
lựa chọn sáng suốt hơn cho cách mạng Việt Nam.
Giai đoạn 1936 - 1939 được coi là giai đoạn nhận thức mới của Đảng. Đảng bắt đầu nhìn nhận 2
nhiệm vụ này trong mối quan hệ biện chứng với nhau. Thời điểm này: đảng ta xác định: nhiệm vụ
dân tộc hay nhiệm vụ dân chủ, nhiệm vụ nào làm trước, nhiệm vụ nào làm sau đều được miễn là lOMoARcPSD| 45562685
phải phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của Việt Nam tại thời điểm đó. Vì vậy cao trào 1926 -
1939 là cao trào đòi dân chủ dân sinh, tiếp tục thực hiện dân chủ nhưng lại là sự lựa chọn vô cùng
đúng đắn trong giai đoạn này khi đời sống của nhân dân VN quá khổ cực. Thực dân Pháp bị ảnh
hưởng bởi khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933, dẫn tới chúng đổ hết mọi hậu quả của khủng hoảng
lên nhân dân Việt Nam, chúng còn bắt bớ người dân Việt Nam đi làm bia đỡ đạn cho chúng. Vì
vậy việc biểu tình đưa lời thỉnh cầu dân nguyện, đấu tranh nghị trường, đấu tranh công khai, nửa
hợp pháp... hoàn toàn là những phương pháp đấu tranh dân chủ, công khai, tuy không triệt để
nhưng lại cần thiết tại thời điểm này - nhằm mục đích củng cố sức dân, động viên tinh thần người
dân, chờ đợi cuộc chiến lớn hơn sau đó.
Giai đoạn 1939 - 1945 là giai đoạn thay đổi hoàn toàn chiến lược cách mạng Việt Nam từ cách
mang dân chủ sang cách mạng dân tộc. Lần đầu tiên chúng ta chính thức giương cao ngọn cờ giải
phóng dân tộc lên hàng đầu. Quá trình đổi mới này cũng không diễn ra ngay lập tức mà có sự nhận
thức khá đầy đủ toàn diện của Đảng thông quan Hội nghị Trung ương 6, 7, 8. Cuối cùng chúng ta
xác định: Một là giương cao ngọn cờ đấu tranh giải phóng dân tộc lên hàng đầu; Hai là, thành lập
mặt trận Việt minh để tập hợp lực lượng; Ba là chuẩn bị lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách
mạng. Đến đây sự nhận thức của Đảng về nhiệm vụ dân tộc và nhiệm dân chủ dân chủ đã tương
đối rõ ràng, đã thấy được đâu là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Từ đây cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân của chúng ta chính thức phát triển lên một tâm cao mới và nhiệm vụ dân chủ chỉ
chính thức hoàn thành khi chúng ta tiến hành thành công cuộc cách mạng tháng Tám năm 1946
(Xoá bỏ chế độ phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà) và cuộc cách mạng dân tộc của chúng ta chỉ chính thức thành công khi chúng đảnh đuổi đế quốc Mỹ năm 1975.
Câu 6: Nội dung và ý nghĩa nghị quyết 15 tháng 1/1959 1. Bối cảnh lịch sử a) Giai đoạn 1945 – 1953
Sự lớn mạnh của Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa giai đoạn 1950 – 1952 là thời kì đỉnh cao
của xã hội chủ nghĩa tạo thành một hệ thống trên toàn thế giới.
Vào năm 1950, Liên Xô đạt được một số thành tựu quan trọng nắm giữ cả sức mạnh quân sự lẫn
sức mạnh kinh tế đối với các nước tư bản (năm 1949 Liên Xô chế tạo thành công bom nguyên tử,
Liên Xô trở thành cường quốc về công nghiệp đứng thứ 2 trên thế giới,…). Liên Xô đã trở thành
chỗ dựa cho phong trào công nhân quốc tế. Từ năm 1950, Liên Xô ủng hộ và hỗ trợ rất lớn đối với
cách mạng Việt Nam, viện trợ cho Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Mỹ thực hiện âm
mưu bá chủ thế giới từ năm 1945 cho đến nay và được chia ra làm 5 chiến lược nhỏ khác nhau.
Thứ nhất là bao vây Liên Xô và lật đổ từ bên trong giai đoạn 1945 – 1952 dưới thời kì của Trueman
nhằm nhắm đến Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Năm 1952 sau khi Liên Xô đạt được nhiều
thành tựu và tiếp tục giữ vững được sự ổn định vậy nên từ năm 1953, Mĩ buộc phải thay đổi chiến
lược. Trả đũa ồ ạt từ năm 1953 – 1960, Mỹ tuyên bố sẽ trả đũa bất kì quốc gia nào xâm phạm đến quyền lợi của Mỹ.
