



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61557118
Câu hỏi ôn tập - Kinh tế chính trị Câu 1
Nền sản xuất hàng hóa
Khái niệm nền sản xuất hàng hóa
Nền sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế mà ở đó, những người sản
xuất ra sản phẩm nhằm mục đích trao đổi, mua bán. Sản xuất hàng hóa có vai trò quan
trọng, phù hợp với nền sản xuất lớn và phá vỡ sự bảo thủ, trì trệ, khép kín của các hoạt động kinh tế.
Phân tích hai điều kiện tồn tại và phát triển nền sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa không xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của xã hội loài người.
Nền kinh tế hàng hóa có thể hình thành và phát triển khi có các điều kiện sau:
– Một là, phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là sự phân chia
lao động trong xã hội thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên
sự chuyên môn hóa của những người sản xuất thành những ngành, nghề khác
nhau. Để thỏa mãn nhu cầu của mình, tất yếu những người sản xuất phải trao đổi sản phẩm với nhau.
Khi phân công lao động xã hội đạt trình độ cao, tính chuyên môn hóa trong sản
xuất ngày càng cao, dẫn đến 2 hệ quả. Đầu tiên, phân công lao động dựa trên
nguyên tắc chuyên môn hóa. Điều này thúc đẩy sản xuất phát triển, năng suất lao
động tăng lên, sản phẩm làm ra dư thừa so với nhu cầu tiêu dùng của con người.
Nhà sản xuất tiêu dùng không hết. Và sản phẩm dư thừa lúc đó được đem ra trao
đổi, mua bán. Thứ hai, phân công lao động xã hội khiến cho mỗi người sản xuất
chỉ làm ra được 1 hoặc một vài loại sản phẩm, trong khi đó nhu cầu thì lại cần
nhiều sản phẩm. Vì vậy, họ không thể tồn tại độc lập với nhau như trước được nữa
mà phải phụ thuộc vào nhau. Chính điều đó làm con người phải trao đổi, mua bán với nhau.
– Hai là, sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất. Sự tách
biệt tương đối về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất là sự độc lập về sở hữu, tự
chủ, tự chịu trách nhiệm của người sản xuất kinh doanh. Sự tách biệt này làm cho
giữa những người sản xuất độc lập với nhau có sự tách biệt về lợi ích. Trong điều
kiện đó, người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua trao
đổi, mua bán, tức là phải trao đổi dưới hình thức hàng hóa. Điều này tạo nên sự
sòng phẳng, minh bạch trong hoạt động kinh tế. lOMoAR cPSD| 61557118
Chỉ ra mâu thuẫn của nền sản xuất hàng hóa
– Mâu thuẫn cơ bản của nền sản xuất hàng hóa là sản xuất hàng hóa vừa có tính chất
xã hội, vừa có tính chất tư nhân hay còn gọi là mâu thuẫn giữa lao động xã hội và lao động cá biệt.
– Trước hết, sản xuất hàng hóa có tính chất xã hội bởi vì sản phẩm sản xuất ra để
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Hơn nữa, quá trình sản xuất ra 1 sản phẩm
luôn là sự liên kết của nhiều nhà sản xuất.
– Tiếp theo, sản xuất hàng hóa có tính chất tư nhân, cá biệt bởi vì mỗi chủ thể sản
xuất là độc lập, tự chủ. Do đó, ý chí chủ quan của các nhà đầu tư, các chủ doanh
nghiệp, ... sẽ chi phối các quá trình kinh tế, chi phối thị trường.
– Sự đối lập này tạo nên động lực thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa phát triển, vì mỗi
nhà đầu tư, chủ doanh nghiệp đều phải cố gắng tạo ra các sản phẩm phù hợp với nhu cầu của xã hội.
Nêu các ưu thế của sản xuất hàng hóa
– Ưu thế thứ nhất: SXHH (sản xuất hàng hóa) thúc đẩy phân công lao động xã hội,
dẫn tới SX chuyên môn hóa sâu, khiến cho năng suất lao động ngày càng cao và
LLSX (lực lượng sản xuất) phát triển.
Ví dụ: Mỗi địa phương tập trung vào thế mạnh của mình rồi sản xuất ra các sản phẩm
liên quan đến thế mạnh đó, ...
– Ưu thế thứ hai: nền sản xuất hàng hóa dựa trên tính cạnh tranh, tạo động lực thúc
đẩy mọi doanh nghiệp. Từ đó gây nên áp lực đổi mới công nghệ và phương pháp
quản lý, dẫn tới phát huy sự năng động, sáng tạo của nguồn nhân lực.
– Ưu thế thứ ba: Thúc đẩy các quốc gia hội nhập thị trường thế giới, tạo nên xu thế
toàn cầu hóa. Từ đó tạo điều kiện phát huy các lợi thế so sánh của mỗi quốc gia.
– Ưu thế thứ tư: Thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa các quốc gia, tạo nên sự giao lưu
giữa các nền văn hóa. Điều này tạo điều kiện tiếp thu các giá trị văn minh nhân
loại, xây dựng nền văn hóa tiên tiến. Câu 2
Hai thuộc tính hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị lOMoAR cPSD| 61557118 của hàng hóa
Khái niệm hàng hóa
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người
thông qua trao đổi, mua bán.
Trình bày thuộc tính giá trị sử dụng của hàng hóa
– Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị.
– Giá trị sử dụng của hàng hóa là toàn bộ công năng, ích lợi của hàng hóa, để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng của con người trên cả 2 mặt: Vật chất và tinh thần. Lưu ý
rằng, xã hội càng phát triển thì nhu cầu về tinh thần ngày càng quan trọng hơn và
giá trị sử dụng về tinh thần là yếu tố khiến cho hàng hóa có sức cạnh tranh.
– Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn, luôn tồn tại cùng với xã hội loài người. Bên
cạnh đó, giá trị sử dụng chỉ thể hiện trong lĩnh vực tiêu dùng, chỉ khi nào con
người sử dụng hàng hóa cho tiêu dùng thì giá trị đó mới phát huy tác dụng. Hơn
nữa, giá trị sử dụng mang trên mình một giá trị trao đổi. Ở đây, giá trị trao đổi là
quan hệ về tỷ lệ về lượng khi trao đổi hàng hóa cho nhau.
Ví dụ, khi 1 xe máy có thể đổi được 20 tấn thóc thì tỷ lệ 20/1 là giá trị trao đổi của xe máy lấy tấn thóc.
Phân tích cơ sở tạo nên giá trị hàng hóa là từ lao động của nhà sản xuất kết tinh
trong hàng hóa, giá trị phản ánh quan hệ giữa các nhà sản xuất
– Từ ví dụ trên, sở dĩ có tỷ lệ trao đổi là 20/1 là vì giá trị kinh tế của xe máy gấp 20
lần tấn thóc. Như vậy, phạm trù giá trị được hình thành từ việc trao đổi hàng hóa.
Trong quá trình trao đổi hàng hóa, con người cần xác định giá trị của mỗi hàng
hóa, để xác lập tỷ lệ trao đổi phù hợp.
