



















Preview text:
ÔN TẬP SƠ CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Câu 1. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
1. Giai cấp công nhân là gì?
Cũng như mọi hiện tượng xã hội khác, GCCN là con đẻ của
một hoàn cảnh lịch sử cụ thể và cùng với sự phát triển của lịch sử cũng luôn luôn phát triển với
những biểu hiện và đặc trưng mới trong từng giai đoạn nhất định. GCCN - con đẻ của nền đại công
nghiệp tư bản chủ nghĩa, là giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản
xuất hiện đại. Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, giai cấp vô sản là giai cấp những công nhân làm thuê
hiện đại, vì mất hết tư liệu sản xuất của bản thân, nên buộc bán sức lao động của mình đế
sống. Giai cấp công nhân hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển nền công nghiệp
hiện đại cùng sự phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao. Đây là lực
lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy trình công nghệ, dịch vụ công nghiệp, trực tiếp hoặc
gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải, vật chất đồng thời cải tạo các quan
hệ xã hội. Về phương thức lao động, phương thức sản xuất của giai cấp này: đó là những người lao
động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện
đại và xã hội hoá cao. Về vị trí trong quan hệ sản xuất của giai cấp này trong chủ nghĩa tư bản, đó
là giai cấp của những người lao động không sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội; phải bán
sức lao động cho nhà tư sản và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư.
Công cuộc đổi mới đất nước, định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Giai cấp công nhân đang đi đầu
trong xây dựng xã hội mới, nhất là trong việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tại Hội nghị lần hứ sáu của Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Đảng ta đã xác định: "Giai
cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao
động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ
công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp”. GCCN là những
người lao động được hình hành và phát triển gắn với nền sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại
với trình độ xã hội hóa, quốc tế hóa ngày càng cao. Là đại biểu của LLSX và PTSX tiên tiến, quyết
định nhất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội trong thời đại ngày nay. Là giai cấp duy nhất có
sứ mệnh lãnh đạo và tổ chức quá trình cách mạng XHCN, xây dựng CNXH, CNCS.
Giai cấp công nhân Việt Nam gắn bó mật thiết với các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Lợi
ích của GCCN và lợi ích dân tộc gắn với nhau, tạo thành động lực thúc đẩy đoàn kết giai cấp gắn
liền với đoàn kết dân tộc trong mọi thời kỳ đấu tranh cách mạng, từ cách mạng giải phóng dân tộc
đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
+ Lý giải tại sao GCCN lại giữ SMLS, tại sao không phải giai cấp khác mà lại là GCCN.
GCCN có đầy đủ các điều kiện của một giai cấp có thể đảm nhiệm SMLS. Thứ nhất, GCCN
là lực lượng đại diện cho LLSX tiên tiến và PTSX tiến bộ của thời đại. Thứ hai, GCCN có lợi ích
cơ bản phù hợp với lợi ích của đa số trong xã hội. GCCN có lợi ích cơ bản đối lập trực tiếp với lợi
ích cơ bản của Gia cấp tư sản. Nhưng lại thống nhất về cơ bản và lâu dài với lợi ích của nhân dân
lao động và các dân tôc. Thứ ba, GCCN có hệ tư tưởng riêng tiến bộ, có tổ chức chính đảng của
giai cấp dẫn đường: lý luận khoa học, Chủ nghĩa Mac - Lennin, Đảng cộng sản. Thế nên GCCN là
giai cấp duy nhất có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo và tổ chức quá trình cách mạng XHCN, xây dựng CNXH, CNCS.
Có rất nhiều lý do để GCCN là giai cấp giữ SMLS. Tuy nhiên, lý do quan trọng nhất, cốt lõi
nhất là vì GCCN được trang bị hệ tư tưởng của Chủ nghĩ Mác - Lennin và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
GCCN có tinh thần triệt để của cách mạng: có ý thức tổ chức, tính kỹ luật cao, có bản chất quốc tế,
bản sắc dân tộc; có hệ tư tưởng tiến bộ và có chính đảng của giai cấp. Đây là hai hệ tư tưởng khoa
học được tạo ra bởi những con người vô cùng đặc biệt, họ có thể làm được những điều mà người
bình thường khó có thể làm được. Chính vì con người ta khác nhau ở hệ tư tưởng, tư tưởng khác
nhau dẫn đến hành động khác nhau. Mà GCCN lại được trang bị hệ tư tưởng của những người đặc
biệt, khoa học như thế. Thế nên, đây là lý do cốt lõi để GCCN là GC mang SMLS.
- Nội dung sứ mệnh lịch sử của GCCN.
- Những điều kiện khách quan để quy định sứ mệnh lịch sử của GCCN ?
- Vai trò của Đảng Cộng sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của GCCN.
ĐCSVN là đội tiên phong của GCCN. ĐCS là sự kết hợp của chủ nghĩa xã hội Mác Lê-nin
với phong trào công nhân. (Đối với ĐCSVN thì còn có sự kết hợp với phong trào yêu nước).
Chứng minh lịch sử đã cho thấy: chỉ có ĐCS lãnh đạo, GCCN mới chuyển từ đấu tranh tự phát
sang đấu tranh tự giác trong mỗi hành động với tư cách một giai cấp tự giác và thực sự cách mạng
ĐCS là bộ phận tiên tiến nhất của GCCN, bởi: lấy chủ nghĩa Mác làm nền tảng tư tưởng;
không ngừng vận dụng, bổ sung, sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin; Mỗi Đảng viên ĐCS phải là
những Đảng viên giác ngộ. ĐCS là một tổ chức có kỉ luật chặt chẽ nhất. ĐCS là đại biểu trung
thành cho lợi ích và trí tuệ của GCCN. Nhân dân lao động và quần chúng nhân dân. ĐCS tồn tại,
phát triển trong mối quan hệ mật thiết với quần chúng nhân dân.
Đảng và GCCN có mối liên hệ hữu cơ ko thể tách rời vì: GCCN là cơ sở xã hội – giai cấp
của Đảng, là nguồn bổ sung lực lượng của Đảng. Đảng là bộ phận tiên phong chiến đấu, là biểu
hiện tập trung lợi ích, nguyện vọng, phẩm chất trí tuệ của GCCN và của dân tộc. Đảng với giai cấp
GCCN là thống nhất nhưng không thể đồng nhất ĐCS với GCCN. Vì Đảng có trình độ lý luận và tổ
chức cao nhất để lãnh đạo cả giai cấp và dân tộc. Những đảng viên của Đảng có thể không phải là
công nhân nhưng phải là những người giác ngộ về sứ mệnh lịch sử của GCCN và đứng trên lập
trường của giai cấp này. Mục tiêu chung của đất nước đều hướng đến phát triển đất nước theo
hướng chủ nghĩa xã hội dưới sự chỉ đạo của Đảng, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng. Đảng cộng sản đề ra đường lối chính trị
ĐCS đề ra phương hướng, chiến lược phát triển, mục tiêu cơ bản của mỗi giai đoạn cách
mạng (xây dựng cương lĩnh chính trị đúng đắn). ĐCS lãnh đạo quá trình thể chế hóa đường lối
chính trị đã đề ra qua các biện pháp như Kiểm tra, giám sát; tuyên truyền, giáo dục, vận động; kỷ
luật, nêu gương. ĐCS đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công nhân cho cách mạng. ĐCS xây dựng,
củng cố mối quan hệ với nhân dân
Vai trò ĐCS xây dựng, củng cố mối quan hệ với nhân dân.
