lOMoARcPSD| 58794847
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................................
I .CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ................................................................... 1
1 . Khái niệm về chứng cứ ............................................................................................... 1
2. Các thuộc tính của chứng cứ ........................................................................................ 1
2.1. Tính khách quan .................................................................................................... 1
2.2. Tính liên quan ........................................................................................................ 2
2.3. Tính hợp pháp ........................................................................................................ 2
3. Phân loại chứng cứ ....................................................................................................... 3
II. CÁC LOẠI NGUỒN CHỨNG CỨ VÀ NGUYÊN TẮC XÁC ĐỊNH CHỨNG CỨ ... 3
1.Khái niệm và các loại nguồn chứng cứ ......................................................................... 3
2. Nguyên tắc xác định chứng cứ từ các nguồn chứng cứ ............................................... 4
3. Các loại nguồn chứng cứ ............................................................................................. 8
3.1 Các tài liệu đọc được nội dung ............................................................................... 8
3.2 các tài liệu nghe được, nhìn được ......................................................................... 10
3.3 Vật chứng.............................................................................................................. 11
3.4 Lời khai của đương sự, người làm chứng............................................................. 12
3.5 Kết luận giám định ............................................................................................... 12
3.6 Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ ................................................................ 13
3.7 Tập quán ............................................................................................................... 15
3.8 Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản ..................................................... 16
III. LIÊN HỆ BẢN ÁN ..................................................................................................... 19
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 21
lOMoARcPSD| 58794847
LỜI MỞ ĐẦU
Chứng minh và chứng cứ là vấn đề chủ đạo của mọi thủ tục tố tụng chứ không chỉ riêng tố
tụng dân sự. Chất lượng hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ và chứng minh quyết định
kết quả giải quyết một vụ việc đúng đắn, chính xác, công minh, khách quan đúng
pháp luật hay không.
Chứng cứ vấn đề trung tâm quan trọng trong Tố tụng dân sự. Mọi hoạt động trong
quá trình chứng minh chủ yếu xoay quanh vấn đề chứng cứ, mọi giai đoạn của Tố tụng dân
sự mở ra, kết thúc và kết quả đều phụ thuộc phần lớn vào chứng cứ. Dựa vào chứng cứ mà
các đương sự sở xác đáng chứng minh bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và
các cơ quan tiến hành tốt tụng cũng xem xét được tính đúng đắn của sự việc để bảo vệ lợi
ích của người dân và bảo vệ pháp luật.
Vậy vấn đề chứng cứ trong tố tụng dân sự được quy định ra sao? Các loại nguồn chứng cứ
nguyên tắc xác định chứng cứ trong tố tụng dân sự như thế nào? Nhóm 7 sẽ làm
những vấn đề này trong bài Các loại nguồn chứng cứ nguyên tắc xác định chứng cứ
trong tố tụng dân sự”.
I .CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1 . Khái niệm về chứng cứ
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 lần đầu tiên đưa ra định nghĩa về chứng cứ tại Điều 81:
Chứng ctrong vụ việc dân sự những có thật được đương sự nhân, quan,
tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc di Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do
bộ luật Ttụng dân sự quy định Tòa án dung làm căn cứ để xác định yêu cầu hay s
phản đối của đương sự căn cứ hợp pháp hay không, cũng như những tình tiết khác
cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự”.
Nói 1 cách ngắn gọn, chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được thu thập theo
trình tự do pháp luật tố tụng dân sự quy định mà Tòa án dung làm căn cứ để giải quyết vụ
việc dân sự.
2. Các thuộc tính của chứng cứ.
Chứng cứ có 3 thuộc tính cớ bản:
2.1. Tính khách quan.
Chứng cứ sở để nhận thức, xác định sự tồn tại của các tình tiết, sự kiện cần
chứng minh trong vụ việc dân sự, do đó phải mang tính khách quan, tức tồn tại
một cách khách quan bên ngoài ý chí chủ quan của con người, không bị cấu, xuyên
tạc, sửa chữa theo ý muốn của con người. Các chủ thể tố tụng không thể tự tạo ra chứng cứ
mà chỉ có thể thu thập, nghiên cứu, đánh giásử dụng chứng cứ. Do vậy, nhưng tin tức,
dấu vết chứa đựng trong các vật, tài liệu…mà không bảo đảm tính khách quan thì không
được sử dụng làm chứng cứ để giải quyết vụ việc dân sự. Yêu cầu về tính khách quan của
chứng cứ loại trừ những tài liệu, vật chứng bị giả mạo, lời khai gian dối, không đúng sự
thực của đương sự, người làm chứng…
VD: A cho B vay tiền để đầu tư, và yêu cầu B thế chấp ngôi nhà là tài sản chung vợ, chồng
B để đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ. Biết chồng mình sẽ không đồng ý, B giả chữ của
chồng trong hợp đồng thế chấp nhà. Đến hạn B không trả được nợ, A khởi kiện yêu cầu
Tòa án buộc B trả nợ cho xử tài sản thế chấp ngôi nhà, nhưng chồng B phản đối
việc bán nhà để trả nợ. A xuất trình hợp đồng thế chấp có chữ kí của B và chồng B.
Tuy nhiên, do có việc giả mạo chữ nên a án không thể dựa vào nội dung bản hợp đồng
đó để xác định sự kiện cả hai vợ chồng B đã thế chấp ngôi nhà cho A, bởi thông tin chứa
đựng trong bản hợp đồng đó không mang tính khách quan, không đúng sự thật.
2.2. Tính liên quan.
Chứng cứ có tính lien quan bởi nó là căn cứ để Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, vì
vậy, giữa chứng cứ các tình tiết, sự kiện cần chứng minh trong vviệc dân sự phải
mối lien quan với nhau, có thể là lien quan trực tiếp hoặc là lien quan gián tiếp. Những tin
tức, dấu vết tồn tại khách quan, thật những nếu không lien quan tới vụ việc dân sự,
không giúp Tòa án xác định có hay không sự tồn tại của c tình tiết, sự kiện cần chứng
minh trong vụ việc dân sự, thì không được coi là chứng cứ.
Căn cứ vào thuộc tính lien quan của chứng cứ, trong quá trình giải quyết vụ việc
dân sự, a án có thể loại bỏ được những tin tức, nội dung không lien quan đến vụ việc để
đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc được nhanh chóng, đúng đắn. Việc xác định tính lien
quan của chứng cứ phải căn cứ vào đối tượng chứng minh trong vụ việc dân sự.
VD: A B tranh chấp nhau về tài sản thừa kế. A xuất trình được bản di chúc của
người để lại di sản với nội dung để lại toàn bộ tài sản cho A. Sau quá trình giám định, điều
tra kết luận bản di chúc hoàn toàn chính xác. thế bản di chúc được coi chứng cứ để
xác định tranh chấp tài sản thừa kế giữa AB.
2.3. Tính hợp pháp.
Tính hợp pháp của chứng cứ có nghĩa là chứng cứ phải được rút ra từ những nguồn
nhất định do pháp luật quy định, quá trình thu thập, nghiên cứu, đánh giá, sử dụng chứng
cứ phải được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật.
Nếu như thiếu thuộc nh này, việc thu thập, đánh giá chứng cứ sẽ dễ dàng bị các
chủ thể tố tụng lạm dụng, không bảo đảm tính đúng đắn, công bằng của thủ tục tố tụng,
ảnh hưởng đên quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự và các chủ thể khác.
Những tin tức, dấu vết chứa đựng trong vật, tài liệu hay các phương tiện phản ánh khác
chỉ được sử dụng chứng cứ nếu chúng thảo mãn đầy đủ 3 thuộc nh này. Ba thuộc tính
có quan hệ biện chứng với nhau tạo nên 1 hệ thống nhất của chứng cứ, trong đó tính khách
quan và tính lien quan tọa nên mặt nội dung của chứng cứ, còn tính hợp pháp mặt hình
thức của chứng cứ.
3. Phân loại chứng cứ.
Chứng cứ có thể được phân loại nhiều cách, dựa trên những tiêu chí khác nhau.
Dựa vào nguồn chứng cứ, chứng cứ được phân loại thành: chứng ctheo vật
chứng cứ theo người.
Dựa vào mức độ lien quan của chứng cứ với các tình tiết, sự kiện cần chứng minh
trong vụ việc dân sự, chứng cứ được chia thành: chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp.
Dựa vào cách thức tạo thành chứng cứ, chứng cứ được chia thành: chứng cứ gốc và
chứng cứ sao lại, thuật lại.
Dựa vào hình thức thể hiện của chứng cứ, chứng cứ được chia thành: chứng cứ viết
và chứng cứ miệng.
Thông thường, chứng cứ theo vật, chứng cứ trực tiếp, chứng cứ gốc và chứng cứ viết
giá trị chứng minh cao hơn.
II. CÁC LOẠI NGUỒN CHỨNG CỨ VÀ NGUYÊN TẮC XÁC ĐỊNH CHỨNG CỨ
1.Khái niệm và các loại nguồn chứng cứ
Nguồn chứng cứ là nơi rút ra các chứng cứ, bao gồm người, vật, tài liệu chứa đựng tin tức,
dấu vết về các tình tiết , sự kiện cần chứng minh trong vụ việc dân sự.
Việc phân biệt các nguồn chứng cứ ý nghĩa quan trọng trong việc xác định độ tin cậy và
giá trị chứng minh của từng loại chứng cứ.
Đối với chứng cứ được rút ra từ vật, tài liệu và các phương tiện vật chất khác, do tính chất
tồn tại khách quan của các nguồn này, ít bị chi phối bởi ý chí chủ quan của con người nên
chứng cứ rút ra độ tin cậy cao, việc đánh gsử dụng các chứng cứ này ít phức tạp
hơn.
Đối với chứng cứ rút ra từ con người như đương sự, người làm chứng, việc đáng giá sử
dụng chúng khá phức tạp bởi lời khai của đương sự, người làm chứng bị chi phối bởi nhiều
yếu tố chủ quan như khả năng nhớ, nhận thức trình bày của mỗi người, lợi ích, tâm lý,
thái độ, định kiến của họ đối với vụ việc.
Điều 82 BLTTDS năm 2004 ( sửa đổi bổ sung năm 2011) liệt các loại nguồn chứng cứ
sau đây:
Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được
Các vật chứng
Lời khai của đượng sự
Lời khai của người làm chứng
Kết luận giám định
Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ
Tập quán
Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản Các nguồn khác pháp luật
quy định
2. Nguyên tắc xác định chứng cứ từ các nguồn chứng cứ
Khi các đương sự đã tiếp cận được hay nắm giữ được nguồn chứng cứ không có nghĩa các
tin tức được rút ra từ nguồn đó đương nhiên được coi là chứng cứ và được Tòa án sử dụng
làm căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự, mà khi các bên cung cấp chứng cứ cho Tòa án còn
phải tuân thủ chặt chẽ các yêu cầu về xác định chứng cứ được quy định tai Điều 83 Bộ
Luật Tố Tụng Dân Sự 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) Điều 3 Nghị quyết số
04/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa an nhân dân tối cao
hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về “Chứng minh và chứng
cứ”.