– Để có thể so sánh giá trị của các hàng hóa, ta cần có cơ sở. Đây phải là một cơ sở
chung, một nền tảng chung, tồn tại trong mọi hàng hóa. Vì cơ sở chung duy nhất
của mọi hàng hóa đều là kết tinh lao động xã hội nên lao động là yếu tố duy nhất
tạo nên giá trị hàng hóa.
– Giá trị của hàng hóa là hao phí lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết
tinh trong hàng hóa. Ở đây, phạm trù giá trị của hàng hóa là 1 phạm trù lịch sử.
Phạm trù giá trị được thể hiện trong lĩnh vực lưu thông, trao đổi, mua bán. Giá trị
là nội dung, giá cả là hình thức biểu diễn bằng tiền của giá trị.
– Giá trị hàng hóa phản ánh quan hệ giữa những nhà sản xuất với nhau, cụ thể là
quan hệ trao đổi. Nếu như không nảy sinh quan hệ trao đổi giữa nhà sản xuất này
với nhà sản xuất khác thì người ta cũng không đặt vấn đề về giá trị. Chính sự trao lOMoAR cPSD| 61557118
đổi hàng hóa, buộc các nhà sản xuất phải xác định giá trị của hàng hóa, để từ đó
xác lập tỷ lệ trao đổi cho phù hợp.
Trình bày khái niệm lượng giá trị hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị
Lượng giá trị hàng hóa là lượng hao phí lao động xã hội để sản xuất ra hàng hóa đó.
Do đó, lượng giá trị hàng hóa được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết. Ở đây,
thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra hàng hóa trong
các điều kiện trung bình của xã hội, bao gồm mức độ thành thạo của người lao động là
trung bình, trình độ kĩ thuật, công nghệ, thiết bị là trung bình và mọi điều kiện khác là
trung bình, không thuận lợi, không bất lợi.
Có 3 nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa là năng suất lao động, cường độ
lao động và mức độ phức tạp của lao động.
– Năng suất lao động là phạm trù phản ánh khả năng, hiệu suất của quá trình lao
động, nó được tính bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian
hoặc số lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Do đó, năng
suất lao động tỷ lệ nghịch với giá trị 1 đơn vị sản phẩm và không ảnh hưởng đến
giá trị tổng sản phẩm.
Cường độ lao động là phạm trù phản ánh mật độ làm việc trong một khoảng thời
gian. Cường độ lao động không ảnh hưởng đến giá trị của một đơn vị sản phẩm
và tỷ lệ thuận với tổng sản phẩm.
Lao động gồm có 2 loại là lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động
giản đơn là lao động không cần trải qua đào tạo chuyên sâu, ví dụ như lao công,
bán hàng rong...Lao động phức tạp là lao động phải trải qua đào tạo và tích lũy
kinh nghiệm. Như vậy, ở cùng một thời gian làm việc, lao động phức tạp tạo nên
lượng giá trị gấp bội lần lao động giản đơn, ví dụ như kỹ sư, giảng viên.... tiền
Chỉ ra nguồn gốc của tiền là do sự trao đổi hàng hóa, nên cần một hình thái đo lường giá trị
Trong lịch sử con người phát minh ra một thứ gọi là tiền vì cần phải có một hình
thái làm đơn vị đo lường giá trị của các hàng hóa khi trao đổi trên thị trường. Trong lịch
sử, nhân loại phát kiến ra các hình thái đo lường giá trị khác nhau, đi từ hình thái giản
đơn hóa của giá trị đến hình thái tiến bộ nhất là hình thái tiền tệ.
Tóm lược 4 hình thái đo lường giá trị đã có trong lịch sử, từ hình thái giản đơn đến
hình thái tiền tệ
– Hình thái giản đơn (ngẫu nhiên) của giá trị lOMoAR cPSD| 61557118 Câu 3
Nguồn gốc, bản chất và chức năng của
Hình thái giản đơn của giá trị là hình thái đo lường giá trị dựa trên sự trao đổi đơn
nhất của 1 hàng hóa này lấy 1 hàng hóa khác. Như vậy, tự thân mỗi hàng hóa
không thể nói lên giá trị của mình. Do đó, cần phải có 1 hàng hóa khác đóng vai
trò làm vật ngang giá. Ví dụ, 1 cái rìu đổi được 10 cân gạo. Ở đây, thóc là vật
ngang giá, đo lường giá trị của cái rìu.
Hình thái giản đơn của giá trị có đặc điểm là dựa trên trao đổi trực tiếp Hàng lấy
Hàng (1 cái rìu đổi 10 cân gạo). Bên cạnh đó, tỷ lệ trao đổi và hành vi trao đổi diễn ra ngẫu nhiên.
– Hình thái toàn bộ (mở rộng) của giá trị
Hình thái mở rộng của giá trị là hình thái đo lường giá trị dựa trên sự trao đổi
thường xuyên 1 loại hàng hóa này lấy nhiều loại hàng hóa khác. Ví dụ, ta có thể
đổi 1 cái rìu lấy 10kg thóc hoặc 5 con gà hoặc 3 mét vải hoặc 1 chỉ vàng. Ở đây,
vật ngang giá của rìu được mở rộng ra nhiều thứ khác nhau.
Hình thái mở rộng của giá trị có đặc điểm là dựa trên trao đổi trực tiếp hàng đổi hàng (H − H’).
Cùng với đó, mỗi hàng hóa lại có nhiều vật ngang giá khác nhau.
– Hình thái chung của giá trị
Hình thái chung của giá trị là hình thái đo lường giá trị dựa trên việc cộng đồng
đã chọn 1 hàng hóa làm vật ngang giá chung cho mọi loại hàng hóa khác. Ví dụ 1
chỉ vàng bằng 10 cái rìu, bằng 10kg thóc, bằng 2 con gà, bằng 3m vải (ở đây chỉ
vàng là vật ngang giá chung).
Hình thái chung của giá trị dựa trên trao đổi qua trung gian là vật ngang giá chung
(H − VNG chung − H’). Mỗi cộng đồng lại có vật ngang giá chung khác nhau.
– Hình thái tiền tệ
Hình thái tiền tệ là hình thái đo lường giá trị dựa trên việc toàn xã hội thống nhất chọn
1 hàng hóa đặc biệt làm vật ngang giá duy nhất cho mọi hàng hóa khác.
Nêu bản chất tiền tệ là hàng hóa đặc biệt được chọn làm vật ngang giá duy nhất,
nhấn mạnh phải gắn với vàng
Tiền tệ có bản chất là một loại hàng hóa đặc biệt, được xã hội chọn làm vật ngang
giá duy nhất, được sử dụng để đo lường giá trị của mọi loại hàng hóa khác và làm phương tiện trao đổi.