Ví dụ trong công cuộc chống tham nhũng và tệ nạn xã hội nhân dân có vai trò là ‘con mắt thần’
trong nhìn nhận phát hiện,song song đó đảng cần nhanh chóng kiểm tra, xác minh khách quan,
trung thực, củng cố sự uy tín của đảng cầm quyền, tăng cường được mối quan hệ máu thịt giữa
Đảng và Nhân dân, đưa sự nghiệp đổi mới của đất nước ta tiếp tục đạt được thành công trong tình hình mới. - Liên hệ thực tiễn.
+ Ngày nay, GCCN thực hiện SMLS của mình như thế nào.
+ Đề xuất ý kiến để làm tốt hơn vị trí, vai trò đó.
Hiện nay, giai cấp công nhân Việt Nam có những biến chuyển tích cực, cụ thể:
Thứ nhất, Giai cấp công nhân nước ta phát triển nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu thành
phần và ngành nghề.Trong quá trình đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế, chủ trương phát triển
kinh tế nhiều thành phần đã tạo nên sự chuyển biến trong cơ cấu lực lượng lao động xã hội. Giai
cấp công nhân nước ta đang tiếp tục tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu theo ngành nghề và
thành phần kinh tế. Trong đó,số công nhân trong khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài tăng mạnh và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn. Đồng thời, xuất hiện ngày càng
đông bộ phận công nhân làm việc trong các ngành dịch vụ.
Thứ hai, Giai cấp công nhân ngày càng được nâng cao về trình độ chuyên môn nghề
nghiệp, hình thành tác phong và kỷ luật lao động theo hướng hiện đại. Quá trình hội nhập quốc tế
đã tiếp nhận những thành tựu khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào sản xuất, tạo động lực
để giai cấp công nhân nước ta ngày càng phát triển cao về trình độ chuyên môn nghề nghiệp. Hình
thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức (có trình độ cao đẳng, đại học trở lên) làm
công tác quản lý sản xuất kinh doanh, nghiên cứu và quản lý khoa học kỹ thuật gắn với sản xuất
kinh doanh hoặc trực tiếp sản xuất.
Thứ ba, Giai cấp công nhân nước ta có nhiều cơ hội việc làm, đời sống vật chất và tinh thần
ngày càng được cải thiện. Trong những năm qua, nhờ những cải cách thể chế để hội nhập vào nền
kinh tế thế giới, nên khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài có sự chuyển biến mạnh mẽ, tạo nhiều việc làm cho người lao động.
Nhận thức rõ SMLS của GCCN là cơ sở để nhận thức thời đại ngày nay . Thời đại ngày nay
là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Xu thế này xuất hiện từ sự vận
động của mâu thuẫn cơ bản trong lòng PTSX TBCN, từ quá trình công nghiệp hóa và sự phát triển
GCCN ở các nước. Thực hiện SMLS của GCCN là hướng tiếp cận mới để giải quyết những vấn đề
lớn của quá trình phát triển hiện đại. Đó là giải quyết mối quan hệ giữa chiến tranh - hòa bình, giữa
lao động và tư bản, giữa độc lập và chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc với chủ nghĩa đế quốc…
SMLS của GCCN là nội dung chủ yếu của cuộc đấu tranh chính trị, tư tưởng hiện đại.
SMLS của GCCN là “điểm trung tâm của học thuyết Mác” và là cơ sở lý luận và phương pháp luận
của các Đảng Cộng sản chân chính trong cuộc đấu tranh tư tưởng và lý luận hiện nay. Mặt khác
hiện nay GCTS đang tìm mọi cách phủ nhận SMLS này. Do đó vấn đề này đang trở thành trọng
điểm trong cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận hiện nay.
SMLS của GCCN với phát triển theo định hướng XHCN ở Việt Nam. Mô hình CNXH ở VN
và con đường đi lên CNXH ở VN được xây dựng trên cơ sở của CNXHKH mà điểm trung tâm của
lý luận này là SMLS của GCCN. Đảng Cộng sản Viêt Nam đã lãnh đạo GCCN và cả dân tộc giành
được độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Thực hiện thành công SMLS này là đảm bảo cho thắng lợi của CNXH ở VN.
Ở nước ta, giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong
của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam. Quá trình đổi mới mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang tạo ra những cơ hội mới cho sự phát triển giai cấp
công nhân Việt Nam. Thực hiện SMLS của GCCN ở Việt Nam hiện nay cần nhận thức rõ rằng, việc
xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH ở Việt Nam trước hết thông qua vai trò tiên phong của GCCN. Để xây GCCN cần.
Thứ nhất, Xây dựng GCCN lớn mạnh phải gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước. Bên cạnh đó cũng phải chăm lo xây dựng GCCN, đảm bảo hài hòa lợi ích của người lao
động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần…
Thứ hai, Phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc, kế
thừa những giá trị của nhân loại làm cho hệ giá trị, lối sống và tác phong của GCCN trở thành hệ
giá trị chủ đạo của xã hội Việt Nam… là nhiệm vụ cơ bản trong quá trình xây dựng đời sống văn
hóa tinh thần của xã hội mới.
Thứ ba, Xây dựng GCCN lớn mạnh phải gắn với xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong
sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Thứ tư, Để thiết thực xây dựng và phát triển giai cấp công nhân đáp ứng yêu cầu cấp bách
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay, cần
đẩy mạnh việc tuyên truyền và giáo dục về sứ mệnh, vai trò của giai cấp công nhân; chăm lo đời
sống vật chất và tinh thần của công nhân; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ
chức chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp, đồng thời, đổi mới phương thức hoạt động của các
tổ chức này phù hợp với tình hình mới.