Mặc dù tuyên bố là như vậy nhưng Mỹ lại sa lầy vào 2 cuộc chiến: Triều Tiên vào năm 1953 và
Việt Nam năm 1954. Thủ đoạn là giống nhau khi phân chia đất nước thành 2 miền riêng biệt với
2 thể chế chính trị xã hội khác nhau.
Cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta đã giành được thắng lợi nhưng theo hiệp định
Giơnevơ đã ký kết thì đất nước tạm thời chia cắt làm 2 miền lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời. lOMoARcPSD| 45562685 b) Giai đoạn 1954 – 1957
Giai đoạn này chuyển từ đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị. Lúc bấy giờ Việt Nam đang
đòi Mỹ thi hành hiệp định Giơnevo, thực hiện ngừng bắn. Nhưng khi xét về tương quan lực lượng
giữa Mỹ và Việt Nam thì không hề có lợi cho ta trên mọi lĩnh vực. Trong khi kinh tế thì Mỹ đứng
số một trên thế giới, Việt Nam lại có nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu kém phát triển và bị chiến
tranh tàn phá nặng nề. Về chính quyền thì ta chỉ có chính quyền ở miền Bắc, Mỹ xuyên tạc chúng
ta đem quân xâm lược miền Nam. Trong quân sự thì ngừng bắn và chuyển giao quân , ở miền Nam
có quân đội núp bóng công nhân. Khó khăn chồng chất trong tình hình nước ta lúc bấy giờ.
Miền Bắc đã hoàn toàn được giải phóng và bước vào công cuộc khôi phục kinh tế, thực hiện các
nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nhằm tạo tiền đề đưa miền Bắc từng bước quá độ lên CNXH. c) Giai đoạn 1958 – 1959
Chuyển từ chính trị sang đấy tranh vũ trang chính trị với vũ trang làm chủ yếu. Tuy nhiên trong
giai đoạn này chúng ta không thể yêu cầu Mĩ thi hành Giơnevo nữa thì hội đồng Mỹ không hiệp
thương nữa. Miền Nam đã bị đế quốc Mỹ độc chiếm để biến nơi đây thành thuộc địa kiểu mới và
căn cứ quân sự của Mỹ. Mỹ Diệm đã tiến hành cuộc chiến tranh đơn phương đẫm máu chống lại
nhân dân miền Nam trong tay không có vũ khí. Chính sách của Mỹ Diệm đầu năm 1958, lê máy
chém khắm miền Nam Việt Nam, thực hiện chính sách tố cộng diệt cộng, lực lượng của ta tổn thất
nặng nề khi chỉ trong 2 năm có 108 nghìn người vô tội chết. Có áp bức là sẽ có đấu tranh
1.Nội dung của Nghị quyết ●
Về mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam:
Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với đế quốc Mỹ , giai cấp địa chủ phong kiến và bọn tư sản mại bản.
Mâu thuẫn giữa con đường xã hội chủ nghĩa với con đường tư bản chủ nghĩa ở miền Bắc. Tuy tính
chất khác nhau, hai mâu thuẫn cơ bản có mối quan hệ biện chứng và tác động lẫn nhau ● Về
đối tượng cách mạng: Đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.
Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam: Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và tay sai.
Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình
Diệm, thành lập chính phủ liên hiệp dân tộc. ●
Về phương pháp cách mạng: Dùng bạo lực cách mạng để đánh đổ bạo lực phản cáchmạng,
kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Con đường phát triển của cách mạng
miền Nam có thể phát triển theo 2 hướng:
Thứ nhất là tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
Thứ hai là tiến hành đấu tranh vũ trang lâu dài để giành thắng lợi cuối cùng. ●
Về vấn đề mặt trận: Hội nghị chủ trương cần phải thành lập một mặt trận dân tộc thốngnhất
riêng ở miền Nam để tập hợp lực lượng chống đế quốc và tay sai. ●
Về công tác xây dựng Đảng ở miền Nam: Hội nghị chỉ rõ: sự tồn tại và trưởng thành
củaĐảng bộ miền Nam là yếu tố quyết định thắng lợi của cách mạng miền Nam. Vì vậy
phải xây dựng Đảng bộ miền Nam thật vững mạnh để đủ sức lãnh đạo trực tiếp cách mạng
miền Nam. Về khả năng phát triển của tình hình sau những cuộc KN của quần chúng: −Hội
nghị dự kiến: Đế quốc Mỹ là tên đế quốc hiếu chiến nhất, cho nên cuộc khởi nghĩa của
nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ.