Lịch sử nhân loại cho thấy, con người lựa chọn hàng hóa đặc biệt làm tiền tệ là
VÀNG. Chúng có giá trị kinh tế cao, giá trị sử dụng đa dạng, hữu ích, có giá trị không lOMoAR cPSD| 61557118
đổi theo thời gian và có thể lưu trữ trong một thời gian dài mà không bị hỏng hóc. Chúng
cũng dễ dàng nhận biết và khó làm giả được dựa vào màu sắc, độ dẻo, âm thanh khi va
chạm và khối lượng riêng của nó. Mặc dù vàng không phải là kim loại hiếm nhưng giá
trị thẩm mỹ cao, được nhiều người yêu thích, ưa chuộng nên chúng trở nên quý giá và
có giá trị để trao đổi.
Trình bày 5 chức năng của tiền, chú ý nhấn mạnh một số chức năng phải gắn liền
với tiền vàng, bạc
– Chức năng thước đo giá trị
Chức năng thước đo giá trị là chức năng gốc, gắn liền với sự ra đời của tiền tệ.
Chức năng này thể hiện ở việc xã hội dùng tiền tệ để làm đơn vị đo lường giá trị
của mọi loại hàng hóa khác.
Vì mọi loại tiền của Nhà nước phát hành (USD, VNĐ...) đều bị mất giá do lạm
phát nên không phải là đơn vị đo lường ổn định. Do đó, khi đo lường, so sánh giá
trị tài sản giữa các thời kỳ dài hạn, cần quy đổi theo đơn vị là VÀNG, BẠC.
– Chức năng phương tiện cất trữ
Chức năng này thể hiện ở việc đưa tiền ra khỏi lưu thông, và cho vào dự trữ, nhằm
duy trì giá trị tài sản. Vì mọi loại tiền của Nhà nước phát hành đều bị mất giá do
lạm phát nên tiền dùng để cất trữ phải là VÀNG, BẠC.
– Chức năng phương tiện lưu thông
Chức năng này thể hiện ở việc xã hội dùng tiền tệ làm phương tiện trung gian trao đổi H − Tiền tệ − H’
Vì tiền tệ chỉ là phương tiện trung gian trao đổi, nên việc sử dụng vàng sẽ dẫn đến
lãng phí, bất tiện, nhà nước khó kiểm soát nền kinh tế. Do đó, để thuận lợi hơn
trong trao đổi và bớt lãng phí khi dùng vàng, bạc trong lưu thông và để có thể
kiểm soát nền kinh tế thuận tiện hơn, Nhà nước phát hành một loại chứng chỉ để
dùng thay cho vàng, bạc trong lưu thông. Tiền chứng chỉ là một hình thái chứng
chỉ của giá trị (không phải của cải có giá trị thực), do Nhà nước phát hành và được
sử dụng trong lưu thông thay cho vàng, bạc.
–Chức năng phương tiện thanh toán
Chức năng này thể hiện ở việc con người sử dụng tiền để chi trả trực tiếp cho các
nghĩa vụ kinh tế của mình, thay cho việc trao đổi hiện vật. Tuy nhiên, việc sử dụng
tiền thay cho trao đổi có thể dẫn tới khả năng thanh toán chậm, mua bán chịu.
– Chức năng tiền tệ thế giới
Chức năng này thể hiện ở việc dùng tiền để thanh toán quốc tế. Đến thế kỷ 19,
tiền để thanh toán quốc tế vẫn phải là vàng, bạc. Hiện nay, trao đổi bằng tiền tệ
thông qua hệ thống tỷ giá hối đoái. lOMoAR cPSD| 61557118 biệt
Nêu bản chất tiền tệ
Tiền về bản chất là một loại hàng hóa đặc biệt, là kết quả của quá trình phát triển của
sản xuất và trao đổi hàng hóa, tiền xuất hiện làm yếu tố ngang giá chung cho thế giới hàng hóa.
Con người thường dùng vàng, bạc làm vật ngang giá trong trao đổi vì chúng có giá
trị cao và có giá trị sử dụng đa dạng.
Tiền là một hàng hóa do lao động của con người tạo ra. Tiền phản ánh lao động xã
hội và mối quan hệ giữa những người sản xuất và trao đổi hàng hóa
Bởi sự trao đổi hàng hóa, con người cần có một hình thái làm đơn vị đo lường giá trị.
Trong lịch sử kéo dài hàng nghìn năm, nhân loại phát kiến các hình thái đo lường giá trị
khác nhau, trải qua 4 hình thái, cuối cùng xác định hình thái tiền tệ là hình thái tối ưu. Câu 4
Vì sao tiền là hàng hóa đặc
Thứ nhất, trước khi tiền tệ được đem ra là vật ngang giá chung duy nhất cho mọi loại
hàng hóa thì nó cũng là một loại hàng hóa, cũng có giá trị sử dụng và giá trị. Thứ hai,
khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển đến một trình độ nhất
định, sản xuất trao đổi trở nên thường xuyên và thị trường mở rộng thì nhu cầu của xã
hội là cần có một vật ngang giá chung duy nhất để thuận tiện cho việc trao đổi, mua bán
hàng hóa, vì vậy mà một hoặc một số loại hàng hóa được tách ra làm tiền tệ.
Do đó, tiền trực tiếp thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa.
Tính chất đặc biệt của tiền, khác với hàng hóa thông thường
Tiền tệ có những chức năng đặc biệt mà không hàng hóa nào có được: là thước đo
giá trị, là phương tiện lưu thông, là phương tiện cất trữ, là phương tiện thanh toán, là
tiền tệ thế giới. Thứ nhất, tiền tệ là vàng bạc có giá trị sử dụng đa dạng, có giá trị kinh
tế, thẩm mỹ cao được nhiều người ưa thích. Hơn nữa, vàng bạc có thể lưu trữ trong một
thời gian dài mà không bị hỏng hóc. Trong khi đó, đồng tiền do nhà nước phát hành thì
lại bị mất giá do lạm phát hay các loại hàng hóa khác thì lại không có khả năng giữ
nguyên giá trị. Do đó, vàng bạc rất phù hợp để trở thành thước đo giá trị và cũng như
trở thành phương tiện lưu trữ. Mặc dù trong lưu thông, tiền chứng chỉ thuận tiện hơn
nhưng tiền cất trữ thì phải là vàng bạc. Không những vậy, tiền cũng có khả năng lưu lOMoAR cPSD| 61557118
thông và làm phương tiện thanh toán. Cuối cùng, vàng bạc được cả thế giới coi như là
vật ngang giá chung nên có thể thực hiện chức năng thanh toán quốc tế. Câu 5
Quy luật giá trị - Quy luật cơ bản của sản xuất hàng hóa.
Nội dung quy luật, thể hiện trên 2 lĩnh vực: Sản xuất và lưu thông.
– Nội dung quy luật giá trị: Sản xuất và lưu thông hàng hóa thì đều phải dựa trên cơ
sở hao phí lao động xã hội để sản xuất ra hàng hóa (tức là dựa trên giá trị)
– Trong sản xuất, nhà sản xuất phải luôn tìm cách hạ thấp hao phí lao động cá biệt
xuống nhỏ hơn hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết (tức giá trị sản phẩm
cá biệt nhỏ hơn hoặc bằng giá trị thị trường)
– Trong lưu thông, phải tiến hành theo nguyên tắc ngang giá, lấy giá trị xã hội làm
cơ sở, không dựa trên giá trị cá biệt (giá cả vận động xoay quanh giá trị, giá trị quyết định giá cả).