Thứ năm, Cải cách triệt để hệ thống giáo dục và đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ và tay nghề
cho giai cấp công nhân. Đây là một vấn đề sống còn đối với người công nhân và việc phát triển giai
cấp công nhân trong tình hình mới. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế đang tạo ra một nhu cầu mới về nguồn nhân lực cả về
số lượng và chất lượng. Đặc thù của kinh tế thị trường là tính cạnh tranh cao, lao động và việc làm
cũng không ngoài tình trạng đó. Sự cạnh tranh trong sử dụng lao động đòi hỏi lực lượng lao động
cần được đào tạo một cách chuyên nghiệp và cơ bản. Do đó, chất lượng lao động, nguồn nhân lực
mới là nhân tố quyết định cho sự phát triển và tăng trưởng cao. Đối với người lao động, khi tham
gia thị trường lao động nếu chưa được đào tạo cơ bản, đáp ứng nhu cầu thực tế của thị trường lao
động, thì rất khó tìm được việc làm, và nếu có, thì cũng thường là việc làm không ổn định, lao động
giản đơn, nặng nhọc và thu nhập thấp. Tính cạnh tranh cao cùng với sự sôi động của thị trường lao
động đòi hỏi Nhà nước cần có một chiến lược xây dựng và phát triển nguồn nhân lực vừa đông đảo,
có chất lượng cao vừa phong phú, đa dạng nhằm đáp ứng kịp thời và lâu dài nhu cầu nguồn lực con
người cho quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ sáu, Thiết thực chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của giai cấp công nhân. Trong xã
hội hiện nay, cùng với nông dân, giai cấp công nhân là những người nghèo trong xã hội. Đời sống
vật chất và tinh thần của người công nhân lao động còn nghèo nàn. Đây là một nghịch lý rất đáng
suy nghĩ. Giai cấp tiên tiến, ưu tú, nắm quyền lãnh đạo xã hội mà lại nghèo. Vì lẽ đó, Đảng và Nhà
nước cần cấp thiết có một chiến lược thiết thực chăm lo đời sống người công nhân, nhất là đội ngũ
công nhân trẻ mới vào nghề, tập trung đông ở các khu công nghiệp, khu chế xuất. Trong đó, trước
hết, là các chính sách mới về việc làm, nhà ở và tiền lương. Có như thế, giai cấp công nhân mới
thoát khỏi những bức bách của đời sống, có điều kiện học tập, rèn luyện nâng cao tay nghề và ý
thức xã hội. Chỉ khi đó, đội ngũ công nhân trẻ này mới gắn bó sâu sắc với sự nghiệp đổi mới của
Đảng và Nhà nước, có ý thức giai cấp, có lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Thứ bảy, Tiếp tục phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quy
hoạch nền kinh tế, vùng kinh tế, khu vực kinh tế, cấu trúc lại nền kinh tế phù hợp với sự phát triển
nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, thu hút đầu
tư nước ngoài, khuyến khích các tập thể cá nhân phát triển sản xuất - kinh doanh, chủ động và tích
cực tham gia vào thị trường lao động quốc tế, phát triển cảng biển, hệ thống đường giao thông thủy,
bộ, đường sắt, hàng không, xây dựng những khu công nghiệp, khu chế xuất mới. . Đây sẽ là quá
trình phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp, hiện đại; đồng thời, hướng tới việc tạo ra một thị
trường lao động công nghiệp mới, thu hút nhiều lao động với phong phú về ngành nghề, đa dạng về
chủng loại. Quá trình này sẽ phát triển giai cấp công nhân không chỉ về số lượng mà cả chất lượng.
Tóm lại, từ các phân tích trên về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân cả về lý luận lẫn
thực tiễn đều cho ta thấy một điều không thể phủ nhân rằng : giai cấp công nhân là môt giai cấp
tiên tiến ,có vai trò to lớn trong lịch sử phát triển của thế giới ,là một lực lượng xã hội tiên phong
trong công cuộc cải tạo khoa học công nghệ vào sản xuất xã hội. Hiểu được rõ về giai cấp công
nhân, đặc biệt là hiểu được sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một vấn đề hết sức quan
trọng trong nhận thức của mỗi chúng ta ,giúp ta có những nhận thức đúng đắn đối với các giai cấp
trong xã hội nói chung và giai cấp công nhân nói riêng .Qua đó, mỗi cá nhân trong xã hội cần
không ngừng nâng cao ý thức trách nhiệm về giai cấp ,về nhận thức xã hội để nâng cao tri thức văn
hoá của mình. (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam). Mặt khác, sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân là một nội dung quan trọng đối với giai cấp công nhân nên nó rất cần
được xã hội và nhất là Đảng cộng sản chú trọng, tạo điều kiện hoàn thành một cách tốt nhất.
Câu 2. Phát huy tính dân chủ trong thời kỳ quá độ lệ CNXH.
1. Vấn đề về dân chủ và phát huy dân chủ. - Dân chủ là gì ?
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Đoàn kết, dân chủ, kỷ
cương, sáng tạo, phát triển”, thể hiện bản lĩnh, ý chí kiên cường, và quyết tâm đi tới của cả dân tộc
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để đạt được mục tiêu đó, phát
huy dân chủ XHCN là một trong những giải pháp cần thiết, do đó cần hiểu đúng và vận dụng phù
hợp trong thực tiễn đời sống chính trị - xã hội, góp phần đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống.
Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc
đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phát huy dân chủ là nhiệm vụ xuyên suốt thời kỳ quá độ.
Dân chủ chính là sự thể hiện mức độ tham gia của người
dân trong việc quyết định các vấn đề của đất nước. Tóm lại, trong đất nước nào người dân tham gia
giải quyết càng nhiều việc thì đất nước đó càng dân chủ. Còn nếu người dân không được tham gia
gì hết mà Nhà nước tự quyết, tự làm, dân không được quyền ý kiến thì đất nước đó không dân chủ.
Dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Nhân dân được quyền làm chủ mọi mặt liên quan đến đời
sống của mình. Dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ.
Có hai loại dân chủ đó là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Dân chủ trực tiếp là do nhân
dân quyết và Nhà nước làm theo. Còn dân chủ đại diện tức là nhân dân không trực tiếp quyết định
mà dân giao quyền quyết cho các cơ quan nhà nước, thường dân sẽ giao quyền cho Quốc hội và
Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước thay mặt dân để quyết.
Tại Việt Nam hiện nay tỷ lệ dân chủ đại diện nhiều hơn là dân chủ trực tiếp. Thế nên trong
tương lai, sẽ hướng tăng dần tỷ lệ dân chủ trực tiếp lên, tăng dần một cách từ từ, có lộ trình. Bởi
nếu ngay lập tức giao cho dân quyết thì người dân sẽ khó để quyết bởi trình độ dân trí còn thấp
chưa đủ khả năng để đưa ra quyết định. Thế nên, khi trình độ dân trí ngày một tăng cao thì Nhà
nước sẽ phân nhiều hơn để người dân có thể trực tiếp quyết, thực hiện quyền dân chủ của mình.
Thí dụ như là Trong Hiến pháp hiện hành có một quy định như sau “ Muốn điều chỉnh địa
giới đơn vị hành chính, phải lấy ý kiến nhân dân”. Đây là biểu hiện của dân chủ trực tiếp. Như vậy,
nếu đại đa số nhân dân nơi đó họ không đồng ý thì phải giữ nguyên hiện trạng. Còn nếu như đại đa
số người dân đồng ý thì lúc đó nhà nước mới thực hiện tách, nhập phường xã. Như việc vừa rồi khi
nhập Quận 2, Quận 9, Quận Thủ Đức thành Thành phố Thủ Đức thì Nhà nước sẽ gửi đến từng
người của từng nhà một tờ giấy để hỏi ý kiến. Nếu đại đa số đồng ý thì sẽ thành lập thành phố mới,
còn nếu đại đa số không đồng ý thì vẫn giữ nguyên. - Dân chủ XHCN là gì ?
Dân chủ XHCN là một chế độ chính trị mà quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân lao động, một hình thức tự quyết định của nhân dân để chi phối hoạt động
của nhà nước, xã hội và công dân, được pháp luật thừa nhận và bảo đảm trên thực tế, dưới sự lãnh
đạo của giao cấp công nhân và đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản.
Dân chủ XHCN vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công
cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và
nhân dân. Đặc trưng của dân chủ XHCN là quyền dân chủ của công dân không ngừng mở rộng
trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của nhà nước và xã hội. Dân chủ XHCN là nền dân chủ của xã
hội loài người tiến bộ trong tương lai.