Thay đổi “tiếp cận”, sẽ đổi “cách nhìn” lOMoARcPSD| 45562685
Đường lối cách mạng: “lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng
là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến,
dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân". 1.Ý nghĩa ●
Là một bước ngoặt về phương pháp cách mạng, đáp ứng những nhu cầu cấp bách củacách mạng miền Nam. ●
Đường lối này đã mở đường cho cách mạng miền Nam phát triển, đã xoay chuyển cụcdiện
cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tấn công. ●
Đường lối thể hiện rõ bản lĩnh tự chủ, sáng tạo và ý chí cách mạng của Đảng ta tronghoàn
cảnh hết sức khó khăn. Câu 7: Nam và Bắc
Bối cảnh lịch sử: đầu năm 1965, chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ bị thất bại
nghiêm trọng. Trước tình hình ấy, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”, tìm
mọi cách để giữ vững những vị trí chiến lược và lực lượng. Quân đội Mỹ mở rộng hoạt động không
quân và hải quân, ném bom bắn phá miền Bắc để gây áp lực hòng làm giảm sức tiến công của ta ở miền Nam. Nội dung:
Quyết tâm chiến lược: Mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh,
nhưng so sách lực lượng giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn, cuộc chiến tranh trở nên gay go,
ác liệt, nhưng nhân dân ta có sở sở chắc chắn để giữ vững thế chủ động trên chiến trường; cuộc
“Chiến tranh cục bộ” mà Mỹ đang tiến hành ở miền Nam vẫn là một cuộc chiến tranh xâm lược
thực dân mới. Cuộc chiến tranh đó được đề ra trong thế thua, thế thất bại và bị động, cho nên nó
chưa đựng đầy mâu thuẫn về chiến lược; Mỹ không thể nào cầu vãn được tình thế nguy khốn, bế
tắc của chúng ở miền Nam. Từ sự phân tích và nhận định trên, Trung Ương khẳng định chúng ta
có đủ điều kiện và sức mạnh để đánh Mỹ và thắng Mỹ. Với tinh thần “Quyết tâm đánh thắng giặc
Mỹ xâm lược”, Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong toàn
quốc, coi chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc từ Nam chí Bắc. Mục tiêu
chiến lược: Kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kì tình huống
nào, nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà.
Phương châm chiến lược: Đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng mạnh; cần
phải cố gắng đến mức độ cao, tập trung lực lượng của cả hai miền để mở những cuộc tiến công
lớn, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam.
Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Nam: Giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên quyết tiến công và
liên tục tiến công. Tiếp tục kiên trì phương châm kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính
trị, triệt để thực hiện ba mũi giáp công, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược. Trong giai đoạn hiện
nay, đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp và giữ một vị trí ngày càng quan trọng.
Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: Chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục xây dựng
miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh, tiến hành cuộc
chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ vững chắc muền Bắc
xã hội chủ nghĩa, động viên sức người sức của ở mức cao nhất để chi viện cho cuộc chiến tranh
giải phóng miền Nam, đồng thời tích cực chuẩn bị đề phòng để đánh bại địch trong trường hợp
chúng liều lĩnh mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước. lOMoARcPSD| 45562685
Về mối quan hệ và nhiệm vụ cách mạng của hai miền: Trong cuộc chiến chống Mỹ của nhân dân
cả nước, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Phải nắm vững mối quan hệ
giữa nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc và giải phóng miền Nam. Bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ của cả
nước, vì miền Bắc xã hội chủ nghĩa là thành quả chung rất to lớn của nhân dân cả nước ta, là hậu
phương vững chắc trong cuộc chiến chúng Mỹ. Phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế
quốc Mỹ ở miền Bắc và ra sức tăng cường lực lượng miền Bắc về mọi mặt, nhất là về kinh tế và
quốc phòng, nhằm đảm bảo chi viện đắc lực cho miền Nam, đồng thời, vừa tiếp xúc xây dựng chủ
nghĩa xã hội nhằm phát huy vai trò đắc lực của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Hai nhiệm
vụ trên đây không tách rời nhau, mà mật thiết gắn bó nhau. Đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam, thì
bất kỳ chúng đặt chân ở đâu trên đất nước Việt Nam, mọi người Việt Nam đều có nghĩa vụ tiêu
diệt chúng. Khẩu hiệu chung của nhân dân cả nước lúc này là “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Có câu nói: “Đất miền Nam là của người Việt Nam/Máu miền Nam là của người Việt Nam/Sông
có thể cạn, núi có thể mòn/Nhưng chân lý ấy không thay đổi.”
Ý nghĩa: Nghị quyết Trung ương lần thứ 11 và lần thứ 12 năm 1965 với nội dung như trên thể
hiện tư tưởng nắm vững, giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục tiến
hành đồng thời hai chiến lược cách mạng của Đảng và quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược,
giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc của dân tộc ta. Đó là đường lối chiến tranh nhân dân,
toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính trong hoàn cảnh mới, cơ sở để Đảng lãnh
đạo đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đi tới thắng lợi vẻ vang.