- Xác định chứng cứ ( điều 83 – bộ luật TTDS 2004)
1. Các tài liệu đọc được nội dung được coi chứng cứ nếu bản chính hoặc bản sao
cócông chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp,
xác nhận.
2. Các tài liệu nghe được, nhìn được được coi chứng cứ nếu được xuất trình kèm theovăn
bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm,
thu hình đó.
3. Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc.
4. Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu đượcghi
bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình theo quy định tại
khoản 2 Điều này hoặc khai bằng lời tại phiên tòa.
5. Kết luận giám định được coi chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến hành theođúng
thủ tục do pháp luật quy định.
6. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được coi chứng cứ nếu việc thẩm định đượctiến
hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định và có chữ ký của các thành viên tham gia
thẩm định.
7. Tập quán được coi là chứng cứ nếu được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa nhận.
8. Kết quả định giá tài sản được coi chứng cứ nếu việc định giá được tiến hành theo
thủtục do pháp luật quy định hoặc văn bản do chuyên gia về giá cả cung cấp theo quy
định tại khoản 1 Điều này.
- Điều 3 Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP:
Xác định chứng cứ quy định tại Điều 83 của BLTTDS
1. Theo quy định tại Điều 81 của BLTTDS, tmột trong những điều kiện của chứng
cứ là phải được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tán hoặc do
Tán thu thập được theo trình tự, thủ tục do BLTTDS quy định; do đó, việc giao nộp
chứng cứ việc thu thập chứng cứ phải thực hiện theo đúng quy định tại các điều luật
tương ứng của BLTTDS và hướng dẫn tại Nghị quyết này.
2. Để được coi là chứng cứ quy định tại Điều 81 của BLTTDS, thì việc xác định chứng
cứtừ từng loại nguồn chứng cứ cụ thể như sau:
a) Các tài liệu đọc được nội dung phải bản chính hoặc bản sao công chứng,
chứngthực hợp pháp hoặc do quan, tổ chức thẩm quyền cung cấp, xác nhận. Bản
chính có thể là bản gốc hoặc bản được dùng làm cơ sở lập ra các bản sao.
b) Các tài liệu nghe được, nhìn được phải được xuất trình kèm theo văn bản xác
nhậnxuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó.
Các tài liệu này thể băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, phim, nh,…
Nếu đương sự không xuất trình các văn bản nêu trên, thì tài liệu nghe được, nhìn được mà
đương sự giao nộp không được coi là chứng cứ.
Ví dụ 1: Trong vụ tai nạn giao thông, người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người
bị hại được một người cung cấp băng ghi hình về hiện trường vụ tai nạn giao thông. Trong
trường hợp này, cùng với việc giao nộp băng ghi hình đó, người bị hại hoặc người đại diện
hợp pháp của người bị hại phải xuất trình cho Toà án bản xác nhận của người đã cung cấp
cho mình về xuất xứ của băng ghi hình đó.
dụ 2: Ông A cho ông B vay năm triệu đồng với thời hạn 12 tháng. Việc vay tài sản không
lập thành văn bản, nhưng được ông A ghi âm lại toàn bộ nội dung thoả thuận về việc vay
tài sản, việc giao nhận tiền thời điểm thanh toán nợ giữa ông A ông B để làm bằng
chứng cho việc vay tài sản của ông B. Đến hạn trả nợ, ông B không trả số tiền đó cho ông
A. Ông A khởi kiện ông B ra Tán. Trong trường hợp này, cùng với việc giao nộp băng
ghi âm, ông A phải gửi văn bản trình bày về sự việc liên quan tới việc thu âm đó.
c) Vật chứng phải hiện vật gốc liên quan đến vụ việc dân sự; nếu không phải
hiệnvật gốc hoặc không liên quan đến vviệc thì không phải là chứng cứ trong vụ việc
dân sự đó.
d) Lời khai của đương sự, lời khai của người m chứng nếu được ghi bằng văn bản,
băngghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình được xuất trình theo đúng thủ tục
quy định tại khoản 2 Điều 83 của BLTTDS hướng dẫn tại khoản 2 Điều này hoặc khai
bằng lời tại phiên toà.
đ) Kết luận giám định, nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục quy định
của Luật Giám định pháp, các văn bản quy phạm pháp luật liên quan hướng dẫn tại
Điều 10 của Nghị quyết này.
e) Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ, nếu việc thẩm định tại chỗ được tiến hành
theođúng thủ tục quy định tại Điều 89 của BLTTDS hướng dẫn tại Điều 9 của Nghị
quyết này.
g) Tập quán, nếu được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa nhận.
Cộng đồng tập thể những người cùng sống, những điểm giống nhau, gắn thành
một khối trong sinh hoạt xã hội tại nơi có tập quán.
Tập quán thói quen đã thành nếp trong đời sống hội, trong sản xuất sinh hoạt
thường ngày, được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa nhận và làm theo như một quy ước
chung của cộng đồng.
Tập quán thương mại thói quen được thừa nhận rộng rãi trong hoạt động thương mại
trên một ng, miền hoặc một lĩnh vực thương mại, có nội dung rõ ràng được các bên thừa
nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại;
Tập quán thương mại quốc tế là thông lệ, cách làm lặp đi, lặp lại nhiều lần trong buôn bán
quốc tế và được các tổ chức quốc tế có liên quan thừa nhận;
Chỉ chấp nhận tập quán không trái pháp luật, đạo đức hội. Đối với những vấn đề
đương sự viện dẫn tập quán nhưng đã có văn bản quy phạm pháp luật quy định, thì Toà án
phải áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó để giải quyết mà không áp dụng
tập quán.
Ví dụ: Trong một số đồng bào dân tộc thiểu số có tập quán khi người mẹ chết, chỉ các con
gái có quyền, còn các con trai không có quyền hưởng phần di sản của người mẹ quá cố để
lại. Trong vụ tranh chấp di sản thừa kế do người mẹ để lại, nếu người con gái viện dẫn tập
quán đó để bác bỏ quyền thừa kế của các thừa kế là con trai, thì tập quán này không được
chấp nhận. đây tập quán lạc hậu về hôn nhân gia đình cần vận động xoá bỏ theo
quy định tại phụ lục B “Danh mục phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình của
các dân tộc bị nghiêm cấm áp dụng hoặc cần vận động xoá bỏ” ban hành kèm theo Nghị
định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27-3-2002 của Chính phủ quy định việc áp dụng Luật n
nhân và Gia đình đối với các dân tộc thiểu số.
h) Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản nếu việc định giá tài sản được tiến hành
theo đúng thủ tục quy định tại Điều 92 của BLTTDS.
3. Đương sự giao nộp cho Tán chứng cứ bằng tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài
phải kèm theo bản dịch sang tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp. Trong
trường hợp đương sự chưa dịch chứng cứ đó sang tiếng Việt hoặc đã dịch sang tiếng Việt
nhưng bản dịch chưa được công chứng, chứng thực hợp pháp, thì T án không nhận chứng
cứ đó. Tán giải thích cho đương sự biết họ phải tiến hành việc dịch chứng cứ sang
tiếng Việt làm thủ tục công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật về công
chứng, chứng thực.
3. Các loại nguồn chứng cứ
3.1 Các tài liệu đọc được nội dung
Các tài liệu đọc được nội dung ( ví dụ: giấy khai sinh, hợp đồng ủy quyền, di chúc, hợp
đồng…) phải bản chính hoặc bản sao ng chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do
quan tổ chức có thẩm quyền cung cấp xác nhận.
“Theo Khoản 1 Điều 83 BLTTDS 2003 như sau:
1. Các tài liệu đọc được có nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao
công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do quan, tổ chức thẩm quyền cung cấp
xác nhận.”
a. Tài liệu được ghi trên giấy.
Bản chính có thể là bản gốc hoặc bản được dùng làm cơ sở để lập ra bản sao
dụ: Đương sự bị mất bằng tốt nghiệp cấp 3 ( trung học phổ thông bị mất bản chính),
nhưng xuất trình được giấy bản sao bằng tốt nghiệp cấp 3 được bộ giáo dục cấp cho cùng
với bản chính nhưng trên bằng có ghi chú bản sao. Bản sao này được coi là bản chính thay
cho bản chính bằng tốt nghiệp đã bị mất, được dùng làm sở để lập ra các bản sao bằng
tốt nghiệp khác được sử dụng vào các công việc cần thiết tương đương với sử dụng bằng
tốt nghiệp bản chính.
b. Tài liệu ghi dưới dạng dữ liệu thông tin
Tuy hiện nay rất nhiều loại tài liệu đọc được nội dung nhưng hiện nay pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam lại chưa quy định cụ thể đối với loại tài liệu đọc được là dữ liệu điện
tử mặc loại hình dữ liệu này đang phổ biến thịnh hành trong thời buổi công nghiệp
hóa hiện đại hóa hiện nay như email, đơn đặt hàng điện tử, hay trang web thì hiện nay cách
xác định các thông tin chứa đựng trong các nguồn đó là chứng cứ như thế nào thì hiện nay
vẫn vấn đề các nhà làm luật băn khoăn để tìm ra câu trlời. Thực trạng Internet
Việt Nam cũng như trên toàn thế giới hiện nay đang phát triển rất mạnh mẽ. Bởi vậy
mà các loại hình chứng cứ điện tử như hợp đồng điện tử, thư điện tử (email) sẽ ngày càng
phổ biến. Mặc không được quy định trong luật tố tụng nhưng trên thực tế, các Tòa án
vẫn chấp nhận thông tin trong email là chứng cứ.
dụ: Bản án số: 1044/2012/KSTM-ST ngày 23/7/2012 của Tòa án nhân Thành phố Hồ
Chí Minh về đòi bồi thường trong vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, Tòa án đã n
cứ vào các email trao đổi giữa các bên để giải quyết vụ án.( tớ không tìm được bản án nào
trên mạng cả nên t lấy luôn bản án giao cho nhóm 2,3 làm nhưng lại thấy hoàn
toàn giống như trong ví dụ mẫu trong giáo trình ý. C xem rồi chỉnh giúp t với)
Tuy nhiên cũng trường hợp Tòa án không chấp nhận chứng cứ đương sự cung
cấp chỉ bản in email từ máy tính được truy cập từ máy chủ nước ngoài không
xác nhận xuất xứ khởi tạo, không có công chứng, chứng thực hợp pháp.
c. Ngôn ngữ trong tài liệu chứng cứ
Vấn đề về ngôn ngữ cũng vấn đề được quan tâm trong luật tố tụng dân sự. Trường
hợp đương sự giao nộp cho Tòa án chứng cứ bằng tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước
ngoài thì phải kèm theo bản dịch sang tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp
pháp. Trong trường hợp đương sự chưa dịch chứng cứ đó sang Tiếng Việt hoặc đã dịch
sang Tiếng Việt bản dịch đó chưa được công chứng, chứng thực hợp pháp, thì tòa án
không công nhận chứng cứ đó, giải thích cho đương sự biết họ phải tiến hành việc
dịch chứng cứ sang tiếng Việt làm thủ tục công chứng, chứng thực theo quy định của
pháp luật về công chứng, chứng thực.