Quan hệ giữa cung - cầu với giá cả và giá trị.
– Xét ngành có Cung < Cầu: Khi đó, giá cả tăng cao hơn giá trị, lợi nhuận tăng cao
thu hút đầu tư vào ngành. Lúc này, cung tăng và cạnh tranh cũng tăng dẫn đến giá
cả giảm đi và cân bằng trở lại với giá trị.
– Xét ngành có Cung > Cầu: Khi đó, giá cả sẽ giảm xuống nhỏ hơn giá trị, lợi nhuận
giảm khiến các doanh nghiệp rời bỏ ngành. Lúc này, cung sẽ giảm và cạnh tranh
cũng giảm nên giá cả sẽ tăng lên và cân bằng trở lại với giá trị.
– Xét ngành có cung = cầu, giá cả ổn định, cân bằng với giá trị. Đây là trường hợp
lý tưởng nhưng không phổ biến.
Vậy, quy luật Cung - Cầu xác định nên giá cả với mỗi điều kiện ngắn hạn của thị
trường. Quy luật giá trị điều tiết sự vận động giá cả trong tiến trình dài hạn của thị
trường. Về tổng thể: GIÁ TRỊ quyết định GIÁ CẢ.
Tác dụng của quy luật giá trị về kinh tế và xã hội.
– Điều tiết phân bổ đầu tư sản xuất vào các ngành có sự khan hiếm hàng hóa: Trong
trường hợp ngành thiếu hụt nguồn lực dẫn đến khan hiếm hàng hóa thì lợi nhuận
thu được sẽ cao và lại thu hút được sự đầu tư sản xuất. Ngược lại, ngành dôi dư
nguồn lực thì hàng hóa tồn kho, thu lợi nhuận thấp, các nhà đầu tư sẽ rời bỏ và
chuyển đổi sang các ngành có lợi nhuận cao hơn. lOMoAR cPSD| 61557118
– Điều tiết lưu thông hàng hóa từ nơi giá thấp đến nơi giá cao: Tại khu vực giá thấp diễn ra hiện
tượng dôi dư hàng hóa nên những người kinh doanh muốn luân chuyển hàng hóa
của mình tới những nơi giá cao, và ngược lại, tại nơi giá cao, hàng hóa khan hiếm
nên thu hút các nguồn hàng tới với khu vực này.
– Phân hóa những người sản xuất kinh doanh, làm gia tăng khoảng cách giai tầng:
Trong quá trình cạnh tranh, người sản xuất nhạy bén với thị trường, trình độ năng
lực giỏi, sản xuất với mức hao phí cá biệt thấp hơn mức hao phí chung của xã hội
sẽ trở nên giàu có, thành giới chủ. Ngược lại, những người có hạn chế về vốn,
kinh nghiệm sản xuất kém, trình độ công nghệ lạc hậu,... sẽ dần rơi vào tình trạng
thua lỗ, phá sản và phải đi làm thuê, bị giới chủ chèn ép.
Kết luận: Tóm lại, quy luật giá trị vừa có tác dụng đào thải cái lạc hậu, lỗi thời, kích
thích sự tiến bộ, làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ; vừa có tác dụng lựa
chọn, đánh giá người sản xuất, bảo đảm sự bình đẳng đối với người sản xuất; vừa có
những tác động tích cực và tiêu cực diễn ra khách quan trên thị trường. Quy luật giá trị
là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và lưu thông hàng hóa, ở đâu có sản xuất và trao
đổi hàng hóa thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị. trường Khái niệm
– Thị trường là tổng hòa những quan hệ kinh tế, trong đó nhu cầu của các chủ thể
được đáp ứng thông qua việc trao đổi, mua bán với sự xác định giá cả và số lượng
hàng hóa, dịch vụ tương ứng với trình độ phát triển nhất định của nền sản xuất xã hội.
– Cơ chế thị trường là hệ thống các quan hệ mang tính tự điều chỉnh tuân theo yêu
cầu của các quy luật kinh tế.
– Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường. Đó
là nền kinh tế hàng hóa phát triển cao, ở đó mọi quan hệ sản xuất và trao đổi đều
được thông qua thị trường, chịu tác động, điều tiết bởi các quy luật khách quan của thị trường.
Có 4 chủ thể tham gia thị trường: Câu 6
Cơ chế thị trường và vai trò của các chủ thể tham gia thị
– Nhà sản xuất là những người sản xuất và cung cấp hàng hóa, dịch vụ ra thị trường
nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Họ sử dụng các yếu tố đầu vào để lOMoAR cPSD| 61557118
sản xuất, kinh doanh và thu lợi nhuận. Nhưng bên cạnh lợi nhuận, họ còn có trách
nghiệm cung cấp hàng hóa, dịch vụ và không làm tổn hại đến sức khỏe, lợi ích
của con người trong xã hội.
– Người tiêu dùng là những người mua hàng hóa, dịch vụ trên thị trường để thỏa
mãn nhu cầu tiêu dùng. Họ giữ vai trò định hướng sản xuất và quyết định sự phát
triển bền vững của người sản xuất. Lưu ý: Thực tế, một doanh nghiệp luôn đóng
vai trò là 1 nhà sản xuất và cũng là 1 người tiêu dùng.
– Chủ thể trung gian là những cá nhân, tổ chức đảm nhiệm vai trò cầu nối giữa các
chủ thể sản xuất, tiêu dùng, hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Họ có vai trò kết
nối, trao đổi thông tin trong các quan hệ mua bán, làm sản xuất và tiêu dùng trở
nên ăn khớp với nhau. (ví dụ: môi giới chứng khoán, môi giới nhà đất,...)
– Nhà nước có thể tham gia vào thị trường với đầy đủ các vai trò: Nhà sản xuất,
tiêu dùng và cả chủ thể trung gian. Tuy nhiên, nhà nước có một vai trò quan trọng
hơn cả đó là kiến tạo môi trường vĩ mô.
Vai trò kiến tạo môi trường vĩ mô là vai trò chính của nhà nước trong thị trường. Nhà
nước sẽ thông qua hệ thống pháp luật và các chính sách kinh tế, an sinh xã hội để vừa
thực hiện chức năng quản lí, tạo lập một môi trường kinh tế tốt cho các chủ thể kinh tế
phát huy sức sáng tạo của họ; đồng thời khắc phục những khuyết tật của thị trường, làm
nền kinh tế thị trường hoạt động hiệu quả. quyền
Nguyên nhân dẫn tới sự hình thành các tổ chức độc quyền:
– Do sự cạnh tranh tự do: tư bản lớn ngày càng phát triển mạnh, trong khi đó tư bản nhỏ
ngày càng làm ăn thua lỗ, phá sản. Vì vậy chỉ còn lại các nhà tư bản lớn cạnh tranh với
nhau. Từ đó đòi hỏi các nhà tư bản phải đầu tư chi phí lớn nhưng rủi ro cao, khó phân
thắng bại. Do sự cạnh tranh không có lợi, nên các tư bản lớn sẽ thỏa hiệp, liên minh với
nhau thao túng thị trường, từ đó tạo nên các tổ chức độc quyền.
– Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, đặc biệt là về khoa học kĩ thuật: Vì nhu cầu
ứng dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất cần vốn lớn, nhưng thời gian hoàn vốn chậm
và rủi ro cao, nên từng nhà tư bản cá biệt khó đáp ứng được. Do đó các nhà tư bản phải
đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất bằng việc liên minh, liên kết thành
những hãng có sức mạnh lớn hơn. Và đó là tiền đề tạo nên các tổ chức độc quyền. lOMoAR cPSD| 61557118
– Do khủng hoảng kinh tế: khi khủng hoảng kinh tế xảy ra, mọi mặt của đời sống kinh
tế đều bị ảnh hưởng. Tư bản nhỏ với khả năng kinh tế kém, dễ bị phá sản. Còn các nhà Câu 14
Phân tích đặc điểm sự tập trung sản xuất và sự hình thành tổ chức độc
tư bản lớn cũng bị ảnh hưởng, thiệt hại nặng nề. Và để phục hồi sản xuất, các nhà tư bản
lớn cần liên minh lại với nhau.
Thêm nữa sự phát triển của hệ thống tín dụng trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc
đẩy tập trung sản xuất, ra đời các tổ chức độc quyền.
Khái niệm tổ chức độc quyền (TCĐQ) :
Là liên minh các nhà tư bản với nhau dưới nhiều hình thức khác nhau. Họ nắm
giữ phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một hoặc một số loại hàng hóa. Họ có khả
năng khống chế thị trường, định giá cả nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao. Các hình
thức tổ chức độc quyền:
– Cartel: tổ chức độc quyền thấp nhất, sơ khai nhất. Các thành viên thỏa thuận với nhau
về giá cả, sản lượng hàng hóa, thị trường tiêu thụ, kỳ hạn thanh toán... Các nhà tư bản
vẫn độc lập về sản xuất và lưu thông hàng hóa. Do chỉ dựa trên sự thống nhất về đầu ra
tiêu thụ nên liên minh khó bền vững.
– Syndicate: hình thức độc quyền cao hơn, ổn định hơn Cartel. TCĐQ dựa trên sự thống
nhất về lưu thông (cả đầu vào lẫn đầu ra). Từng thành viên vẫn giữ độc lập về sản xuất,
việc đầu tư, mua bán sẽ do một ban quản trị chung điều phối.
– Trust: là TCĐQ dựa trên sự thống nhất cả lưu thông và sản xuất. Việc đầu tư các yếu tố
đầu vào, tiêu thụ đầu ra và tổ chức sản xuất sẽ do một bộ máy ban quản trị thống nhất.
Từng thành viên trở thành cổ đông, thu lợi nhuận theo cổ phần.
– Consortium: là TCĐQ có trình độ và quy mô lớn hơn các hình thức độc quyền trên. Đây
là TCĐQ sản xuất đa ngành, có sức mạnh thao túng, chi phối nhiều lĩnh vực kinh tế.
+ Về kinh tế: có sự kết hợp giữa giới tư bản công nghiệp và giới tư bản ngân hàng.
+ Về hình thức: bao hàm cả hình thức Trust và hình thức Syndicate.
Biểu hiện mới của TCĐQ Từ giữa thế kỉ XX, bên cạnh các mối liên kết theo chiều dọc
và ngang, còn phát triển liên kết mới- liên kết đa ngành, đa lĩnh vực thành các
Conglomerate và Concern khổng lồ.
– Về kinh tế: TCĐQ thống trị các ngành hàng, nhưng có sự phát triển hệ thống các doanh
nghiệp nhỏ đóng vai trò vệ tinh, gia công, thầu vụ...cho các TCĐQ. lOMoAR cPSD| 61557118
– Về cơ chế thao túng: Xuất hiện trở lại hệ thống doanh nghiệp nhỏ, là nhà cung cấp, gia
công, đại lý cho các tổ chức độc quyền. Quá trình tích tụ và tập trung sản xuất trên quy
mô lớn diễn ra đồng thời với quá trình phi tập trung sản xuất, và từ đó ngày càng xuất
hiện nhiều các tổ chức độc quyền vừa và nhỏ.
– Về hình thức: Xuất hiện 2 hình thức mới là Concern và Conglomerate
+ Giống nhau: đều là TCĐQ đa ngành, thao túng thị trường quốc tế, là hãng đa
quốc gia, xuyên quốc gia.
+ Khác nhau: Concern là TCĐQ đa ngành, mà các ngành có liên hệ về kỹ thuật.
Conglomerate là TCĐQ đa ngành, mà các ngành không cần có liên hệ về kỹ
thuật. Mục đích chủ yếu của các Conglomerate là thu lợi nhuận từ kinh doanh chứng khoán. Câu 15
Phân tích đặc điểm xuất khẩu tư bản
Nguyên nhân hình thành:
– Tại các nước phát triển, tình trạng "tư bản thừa" làm nền kinh tế trong nước bão
hòa, thị trường bị các TCĐQ thao túng. Vì vậy nếu tiếp tục đầu tư trong nước sẽ
không có hiệu quả, khó đạt được lợi nhuận. Do đó, các nhà tư bản tìm kiếm các
thị trường mới bằng việc đầu tư ra nước ngoài để mang lại tỷ suất lợi nhuận cao.
– Trong lịch sử, nhiều nước tư bản lớn có thuộc địa, vì thế cần đầu tư sang các thuộc
địa để khai thác tài nguyên.
VD: Pháp xây dựng nhiều tuyến đường sắt, mở rộng đường bộ tại VN nhằm mục
đích phục vụ cho việc khai thác, vận chuyển tài nguyên lâu dài tại các đồn điền, hầm mỏ, cảng biển...
Khái niệm xuất khẩu tư bản:
– Là việc đầu tư tư bản ra nước ngoài để sản xuất giá trị thặng dư (GTTD) và thực
hiện giá trị thặng dư ở nước ngoài, nhằm làm phương tiện để bóc lột giá trị thặng
dư ở nước nhập khẩu.
– Phân biệt với xuất khẩu hàng hóa: là sản xuất GTTD ở trong nước, chỉ thực hiện
GTTD ở nước ngoài (tức là bán hàng để thu về Tư bản tiền tệ).
Các hình thức xuất khẩu tư bản (XKTB):
– Theo chủ thể xuất khẩu:
+ Xuất khẩu tư bản của nhà nước: nhằm mục tiêu kinh tế, chính trị, quân sự lOMoAR cPSD| 61557118
+ Xuất khẩu tư nhân: nhằm mục đích lợi nhuận
– Theo cách thức đầu tư:
+ XKTB trực tiếp (FDI): Nhà tư bản trực tiếp đầu tư vốn và thực hiện sản xuất kinh doanh.