Câu 8: Chủ trương thống nhất đất nước về mặt nhà nước. (bai bai)
Thống nhất đất nước là nguyện vọng tah thiết của nhân dân cả nước vừa là quy luật, kết quả của
lịch sử cách mạng dân tộc Việt Nam. Thực tế đây ko phải lần dầu tiên đất nước ta bị chia cắt thành
hai miền: thời kì vua Lê Chúa Trịnh, chống Pháp, chống Mỹ. Nhiệm vụ hoàn thành thống nhất đất
nước về mặt nhà nước được thực hiện khẩn trương.
Phần II: Câu 7 điểm chương III
Câu 1: Những nội dung cơ bản của đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 6 + Ý nghĩa

Câu 2: Tại sao nói đại hội 6 là đại hội đổi mới toàn diện đất nước trong đó trọng tâm là đổi
mới trong lĩnh vực kinh tế. Chỉ rõ đổi mới trong kinh tế và ý nghĩa Đáp án 1 + 2:
Thực hiện nghị quyết đại hội 4,5 đất nước ta đã đạt được một số thành tựu, đặt những cơ sở đầu
tiên trong sự phát triển mới. Song sai lầm về chỉ đạo, chủ trường đường lối, sai lầm về tổ chức
thực hiện, chỉ đạo chiến lược đã đưa nước ta vào khủng hoảng trầm trọng.
Trước tình hình đó đồi hỏi Đảng phải tích cực chuẩn bị và tiến hành đại hội 6 theo yêu cầu đổi mới
mạnh mẽ, nhìn thẳng vào sự thật nói rõ sự thật, xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng để từ
đó đề ra chủ trương chính sách hợp lý. Thời gian: 15-18/12/1986 tại Hà Nội 4 bài học kinh nghiệm:
+ Cứ kết hợp sức mạnh thời đại mãi mà không phát huy được sức mạnh dân tộc thì không làm gì được
+ Chúng ta không xuất phát từ thực tế đất nước bê nguyên mô hình cnxh từ liên xô
vào việt nam trong khi xuất phát điểm của vn khác hoàn toàn với vn. Công nghiệp
nặng việt nam thfi thất bại, nền kinh tế kiệt quệ. Phải phfu hợp với điều kiện hoàn
cảnh của mình, Liên xô 1926-1928 liên xô thực hiện cnh, nhưng vốn dĩ liên xô là
nước tư bản phát triển ở mức trung bình, họ đã thực hiện xong bước phát triển lOMoARcPSD| 45562685
nông nghiệp, công nghiệp nhẹ. Phát triển nông nghiệp ko cần nhiều vốn, đảm bảo
chính sách an ninh khu vực, sau khi có sự tích luỹ tư bản thì thực hiện phát triển
công nghiệp nhẹ -> đẩy mạnh phát triển. Việt Nam pahst triển công nghiệp nặng
trong khi nông nghiệp chưa có, thiếu ăn, thiếu mặt vì nông nghiệp và công nghiệp
nhẹ chua wphast triển. Nguồn vốn ít ỏi từ Liên xô lại đem đầu twu vào hết công
nghiệp nặng. Trình độ hạn chế, đầy bất cập, cùng mô hình cùng cách thwusc
nhwung Việt Nam thất bịa
+ Bài học về lấy dân làm gốc, “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” -> dân
hưởng thụ. Chở thuyền là dân và lật thuyền cũng là dân. Bất kì một triều đại nào
lấy dân làm gốc thì đều phát triển hưng thịnh còn triều đại nào ko thì suy tàn.