Trong thực tế việc đồng nhất ngôn ngữ điểm các đương sự cần đặc biệt lưu ý,
nhất là đối với những tranh chấp yếu tố nước ngoài mà trong quá trình giải quyết, Tòa
án cần thiết sử dụng c chứng cứ bằng tiếng nước ngoài. Tuy nhiên, nhiều trường
hợp Hội đồng t xử giám đốc thẩm đã hủy bản án thẩm hoặc phúc thẩm hoặc phúc
thẩm đã dựa vào chứng cứ là bản hợp đồng gốc bằng tiếng nước ngoài không có bản dịch
tiếng Việt có công chứng, chứng thực hợp pháp để giải quyết vụ việc dân sự.
3.2 các tài liệu nghe được, nhìn được
Các tài liệu nghe được, nhìn được ( ví dụ: phim, ảnh, băng ghi hình, băng ghi âm, đĩa
ghi âm, đĩa ghi hình) phải được xuất trình kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu
đó hoặc văn bản về sự việc liên quan đến thu âm, thu hình đó. Nếu đương sự không suất
trình các văn bản nêu trên thì tài liệu nghe được, nhìn được mà đương sự giao nộp không
được coi là chứng cứ.
Theo Khoản 2 Điều 83 BLTTDS 2003 quy định như sau: “Các tài liệu nghe được, nhìn
được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài
liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan đến việc thu âm, thu hình đó.”
a. Người thứ ba có tài liệu ghi âm, ghi hình.
Trong trường hợp này việc người thứ ba cung cấp chứng cứ cho đương sự để được Tòa
án công nhận thì người đó phải nộp cho tòa chứng cứ đó cùng với văn bản xác nhận về
nguồn gốc của tài liệu ghi âm ghi hình đó.
dụ: Trong một cửa hàng bán điện thoại di động nhỏ ở ngoại ô thành phố có xảy ra vụ
án trộm đồ trong của hàng. Trong lúc thiếu cảnh giác của B chủ của hàng lúc đông khách
vào hỏi xem và mua hàng thì A lợi dụng sơ hở đó đã lấy cắp chiếc điện thoại và bỏ trốn. C
khách đến sửa máy trong lúc kiểm tra máy đã sửa camera xem đã được chưa tlúc kiểm
tra tình cờ anh C đã chụp được ảnh tên trộm đã vào ăn trộm chiếc điện thoại. B khởi kiện
A đòi bồi thường thiệt hại nhờ C cung cấp bức ảnh đó để m chứng cứ chứng minh A
phạm tội. Tuy nhiên để bức ảnh được Tòa án chấp nhận làm chứng cứ, B phải nộp cho Tòa
án cuộn băng kèm theo văn bản xác nhận của C về xuất xứ của bức ảnh đó.
b. Đương sự là người trực tiếp thực hiện ghi âm, ghi hình chứng cứ.
Trong trường hợp này thì đương sự phải giao nộp băng ghi âm, ghi hình kèm theo văn
bản trình bày của đương sự về sự việc ghi âm, ghi hình đó để trình lên Tòa án xem xét
chấp nhận là chứng cứ hay không.
Ví dụ: Tiệm vàng A chủ quán B một hôm C (con nghiện nhiều năm vùng khác
mới đến) vào tiệm của A giả vờ mua vàng nhưng thực chất hắn mang hung khí trong
người. Hắn đã quan sát rất kĩ đợi khi tiệm A chỉ có B hắn vào và lấy dao bắt đưa vàng cho
hắn không thì hắn giết. B sợ quá lên phải làm như lời hắn. May sao cửa hàng lắp
camera lên đã quay hết được toàn bộ sự việc. Vụ việc xảy ra B báo cho quan ng an
và kiện C ra tòa đòi bồi thường thiệt hại đồng thời cũng đưa cuộn băng ghi hình đó và
tờ trình về xuất xứ của cuộn băng đó.
3.3 Vật chứng
Vật chứng được pháp luật quy định nguồn chứng cứ tồn tại trong chính bản thân
là chứng cứ của vụ án, nó chỉ chứa đựng chứng cứ chứ nó không phải là chứng cứ.
Ví dụ: A kiện B đòi bồi thường chiếc xe bị hư - ở đây chiếc xe hư là vật chứng còn những
hư hỏng của xe là chứng cứ.
Như vậy vật chứng phải luôn là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc dân sự thì mới có giá trị
pháp lý, nếu không phải hiện vật gốc hoặc không liên quan đến vviệc thì không phải
là chứng cứ trong vụ việc dân sự đó. Việc nghiên cứu vật chứng cho phép Tòa án xác định
những đặc điểm riêng về hình dạng, tính chất, vật lý, hóa học… của vật, các dấu vết đặc
thù trên vật để từ đó rút ra chứng cứ cần thiết làm sáng tỏ các tình tiết, sự kiện cần chứng
minhtrong vụ việc dân sự. Giá trị chứng minh của vật chứng thể hiện tính đặc định của
vật đó, khác biệt với các vật cùng loại. vậy, vật chứng cần phải được bảo quản tốt để
giữ gìn tính đặc định của chúng.
3.4 Lời khai của đương sự, người làm chứng
Đương sự là người tham gia vào sự việc nên biết được nhiều vấn đề liên quan đến vụ việc
dân sự. Việc lấy lời khai của đương sự, người làm chứng sẽ giúp cho Tòa án làm được
các tình tiết của vụ việc dân sự. Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được
coi chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình
được xuất trình theo đúng thủ tục quy định đối với tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được
như trên. Lời khai của các chủ thể trên tại phiên tòa đương nhiên được sử dụng làm chứng
cứ do có sự chứng kiến của tất cả các chủ thể tố tụng mặt tại phiên tòa và được ghi nhận
trong biên bản phiên tòa.
3.5 Kết luận giám định.
Kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng
thủ tục quy định tại Luật giám định pháp 2012 hướng dẫn tại Điều 3 Nghị quyết
04/2012/NQ-HDTP.
Kết luận giám định một nguồn chứng cứ quan trọng làm sở cho việc giải quyết vụ
việc dân sự, nhất đối với những vụ việc đòi hỏi kiến thức chuyên môn sâu, thậm chí
trong một số trường hợp, kết luận giám định tính chất quyết định đối với việc ra phán
quyết của Tòa Án.
Vd: Trong các vụ án tranh chấp dân sự về quyền sở hữu trí tuệ hiện nay, chẳng hạn như vụ
TAND TP Hồ Chí Minh ngày 11/9/2012 xử thẩm vụ án “Tranh chấp về quyền sở hữu
trí tuệ” giữa nguyên đơn là Cty TNHH MTV xuất nhập khẩu và phát hành phim Việt Nam
(Fafim Việt Nam) bị đơn Cty TNHH Thương mại dịch vụ quảng cáo Ảnh Vương (Cty
Ảnh ơng).Tòa án đều phải dựa vào kết luận giám định để định hành vi xâm phạm
bản quyền phim của công ty Ảnh Vương cũng như xác định thiệt hại do hành vi đó gây ra.
3.6 Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ.
Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được coi chứng cứ nếu việc thẩm định tại chỗ
được tiến hành theo đúng thủ tục quy định tại Điều 89 của BLTTDS Điều 9 của Nghị
quyết 04/2012/NQ-HĐTP.
Theo Điều 89 của BLTTDS - Xem xét, thẩm định tại chỗ.
Việc xem xét, thẩm định tại chphải do thẩm phán tiến nh với sự mặt của đại diện
Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc cơ qan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định và
phải báo trước cho việc xem xét, thẩm định đó.
Việc xem xét, thẩm định tại chỗ phải được ghi thành biên bản. Biên bản phải ghi kết quả
xem xét, thẩm định, mô tả rõ hiện trường, có chữ kí chữ kí của người xem xét, thẩm định
và chữ hoặc điểm chỉ của đương sự nếu họ có mặt, của đại diện Ủy ban nhân dân cấp
hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định và những người khác được
mời tham gia việc xem xét, thẩm định phải yêu cầu đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc
cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định kí tên và đóng dấu xác nhận.
Xem xét, thẩm định tại chỗ quy định tại Điều 89 của BLTTDS.( Điều 4-nghị quyết 04/2012)
1. Khi đương sự có yêu cầu hoặc khi xét thấy việc xem xét, thẩm định tại chỗ là cần thiết
cho việc giải quyết đúng vụ án, thì Thẩm phán ra quyết định tiến hành xem xét, thẩm
định tại chỗ.
2. Quyết định xem xét, thẩm định tại chỗ phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm ra quyết định và tên Toà án ra quyết định;
b) Đối tượng và những vấn đề cần xem xét, thẩm định tại chỗ;
c) Thời gian, địa điểm tiến hành việc xem xét, thẩm định tại chỗ.
3. Quyết định xem xét, thẩm định tại chỗ phải được gửi cho Uỷ ban nhân dân cấp xãhoặc
cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định kèm theo văn bản đề nghị Uỷ
ban nhân dân hoặc cơ quan, tổ chức cử đại diện tham tổ chức, thì Thẩm phán phải liên
hệ để họ mặt. Trong trường hợp vắng mặt đại diện của Uỷ ban nhân dân hoặc
quan, tổ chức, thì Thẩm phán hoãn việc xem xét, thẩm định tại chỗ.
4. Quyết định xem xét, thẩm định tại chỗ phải được giao hoặc gửi cho đương sự để
họbiếtvà chứng gia việc xem xét, thẩm định tại chỗ. Vào ngày, giờ đã định trong quyết
định xem xét, thẩm định tại chỗ, nếu chưa có đại diện của Uỷ ban nhân n hoặc cơ
quan,
kiến việc xem xét, thẩm định tại chỗ. Tuy nhiên, nếu đương sự vắng mặt thì việc xem
xét, thẩm định tại chỗ vẫn được tiến hành theo thủ tục chung.