Dân chủ là mục tiêu của chế độ xã hội chủ nghĩa ( dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh); Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa ( do
nhân dân làm chủ, quyền lực thuộc về nhân dân); Dân chủ là động lực để xây dựng chủ nghĩa xã
hội (phát huy sức mạnh của nhân dân, của toàn dân tộc). Nói dân chủ là mục tiêu bởi vì sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta do Đảng lãnh đọa nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người, bảo đảm để con người thực sụ làm chủ xã hội. Dân chủ là động lực cho sự nghiệp
đổi mới vì dân chủ hóa đời sống xã hội sẽ phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác của mỗi con
người, làm cho mọi tiềm năng sáng tạo được phát triển; mọi người dân được tham gia vào các quá
trình chính trị, xã hội trên tất cả các khâu, từ giám sát, kiểm tra và tổng kết. . Nhờ đó những vẫn đề
nảy sinh sẽ được phát hiện kịp thời, những khó khăn trên sớm được tháo gỡ, giải quyết, nhằm thực
hiện mục tiêu phát triển đất nước.
- Dân chủ XHCN khác dân chủ tư sản như thế nào?
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ Dân chủ tư sản là nền dân chủ cho thiểu số, Mục đích
cho đại đa số nhân dân lao động, phục vụ phục vụ lợi ích cho thiểu số.
lợi ích cho đại đa số.
Là nền dân chủ mang bản chất của giai
cấp công nhân, nhưng nó phục vụ cho đa Mang bản chất của giai cấp tư sản, lợi ích của số. Bản chất
giai cấp tư sản đối lập với lợi ích của giai cấp
Bởi vì, lợi ích của giai cấp công nhân phù công nhân và nhân dân lao động.
hợp với lợi ích của nhân dân lao động và toàn dân tộc.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ Thực hiện thông qua nhà nước pháp quyền xã
do Đảng Cộng sản lãnh đạo, nhất nguyên hội chủ nghĩa (thống nhất và phân công Cách thức
về giá trị; còn dân chủ tư sản do các đảng giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp); còn
của giai cấp tư sản lãnh đạo, đa đảng về thực hiện thông qua nhà nước pháp quyền tư chính trị.
sản (tam quyền phân lập).
Dân chủ tư sản được thực hiện trên cơ sở
Dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện kinh tế là chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản Cơ sở kinh tế
trên cơ sở kinh tế là công hữu hóa các tư chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu của
liệu sản xuất chủ yếu.
toàn xã hội đó là chế độ áp bức bóc lột.
2. Quan điểm của Đảng ta về dân chủ và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Qua hơn 25 năm đổi mới, Đảng ta đó có bước phát triến quan trọng trong nhận thức về dân chủ, đó là:
Thứ nhất, Dân chủ vừa là chế độ chính trị, vừa là giá trị, là phương thức và nguyên tắc tổ
chức xã hội; dân chủ chung trong cả xã hội và dân chủ đối với mỗi cá nhân; coi trọng cả dân chủ
chính trị, dân chủ kinh tế và dân chủ trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội. Dân chủ không chỉ là mối
quan hệ giữa nhà nước với nhân dân (dân chủ chính trị) mà là mối quan hệ "theo chiều dọc" có
trong mọi tổ chức kinh tế, xã hội, chính trị, giữa cấp trên và cấp dưới, giữa người đứng đầu và các
thành viên trong tổ chức, giữa xã hội với tư cách là một chủ thể chung với các giai tầng trong do.
Thứ hai, Phải tiếp thu và phát triển các giá trị của nhân loại về dân chủ, trong đó có dân chủ
tư sản. Sự khác biệt về bản chất giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản là rõ ràng, nhưng
điều đó không ngăn cản việc tham khảo các thành quả của các nước tiên tiến về dân chủ, về quản lý
nhà nước, thiết kế bộ máy quản lý nhà nước, hành chính công, trách nhiệm xã hội của mỗi cá nhân …
Thứ ba, Nhân thức về tính tiệm tiến lâu dài trong quá trình phát triển dân chủ: dân chủ là kết
quả của cả một quá trình lâu dài về giáo dục ý thức cũng như nâng cao năng lực thực hành dân chủ,
không thể nóng vội, thoát ly thực tiễn, trong đó dân chủ được thực hiện.
Thứ tư, Phải xây dưng cơ chế dân chủ trong tất cả các cấp độ,từ các cơ quan lãnh đạo cao
nhất của đất nước (Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ. ) đến cấp cơ sở, trong đó đặc biệt quan
trọng là dân chủ ở cơ sở.
Thứ năm, Phải tìm tòi, tổng kết thực tiễn để tìm ra và hoàn thiện các hình thức thực hiện
dân chủ thực chất, đúng hướng, có hiệu quả. Hoàn thiện cả dân chủ trực tiếp và dân chủ thông qua đại diện.
Thứ sáu, Trong quá trình xây dựng và thực hiện dân chủ cần chống các biểu hiện lệch lạc:
dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để làm tổn hại lợi ích nhà nước và lợi ích
của công dân, để gây rối; kiên quyết bác bỏ luận điệu bôi nhọ về dân chủ, nhân quyền của các thế
lực phản động , thù địch.
Trên cơ sở những nhận thức mới trên đây, việc phát huy dân chủ cần được thực hiện theo các nội dung sau:
Xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công chức phải thực sự là công
bộc của nhân dân, tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân; bảo đảm tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
đều vì lợi ích củ nhân dân; đề cao trách nhiệm của các tổ chức đảng, nhà nước đối với nhân dân.
Thứ nhất, Xác định các hình thức tổ chức và có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền dân chủ
trên các lĩnh vực kinh tế chính trị, văn hoá, xã hội.
Thứ hai, Nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản
lý xã hội của nhân dân; có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp và gián tiếp.
Thứ ba, Cùng với phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm công dân cần tăng cường kỷ luật,
kỷ cương xã hội như là điều kiện để bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; phê phán và nghiêm trị
những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất
an ninh, trật tự, an toàn xã hội; chống tập trung quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức.
Thứ tư, Quan tâm hơn nữa việc chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự do, toàn diện của con
người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trong và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người.
Thứ năm, Dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta do Đảng lãnh đạo.
Trong điều kiện đó, dân chủ trong Đảng gắn liền với dân chủ trong xã hội có vai trò rất quan
trọng. Chỉ có thực hiên tốt dân chủ trong Đảng mới có thể nói đến xây dựng và phát triển tốt dân chủ trong xã hội.
3. Thực trạng vấn đề: đánh giá được vấn đề phát huy dân chủ ở Việt Nam hiện nay
Qua 30 năm đổi mới, Đảng ta đã có bước phát triển quan trọng trong nhận thức về dân chủ,
đó là: Quan niệm về dân chủ được mở rộng. Dân chủ được xem xét theo nhiều khía cạnh: dân chủ
vừa là chế độ chính trị, vừa là giá trị, là phương thức và nguyên tắc tổ chức xã hội. Trên tinh thần
đó, tại văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng
định: “Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân”.