Trong mắt người dân triều đình nhà Nguyễn phải chịu trách nghiệm trước lịch sử
dân tộc, một triều đình bán nước, để đất nước nơi vào tay thực dân pháp -> câu
chuyện đương nhiên. Mặc dù đưa ra chiếu cần vương chỉ có 4 cuộc khởi nghãi
tiêu biểu xảy ra -> nhân dân không tin
+ Đảng mạnh thì mới thành công, cần chăm lo công tác xây dựng đảng
● ND trọng tâm, nổi bật của Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI
- Đổi mới kinh tế: mục tiêu là ổn định kinh tế-xh. SX đủ tiêu dùng và có tích lũy
- Đại hội V là lấy kinh tế và phát triển nông nghiệp hàng dầu
- Đại hội VI đổi mới kinh tế được nhìn nhận rất rõ, so với các đại hội trước, mục tiêu đã
được hạ bớt, sát với điều kiện hoàn cảnh thực tiễn, mục tiêu cừa sức -> ổn định kinh tế vì đang
trong khủng hoảng, sản suất đủ tiêu dùng và có tích luỹ -> hàng hoá vốn dĩ khan hiếm, đẩy giá
cả hàng hoá lên rất là cao -> từ khai giá thành một giá. Đại hội VI đánh giá phát triển trên mọi
mặt và trọng tâm là đổi mới trên lĩnh vực kinh tế -
Năm phương hướng lớn phát triển kinh tế:
+ Bố trị lại cơ cấu sản xuất, tập trung vào nông nghiệp tập trung vào lương thực
thực phẩm, tiêu dùng và xuất nhập khẩu. Đây là nội dung CNH trong chặng
đường đầu của thời kì quá độ. Cái bước tiến vô cùng chậm rãi và căn cứ vào hoàn
cảnh thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
+ Điều chỉnh cơ cấu đầu tư, ưu tiên hàng đàu phát triển nông nghiệp
+ Chấp nhận Việt Nam tồn tại nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, tập thể thì chấp nhận thêm
+ Đổi mới cơ quản lý kinh tế: hàng hoá nhiều thành phần
+ Đổi mới mở rộng kinh thế đối ngoại
Anh chị hãy trình bài nội dung cơ bản của đại hội VI và đánh giá
Tại sao nói đại hội VI là đại hội đổi mới toàn diễn vfa trọng tâm về kinh tế nêu ý nghĩa
- Đổi mới trên các lĩnh vực khác:
+ Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân, thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”
+ Đổi mới các chính sách xã hội lOMoARcPSD| 45562685
+ Đổi mới quốc phòng, an ninh và quan hệ đối ngoại
+ Đảng đổi mới tư duy kinh tế, đổi mới đội ngũ
- Nội dung đổi mới về kinh tế được nêu tại ĐH VI và ý nghĩa ● Ý nghĩa
+ Nhìn thẳng, nói rõ, nói đúng sự thật: phân tích đúng nguyên ngân khủng hoảng kinh tế xã hội
+ Đề xướng đường lối đổi mới toàn diện
+ Tạo bước ngoặt của cách mạng
+ Hạn chế còn rối ren trong phân phối lưu thông
+ Diễn là hàng hoạt chuỗi domino đảo chính Gorbachev ở Liên xô, ● HCLS sau ĐH VI - 5/1987,
- Hai sự kiện tác động lớn:
+ Sự kiên Thiên An Môn vào tháng 6 năm 1989, sự kiện đàn áp dã man đẫm máu
của chính phủ trung quốc. Nghi nhận là 10000 sinh viên của TRung Quốc bị giết
hại, theo sử sách thì 10000 sv này thwujc hiện biểu tình phản đối, để bào chưa
xcho hành động này thì để 10000 người đi về các địa phương kích động thì
TRung Quốc sẽ loạn mất -> thà bỏ đi 10000 trí thức còn hơn để trung quốc loạn.
Đến 7h tối xe tăng xe ủi được chính phủ trung quốc chuẩn bị, từ 8h tối tình hình
không thể cứu vãn được nữa, chính phủ rút toàn bộ cầu giao và tất cả 10000 sv rủ
vào thiên an môn, lực lượng đi đầu là xe tăng, thứ 2 là cách loại xe cán, loại thứ 3
là hót rác, thứ 4 là rửa đường. Có những người lái xe tăng trở về bị điên và ám ảnh về sự kiện này.