5. Thẩm phán tự mình hoặc Thư Tán ghi biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ.
Biênbản phải làm đúng quy định tại khoản 2 Điều 89 của BLTTDS.
6. Nếu người nào cản trở T án tiến hành việc xem xét, thẩm định tại chỗ, thì
Thẩmphán yêu cầu đại diện của Uỷ ban nhân dân hoặc quan, tổ chức biện pháp
can thiệp, hỗ trợ kịp thời để thực hiện việc xem xét, thẩm định tại chỗ. Trong trường
hợp cần thiết, Thẩm phán yêu cầu lực lượng Cảnh sát bảo vệ hỗ trợ pháp thuộc
Công an nhân n thẩm quyền để các biện pháp can thiệp, hỗ trợ, theo quy định
tại Thông số 15/2003/TT-BCA(V19) ngày 10-9-2003 của Bộ Công an hướng dẫn
hoạt động hỗ trợ pháp của lực ợng Cảnh sát bảo vệ hỗ trợ pháp thuộc Công
an nhân dân.
7. Trường hợp đã thực hiện đầy đủ các biện pháp được hướng dẫn tại khoản 6 Điều nàymà
vẫn không tiến hành được, thì Thẩm phán lập biên bản về việc đương sự cản trở việc
xem xét, thẩm định tại chỗ để lưu vào hồ vụ án. Biên bản về việc đương sự cản trở
việc xem xét, thẩm định tại chỗ, đồng thời, phải được gửi cho quan thẩm quyền
xem xét, xử lý theo pháp luật về hành vi chống người thi hành công vụ của đương sự.
Vd: Để vụ kiện mất xe tại nhà hàng My Way sớm kết thúc, Lê Thị Khanh, thẩm phán
TAND quận Cầu Giấy đã quyết định xem xét, thẩm định tại chỗ hiện trường vụ án tại
tòa nhà 24T2 đường Hoàng Đạo Thúy, Phường Trung Hòa, Quận Cầu Giấy ngagy 9/2/2012
với sự tham gia của đại diện UBND phường Trung Hòa, đại diện các đương sự trong vụ
kiện.
3.7 Tập quán
Tập quán được coi là chứng cứ nếu được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa nhận.
Cộng đồng tập thể những người cùng sống, những điểm giống nhau, gắn thành
một khối trong sinh hoạt xã hội tại nơi có tập quán.
Tập quán thói quen đã thành nếp trong đời sống hội, trong sản xuất sinh hoạt
thường ngày, được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa nhận và làm theo như một quy ước
chung của cộng đồng.
Tập quán thương mại thói quen được thừa nhận rộng rãi trong hoạt động thương mại
trên một ng, miền hoặc một lĩnh vực thương mại, có nội dung rõ ràng được các bên thừa
nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại;
Tập quán thương mại quốc tế là thông lệ, cách làm lặp đi, lặp lại nhiều lần trong buôn bán
quốc tế và được các tổ chức quốc tế có liên quan thừa nhận;
Chỉ chấp nhận tập quán không trái pháp luật, đạo đức hội. Đối với những vấn đề
đương sự viện dẫn tập quán nhưng đã có văn bản quy phạm pháp luật quy định, thì Toà án
phải áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó để giải quyết mà không áp dụng
tập quán.
Ví dụ: Trong một số đồng bào dân tộc thiểu số có tập quán khi người mẹ chết, chỉ các con
gái có quyền, còn các con trai không có quyền hưởng phần di sản của người mẹ quá cố để
lại. Trong vụ tranh chấp di sản thừa kế do người mẹ để lại, nếu người con gái viện dẫn tập
quán đó để bác bỏ quyền thừa kế của các thừa kế là con trai, thì tập quán này không được
chấp nhận. đây tập quán lạc hậu về hôn nhân gia đình cần vận động xoá bỏ theo
quy định tại phụ lục B “Danh mục phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình của
các dân tộc bị nghiêm cấm áp dụng hoặc cần vận động xbỏ” ban hành kèm theo Ngh
định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27-3-2002 của Chính phủ quy định việc áp dụng Luật Hôn
nhân và Gia đình đối với các dân tộc thiểu số.
3.8 Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản
Thẩm định giá tài sản là việc đánh giá hoặc đánh giá lại giá trị của tài sản phù hợp với thị
trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định theo tiêu chuẩn của Việt Nam hoặc thông lệ
quốc tế.
Kết quả định giá được lập thành văn bản và chỉ được sử dụng vào mục đích. Kết quả thẩm
định giá có thể được sử dụng là một trong những căn cứ để xem xét phê duyệt chi từ ngân
sách nhà ớc, tính thuế, xác định giá trị tài sản bảo đảm vay vốn ngân hàng, mua bảo
hiểm, cho thuê, chuyển nhượng, bán, góp vốn, cổ phần hóa, giải thể doanh nghiệp sử
dụng vào các mục đích khác đã được ghi trong hợp đồng thẩm định giá. Kết quả định giá
tài sản, thẩm định giá tài sản sẽ được coi chứng cứ nếu việc định giá tài sản được tiến
hành theo đúng thủ tục theo quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 sửa đổi năm
2011 và Điều 3 Nghị quyết 04/2012/NQ-HĐTP.
Việc định giá tài sản có thể do đương sự yêu cầu hoặc do tòa án tự nhận thấy sự cần thiết
của việc định giá. Hội đồng định giá sẽ được Tòa án thành lập nên với Chủ tịch Hội đồng
định giá là đại diện cơ quan tài chính và thành viên là đại diện các cơ quan chuyên môn có
liên quan. Hội đồng định giá sẽ định giá riêng từng tài sản căn cứ vào mức giá chung
của thị trường địa phương tại thời điểm định giá mà có tài sản cần định giá nhằm đảm bảo
tính đúng đắn, xác thực và công bằng cho đương sự.
Giá trị pháp lý của chúng thư thẩm định giá tài sản:
“1. một trong những căn cứ để quan nhà nước thẩm quyền xem xét, pduyệt
chi từ ngân sách nhà nước, tính thuế, xác định giá trị tài sản đảm bảo vay vốn ngân hàng,
mua bảo hiểm, cho thuê, chuyển nhượng, bán, góp vốn, cổ phần hoá, giải thể doanh
nghiệp, bồi thường và sử dụng vào các mục đích khác....
2. Để tư vấn cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giá .......
3. sở cho tổ chức, nhân nhu cầu thẩm định giá sử dụng kết quả thẩm định
giátheo mục đích...
Kết quả thẩm định giá tài sản được coi là chứng cứ nếu việc thẩm định giá được tiến hành
đúng theo quy định của pháp luật”.
Đây được xem trường hợp một trong các bên đương sự yêu cầu Tán yêu cầu tổ
chức thẩm định định giá tài sản mà các bên đang tranh chấp.
Trường hợp thứ nhất: Hai bên cùng thống nhất yêu cầu T án hợp đồng dịch vụ với
một tổ chức thẩm định giá tài sản để định giá tài sản, nhưng sau khi kết quả thẩm định
tài sản, các bên lại yêu cầu Tán ra quyết định định giá tài sản.
Đây là trường hợp hai bên thoả thuận yêu cầu Toà án thuê tổ chức dịch vụ thẩm định định
giá tài sản (lúc này Tán chưa ra quyết định định giá). Nếu sau khi chứng thư thẩm
định giá tài sản của tổ chức thẩm định giá tài sản mà các bên không đồng ý với mức giá tổ
chức thẩm định giá đưa ra và lại yêu cầu Toà án ra quyết định định giá tài sản thì Toà án
chấp nhận không? Điều 92 không quy định trường hợp y
8
. Nếu Tán chấp nhận ra
quyết định định giá tài sản, sau đó giá do hội đồng định giá tài sản lại thấp hơn hoặc
cao hơn giá của tổ chức thẩm định giá tài sản, thì Toà án lấy giá nào làm căn cứ giải quyết
vụ án? Luật chưa quy định trường hợp này, theo chúng tôi, trong trường hợp này, luật nên
quy định, nếu sau khi có quyết định thẩm định giá của tổ chức thẩm định giá các bên
vẫn yêu cầu Toà án ra quyết định định giá, thìkết quả thẩm định giá của hội đồng định
giá có như thế nào, các bên phải chấp nhận và Toà án lấy kết quả đó làm căn cứ giải quyết
vụ án, trừ trường hợp các bên thoả thuận khác. Tương tự, trong trường hợp đã kết
quả định giá của hội đồng định giá tài sản (do các bên yêu cầu), nhưng sau đó các bên vẫn
yêu cầu Tán thuê tổ chức thẩm định giá định giá tài sản tranh chấp, thì luật nên quy định
buộc các bên chấp nhận kết quả định giá của tổ chức thẩm định giá, trtrường hợp các bên
có thoả thuận khác
9
. Bởi lẽ, trong các trường hợp nêu trên đều thể hiện ý chí tự nguyện của
các bên. Nếu luật không có quy định cụ thể sẽ không có điểm dừng của vụ án.
Trường hợp thứ hai: Khi Toà án thụ lý vụ án, một bên yêu cầu Toà án ký hợp đồng dịch vụ
với một tổ chức thẩm định giá tài sản để định giá tài sản, nhưng một bên không đồng ý và
đề nghị Toà án ra quyết định định giá tài sản.
Đây được hiểu là ý chí của một bên yêu cầu Toà án ký hợp đồng (sau đây gọi là thuê) dịch
vụ với tổ chức thẩm định tài sản để thẩm định tài sản đang tranh chấp, một bên này có thể
nguyên đơn, hoặc bị đơn. Tuy nhiên, trường hợp này có thể phát sinh bên không yêu cầu
Tán thuê tổ chức thẩm định giá tài sản (gọi bên B) không chấp nhận kết quthẩm
định giá của tổ chức thẩm định giá tài sản cho bên yêu cầu (gọi bên A) cho rằng
mức giá đó là không phù hợp và yêu cầu Tán ra quyết định định giá tài sản. Để đảm tính
công bằng, bình đẳng giữa các đương sự, Toà án sẽ ra quyết định định giá tài sản theo yêu
cầu của n B. Nhưng kết quả của hội đồng định giá của tổ chức thẩm định giá lại
sự chênh lệch mức giá.
Tương tự, một bên yêu cầu T án ra quyết định định giá tài sản, nhưng bên kia lại yêu cầu
Toà án thuê tổ chức dịch vụ thẩm định, thẩm định tài sản. Lúc này, quyền lợi của c bên
là xung đột, có lợi cho một bên và bất lợi cho một bên. Một bên yêu cầu Toà án công nhận
kết quả định giá của hội đồng định giá, còn bên khác lại yêu cầu Toà án lấy kết quả của tổ
chức thẩm định giá. Vấn đề đặt ra kết luận của hai tổ chức định gnày đều gtrị

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58794847 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................................