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, thực chất là nhân
dân dược làm chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ chính trị, dân sự, kinh tế, đến văn
hóa - xã hội. Đồng thời cơ chế để bảo đảm các quyền con người, quyền công dân được Hiến pháp
năm 2013 ghi nhận. Với quan điểm đúng đắn, cùng cơ sở pháp lý vững chắc, Đảng và Nhà nước ta
đã huy động trí tuệ, tiềm năng, tính sáng tạo của mỗi con người Việt Nam vào công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 3.1. Ưu điểm.
Về phát huy dân chủ trong Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Nội dung phát huy dân chủ được Đảng ta quy định rất rõ, bảo đảm thật sự tự do tư tưởng
trong sinh hoạt đảng, khuyến khích và tôn trọng sự suy nghĩ độc lập, sáng tạo, thảo luận, tranh luận
dân chủ nhằm phát huy trí tuệ của toàn Đảng, của từng cán bộ, đảng viên trong việc chuẩn bị các
nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết. Trong đại hội đảng các cấp, trong các hội nghị của
Đảng, mỗi đảng viên đều có quyền thảo luận, bàn bạc, tham gia các công việc của Đảng, phê bình,
chất vấn các cán bộ, đảng viên khác, được trình bày hết ý kiến của mình, có quyền bảo lưu ý kiến
hoặc đề xuất ý kiến lên các cơ quan cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng. Các
nghị quyết, quyết định của tổ chức đảng được thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số. Việc bầu
cử trong Đảng đều được tiến hành dân chủ theo nguyên tắc bỏ phiếu kín, không gò ép, áp đặt. . Đặc
biệt, trong các nhiệm kỳ gần đây, việc thực hành dân chủ trong Đảng tiếp tục được bổ sung bằng
những quy chế, quy định chặt chẽ hơn, như quy định Bộ Chính trị báo cáo công việc và hoạt động
của mình trước mỗi kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương, ban thường vụ báo cáo công việc và
hoạt động của mình trước mỗi kỳ họp cấp ủy, cấp ủy báo cáo trước tổ chức đảng hoặc cơ quan bầu
ra mình; quy định thời gian tiến hành tự phê bình và phê bình, tổ chức quần chúng phê bình và bỏ
phiếu tín nhiệm cán bộ, đảng viên từ cơ quan cao nhất đến tổ chức cơ sở.
Việc phát huy dân chủ trong các tổ chức nhà nước có nhiều chuyển biến, tiến bộ. Quốc hội
có những đổi mới quan trọng, từ bầu cử đại biểu Quốc hội đến hoàn thiện về cơ cấu tổ chức và
phương thức hoạt động, làm tốt hơn chức năng lập pháp, công tác giám sát và quyết định các vấn
đề quan trọng của đất nước. Quốc hội hoạt động ngày càng dân chủ, hiệu quả. Để nâng cao chất
lượng các văn bản pháp luật, Quốc hội đã có nhiều hình thức để lấy ý kiến góp ý, như tổ chức hội
thảo, tọa đàm, phát phiếu. .
Trước và sau mỗi kỳ họp Quốc hội đều tổ chức tiếp xúc cử tri để nắm bắt tâm tư, nguyện
vọng, kiến nghị của cử tri cả nước. Sau tiếp xúc đều tổng hợp, phân tích những kiến nghị xác đáng
để yêu cầu Chính phủ chỉ đạo giải quyết theo thẩm quyền. Nhiều khóa gần đây, hoạt động chất vấn
và trả lời chất vấn tại các kỳ họp của Quốc hội, hội đồng nhân dân thật sự sôi nổi, dân chủ, phát huy
được trách nhiệm của đại biểu, được nhân dân cả nước ghi nhận. Định kỳ, Quốc hội, hội đồng nhân
dân tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội, hội đồng nhân dân bầu bằng
hình thức bỏ phiếu kín. Phát huy dân chủ của Chính phủ tiếp tục có những đổi mới trong hoạch
định chính sách, quản lý vĩ mô, chỉ đạo điều hành tổ chức thực hiện. Ý thức, trách nhiệm thể chế
hóa, cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng thành các văn bản pháp luật được đề cao. Đặc
biệt, chính quyền các cấp đã có nhiều tiến bộ trong tổ chức tiếp dân, đối thoại với công dân và giải
quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân. Đối với công tác tổ chức cán bộ diện quản lý theo
phân cấp của Đảng đều được tập thể ban cán sự đảng thảo luận dân chủ, bỏ phiếu kín và quyết định
theo đa số. Các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp đều tạo điều kiện và phát huy chức năng
tuyên truyền, định hướng dư luận của các phương tiện truyền thông, như báo viết, báo nói, báo hình, báo mạng. .
Phát huy dân chủ trong các tổ chức chính trị - xã hội cũng có nhiều tiến bộ rõ, thể chế thực
thi các quyền dân chủ của nhân dân từng bước được xác lập và cụ thể hóa. Nhiều văn bản tạo cơ sở
pháp lý phát huy quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân được Quốc hội thông qua, như Luật Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Công đoàn, Luật Thanh niên, Luật Trưng cầu ý dân. . Những bảo đảm
dân chủ về quyền và nghĩa vụ, lợi ích, trách nhiệm của các chủ thể trong xã hội được luật hóa cụ
thể hơn và từng bước thực hiện có kết quả; nhiều chủ trương, biện pháp đã phát huy vai trò tích cực,
chủ động của nhân dân, đẩy mạnh quá trình dân chủ hóa xã hội. Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban
hành Pháp lệnh số 34/PT/UBTVQH, ngày 20-4-2007, “Về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn”, Nghị định số 04/NĐ/CP, ngày 24-1-2013, “Về thực hiện dân chủ trong hoạt động cơ quan
hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập”, Nghị định số 60/NĐ-CP, ngày 19-6-
2013, “Quy định chi tiết khoản 3 Điều 63 của Bộ luật Lao động về thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ
sở tại nơi làm việc” đã góp phần tích cực vào quá trình phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Hiện
nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội đang tích cực thực hiện chức
năng giám sát, phản biện xã hội và góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững
mạnh. Trước các kỳ họp Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã
tập hợp khá đầy đủ các kiến nghị của các tổ chức thành viên, ý kiến của cử tri cả nước để phản ánh
đến Quốc hội; hội đồng nhân dân các cấp đã thường xuyên giám sát chính quyền trong việc tiếp thu
và giải quyết các kiến nghị chính đáng của đoàn viên, hội viên, cử tri. 3.2. Hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm, việc thực hiện phát huy dân chủ cũng còn nhiều hạn chế, bất cập.
Thứ nhất, Nhận thức về dân chủ và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa còn hạn chế,
chưa đầy đủ và hệ thống, chưa lý giải và làm sáng tỏ kịp thời nhiều vấn đề do thực tiễn đặt ra, chưa
giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân chủ và kỷ luật, kỷ cương; chưa coi trọng đúng mức phát triển
các hình thức dân chủ trực tiếp.