+ XKTB gián tiếp: là hình thức đầu tư thông qua việc cho vay để thu lợi tức,
lãi suất, mua cổ phần, trái phiếu, đầu tư chứng khoán ở nước ngoài, tài trợ vốn ODA, ...
– Theo hình thức hoạt động: Bao gồm chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia,
các hoạt động tài chính, tín dụng của ngân hàng, chuyển giao công nghệ, ...
Biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản: Hướng xuất khẩu tư bản có sự thay đổi
– Về dòng vốn đầu tư:
+ Trước kia luồng tư bản xuất khẩu chủ yếu từ các nước tư bản phát triển sang
các nước kém phát triển.
+ Gần đây, đại bộ phận dòng đầu tư chảy qua lại giữa các nước tư bản phát
triển, do: các ngành ở đây có hàm lượng khoa học-kỹ thuật cao và vốn lớn,
nên đầu tư sẽ thu được lợi nhuận cao. Trong khi đó các nước nhỏ chưa đủ
điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội, nên đầu tư, tiếp nhận sản xuất có phần
rủi ro và tỷ suất lợi nhuận không cao.
+ Để tránh rào cản chính sách, giữa các nước lớn có thể đầu tư qua nước thứ 3.
– Về chính trị: Nước lớn tăng cường sử dụng XKTB của nhà nước và tư nhân để
chi phối nền kinh tế của các nước nhỏ. Từ đó nhờ ưu thế về vốn, công nghệ và thị
trường, các nước lớn có khả năng chi phối chính trị, văn hóa, xã hội.
+ Chủ thể XKTB có sự thay đổi lớn: Vai trò của các công ty xuyên quốc gia
ngày càng to lớn, xuất hiện thêm nhiều chủ thể XKTB từ các nước đang phát triển.
+ Hình thức xuất khẩu TB rất đa dạng, sự đan xen với xuất khẩu hàng hóa ngày
càng tăng. Sự kết hợp giữa xuất khẩu tư bản với các hợp đồng buôn bán hàng
hóa, dịch vụ, chất xám... không ngừng tăng.
+ Sự áp đặt mang tính thực dân trong xuất khẩu tư bản dần được loại bỏ, thay vào
đó nguyên tắc hợp tác cùng có lợi được tôn trọng và đề cao. lOMoAR cPSD| 61557118 Câu 17
Phân tích đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
Khái niệm nền kinh tế thị trường:
Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa vận hành theo cơ chế của thị trường, phát
triển tới trình độ cao, trong đó, quan hệ sản xuất và trao đổi đều thông qua thị trường và
chịu sự điều tiết bởi các quy luật khách quan của thị trường.
Khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng XHCN:
Là nền kinh tế vận hành theo các quy luật của thị trường, mang đặc trưng định hướng
XHCN, đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập một xã hội mà ở đó dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, có sự điều tiết của Nhà nước do Đảng cộng
sản Việt Nam lãnh đạo.
Cơ sở tất yếu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam:
• Cơ sở lý luận: QHSX phải phù hợp với trình độ phát triển của LLSX
– Lực lượng sản xuất của Việt Nam đi từ nền sản xuất nhỏ. Vì thế quan hệ sản
xuất cần dựa trên kinh tế thị trường, sản xuất hàng hóa với nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Do đó, Việt Nam lựa chọn kinh tế thị
trường chứ không phải nền kinh tế bao cấp chỉ huy như trước đổi mới.
– Lịch sử kinh tế thị trường của tư bản chủ nghĩa còn nhiều mâu thuẫn, hạn
chế. Vì thế cần có hướng đi khác để đảm bảo sự phát triển bền vững. Do đó,
Việt Nam lựa chọn nền kinh tế thị trường định hướng XHCN chứ không phải TBCN.
• Cơ sở thực tiễn: Việt Nam cần hội nhập, phát triển kinh tế, thực hiện mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
– Thực tiễn trên thế giới và Việt Nam cho thấy kinh tế thị trường là phương
thức phân bổ nguồn lực hiệu quả mà loài người đã đạt được so với các mô
hình kinh tế phi thị trường. Kinh tế thị trường luôn là động lực thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển nhanh và có hiệu quả. Dưới tác động của các quy
luật thị trường nền kinh tế luôn phát triển theo hướng năng động, kích thích
tiến bộ kỹ thuật - công nghệ, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản
phẩm và giá thành hạ. Do vậy, trong phát triển của Việt Nam cần phải phát
triển kinh tế thị trường. lOMoAR cPSD| 61557118
– Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN sẽ phá vỡ tính chất tự cấp,
tự túc, lạc hậu của nền kinh tế, đẩy mạnh phân công lao động xã hội, phát
triển ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động, thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển mạnh mẽ, tạo cơ chế phân bổ và sử dụng nguồn lực xã hội
một cách hợp lý, tiết kiệm.
• Cơ sở lịch sử Cách mạng Việt Nam
– Đảng cộng sản lãnh đạo thành công Cách mạng dân tộc dân chủ. Vì vậy
Đảng phải có lý luận dẫn đường, có đường lối phát triển kinh tế - xã hội hiệu
quả, có uy tín và khả năng thuyết phục dân chúng tin tưởng thực hiện đường
lối đó, có được sự ủng hộ của người lao động hậu thuẫn cho Đảng
– Chính phủ vẫn giữ vai trò lãnh đạo và quản lý kinh tế, trong khi tư nhân và
các doanh nghiệp nước ngoài được phép tham gia vào hoạt động kinh doanh.
Tuy nhiên, tư nhân và các doanh nghiệp nước ngoài chỉ được phép hoạt động
trong những lĩnh vực được phép và có sự kiểm soát của chính phủ. Ngoài ra,
chính phủ cũng có một số chính sách xã hội nhằm tăng cường bảo vệ quyền
lợi của người lao động, giảm bớt bất bình đẳng và tăng cường phát triển các lĩnh vực xã hội.
Đặc trưng định hướng XHCN của nền KTTT tại Việt Nam khác biệt với các nền KTTT TBCN Nội dung
Nền KTTT định hướng XHCN Nền KTTT TBCN Mục đích
Hướng tới phát triển lực lượng sản xuất, Tạo ra sự phát triển kinh tế và tăng
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của trưởng kinh tế bằng cách tạo ra lợi nhuận
CNXH, đặt lợi ích của nhân dân lên trên cho các chủ sở hữu tư nhân và doanh hết nghiệp
Quan hệ sở Được phân tán hơn, với sự tham gia của Tập trung chủ yếu vào tay một số nhà tư hữu
nhiều chủ sở hữu, bao gồm cả tư nhân, sản giàu có, các công ty tư nhân và các
các doanh nghiệp nhà nước và các đối tập đoàn đa quốc gia.
tác nước ngoài. Trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo nhằm đảm bảo
rằng sự phát triển kinh tế được phân phối
công bằng và bảo vệ môi trường. Quan hệ quản
Cơ chế thị trường tự điều tiết. Chính phủ Cơ chế thị trường tự điều tiết. Được điều lý
có vai trò quyết định về các chính sách tiết bởi các doanh nghiệp tư nhân và sự
và biện pháp kinh tế nhằm đảm bảo sự chi phối của giới tài phiệt.