I .CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ................................................................... 1
1 . Khái niệm về chứng cứ ............................................................................................... 1
2. Các thuộc tính của chứng cứ ........................................................................................ 1
2.1. Tính khách quan .................................................................................................... 1
2.2. Tính liên quan ........................................................................................................ 2
2.3. Tính hợp pháp ........................................................................................................ 2
3. Phân loại chứng cứ ....................................................................................................... 3
II. CÁC LOẠI NGUỒN CHỨNG CỨ VÀ NGUYÊN TẮC XÁC ĐỊNH CHỨNG CỨ ... 3
1.Khái niệm và các loại nguồn chứng cứ ......................................................................... 3
2. Nguyên tắc xác định chứng cứ từ các nguồn chứng cứ ............................................... 4
3. Các loại nguồn chứng cứ ............................................................................................. 8
3.1 Các tài liệu đọc được nội dung ............................................................................... 8
3.2 các tài liệu nghe được, nhìn được ......................................................................... 10
3.3 Vật chứng.............................................................................................................. 11
3.4 Lời khai của đương sự, người làm chứng............................................................. 12
3.5 Kết luận giám định ............................................................................................... 12
3.6 Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ ................................................................ 13
3.7 Tập quán ............................................................................................................... 15
3.8 Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản ..................................................... 16
III. LIÊN HỆ BẢN ÁN ..................................................................................................... 19
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 21 lOMoAR cPSD| 58794847 LỜI MỞ ĐẦU
Chứng minh và chứng cứ là vấn đề chủ đạo của mọi thủ tục tố tụng chứ không chỉ riêng tố
tụng dân sự. Chất lượng hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ và chứng minh quyết định
kết quả giải quyết một vụ việc có đúng đắn, chính xác, công minh, khách quan và đúng pháp luật hay không.
Chứng cứ là vấn đề trung tâm và quan trọng trong Tố tụng dân sự. Mọi hoạt động trong
quá trình chứng minh chủ yếu xoay quanh vấn đề chứng cứ, mọi giai đoạn của Tố tụng dân
sự mở ra, kết thúc và kết quả đều phụ thuộc phần lớn vào chứng cứ. Dựa vào chứng cứ mà
các đương sự có cơ sở xác đáng chứng minh bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và
các cơ quan tiến hành tốt tụng cũng xem xét được tính đúng đắn của sự việc để bảo vệ lợi
ích của người dân và bảo vệ pháp luật.
Vậy vấn đề chứng cứ trong tố tụng dân sự được quy định ra sao? Các loại nguồn chứng cứ
và nguyên tắc xác định chứng cứ trong tố tụng dân sự như thế nào? Nhóm 7 sẽ làm rõ
những vấn đề này trong bài “ Các loại nguồn chứng cứ và nguyên tắc xác định chứng cứ
trong tố tụng dân sự”.
I .CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1 . Khái niệm về chứng cứ
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 lần đầu tiên đưa ra định nghĩa về chứng cứ tại Điều 81:
Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân, cơ quan,
tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc di Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do
bộ luật Tố tụng dân sự quy định mà Tòa án dung làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự
phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không, cũng như những tình tiết khác
cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự”.
Nói 1 cách ngắn gọn, chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được thu thập theo
trình tự do pháp luật tố tụng dân sự quy định mà Tòa án dung làm căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự.
2. Các thuộc tính của chứng cứ.
Chứng cứ có 3 thuộc tính cớ bản:
2.1. Tính khách quan.
Chứng cứ là cơ sở để nhận thức, xác định sự tồn tại của các tình tiết, sự kiện cần
chứng minh trong vụ việc dân sự, do đó nó phải mang tính khách quan, tức là nó tồn tại
một cách khách quan bên ngoài ý chí chủ quan của con người, và không bị hư cấu, xuyên
tạc, sửa chữa theo ý muốn của con người. Các chủ thể tố tụng không thể tự tạo ra chứng cứ
mà chỉ có thể thu thập, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng cứ. Do vậy, nhưng tin tức,
dấu vết chứa đựng trong các vật, tài liệu…mà không bảo đảm tính khách quan thì không
được sử dụng làm chứng cứ để giải quyết vụ việc dân sự. Yêu cầu về tính khách quan của
chứng cứ loại trừ những tài liệu, vật chứng bị giả mạo, lời khai gian dối, không đúng sự
thực của đương sự, người làm chứng…
VD: A cho B vay tiền để đầu tư, và yêu cầu B thế chấp ngôi nhà là tài sản chung vợ, chồng
B để đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ. Biết chồng mình sẽ không đồng ý, B giả chữ kí của
chồng trong hợp đồng thế chấp nhà. Đến hạn B không trả được nợ, A khởi kiện yêu cầu
Tòa án buộc B trả nợ và cho xử lý tài sản thế chấp là ngôi nhà, nhưng chồng B phản đối
việc bán nhà để trả nợ. A xuất trình hợp đồng thế chấp có chữ kí của B và chồng B.
Tuy nhiên, do có việc giả mạo chữ kí nên Tòa án không thể dựa vào nội dung bản hợp đồng
đó để xác định sự kiện cả hai vợ chồng B đã thế chấp ngôi nhà cho A, bởi thông tin chứa
đựng trong bản hợp đồng đó không mang tính khách quan, không đúng sự thật.
2.2. Tính liên quan.
Chứng cứ có tính lien quan bởi nó là căn cứ để Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, vì
vậy, giữa chứng cứ và các tình tiết, sự kiện cần chứng minh trong vụ việc dân sự phải có
mối lien quan với nhau, có thể là lien quan trực tiếp hoặc là lien quan gián tiếp. Những tin
tức, dấu vết dù tồn tại khách quan, có thật những nếu không lien quan tới vụ việc dân sự,
không giúp Tòa án xác định có hay không sự tồn tại của các tình tiết, sự kiện cần chứng
minh trong vụ việc dân sự, thì không được coi là chứng cứ.
Căn cứ vào thuộc tính lien quan của chứng cứ, trong quá trình giải quyết vụ việc
dân sự, Tòa án có thể loại bỏ được những tin tức, nội dung không lien quan đến vụ việc để
đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc được nhanh chóng, đúng đắn. Việc xác định tính lien
quan của chứng cứ phải căn cứ vào đối tượng chứng minh trong vụ việc dân sự.
VD: A và B tranh chấp nhau về tài sản thừa kế. A xuất trình được bản di chúc của
người để lại di sản với nội dung để lại toàn bộ tài sản cho A. Sau quá trình giám định, điều
tra kết luận bản di chúc hoàn toàn chính xác. Vì thế bản di chúc được coi là chứng cứ để
xác định tranh chấp tài sản thừa kế giữa A và B.
2.3. Tính hợp pháp.
Tính hợp pháp của chứng cứ có nghĩa là chứng cứ phải được rút ra từ những nguồn
nhất định do pháp luật quy định, và quá trình thu thập, nghiên cứu, đánh giá, sử dụng chứng
cứ phải được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật.
Nếu như thiếu thuộc tính này, việc thu thập, đánh giá chứng cứ sẽ dễ dàng bị các
chủ thể tố tụng lạm dụng, không bảo đảm tính đúng đắn, công bằng của thủ tục tố tụng,
ảnh hưởng đên quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự và các chủ thể khác.
Những tin tức, dấu vết chứa đựng trong vật, tài liệu hay các phương tiện phản ánh khác
chỉ được sử dụng là chứng cứ nếu chúng thảo mãn đầy đủ 3 thuộc tính này. Ba thuộc tính
có quan hệ biện chứng với nhau tạo nên 1 hệ thống nhất của chứng cứ, trong đó tính khách
quan và tính lien quan tọa nên mặt nội dung của chứng cứ, còn tính hợp pháp là mặt hình thức của chứng cứ.
3. Phân loại chứng cứ.
Chứng cứ có thể được phân loại nhiều cách, dựa trên những tiêu chí khác nhau.
Dựa vào nguồn chứng cứ, chứng cứ được phân loại thành: chứng cứ theo vật và chứng cứ theo người.
Dựa vào mức độ lien quan của chứng cứ với các tình tiết, sự kiện cần chứng minh
trong vụ việc dân sự, chứng cứ được chia thành: chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp.
Dựa vào cách thức tạo thành chứng cứ, chứng cứ được chia thành: chứng cứ gốc và
chứng cứ sao lại, thuật lại.
Dựa vào hình thức thể hiện của chứng cứ, chứng cứ được chia thành: chứng cứ viết và chứng cứ miệng.
Thông thường, chứng cứ theo vật, chứng cứ trực tiếp, chứng cứ gốc và chứng cứ viết có
giá trị chứng minh cao hơn.
II. CÁC LOẠI NGUỒN CHỨNG CỨ VÀ NGUYÊN TẮC XÁC ĐỊNH CHỨNG CỨ
1.Khái niệm và các loại nguồn chứng cứ
Nguồn chứng cứ là nơi rút ra các chứng cứ, bao gồm người, vật, tài liệu chứa đựng tin tức,
dấu vết về các tình tiết , sự kiện cần chứng minh trong vụ việc dân sự.
Việc phân biệt các nguồn chứng cứ có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định độ tin cậy và
giá trị chứng minh của từng loại chứng cứ.
Đối với chứng cứ được rút ra từ vật, tài liệu và các phương tiện vật chất khác, do tính chất
tồn tại khách quan của các nguồn này, ít bị chi phối bởi ý chí chủ quan của con người nên
chứng cứ rút ra có độ tin cậy cao, việc đánh giá và sử dụng các chứng cứ này ít phức tạp hơn.
Đối với chứng cứ rút ra từ con người như đương sự, người làm chứng, việc đáng giá sử
dụng chúng khá phức tạp bởi lời khai của đương sự, người làm chứng bị chi phối bởi nhiều
yếu tố chủ quan như khả năng nhớ, nhận thức và trình bày của mỗi người, lợi ích, tâm lý,
thái độ, định kiến của họ đối với vụ việc.