Thứ hai, Hiện nay, vẫn có một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức về dân chủ
còn phiến diện, nhất là thực hành dân chủ trong Đảng. Có người cho rằng dân chủ trong Đảng thì
đảng viên được tự do phát ngôn và tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng quan
điểm riêng của mình. Cá biệt, có người còn muốn tổ chức đảng chỉ như “câu lạc bộ”, được tranh
luận, bàn cãi bất kỳ vấn đề gì, không tôn trọng nguyên tắc tập trung dân chủ. Ngược lại, có một bộ
phận đảng viên lại hiểu dân chủ trong Đảng một cách cứng nhắc, coi dân chủ như là phương tiện để
đạt đến sự tập trung, không muốn đảng viên và tổ chức đảng cấp dưới độc lập suy nghĩ, tìm tòi
khoa học, đồng nhất khoa học với chính trị, đồng nhất ý kiến nghiên cứu, trao đổi với quan điểm, đường lối của Đảng.
Thứ ba, Một số người đối lập dân chủ với tập trung, tách rời việc phát huy sáng kiến, sáng
tạo của đảng viên với việc thực hiện kỷ luật, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Thứ tư, Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế, để phát huy sáng kiến và tư duy độc lập của cán bộ, đảng viên cần có quy định về
chế độ cung cấp, cập nhật thông tin thường xuyên cho cán bộ, đảng viên, bảo đảm quyền được
thông tin của đảng viên. Là Đảng duy nhất cầm quyền, một số cán bộ, đảng viên không nhận thức
đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ đã dẫn đến lạm quyền, bao biện, làm thay, độc đoán, gia
trưởng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Đã có nhiều hình thức,
phương pháp tổ chức lấy ý kiến nhân dân, nhất là ý kiến của đội ngũ chuyên gia, các nhà khoa học
khi xây dựng văn bản pháp luật và một số đề án quan trọng khác, nhưng có một số đề án chưa làm
tốt việc đó dẫn đến chất lượng văn bản pháp luật không cao, chưa được Quốc hội thông qua, như
Đề án xây dựng đường sắt cao tốc Bắc - Nam, ba đặc khu kinh tế. . Một số văn bản pháp luật tạo cơ
sở pháp lý phát huy tốt hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân chưa được xây dựng kịp thời, như
Luật Giám sát và phản biện xã hội. Một số luật đã được ban hành, như Luật Trưng cầu ý dân là văn
bản pháp luật quan trọng để nhân dân trực tiếp thể hiện ý chí của mình trong việc quyết định những
vấn đề quan trọng của đất nước, tăng cường đoàn kết và đồng thuận xã hội có hiệu lực từ ngày 1-7-
2016, nhưng đến nay vẫn chưa được tổ chức triển khai thực hiện rộng rãi. Một số cơ quan hành
chính nhà nước, chính quyền các cấp tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật chưa tốt, như trên các
lĩnh vực quy hoạch, quản lý quy hoạch, quản lý đất đai, tài nguyên, khoáng sản, đền bù, giải phóng
mặt bằng, tổ chức tái định cư. .
Thứ năm, Việc phát huy dân chủ ngoài xã hội còn nhiều hạn chế, một bộ phận nhân dân còn
bức xúc, khiếu kiện phức tạp. Số lượng đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến các cơ quan
chức năng, như Ban Dân nguyện của Quốc hội, Thanh tra Chính phủ còn rất cao, nhưng tỷ lệ đơn,
thư được giải quyết chưa được như mong muốn. Theo số liệu của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, tỷ
lệ chính quyền không đối thoại với công dân và không dự các phiên tòa đều tăng qua từng năm. Từ
năm 2015 đến 2017, kể từ khi Luật Tố tụng hành chính có hiệu lực, cả nước có 11.180 quyết định
hành chính và hành vi hành chính bị tòa án hủy toàn bộ hoặc một phần. Các nghị định và pháp lệnh
về thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở tại một số nơi chưa được tổ chức thực hiện tốt. Những hạn
chế, bất cập trên đây có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là
chủ yếu. Về khách quan: Đổi mới là sự nghiệp to lớn, toàn diện, lâu dài và khó khăn, phức tạp,
chưa có tiền lệ trong lịch sử. Tình hình thế giới, khu vực và sự chống phá của các thế lực thù địch
tác động khá lớn vào quá trình phát huy dân chủ. Về chủ quan: Công tác nghiên cứu lý luận và tổng
kết thực tiễn về thực hiện dân chủ trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và ngoài xã hội chưa
được quan tâm đúng mức, chậm được lý giải và thể chế hóa đầy đủ về mặt nhà nước.
Thứ sáu, Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” để phát huy tốt hơn
quyền làm chủ của nhân dân. Việc nghiên cứu, dự báo sự biến động về số lượng, chất lượng, về tư
tưởng các giai tầng xã hội để có các chủ trương, đường lối lãnh đạo phát huy dân chủ sát, đúng,
hiệu quả hơn chưa chủ động. Nhận thức, phương pháp và cách thức chỉ đạo tổ chức thực hiện các
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong phát huy quyền làm chủ
về chính trị, kinh tế, xã hội, quyền dân sự còn những mặt hạn chế. Việc quản lý, giáo dục, rèn luyện
cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống chưa thường xuyên, đúng mức nên còn một bộ phận vi phạm Quy chế Dân chủ ở cơ sở,
không tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
Thứ bảy, các thế lực thù địch Lợi dụng dân chủ để chống phá Đảng, Nhà nước. Từ khi mô
hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các thể lực thù địch tăng cường sử
dụng các âm mưu, thủ đoạn để chống phá chế độ chính trị - xã hội ở nước ta, mà một trong những
chiêu bài mà chúng thường sử dụng đó là vấn đề dân chủ, nhân quyền. Với sự chống phá đó, cùng
với nhận thức không đầy đủ nên một bộ phận người dân bị các thế lực thù địch kích động, lợi dụng
dân chủ để yêu cầu, đòi hỏi không chính đáng, không đúng pháp luật, coi thường kỹ cương, phép
nước. Hiên nay, các thế lực thù địch, phản động tăng cường các hoạt động tuyên truyền, phủ nhận
các giá trị lý luận và thực tiễn về dân chủ và nhân quyên ở nước ta. Họ phê phán, bác bỏ những giá
lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta nhằm xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng, Nhà nước và chê độ xã
hội chủ nghĩa (XHCN). Họ núp dưới chiêu bài “dân chủ hóa", hình thành "kênh phản biện" đề cho
ra đời các tổ chức đối trọng với các Cơ quan, tổ chức trong bộ máy của Đảng, Nhà nước, đòi giám
sát hoạt động của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội. Đồng thời, lợi dụng các diễn
đàn tư tưởng, thông qua hoạt động hợp tác, nghiên cứu khoa học,. . để tuyên truyến về "xã hội dân
sự", đề cao dân chủ tư sản, nhằm chuyển hóa lập trường, tư tưởng của đội ngũ cán bộ, đảng viên và
nhân dân.Với sự phê phán, xuyên tạc của các thế lực thù địch, cùng với sự nhận thức không đầy đủ
nên một bộ phận người dân bị các thế lực thù địch lợi dụng, kích động, lôi kéo tham gia biểu tình,
gây rối, tụ tập đông người, gây mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội, vi phạm pháp luật. .
3.3. Từ hạn chế đề xuất ý kiến để khắc phục.
Một là, tiếp tục phát huy dân chủ rộng rãi trong Đảng.