phát triển kinh tế bền vững, công bằng
và bảo vệ môi trường. lOMoAR cPSD| 61557118 Quan hệ phân
Chính phủ trong nền kinh tế này có vai Các doanh nghiệp tư nhân và cá nhân có phối
trò quan trọng trong việc quản lý và điều quyền quyết định về việc sản xuất và
tiết phân phối kinh tế để đảm bảo tính phân phối sản phẩm của mình, và giá cả
công bằng trong việc phân phối tài được xác định bởi sự cạnh tranh giữa các
nguyên và sản phẩm. Phân phối theo lao doanh nghiệp. Do đó, phân phối vốn góp
động, hiệu quả kinh tế, phân phối theo là chủ đạo. Từ đó, việc phân phối kinh tế
phúc lợi, trong đó phân phối theo lao thường không đảm bảo tính công bằng động là chủ đạo.
và bình đẳng trong xã hội. Kiến
trúc Bao gồm các cơ quan chính phủ và các Bao gồm các cơ quan chính phủ và các thượng tầng
tổ chức xã hội có trách nhiệm đảm bảo tổ chức kinh tế có trách nhiệm thực hiện
tính công bằng và bình đẳng trong phân việc phân phối tài nguyên và sản phẩm.
phối kinh tế. Nhà nước do ĐCS cẩm Nhà nước do các đảng phái tranh cử cầm quyền quyền.
Trong các đặc trưng trên, đặc trưng về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật trình độ cao của
CNXH và đặt lợi ích của nhân dân lên trên là quan trọng nhất. Vì đó là nền móng để
phát triển QHSX và Kiến trúc thượng tầng đi theo định hướng XHCN. Câu 18
Khái niệm, cấu trúc thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và sự
trò lãnh đạo của Đảng trong hoàn thiện thể chế.
Khái niệm thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN: là hệ thống đường lối
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng cộng sản, luật pháp, chính sách và bộ
máy quản lý của Nhà nước; cùng với cơ chế vận hành. Có tác dụng điều chỉnh quan hệ
lợi ích và phương thức hoạt động của các chủ thể kinh tế. Nhằm mục đích xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật trình độ cao của CNXH, một xã hội “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”.
Các bộ phận cấu thành thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN:
– Đường lối, pháp luật: Đường lối kinh tế - xã hội của Đảng Cộng sản; Luật pháp,
chính sách, quy tắc, chế định...
– Các chủ thể tham gia vào thị trường: Bộ máy quản lý Nhà nước; doanh nghiệp
và các tổ chức xã hội đại diện cho doanh nghiệp; dân cư, các tổ chức chính trị - xã hội.
– Cơ chế vận hành: Cơ chế thị trường, thông qua quy luật của thị trường như: QL
giá trị, QL cung cầu, QL cạnh tranh ...Cơ chế vận hành của các chủ thể trên thị
trường. Gồm có: Cơ chế phân cấp,
Cơ chế phối hợp, Cơ chế giám sát đánh giá, Cơ chế tham gia lOMoAR cPSD| 61557118
Phân tích sự cần thiết phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN
– Do yêu cầu của thực tiễn: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hướng tới
trình độ phát triển cao, hiện đại, phát huy ưu thế của cơ chế thị trường, đồng thời
khắc phục những hạn chế của CNTB. Thực tiễn đã chứng minh sự cần thiết phải
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN để tăng cường năng lực
cạnh tranh, đảm bảo sự công bằng, tăng cường quản lý thị trường, tạo điều kiện
cho sự phát triển bền vững và đáp ứng yêu cầu của thị trường quốc tế.Trong khi
điều kiện thực tiễn của Việt Nam còn nhiều hạn chế. Vì thế, cần hoàn thiện Thể
chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.
– Do sự dịch chuyển cơ sở hạ tầng kinh tế: Sự dịch chuyển cơ sở hạ tầng của nền
kinh tế đang diễn ra rất mạnh mẽ trên toàn cầu, và đòi hỏi các quốc gia phải cập
nhật và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN để đáp ứng yêu
cầu của thời đại. Việt Nam dịch chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hội nhập kinh tế quốc tế. Từ đó đòi hỏi
sự hoàn thiện về kiến trúc thượng tầng, tức là phải nâng cao năng lực quản lý của
Nhà nước thông qua thể chế. Việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN sẽ giúp các quốc gia phát triển kinh tế một cách bền vững và hiệu quả, tạo
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của đất nước và các doanh nghiệp.
– Do xu thế phát huy vai trò của xã hội trong xây dựng thể chế: Xu hướng phát
huy vai trò của xã hội trong xây dựng thể chế kinh tế đang ngày càng trở nên quan
trọng trên toàn cầu, và đòi hỏi các quốc gia phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN để đáp ứng yêu cầu của thời đại, đòi hỏi các quốc gia
phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN để tăng cường sự
minh bạch và trách nhiệm xã hội, tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững, tăng
cường quản lý và giám sát, và tạo điều kiện cho sự đổi mới và sáng tạo. Các tổ
chức chính trị - xã hội và Tổ chức xã hội – nghề nghiệp đang phát triển mạnh mẽ.
Đó là sự đại diện cho các thành phần xã hội, có vai trò phản biện xã hội, theo tinh
thần dân chủ và xây dựng. Vì thế, cần tiếp tục hoàn thiện Thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhiệm vụ phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng trong quá trình hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường đính hướng XHCN:
– Vai trò phát triển lý luận, hoạch định đường lối:
+ Đảng cần phát triển lý luận về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN,
đảm bảo tính khoa học và phù hợp với tình hình thực tế của đất nước.
+ Đảng có trách nhiệm hoạch định và đưa ra đường lối phát triển kinh tế, đảm bảo
tính bền vững và đúng đắn của nền kinh tế. lOMoAR cPSD| 61557118
– Vai trò chỉnh đốn, giám sát, phòng chống tham nhũng:
+ Đảng cần chỉnh đốn các hoạt động kinh tế để đảm bảo tính công bằng, đúng đắn
và phù hợp với quy định pháp luật.
+ Đảng cần tăng cường giám sát các hoạt động kinh tế, đảm bảo tính công bằng và
tránh các hành vi phi pháp và gian lận trong hoạt động kinh tế. Câu 19
Phân tích quan hệ lợi ích kinh tế và vai trò của Nhà nước trong việc điề lợi ích kinh tế
– Vai trò lãnh đạo, phát huy dân chủ trong Đảng và trong toàn xã hội:
+ Đảng cần đảm bảo tính lãnh đạo trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN.
+ Đảng cần phát huy vai trò dân chủ trong các quyết định quan trọng liên quan
đến hoạt động kinh tế, đảm bảo tính công bằng và tính đúng đắn của các quyết định đó.
+ Đảng cần tạo điều kiện cho sự tham gia của các tầng lớp nhân dân vào hoạt
động kinh tế, đảm bảo tính công bằng và tính đúng đắn của hoạt động kinh tế.