Điều 82 BLTTDS năm 2004 ( sửa đổi bổ sung năm 2011) liệt kê các loại nguồn chứng cứ sau đây: •
Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được • Các vật chứng •
Lời khai của đượng sự •
Lời khai của người làm chứng • Kết luận giám định •
Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ • Tập quán •
Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản Các nguồn khác mà pháp luật có quy định
2. Nguyên tắc xác định chứng cứ từ các nguồn chứng cứ
Khi các đương sự đã tiếp cận được hay nắm giữ được nguồn chứng cứ không có nghĩa các
tin tức được rút ra từ nguồn đó đương nhiên được coi là chứng cứ và được Tòa án sử dụng
làm căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự, mà khi các bên cung cấp chứng cứ cho Tòa án còn
phải tuân thủ chặt chẽ các yêu cầu về xác định chứng cứ được quy định tai Điều 83 Bộ
Luật Tố Tụng Dân Sự 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) và Điều 3 Nghị quyết số
04/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa an nhân dân tối cao
hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về “Chứng minh và chứng cứ”.
- Xác định chứng cứ ( điều 83 – bộ luật TTDS 2004)
1. Các tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao
cócông chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận.
2. Các tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm theovăn
bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó.
3. Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc.
4. Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu đượcghi
bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình theo quy định tại
khoản 2 Điều này hoặc khai bằng lời tại phiên tòa.
5. Kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến hành theođúng
thủ tục do pháp luật quy định.
6. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc thẩm định đượctiến
hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định và có chữ ký của các thành viên tham gia thẩm định.
7. Tập quán được coi là chứng cứ nếu được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa nhận.
8. Kết quả định giá tài sản được coi là chứng cứ nếu việc định giá được tiến hành theo
thủtục do pháp luật quy định hoặc văn bản do chuyên gia về giá cả cung cấp theo quy
định tại khoản 1 Điều này.
- Điều 3 Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP:
Xác định chứng cứ quy định tại Điều 83 của BLTTDS 1.
Theo quy định tại Điều 81 của BLTTDS, thì một trong những điều kiện của chứng
cứ là phải được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Toà án hoặc do
Toà án thu thập được theo trình tự, thủ tục do BLTTDS quy định; do đó, việc giao nộp
chứng cứ và việc thu thập chứng cứ phải thực hiện theo đúng quy định tại các điều luật
tương ứng của BLTTDS và hướng dẫn tại Nghị quyết này. 2.
Để được coi là chứng cứ quy định tại Điều 81 của BLTTDS, thì việc xác định chứng
cứtừ từng loại nguồn chứng cứ cụ thể như sau: a)
Các tài liệu đọc được nội dung phải là bản chính hoặc bản sao có công chứng,
chứngthực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận. Bản
chính có thể là bản gốc hoặc bản được dùng làm cơ sở lập ra các bản sao. b)
Các tài liệu nghe được, nhìn được phải được xuất trình kèm theo văn bản xác
nhậnxuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó.
Các tài liệu này có thể là băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, phim, ảnh,…
Nếu đương sự không xuất trình các văn bản nêu trên, thì tài liệu nghe được, nhìn được mà
đương sự giao nộp không được coi là chứng cứ.
Ví dụ 1: Trong vụ tai nạn giao thông, người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người
bị hại được một người cung cấp băng ghi hình về hiện trường vụ tai nạn giao thông. Trong
trường hợp này, cùng với việc giao nộp băng ghi hình đó, người bị hại hoặc người đại diện
hợp pháp của người bị hại phải xuất trình cho Toà án bản xác nhận của người đã cung cấp
cho mình về xuất xứ của băng ghi hình đó.
Ví dụ 2: Ông A cho ông B vay năm triệu đồng với thời hạn 12 tháng. Việc vay tài sản không
lập thành văn bản, nhưng được ông A ghi âm lại toàn bộ nội dung thoả thuận về việc vay
tài sản, việc giao nhận tiền và thời điểm thanh toán nợ giữa ông A và ông B để làm bằng
chứng cho việc vay tài sản của ông B. Đến hạn trả nợ, ông B không trả số tiền đó cho ông
A. Ông A khởi kiện ông B ra Toà án. Trong trường hợp này, cùng với việc giao nộp băng
ghi âm, ông A phải gửi văn bản trình bày về sự việc liên quan tới việc thu âm đó. c)
Vật chứng phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc dân sự; nếu không phải là
hiệnvật gốc hoặc không liên quan đến vụ việc thì không phải là chứng cứ trong vụ việc dân sự đó. d)
Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng nếu được ghi bằng văn bản,
băngghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình và được xuất trình theo đúng thủ tục
quy định tại khoản 2 Điều 83 của BLTTDS và hướng dẫn tại khoản 2 Điều này hoặc khai
bằng lời tại phiên toà.
đ) Kết luận giám định, nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục quy định
của Luật Giám định tư pháp, các văn bản quy phạm pháp luật liên quan và hướng dẫn tại
Điều 10 của Nghị quyết này. e)
Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ, nếu việc thẩm định tại chỗ được tiến hành
theođúng thủ tục quy định tại Điều 89 của BLTTDS và hướng dẫn tại Điều 9 của Nghị quyết này.
g) Tập quán, nếu được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa nhận.
Cộng đồng là tập thể những người cùng sống, có những điểm giống nhau, gắn bó thành
một khối trong sinh hoạt xã hội tại nơi có tập quán.
Tập quán là thói quen đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong sản xuất và sinh hoạt
thường ngày, được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa nhận và làm theo như một quy ước chung của cộng đồng.
Tập quán thương mại là thói quen được thừa nhận rộng rãi trong hoạt động thương mại
trên một vùng, miền hoặc một lĩnh vực thương mại, có nội dung rõ ràng được các bên thừa
nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại;
Tập quán thương mại quốc tế là thông lệ, cách làm lặp đi, lặp lại nhiều lần trong buôn bán
quốc tế và được các tổ chức quốc tế có liên quan thừa nhận;
Chỉ chấp nhận tập quán không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Đối với những vấn đề mà
đương sự viện dẫn tập quán nhưng đã có văn bản quy phạm pháp luật quy định, thì Toà án
phải áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó để giải quyết mà không áp dụng tập quán.
Ví dụ: Trong một số đồng bào dân tộc thiểu số có tập quán khi người mẹ chết, chỉ các con
gái có quyền, còn các con trai không có quyền hưởng phần di sản của người mẹ quá cố để
lại. Trong vụ tranh chấp di sản thừa kế do người mẹ để lại, nếu người con gái viện dẫn tập
quán đó để bác bỏ quyền thừa kế của các thừa kế là con trai, thì tập quán này không được
chấp nhận. Vì đây là tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình cần vận động xoá bỏ theo
quy định tại phụ lục B “Danh mục phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình của
các dân tộc bị nghiêm cấm áp dụng hoặc cần vận động xoá bỏ” ban hành kèm theo Nghị
định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27-3-2002 của Chính phủ quy định việc áp dụng Luật Hôn
nhân và Gia đình đối với các dân tộc thiểu số.
h) Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản nếu việc định giá tài sản được tiến hành
theo đúng thủ tục quy định tại Điều 92 của BLTTDS.
3. Đương sự giao nộp cho Toà án chứng cứ bằng tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài
phải kèm theo bản dịch sang tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp. Trong
trường hợp đương sự chưa dịch chứng cứ đó sang tiếng Việt hoặc đã dịch sang tiếng Việt
nhưng bản dịch chưa được công chứng, chứng thực hợp pháp, thì Toà án không nhận chứng
cứ đó. Toà án giải thích cho đương sự biết là họ phải tiến hành việc dịch chứng cứ sang
tiếng Việt và làm thủ tục công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật về công chứng, chứng thực.
3. Các loại nguồn chứng cứ
3.1 Các tài liệu đọc được nội dung
Các tài liệu đọc được nội dung ( ví dụ: giấy khai sinh, hợp đồng ủy quyền, di chúc, hợp
đồng…) phải là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ
quan tổ chức có thẩm quyền cung cấp xác nhận.
“Theo Khoản 1 Điều 83 BLTTDS 2003 như sau:
1. Các tài liệu đọc được có nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao
có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp xác nhận.” a.
Tài liệu được ghi trên giấy.
Bản chính có thể là bản gốc hoặc bản được dùng làm cơ sở để lập ra bản sao
Ví dụ: Đương sự bị mất bằng tốt nghiệp cấp 3 ( trung học phổ thông bị mất bản chính),
nhưng xuất trình được giấy bản sao bằng tốt nghiệp cấp 3 được bộ giáo dục cấp cho cùng
với bản chính nhưng trên bằng có ghi chú bản sao. Bản sao này được coi là bản chính thay
cho bản chính bằng tốt nghiệp đã bị mất, được dùng làm cơ sở để lập ra các bản sao bằng
tốt nghiệp khác và được sử dụng vào các công việc cần thiết tương đương với sử dụng bằng tốt nghiệp bản chính. b.
Tài liệu ghi dưới dạng dữ liệu thông tin
Tuy hiện nay có rất nhiều loại tài liệu đọc được nội dung nhưng hiện nay pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam lại chưa quy định cụ thể đối với loại tài liệu đọc được là dữ liệu điện
tử mặc dù loại hình dữ liệu này đang phổ biến và thịnh hành trong thời buổi công nghiệp
hóa hiện đại hóa hiện nay như email, đơn đặt hàng điện tử, hay trang web thì hiện nay cách
xác định các thông tin chứa đựng trong các nguồn đó là chứng cứ như thế nào thì hiện nay
vẫn là vấn đề mà các nhà làm luật băn khoăn để tìm ra câu trả lời. Thực trạng Internet ở
Việt Nam và cũng như ở trên toàn thế giới hiện nay đang phát triển rất mạnh mẽ. Bởi vậy
mà các loại hình chứng cứ điện tử như hợp đồng điện tử, thư điện tử (email) sẽ ngày càng
phổ biến. Mặc dù không được quy định trong luật tố tụng nhưng trên thực tế, các Tòa án
vẫn chấp nhận thông tin trong email là chứng cứ.
Ví dụ: Bản án số: 1044/2012/KSTM-ST ngày 23/7/2012 của Tòa án nhân Thành phố Hồ
Chí Minh về đòi bồi thường trong vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, Tòa án đã căn
cứ vào các email trao đổi giữa các bên để giải quyết vụ án.( tớ không tìm được bản án nào
trên mạng cả nên t lấy luôn bản án mà cô giao cho nhóm 2,3 làm nhưng lại thấy nó hoàn
toàn giống như trong ví dụ mẫu trong giáo trình ý. C xem rồi chỉnh giúp t với)
Tuy nhiên cũng có trường hợp Tòa án không chấp nhận vì chứng cứ mà đương sự cung
cấp chỉ là bản in email từ máy tính và được truy cập từ máy chủ ở nước ngoài không có
xác nhận xuất xứ khởi tạo, không có công chứng, chứng thực hợp pháp. c.