Để phát huy dân chủ trong Đảng đòi hỏi các cấp ủy, mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người
đứng đầu phải quán triệt sâu sắc, nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn nữa các quan điểm, đường lối
của Đảng về phát huy dân chủ; đồng thời, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý
luận về phát huy quyền làm chủ; giải quyết tốt mối quan hệ hữu cơ giữa “Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ”; tạo điều kiện cần và đủ để nhân dân làm chủ thực chất, hiệu quả. Tiếp
tục bổ sung các quy chế, quy định về dân chủ để thực hiện thống nhất trong toàn Đảng. Trước hết,
quy định rõ hơn Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước
nhân dân về những quyết định của mình. Bổ sung quy định về phát huy dân chủ trong công tác cán
bộ đi đôi với kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ
và quản lý cán bộ. Bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, mọi quyết định về công tác cán bộ phải
được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số. Công khai, minh bạch về chỉ tiêu, về kế hoạch
tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch cán bộ, thi nâng ngạch, nâng bậc, xét danh hiệu thi
đua, xét nâng hạng; tiêu chuẩn, điều kiện, số lượng, cơ cấu, quy trình luân chuyển, điều động, bổ
nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử. Thực hiện bỏ phiếu kín đối với những nội dung cần biểu quyết
trong công tác cán bộ, có quy chế cạnh tranh lành mạnh trong công tác cán bộ. Mỗi cán bộ đủ điều
kiện, tiêu chuẩn trong diện quy hoạch đều có cơ hội như nhau để thể hiện phẩm chất, năng lực của
mình trong tuyển dụng, tuyển chọn vào các chức danh lãnh đạo, quản lý. Thực hiện bầu cử có số dư,
bổ nhiệm cán bộ có cạnh tranh, thông qua thi tuyển hoặc bảo vệ chương trình hành động. Đi đôi với
phát huy dân chủ trong công tác cán bộ phải có quy định về kiểm soát, giám sát quan hệ lợi ích
trong công tác cán bộ để công tác cán bộ thực sự khách quan, công tâm. Tiếp tục thực hiện tốt chế
độ Bộ Chính trị báo cáo công việc và hoạt động của mình trước mỗi kỳ họp của Ban Chấp hành
Trung ương; ban thường vụ báo cáo công việc và hoạt động của mình trước mỗi kỳ họp cấp ủy; cấp
ủy báo cáo trước tổ chức đảng hoặc cơ quan bầu ra mình. Nâng cao chất lượng, hiệu quả quy định
hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn trong sinh hoạt đảng, đưa hoạt động này thành chế độ nền
nếp. Để thực hành dân chủ trong Đảng đòi hỏi mỗi đảng viên phải thực hiện nghiêm Quy định số
08-Qđi/TW, ngày 25-10-2018, của Bộ Chính trị, “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng
viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương
Đảng”. Trong nhiều nội dung về nêu gương phải coi trọng nêu gương về thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở.
Hai là, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về phát huy dân
chủ thành chính sách, pháp luật và tăng cường xây dựng, củng cố, hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Trên cơ sở cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, thể chế hóa Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 6 khóa XII “Về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị,
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” để thực hiện đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội,
Chính phủ. Bộ máy phải được tổ chức gọn nhẹ, rõ về chức năng, quyền hạn và trách nhiệm, tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương phải tạo điều kiện để người dân
tiếp cận, dễ đối thoại, dễ kiểm tra, giám sát; huy động được tài năng, trí tuệ, sáng tạo của người dân
tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Nhà nước phải bảo đảm và phát huy được quyền làm chủ thực
sự của người dân, nhất là quyền tham gia xây dựng chính quyền, lựa chọn người đại diện cho mình
và quyền sở hữu tài sản hợp pháp. Mở rộng đối thoại giữa Nhà nước với người dân và doanh
nghiệp bằng nhiều hình thức, tăng cường trách nhiệm giải trình và lắng nghe nhân dân. Tăng cường
dân chủ ở cơ sở, mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp để người dân tham gia công việc của Nhà
nước một cách thiết thực, phù hợp. Các cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp tiếp tục
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo đảm chính sách, pháp luật được thực thi có hiệu
quả. Tập trung chỉ đạo, điều hành thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân, thực hiện tốt chính sách an sinh
xã hội. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân thực hiện các thủ tục hành chính.
Ba là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội phát huy vai trò, vị trí của
mình theo quy định của Đảng và các văn bản pháp luật để thực hiện tốt chức năng giám sát, phản
biện xã hội, nhất là những vấn đề liên quan đến phát huy dân chủ, đến quyền và lợi ích của các
thành viên, đoàn viên, hội viên.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội thực hiện quyền giám sát và
phản biện xã hội của mình trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực phát huy dân chủ; vừa vận
động, tập hợp, động viên các tầng lớp nhân dân, các đoàn viên, hội viên của mình thực hiện tốt
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, vừa tham gia xây dựng Đảng, xây dựng
chính quyền trong sạch, vững mạnh. Động viên đội ngũ nhân sĩ, trí thức, các chuyên gia, nhà khoa
học tham gia góp ý xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, các đề án phát triển kinh tế - xã hội
quan trọng của đất nước. Tập hợp kịp thời các đề xuất, kiến nghị, nguyện vọng chính đáng của
đoàn viên, hội viên, của cử tri để phản ánh cho Đảng, Nhà nước xem xét lãnh đạo, chỉ đạo giải
quyết. Tham gia việc phát hiện, lựa chọn, giới thiệu những người đủ đức, đủ tài, thật sự xứng đáng
làm đại biểu nhân dân trong Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp. Dưới sự lãnh đạo của các cấp
ủy đảng, tăng cường chức năng giám sát có trọng tâm, trọng điểm đối với các cơ quan hành chính
nhà nước, chính quyền các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Trong tình
hình hiện nay cần tăng cường giám sát việc lãnh đạo và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, việc tổ
chức tiếp công dân, đối thoại với công dân và giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân đối
với chính quyền các cấp. Tăng cường công tác giáo dục, nâng cao đạo đức công vụ và tinh thần
trách nhiệm của công chức, viên chức với nhân dân.
Bốn là, phát huy vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy; chính quyền các cấp và các cơ
quan, đơn vị của cả hệ thống chính trị về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Trong bối cảnh đẩy mạnh việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, một trong những yếu tố quyết định đến chất lượng, hiệu quả
của việc phát huy dân chủ, chính là vai trò của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, các cơ quan,
đơn vị trong cả hệ thống chính trị. Ở đâu người đứng đầu có nhận thức sâu sắc, đầy đủ về quyền
làm chủ của nhân dân, về thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở và luôn luôn nêu gương về đạo đức,
lối sống, về thượng tôn pháp luật thì ở đó dân chủ được thực hiện tốt. Từng đồng chí bí thư cấp ủy
từ Trung ương đến cơ sở, lãnh đạo chủ chốt các cơ quan nhà nước, chính quyền các cấp, các cơ
quan, đơn vị phải thật sự phát huy dân chủ trong Đảng, công khai, minh bạch trong điều hành của
chính quyền, đề cao vai trò, tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, chống quan liêu,
cửa quyền, tham nhũng, lãng phí và các hành vi xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân. Trong
thực tiễn việc lựa chọn và bố trí người đứng đầu có đức, có tài, biết vận dụng một cách sáng tạo
những thành tựu của khoa học - công nghệ vào lãnh đạo, quản lý, biết tạo ra môi trường dân chủ để
phát huy trí tuệ, sáng tạo, đóng góp của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức là hết sức quan trọng
gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị. Theo quy định của Đảng, người đứng đầu các cấp,
các ngành phải định kỳ trực tiếp tiếp công dân, đối thoại với công dân; có như vậy mới nắm được
và đủ thẩm quyền chỉ đạo giải quyết kịp thời những kiến nghị, đề xuất hợp pháp, chính đáng của
nhân dân; đồng thời, chỉ đạo giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân, không để phát sinh
các “điểm nóng”, vụ, việc phức tạp kéo dài.