+ Bức tường Berlin sụp đổ vào tháng 12/1990 đánh dấu tháng 8 1991 liên bang xô
viêt tan rã, thành trì của cnxh sụp đổ là nước đi đàu mở đầu chuyển sáng chủ nghĩ
quá độ trên toàn thế giới -> chuỗi domino của thế giới -> sự sụp đổ của cnxh - Chỉ đạo của Đảng
+ Đổi mới kinh tế: luật dầu tư nước ngoài
- Các bước đột phá về đối ngoại
+ Tháng 5 năm 1988 ta rút 5 vạn quân tình nguyện khỏi campuchia sớm hơn 1 năm so với dự kiến
+ Chủ trương bình thường hoá quan hệ:
● Với trung quốc: năm 1988 chiếm đóng đảo ??? Qq j đó bống hok nghe được
● Với Hoa Kì: đại hội VII mới khép lại quá khứ hướng đến tương lai ● Với… - Bài học
+ chậm phát triển chậm sửa chữa, sửa chữa vô nguyên tắc
+ Nguyên nhân sụp đổ không ở kinh tế mà còn ở chính trí: suy thoái về phẩm chất
chính trị của tổ chức lãnh đạo ở Liên Xô đẫn đến sự sụp đổ. Chuyến bay giải cứu:
trong tình trạng nước nhà khó khăn, từ thư kí của thứ trưởng từ các cơ quan lãnh lOMoARcPSD| 45562685
sự giúp dân thì các doanh nghiệp muốn chuộc lợi, CHính thủ tục hành là chính
khiến cho người dân vô cùng cực khổ,
+ Chia bè kết cách: một người làm quan thì cả họ được nhờ
+ Sự chống phá bằng âm mưu diễn biến hoà bình
+ Trật tự thế giới một cực, phong trào cách mạng thế giới mất chỗ dựa - Ý nghĩa đổi mới:
+ Nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, nói đúng sự thật, phân tích đúng nguyên nhân
khủng hoảng kinh tế xã hội từ đó đauw ra những giải pháp đổi mới toàn diện trong giai đoạn này
+ Đề xướng đường lối đổi mới toàn diện
+ Tạo bước ngoặt cách mạng thu được nhiều kết quả đáng kể +
Bước đầu đưa nước ta khỏi tình trạng rối ren, khủng hoảng trong khủng bôs lưu thông, có
sự điều tiết nhất định giảm bớt khủng hoảng về thiếu hụt hàng hoá sản phẩm, vật dụng
+ Từng bước khắc phục được những sai lầm về chỉ đạo, chủ trường đường lối, sai lầm về tổ
chức thực hiện, chỉ đạo chiến lược đã đưa nước ta vào khủng hoảng trầm trọng. Đó là
bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn nóng vội chạy theo nguyện
vọng chủ quan, tư tưởng tiểu tư sản vừa tả khuynh vừa hữu khuynh.
Câu 1: Phân tích quan điểm CNH, HĐH của Đảng: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người
là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Liên hệ:
1) Theo anh (chị), cần có những giải pháp gì để thực sự phát huy vai trò của đội ngũ trí
thức Việt Nam trong giai đoạn hiện nay?
Một là, tạo mọi cơ chế và điều kiện thuận lợi để đội ngũ trí thức phát huy năng lực, trình
độ chuyên môn của mình.
Bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để trí thức tự khẳng định, phát
triển, cống hiến và được xã hội tôn vinh; tăng đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau, đặc biệt khuyến
khích các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư nghiên cứu và ứng
dụng khoa học - công nghệ trên mọi lĩnh vực; hoàn thiện hệ thống pháp luật và tăng cường thực
thi việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả đối với các sản phẩm sáng tạo, nhằm bảo đảm
lợi ích của trí thức khi chuyển giao phát minh, sáng chế, sáng kiến và khuyến khích đội ngũ trí
thức gia tăng sự cống hiến đối với Nhà nước và xã hội; xây dựng các khu đô thị khoa học, khu
công nghệ cao, tổ hợp khoa học - sản xuất, các trung tâm văn hóa hiện đại để thúc đẩy hoạt động
sáng tạo của trí thức trong nước và trí thức người Việt Nam ở nước ngoài. lOMoARcPSD| 45562685
Hai là, phát hiện, sử dụng và có chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với đội ngũ trí thức.
Ðảng và Nhà nước cần đổi mới công tác tổ chức cán bộ, tạo cơ chế để thu hút, tập hợp nhân
tài người Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài, tích cực hiến kế và trực tiếp tham gia xây dựng
và phát triển đất nước. Trọng dụng, tôn vinh những trí thức có đóng góp hiệu quả vào sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Xây dựng môi trường thuận lợi để đội
ngũ trí thức phát huy khả năng của mình. Có chế độ đãi ngộ, cơ chế khen thưởng xứng đáng với
cống hiến của đội ngũ trí thức. Công khai, minh bạch trong công tác tuyển dụng, bố trí, đánh giá
và bổ nhiệm cán bộ, đặc biệt là đội ngũ lãnh đạo, quản lý cấp cao, tạo động lực và cơ hội để đội
ngũ trí thức phát triển.
Ba là, có chính sách giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng phù hợp để nâng cao chất lượng và số
lượng đội ngũ trí thức.