Khái niệm lợi ích kinh tế:
– Lợi ích kinh tế là sự đáp ứng, sự thỏa mãn về các nhu cầu mà con người muốn
đạt được khi thực hiện các hoạt động kinh tế.
– Thực chất, lợi ích kinh tế phản ánh các quan hệ kinh tế của xã hội trong một giai
đoạn lịch sử nhất định nào đó.
– Ví dụ: Lợi ích kinh tế của chủ doanh nghiệp là lợi nhuận, của người lao động là
tiền công, của người cho vay là lợi tức.
Khái niệm quan hệ lợi ích kinh tế: Là mối quan hệ tương tác giữa các chủ thể kinh tế
để xác lập lợi ích kinh tế của mình, trong mối liên hệ với Lực lượng sản xuất và kiến lOMoAR cPSD| 61557118
trúc thượng tầng tương ứng của một giai đoạn phát triển xã hội nhất định. Trình bày
các kiểu quan hệ lợi ích kinh tế
• Xét theo chiều ngang, với các giai tầng trong xã hội thì có:
– Quan hệ lợi ích giữa Người lao động và doanh nghiệp:
+ Người lao động là người có đủ thể lực là trí lực để lao động, tức là có
khả năng lao động. Khi họ bán sức lao động sẽ nhận được tiền lương và
chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao động.
+ Người sử dụng lao động là doanh nghiệp là người trả tiền mua hàng hóa
sức lao động nên người sử dụng lao động có quyền tổ chức, quản lý quá
trình làm việc của người lao động.
+ Sự thống nhất: Doanh nghiệp thực hiện các hoạt động kinh tế trong điều
kiện bình thường họ sẽ thu được lợi nhuận, thực hiện lợi ích kinh tế của
mình, đồng thời họ cũng sẽ tiếp tục sử dụng lao động nên người lao
động cũng thể hiện được lợi ích kinh tế của mình. Ngược lại, nếu người
lao động tích cực làm việc, lợi ích kinh tế của họ được thực hiện thông
qua tiền lương nhận được, đồng thời góp phần vào sự gia tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
+ Sự mâu thuẫn: Vì lợi ích của mình, doanh nghiệp luôn tìm cách cắt giảm
lớn nhất các khoản chi phí trong đó có tiền lương của người lao động
để tăng lợi nhuận. Vì lợi ích của mình, người lao động sẽ đấu tranh đòi
tăng lương, giảm giờ làm, bãi công, ...
– Quan hệ lợi ích giữa doanh nghiệp với nhau:
+ Là một khái niệm liên quan đến sự tương tác và phụ thuộc giữa các
doanh nghiệp trong cùng một ngành hoặc ngành khác nhau. Các doanh
nghiệp có thể có quan hệ lợi ích cạnh tranh hoặc hợp tác, tùy thuộc vào
các mục tiêu và lợi ích của mỗi bên.
+ Sự thống nhất: là một quá trình cần thiết để đảm bảo sự phát triển bền
vững của kinh tế và toàn xã hội. Để đạt được sự thống nhất này, các
doanh nghiệp cần hợp tác với nhau để đạt được các mục tiêu và lợi ích
chung, đồng thời giải quyết các mâu thuẫn và xung đột giữa các bên.
+ Sự mâu thuẫn: là một tình trạng khi các doanh nghiệp có lợi ích trái
ngược nhau hoặc không thể đạt được sự thỏa hiệp trong quá trình hợp tác. lOMoAR cPSD| 61557118
– Quan hệ lợi ích giữa người lao động với nhau: Nếu có nhiều người bán sức lao động,
người lao động phải cạnh tranh với nhau. Hậu quả là tiền lương của người lao động bị
giảm xuống, một bộ phận người lao động bị sa thải. Nếu những người lao động thống
nhất được với nhau họ có thể thực hiện được yêu sách của mình (ở một chừng mực
nhất định) đối với doanh nghiệp.
• Xét theo chiều dọc, với các cấp độ thì có:
– Quan hệ lợi ích cá nhân: là những lợi ích mà một cá nhân đạt được từ hoạt động
kinh doanh hoặc hoạt động sản xuất. Đây có thể là tiền lương, lợi nhuận, tài sản,
hoặc các lợi ích khác mà cá nhân đạt được từ việc tham gia vào hoạt động kinh tế.
– Quan hệ lợi ích nhóm: là những lợi ích mà một nhóm người đạt được từ hoạt
động kinh doanh hoặc hoạt động sản xuất. Ví dụ, một công ty có thể cung cấp lợi
ích cho các nhân viên của nó bằng cách cung cấp mức lương và phúc lợi hợp lý,
hoặc bằng cách cung cấp một môi trường làm việc tốt. Lợi ích nhóm cũng có thể
bao gồm các lợi ích cho khách hàng, cổ đông và cộng đồng.
– Quan hệ lợi ích xã hội: là những lợi ích mà xã hội đạt được từ hoạt động kinh
doanh hoặc hoạt động sản xuất. Đây có thể là các lợi ích cho môi trường, sức khỏe
công cộng, văn hóa và giáo dục, và các lợi ích khác mà xã hội đạt được từ việc
tham gia vào hoạt động kinh tế.
– Cả người lao động và nhà tự bản đều có cho mình những lợi ích cá nhân và có
quan hệ chặt chẽ với lợi ích xã hội. Khi mỗi cá nhân, trên con đường thực hiện lợi
ích kinh tế của mình, tuân thủ theo đúng các quy định pháp luật, thì đã góp phần
thực hiện lợi ích kinh tế xã hội, và khi đó xã hội phát triển sẽ lại tạo lập môi trường
tốt hơn để mỗi cá nhân thực hiện lợi ích kinh tế của mình. Khi các cá nhân, tổ
chức có chung mục tiêu lợi ích kinh tế thì liên kết với nhau tạo lên “lợi ích nhóm”.
“Lợi ích nhóm” nếu phù hợp với lợi ích cộng đồng thì cũng đóng góp cho sự phát
triển xã hội. Ngược lại, nếu những lợi ích cá nhân hay những lợi ích nhóm mà
không tuân thủ đúng theo pháp luật, có những thủ đoạn xấu để thực hiện lợi ích
kinh tế của mình sẽ gây ảnh hưởng xấu đến xã hội và cần bị loại trừ.
Chỉ ra phương thức giải quyết quan hệ lợi ích kinh tế
– Phương thức cạnh tranh: Các chủ thể ganh đua, giành giật lợi ích, ưu thế kinh
tế. Phương thức cạnh tranh có thể giúp tạo ra những lợi ích cho các bên liên quan.
Với các doanh nghiệp, phương thức cạnh tranh có thể thúc đẩy năng suất và sáng
tạo, giúp tăng doanh số bán hàng và lợi nhuận. Ngược lại, các doanh nghiệp cũng
có thể cố gắng đẩy đối thủ ra khỏi thị trường bằng cách sử dụng các phương pháp
cạnh tranh không minh bạch hoặc bất hợp pháp.