Ngôn ngữ trong tài liệu chứng cứ
Vấn đề về ngôn ngữ cũng là vấn đề được quan tâm trong luật tố tụng dân sự. Trường
hợp đương sự giao nộp cho Tòa án chứng cứ bằng tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước
ngoài thì phải có kèm theo bản dịch sang tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp
pháp. Trong trường hợp đương sự chưa dịch chứng cứ đó sang Tiếng Việt hoặc đã dịch
sang Tiếng Việt mà bản dịch đó chưa được công chứng, chứng thực hợp pháp, thì tòa án
không công nhận chứng cứ đó, và giải thích cho đương sự biết là họ phải tiến hành việc
dịch chứng cứ sang tiếng Việt và làm thủ tục công chứng, chứng thực theo quy định của
pháp luật về công chứng, chứng thực.
Trong thực tế việc đồng nhất ngôn ngữ là điểm mà các đương sự cần đặc biệt lưu ý,
nhất là đối với những tranh chấp có yếu tố nước ngoài mà trong quá trình giải quyết, Tòa
án cần thiết sử dụng các chứng cứ bằng tiếng nước ngoài. Tuy nhiên, mà có nhiều trường
hợp Hội đồng xét xử giám đốc thẩm đã hủy bản án sơ thẩm hoặc phúc thẩm hoặc phúc
thẩm đã dựa vào chứng cứ là bản hợp đồng gốc bằng tiếng nước ngoài không có bản dịch
tiếng Việt có công chứng, chứng thực hợp pháp để giải quyết vụ việc dân sự.
3.2 các tài liệu nghe được, nhìn được
Các tài liệu nghe được, nhìn được ( ví dụ: phim, ảnh, băng ghi hình, băng ghi âm, đĩa
ghi âm, đĩa ghi hình) phải được xuất trình kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu
đó hoặc văn bản về sự việc liên quan đến thu âm, thu hình đó. Nếu đương sự không suất
trình các văn bản nêu trên thì tài liệu nghe được, nhìn được mà đương sự giao nộp không
được coi là chứng cứ.
Theo Khoản 2 Điều 83 BLTTDS 2003 quy định như sau: “Các tài liệu nghe được, nhìn
được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài
liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan đến việc thu âm, thu hình đó.” a.
Người thứ ba có tài liệu ghi âm, ghi hình.
Trong trường hợp này việc người thứ ba cung cấp chứng cứ cho đương sự để được Tòa
án công nhận thì người đó phải nộp cho tòa chứng cứ đó cùng với văn bản xác nhận về
nguồn gốc của tài liệu ghi âm ghi hình đó.
Ví dụ: Trong một cửa hàng bán điện thoại di động nhỏ ở ngoại ô thành phố có xảy ra vụ
án trộm đồ trong của hàng. Trong lúc thiếu cảnh giác của B chủ của hàng lúc đông khách
vào hỏi xem và mua hàng thì A lợi dụng sơ hở đó đã lấy cắp chiếc điện thoại và bỏ trốn. C
là khách đến sửa máy trong lúc kiểm tra máy đã sửa camera xem đã được chưa thì lúc kiểm
tra tình cờ anh C đã chụp được ảnh tên trộm đã vào ăn trộm chiếc điện thoại. B khởi kiện
A đòi bồi thường thiệt hại và nhờ C cung cấp bức ảnh đó để làm chứng cứ chứng minh A
phạm tội. Tuy nhiên để bức ảnh được Tòa án chấp nhận làm chứng cứ, B phải nộp cho Tòa
án cuộn băng kèm theo văn bản xác nhận của C về xuất xứ của bức ảnh đó. b.
Đương sự là người trực tiếp thực hiện ghi âm, ghi hình chứng cứ.
Trong trường hợp này thì đương sự phải giao nộp băng ghi âm, ghi hình kèm theo văn
bản trình bày của đương sự về sự việc ghi âm, ghi hình đó để trình lên Tòa án xem xét có
chấp nhận là chứng cứ hay không.
Ví dụ: Tiệm vàng A có chủ quán là B một hôm C (con nghiện nhiều năm ở vùng khác
mới đến) vào tiệm của A giả vờ mua vàng nhưng thực chất hắn có mang hung khí trong
người. Hắn đã quan sát rất kĩ đợi khi tiệm A chỉ có B hắn vào và lấy dao bắt đưa vàng cho
hắn không thì hắn giết. B vì sợ quá lên phải làm như lời hắn. May sao cửa hàng có lắp
camera lên đã quay hết được toàn bộ sự việc. Vụ việc xảy ra B báo cho cơ quan Công an
và kiện C ra tòa đòi bồi thường thiệt hại và đồng thời cũng đưa cuộn băng ghi hình đó và
tờ trình về xuất xứ của cuộn băng đó.
3.3 Vật chứng
Vật chứng được pháp luật quy định là nguồn chứng cứ vì tồn tại trong chính bản thân nó
là chứng cứ của vụ án, nó chỉ chứa đựng chứng cứ chứ nó không phải là chứng cứ.
Ví dụ: A kiện B đòi bồi thường chiếc xe bị hư - ở đây chiếc xe hư là vật chứng còn những
hư hỏng của xe là chứng cứ.
Như vậy vật chứng phải luôn là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc dân sự thì mới có giá trị
pháp lý, nếu không phải là hiện vật gốc hoặc không liên quan đến vụ việc thì không phải
là chứng cứ trong vụ việc dân sự đó. Việc nghiên cứu vật chứng cho phép Tòa án xác định
những đặc điểm riêng về hình dạng, tính chất, vật lý, hóa học… của vật, các dấu vết đặc
thù trên vật để từ đó rút ra chứng cứ cần thiết làm sáng tỏ các tình tiết, sự kiện cần chứng
minhtrong vụ việc dân sự. Giá trị chứng minh của vật chứng thể hiện ở tính đặc định của
vật đó, khác biệt với các vật cùng loại. Vì vậy, vật chứng cần phải được bảo quản tốt để
giữ gìn tính đặc định của chúng.
3.4 Lời khai của đương sự, người làm chứng
Đương sự là người tham gia vào sự việc nên biết được nhiều vấn đề liên quan đến vụ việc
dân sự. Việc lấy lời khai của đương sự, người làm chứng sẽ giúp cho Tòa án làm rõ được
các tình tiết của vụ việc dân sự. Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được
coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình và
được xuất trình theo đúng thủ tục quy định đối với tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được
như trên. Lời khai của các chủ thể trên tại phiên tòa đương nhiên được sử dụng làm chứng
cứ do có sự chứng kiến của tất cả các chủ thể tố tụng có mặt tại phiên tòa và được ghi nhận
trong biên bản phiên tòa.
3.5 Kết luận giám định.
Kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng
thủ tục quy định tại Luật giám định tư pháp 2012 và hướng dẫn tại Điều 3 Nghị quyết 04/2012/NQ-HDTP.
Kết luận giám định là một nguồn chứng cứ quan trọng làm cơ sở cho việc giải quyết vụ
việc dân sự, nhất là đối với những vụ việc đòi hỏi kiến thức chuyên môn sâu, thậm chí
trong một số trường hợp, kết luận giám định có tính chất quyết định đối với việc ra phán quyết của Tòa Án.
Vd: Trong các vụ án tranh chấp dân sự về quyền sở hữu trí tuệ hiện nay, chẳng hạn như vụ
TAND TP Hồ Chí Minh ngày 11/9/2012 xử sơ thẩm vụ án “Tranh chấp về quyền sở hữu
trí tuệ” giữa nguyên đơn là Cty TNHH MTV xuất nhập khẩu và phát hành phim Việt Nam
(Fafim Việt Nam) và bị đơn là Cty TNHH Thương mại dịch vụ quảng cáo Ảnh Vương (Cty
Ảnh Vương).Tòa án đều phải dựa vào kết luận giám định để xã định hành vi xâm phạm
bản quyền phim của công ty Ảnh Vương cũng như xác định thiệt hại do hành vi đó gây ra.
3.6 Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ.
Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc thẩm định tại chỗ
được tiến hành theo đúng thủ tục quy định tại Điều 89 của BLTTDS và Điều 9 của Nghị
quyết 04/2012/NQ-HĐTP.
Theo Điều 89 của BLTTDS - Xem xét, thẩm định tại chỗ.
Việc xem xét, thẩm định tại chỗ phải do thẩm phán tiến hành với sự có mặt của đại diện
Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc cơ qan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định và
phải báo trước cho việc xem xét, thẩm định đó.
Việc xem xét, thẩm định tại chỗ phải được ghi thành biên bản. Biên bản phải ghi rõ kết quả
xem xét, thẩm định, mô tả rõ hiện trường, có chữ kí chữ kí của người xem xét, thẩm định
và chữ kí hoặc điểm chỉ của đương sự nếu họ có mặt, của đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã
hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định và những người khác được
mời tham gia việc xem xét, thẩm định phải yêu cầu đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc
cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định kí tên và đóng dấu xác nhận.
Xem xét, thẩm định tại chỗ quy định tại Điều 89 của BLTTDS.( Điều 4-nghị quyết 04/2012)
1. Khi đương sự có yêu cầu hoặc khi xét thấy việc xem xét, thẩm định tại chỗ là cần thiết
cho việc giải quyết đúng vụ án, thì Thẩm phán ra quyết định tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ.
2. Quyết định xem xét, thẩm định tại chỗ phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm ra quyết định và tên Toà án ra quyết định;
b) Đối tượng và những vấn đề cần xem xét, thẩm định tại chỗ;
c) Thời gian, địa điểm tiến hành việc xem xét, thẩm định tại chỗ.
3. Quyết định xem xét, thẩm định tại chỗ phải được gửi cho Uỷ ban nhân dân cấp xãhoặc
cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định kèm theo văn bản đề nghị Uỷ
ban nhân dân hoặc cơ quan, tổ chức cử đại diện tham tổ chức, thì Thẩm phán phải liên
hệ để họ có mặt. Trong trường hợp vắng mặt đại diện của Uỷ ban nhân dân hoặc cơ
quan, tổ chức, thì Thẩm phán hoãn việc xem xét, thẩm định tại chỗ.
4. Quyết định xem xét, thẩm định tại chỗ phải được giao hoặc gửi cho đương sự để
họbiếtvà chứng gia việc xem xét, thẩm định tại chỗ. Vào ngày, giờ đã định trong quyết
định xem xét, thẩm định tại chỗ, nếu chưa có đại diện của Uỷ ban nhân dân hoặc cơ quan,
kiến việc xem xét, thẩm định tại chỗ. Tuy nhiên, nếu có đương sự vắng mặt thì việc xem
xét, thẩm định tại chỗ vẫn được tiến hành theo thủ tục chung.