Đẩy mạnh cải cách toàn diện giáo dục, từ cấp mầm non đến đại học và sau đại học, từ sách
giáo khoa, chương trình, nội dung đào tạo đến phương pháp dạy và học. Đặc biệt, phải gắn lý luận
với thực tiễn, lý thuyết với thực hành và gắn đào tạo với nhu cầu của xã hội. Đại hội XIII của Đảng
đã khẳng định: “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài”(18). Tăng cường các hoạt động kiểm định
chất lượng đào tạo theo tiêu chuẩn quốc tế. Có chính sách thu hút đầu tư và sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn để phát triển giáo dục và đào tạo. Đa dạng hóa các loại hình đào tạo, tăng cường hợp
tác và liên thông với các cơ sở đào tạo có uy tín trên thế giới, tích cực học hỏi kinh nghiệm, từng
bước xây dựng các cơ sở đào tạo trong nước ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực và thế
giới. Có chính sách thu hút các trường đại học, viện nghiên cứu có uy tín trên thế giới đầu tư, liên
kết và mở các cơ sở đào tạo, nghiên cứu tại Việt Nam; đồng thời, khuyến khích đội ngũ trí thức
trong nước đi đào tạo ở nước ngoài, đặc biệt là các ngành mà đất nước đang cần. Đẩy mạnh các
hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học
và ứng dụng vào sản xuất, kinh doanh.
Bốn là, phát huy trách nhiệm của trí thức trong truyền bá tri thức, nâng cao dân trí, phục vụ cộng đồng.
Có cơ chế để đội ngũ trí thức dễ dàng tiếp cận thông tin phục vụ công tác nghiên cứu, nắm
vững các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và tình hình của lOMoARcPSD| 45562685
đất nước; từ đó, nâng cao ý thức, trách nhiệm của đội ngũ trí thức trong truyền bá những tri thức
tiến bộ cho nhân dân, áp dụng có hiệu quả vào sản xuất và đời sống xã hội, góp phần quan trọng
nâng cao dân trí, từng bước xây dựng đất nước ngày một phát triển. Củng cố, phát triển, đổi mới
nội dung, phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp,
nơi đội ngũ trí thức sinh hoạt; đồng thời, tạo môi trường lành mạnh để phát huy năng lực sáng tạo
và nâng cao phẩm chất đạo đức của đội ngũ trí thức. Có cơ chế để các hội mà trí thức tham gia
thực hiện giám sát các hoạt động nghề nghiệp, cũng như thực hiện một số dịch vụ công đẻ “giảm
tải” công việc cho các cơ quan nhà nước; đồng thời phát huy được tài năng, lợi thế của đội ngũ tri thức
Năm là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước với đội ngũ trí thức.
Tích cực tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên và
toàn xã hội về vị trí, vai trò của trí thức đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, tạo
động lực để đội ngũ trí thức đoàn kết, sáng tạo, nâng cao trách nhiệm, cống hiến hết mình cho Tổ
quốc; hoàn thành tốt mọi trọng trách được giao. Cần xác định, xây dựng và phát triển đội ngũ trí
thức là một nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của các tổ chức đảng và chính quyền các cấp. Tiếp
tục phát huy truyền thống “tôn sư trọng đạo” và tôn vinh đội ngũ trí thức. Trọng dụng những trí
thức có phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn, năng lực quản lý tốt, kể cả những trí thức ngoài
Đảng. Các cấp ủy và chính quyền thường xuyên nghiên cứu, thực hiện những phương thức để quản
lý và sử dụng hiệu quả đội ngũ trí thức, tránh áp dụng các biện pháp quản lý hành chính một cách
máy móc, nhằm phát huy cao nhất năng lực cống hiến của trí thức. Bên cạnh đó, những người
đứng đầu các cơ quan, tổ chức cũng cần thường xuyên tiếp xúc, đối thoại, lắng nghe ý kiến góp ý
của trí thức về những vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng của đất nước, cũng như các vấn đề của cơ
quan, tổ chức, địa phương, đơn vị.
2) Theo anh (chị), cần có những giải pháp gì để phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng
cao ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay? Đáp án
Vấn đề con người và việc phát huy nhân tố con người được coi là một nhiệm vụ trọng yếu,
một khâu đột phá chiến lược, luôn được Đảng CSVN đề cập tới trong nhiều kỳ đại hội, đặc biệt lOMoARcPSD| 45562685
trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, với phương châm đổi mới xuất phát từ con người và vì
con người. Con người là trung tâm của mọi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, vừa là chủ thể,
vừa là sản phẩm, vừa là mục tiêu của sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước. Chính vì vậy, Đảng
đã khẳng định “Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”.
1. Cơ sở lựa chọn quan điểm: 5 lý do
Trong các yếu tố tham gia vào quá trình CNH, HĐH, yếu tố con người luôn được coi là
yếu tố cơ bản. Để tăng trưởng kinh tế cần 5 yếu tố chủ yếu là: vốn, KH & CN, con người, cơ cấu
kinh tế, thể chế chính trị và quản lý nhà nước trong đó con người là yếu tố quyết định. Vì các
nguồn lực khác thì sẽ dần cạn kiệt nhưng nguồn lực con người thì có khả năng tự tái sinh.
Đảng ta chủ trương CNH, HĐH rút ngắn, tiếp cận kinh tế tri thức trong điều kiện phát
triển kinh tế - xã hội còn thấp, do đó yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lưc, nhất là trí lực
(con người) có vai trò, ý nghĩa quyết định.
Xét trong hệ thống các nguồn lực của sự phát triển kinh tế – xã hội, nguồn lực con người
luôn đứng ở vị trí trung tâm, giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển xã hội. Vai trò của nguồn
lực con người được thể hiện với tư cách vừa là chủ thể, vừa là khách thể. Con người là chủ thể,
không chỉ quyết định hiệu quả của việc khai thác, sử dụng nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực
khác hiện có mà còn góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững của tương lai. Mặt khác, con
người là khách thể, là đối tượng khai thác các năng lực thể chất và trí tuệ cho sự phát triển, qua đó
đề cao, nhấn mạnh sức sáng tạo của con người.
Con người là đối tượng thụ hưởng duy nhất của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
với phương châm đổi mới xuất phát từ con người và vì con người. Do đó, con người có vị trí quyết
đinh, giữ vai trò nền tảng, là động lực, là mục tiêu cao nhất của sự phát triển KT – XH.
Quan điểm trên là sự tiếp thu, học tập kinh nghiệm từ các nước đi trước trong quá trình
CNH, HĐH mà điển hình là Nhật Bản. 2. Nội dung quan điểm: lOMoARcPSD| 45562685 2.1.
Để phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu của
CNH, HĐH cần đặc biệt chúý đến phát triển giáo dục, đào tạo, coi “giáo dục là
quốc sách hàng đầu”. Đây là điều kiện để hình thành và phát triển các thế hệ
con người Việt Nam khỏe về thể chất, trong sáng về tâm hồn, có trình độ chuyên
môn cao đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. 2.2.
CNH – HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần
kinh tế, trong đó lựclượng cán bộ khoa học và công nghệ, khoa học quản lý và
công nhân lành nghề đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nguồn nhân lực cho
CNH – HĐH đòi hỏi phải đủ số lượng, cân đối về cơ cấu và trình độ, có khả
năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế
giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới. 2.3.
Vấn đề phát huy nguồn lực con người qua các kỳ ĐH:
+ ĐH VIII: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt
Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. “Lấy việc phát
huy nguồn lực con người là yếu tố phát triển nhanh và bền vững, tăng trưởng kinh tế gắn liền với
cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”.
+ ĐH IX, X tiếp tục khẳng định và nhấn mạnh “nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát
triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”
+ ĐH XI: “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa
học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế và lợi thế cạnh
tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh và bền vững”
+ ĐH XII: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung
xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi
trường văn hóa lành mạnh”. 3. Kết luận lOMoARcPSD| 45562685
Như vậy, vấn đề con người và phát huy nguồn lực con người luôn được Đảng quan tâm,
đặc biệt trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, với quan điểm đổi mới xuất phát từ con người, vì mục
tiêu con người và “lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh
và bền vững”. Sau 30 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của
mọi nguồn lực đặc biệt là nguồn lực con người, “đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”;
để lại những bài học sâu sắc cho cách mạng Việt Nam, trong đó “đổi mới phải luôn quán triệt quan
điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào dân phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách
nhiệm, sức sáng tạo và nguồn lực của nhân dân…” .Trong những năm tiếp theo, đất nước ta đang
đứng trước những thời cơ và thách thức mới, để tiếp tục phát huy nhân tố con người trong điều
kiện cách mạng mới nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, cần
phải có một hệ thống các giải pháp đồng bộ, tất cả vì một xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”… con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Liên hệ:
Câu 2: Phân tích quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới: “Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Theo anh (chị), cần có giải pháp gì để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc
trong quá trình hội nhập/ CNH HĐH hiện nay?
3 - Một số giải pháp cấp thiết
Trên cơ sở phân tích những vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn về việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc trong quá trình phát triển kinh tế thời kỳ hội nhập quốc tế, trong thời gian tới, chúng ta cần tập trung
thực hiện một số giải pháp cấp thiết sau:
Một là, tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền để nâng cao nhận thức của cộng đồng về tầm quan trọng của
việc hiểu biết về bản sắc văn hóa dân tộc, từ đó hình thành ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc một cách chủ
động, tích cực và tự giác. Chỉ có như vậy cốt cách dân tộc, lòng tự tôn dân tộc mới luôn giữ vai trò hạt nhân
trong quá trình phát triển kinh tế và phát triển nói chung của dân tộc. Đây là một quá trình không thể nóng vội,
nhưng cũng không thể chậm trễ mà cần được thực hiện thông qua nhiều biện pháp, trong đó có biện pháp giáo
dục và tự giáo dục trong chính cộng đồng dân tộc.