5. Thẩm phán tự mình hoặc Thư ký Toà án ghi biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ.
Biênbản phải làm đúng quy định tại khoản 2 Điều 89 của BLTTDS.
6. Nếu có người nào cản trở Toà án tiến hành việc xem xét, thẩm định tại chỗ, thì
Thẩmphán yêu cầu đại diện của Uỷ ban nhân dân hoặc cơ quan, tổ chức có biện pháp
can thiệp, hỗ trợ kịp thời để thực hiện việc xem xét, thẩm định tại chỗ. Trong trường
hợp cần thiết, Thẩm phán yêu cầu lực lượng Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp thuộc
Công an nhân dân có thẩm quyền để có các biện pháp can thiệp, hỗ trợ, theo quy định
tại Thông tư số 15/2003/TT-BCA(V19) ngày 10-9-2003 của Bộ Công an hướng dẫn
hoạt động hỗ trợ tư pháp của lực lượng Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp thuộc Công an nhân dân.
7. Trường hợp đã thực hiện đầy đủ các biện pháp được hướng dẫn tại khoản 6 Điều nàymà
vẫn không tiến hành được, thì Thẩm phán lập biên bản về việc đương sự cản trở việc
xem xét, thẩm định tại chỗ để lưu vào hồ sơ vụ án. Biên bản về việc đương sự cản trở
việc xem xét, thẩm định tại chỗ, đồng thời, phải được gửi cho cơ quan có thẩm quyền
xem xét, xử lý theo pháp luật về hành vi chống người thi hành công vụ của đương sự.
Vd: Để vụ kiện mất xe tại nhà hàng My Way sớm kết thúc, bà Lê Thị Khanh, thẩm phán
TAND quận Cầu Giấy đã kí quyết định xem xét, thẩm định tại chỗ hiện trường vụ án tại
tòa nhà 24T2 đường Hoàng Đạo Thúy, Phường Trung Hòa, Quận Cầu Giấy ngagy 9/2/2012
với sự tham gia của đại diện UBND phường Trung Hòa, đại diện các đương sự trong vụ kiện. 3.7 Tập quán
Tập quán được coi là chứng cứ nếu được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa nhận.
Cộng đồng là tập thể những người cùng sống, có những điểm giống nhau, gắn bó thành
một khối trong sinh hoạt xã hội tại nơi có tập quán.
Tập quán là thói quen đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong sản xuất và sinh hoạt
thường ngày, được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa nhận và làm theo như một quy ước chung của cộng đồng.
Tập quán thương mại là thói quen được thừa nhận rộng rãi trong hoạt động thương mại
trên một vùng, miền hoặc một lĩnh vực thương mại, có nội dung rõ ràng được các bên thừa
nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại;
Tập quán thương mại quốc tế là thông lệ, cách làm lặp đi, lặp lại nhiều lần trong buôn bán
quốc tế và được các tổ chức quốc tế có liên quan thừa nhận;
Chỉ chấp nhận tập quán không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Đối với những vấn đề mà
đương sự viện dẫn tập quán nhưng đã có văn bản quy phạm pháp luật quy định, thì Toà án
phải áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó để giải quyết mà không áp dụng tập quán.
Ví dụ: Trong một số đồng bào dân tộc thiểu số có tập quán khi người mẹ chết, chỉ các con
gái có quyền, còn các con trai không có quyền hưởng phần di sản của người mẹ quá cố để
lại. Trong vụ tranh chấp di sản thừa kế do người mẹ để lại, nếu người con gái viện dẫn tập
quán đó để bác bỏ quyền thừa kế của các thừa kế là con trai, thì tập quán này không được
chấp nhận. Vì đây là tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình cần vận động xoá bỏ theo
quy định tại phụ lục B “Danh mục phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình của
các dân tộc bị nghiêm cấm áp dụng hoặc cần vận động xoá bỏ” ban hành kèm theo Nghị
định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27-3-2002 của Chính phủ quy định việc áp dụng Luật Hôn
nhân và Gia đình đối với các dân tộc thiểu số.
3.8 Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản
Thẩm định giá tài sản là việc đánh giá hoặc đánh giá lại giá trị của tài sản phù hợp với thị
trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định theo tiêu chuẩn của Việt Nam hoặc thông lệ quốc tế.
Kết quả định giá được lập thành văn bản và chỉ được sử dụng vào mục đích. Kết quả thẩm
định giá có thể được sử dụng là một trong những căn cứ để xem xét phê duyệt chi từ ngân
sách nhà nước, tính thuế, xác định giá trị tài sản bảo đảm vay vốn ngân hàng, mua bảo
hiểm, cho thuê, chuyển nhượng, bán, góp vốn, cổ phần hóa, giải thể doanh nghiệp và sử
dụng vào các mục đích khác đã được ghi trong hợp đồng thẩm định giá. Kết quả định giá
tài sản, thẩm định giá tài sản sẽ được coi là chứng cứ nếu việc định giá tài sản được tiến
hành theo đúng thủ tục theo quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 sửa đổi năm
2011 và Điều 3 Nghị quyết 04/2012/NQ-HĐTP.
Việc định giá tài sản có thể do đương sự yêu cầu hoặc do tòa án tự nhận thấy sự cần thiết
của việc định giá. Hội đồng định giá sẽ được Tòa án thành lập nên với Chủ tịch Hội đồng
định giá là đại diện cơ quan tài chính và thành viên là đại diện các cơ quan chuyên môn có
liên quan. Hội đồng định giá sẽ định giá riêng từng tài sản và căn cứ vào mức giá chung
của thị trường địa phương tại thời điểm định giá mà có tài sản cần định giá nhằm đảm bảo
tính đúng đắn, xác thực và công bằng cho đương sự.
Giá trị pháp lý của chúng thư thẩm định giá tài sản:
“1. Là một trong những căn cứ để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, phê duyệt
chi từ ngân sách nhà nước, tính thuế, xác định giá trị tài sản đảm bảo vay vốn ngân hàng,
mua bảo hiểm, cho thuê, chuyển nhượng, bán, góp vốn, cổ phần hoá, giải thể doanh
nghiệp, bồi thường và sử dụng vào các mục đích khác....
2. Để tư vấn cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giá .......
3. Là cơ sở cho tổ chức, cá nhân có nhu cầu thẩm định giá sử dụng kết quả thẩm định
giátheo mục đích...
Kết quả thẩm định giá tài sản được coi là chứng cứ nếu việc thẩm định giá được tiến hành
đúng theo quy định của pháp luật”.
Đây được xem là trường hợp một trong các bên đương sự có yêu cầu Toà án yêu cầu tổ
chức thẩm định định giá tài sản mà các bên đang tranh chấp.
Trường hợp thứ nhất: Hai bên cùng thống nhất yêu cầu Toà án ký hợp đồng dịch vụ với
một tổ chức thẩm định giá tài sản để định giá tài sản, nhưng sau khi có kết quả thẩm định
tài sản, các bên lại yêu cầu Toà án ra quyết định định giá tài sản.
Đây là trường hợp hai bên thoả thuận yêu cầu Toà án thuê tổ chức dịch vụ thẩm định định
giá tài sản (lúc này Toà án chưa ra quyết định định giá). Nếu sau khi có chứng thư thẩm
định giá tài sản của tổ chức thẩm định giá tài sản mà các bên không đồng ý với mức giá tổ
chức thẩm định giá đưa ra và lại yêu cầu Toà án ra quyết định định giá tài sản thì Toà án có
chấp nhận không? Điều 92 không quy định trường hợp này8. Nếu Toà án chấp nhận ra
quyết định định giá tài sản, mà sau đó giá do hội đồng định giá tài sản lại thấp hơn hoặc
cao hơn giá của tổ chức thẩm định giá tài sản, thì Toà án lấy giá nào làm căn cứ giải quyết
vụ án? Luật chưa quy định trường hợp này, theo chúng tôi, trong trường hợp này, luật nên
quy định, nếu sau khi có quyết định thẩm định giá của tổ chức thẩm định giá mà các bên
vẫn yêu cầu Toà án ra quyết định định giá, thì dù kết quả thẩm định giá của hội đồng định
giá có như thế nào, các bên phải chấp nhận và Toà án lấy kết quả đó làm căn cứ giải quyết
vụ án, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. Tương tự, trong trường hợp đã có kết
quả định giá của hội đồng định giá tài sản (do các bên yêu cầu), nhưng sau đó các bên vẫn
yêu cầu Toà án thuê tổ chức thẩm định giá định giá tài sản tranh chấp, thì luật nên quy định
buộc các bên chấp nhận kết quả định giá của tổ chức thẩm định giá, trừ trường hợp các bên
có thoả thuận khác9. Bởi lẽ, trong các trường hợp nêu trên đều thể hiện ý chí tự nguyện của
các bên. Nếu luật không có quy định cụ thể sẽ không có điểm dừng của vụ án.
Trường hợp thứ hai: Khi Toà án thụ lý vụ án, một bên yêu cầu Toà án ký hợp đồng dịch vụ
với một tổ chức thẩm định giá tài sản để định giá tài sản, nhưng một bên không đồng ý và
đề nghị Toà án ra quyết định định giá tài sản.
Đây được hiểu là ý chí của một bên yêu cầu Toà án ký hợp đồng (sau đây gọi là thuê) dịch
vụ với tổ chức thẩm định tài sản để thẩm định tài sản đang tranh chấp, một bên này có thể
là nguyên đơn, hoặc bị đơn. Tuy nhiên, trường hợp này có thể phát sinh bên không yêu cầu
Toà án thuê tổ chức thẩm định giá tài sản (gọi là bên B) không chấp nhận kết quả thẩm
định giá của tổ chức thẩm định giá tài sản cho bên có yêu cầu (gọi là bên A) vì cho rằng
mức giá đó là không phù hợp và yêu cầu Toà án ra quyết định định giá tài sản. Để đảm tính
công bằng, bình đẳng giữa các đương sự, Toà án sẽ ra quyết định định giá tài sản theo yêu
cầu của bên B. Nhưng kết quả của hội đồng định giá và của tổ chức thẩm định giá lại có
sự chênh lệch mức giá.
Tương tự, một bên yêu cầu Toà án ra quyết định định giá tài sản, nhưng bên kia lại yêu cầu
Toà án thuê tổ chức dịch vụ thẩm định, thẩm định tài sản. Lúc này, quyền lợi của các bên
là xung đột, có lợi cho một bên và bất lợi cho một bên. Một bên yêu cầu Toà án công nhận
kết quả định giá của hội đồng định giá, còn bên khác lại yêu cầu Toà án lấy kết quả của tổ
chức thẩm định giá. Vấn đề đặt ra là kết luận của hai tổ chức định giá này đều có giá trị