Năm là, lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan truyền thông làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến các
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát huy dân chủ, tạo sự
chuyển biến về nhận thức trong các tầng lớp nhân dân.
Báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong
việc phổ biến, truyên truyền sâu rộng các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Nhân dân rất quan tâm đến việc công khai các chế độ, chính sách liên
quan trực tiếp đến nhân dân, như các chính sách an sinh xã hội (việc làm, lao động, tiền lương, trợ
cấp, bảo hiểm. .). Chính quyền các cấp phải công khai rộng rãi cho nhân dân biết các đề án quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch đô thị, kết cấu hạ tầng, quy hoạch sử dụng đất đai. .
Công khai để nhân dân biết, góp ý và giám sát việc tổ chức thực hiện khi được cấp có thẩm quyền
phê duyệt. Các cấp ủy đảng, chính quyền phát huy vai trò của báo chí, các phương tiện truyền
thông đại chúng để phát động nhân dân đấu tranh mạnh mẽ chống tham nhũng, tiêu cực. Trong điều
kiện Đảng cầm quyền, đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực của những cán bộ, đảng viên có
chức, có quyền mà không sử dụng vũ khí công luận, không phát huy được vai trò làm chủ của quần
chúng thì khó có kết quả, hiệu quả. Từ đó, đấu tranh thực hiện dân chủ, kịp thời phê phán những
biểu hiện cực đoan, lợi dụng dân chủ để xuyên tạc, kích động, lôi kéo quần chúng phục vụ cho “lợi
ích nhóm”, lợi ích cá nhân vị kỷ. .; đồng thời, phải khắc phục, chấm dứt những việc làm mang tính
dân chủ hình thức trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Sáu là, Nâng cao ý thức công dân, góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa: ngày nay xây dựng nhà nước pháp quyền là một xu hướng tất yếu trong tiến trình
phát triển của mỗi quốc gia. Nhiều công trình nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau đều khẳng
định nhà nước pháp quyên là "điếu kiện cơ bản để phát triển nền dân chủ, “là một phương thức,
cách thức tổ chức quyển lưc nhà nước", “là xác lập dân chủ, thừa nhân và đảm bảo thực hiện quyến
lực của nhân dân", "là một giá trị chung của nhân loại trên con đường phát triến tiến bộ", “là cơ chế
có mục đích bảo đảm các quyền tự do của công dân, ngăn ngừa và chống lại sự lạm dụng quyền lực
có thể có từ cơ quan công quyền.
Bảy là, Nâng cao nhận thức và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa để chống các thế lực thù
địch, phản động: từ khi mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các thể
lực thù địch tăng cường sử dụng các âm mưu, thủ đoạn để chống phá chế độ chính trị - xã hội ở
nước ta, mà một trong những chiêu bài mà chúng thường sử dụng đó là vấn đề dân chủ, nhân
quyền. Với sự chống phá đó, cùng với nhận thức không đầy đủ nên một bộ phận người dân bị các
thế lực thù địch kích động, lợi dụng dân chủ để yêu cầu, đòi hỏi không chính đáng, không đúng
pháp luật, coi thường kỹ cương, phép nước. Trước thực tế đó, cần nhận thức đúng đắn về dân chủ
để không mắc mưu sự lợi dụng của các thế lực thù địch. Do vậy, cán bộ, đảng viên, nhân dân ta
cần nhận thức rõ ràng và đầy đủ lý luận và thực tiễn gêf dân chủ ở Việt Nam để có thái độ, hành động đúng đắn.
Thứ tám, Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nhà nước pháp quyền: Phát huy
dân chủ đóng vai trò vô cùng quan trọng, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
4. Liên hệ bản thân.
Bản thân tôi đã thực hiện quyền dân chủ của mình khi tôi tròn 18 tuổi tôi đã thực hiện quyền dân
chủ của mình thông qua việc bầu cử ở địa phương; Tham gia các chương trình tình nguyện, tuyên
truyền, hỗ trợ giúp người dân hiểu hơn về quyền dân chủ, giữ gìn vệ sinh môi trường; Là một sinh
viên tôi luôn có ý thức rèn luyện học tập và luôn tuân thủ theo quy định của nhà trường đưa ra; Bản
thân cũng được nêu ý kiến, góp ý về cách giảng dạy của các giảng viên,tham gia khảo sát, nêu ý
kiến về các vấn đề liên quan của lớp của trường.; Bản thân đã tự quyết định, lựa chọn ngành học
cũng như là công việc của mình; Bản thân đã tham gia các cuộc họp, sinh hoạt chi đoàn theo kế hoạch.
Để góp phần thực hiện nếp sống dân chủ, bản thân em sẽ: Thực hiện tốt quyền dân chủ của
mình, tôn trọng quyền dân chủ của người khác. Luôn lắng nghe ý kiến đồng thời bày tỏ ý kiến
trong những cuộc thảo luận. Chấp hành tốt nội quy kỷ luật của Nhà trường. Thực hiện tốt nếp sống
văn hoá nơi công cộng. Đấu tranh, phê phán những thói hư tật xấu, những tiêu cực, thói tự do vô kỷ
luật, vi phạm quyền dân chủ của người khác. Tham gia vào quyền sáng tác nghệ thuật nếu có thể,…
Tóm lại, tính dân chủ được thể hiện ở khắp mọi nơi. Như trong lớp học cũng cần phải phát
huy tính dân chủ, có nhiều vấn đề xẩy ra đều phải bàn bạc, trao đổi, lấy ý kiến tập thể. Nguyên tắc
tập trung dân chủ là nguyên tắc xuyên xuốt và có mặt ở mọi nơi trong hoạt động của Đảng, Nhà
nước và các tổ chức Chính trị - xã hội, ngay cả hoạt động của lớp cũng phải theo nguyên tắc này.
Biểu hiện cơ bản nhất là cấp dưới phải phục tùng cấp trên; nhân viên phục tùng thủ trưởng; thiểu số
phục tùng đa số; địa phương phục tùng trung ương.
Câu 3. Hệ thống chính trị Việt Nam.
1. Hệ thống chính trị Việt Nam gồm 3 bộ phận: Đảng, Nhà nước, các tổ chức Chính trị - xã hội.
Hệ thống chính trị là hệ thống các cơ quan, tổ chức do giai cấp thống trị hoặc liên minh giai
cấp thống trị lập ra để thực hiện sự thống trị của mình trong xã hội. Hệ thống chính trị chỉ ra đời khi
xã hội phân chia thành các giai cấp khác nhau.
Hệ thống chính trị của chúng ta gồm ba bộ phận là Đảng Cộng sản, Nhà nước và Mặt trận
Tổ quốc tập hợp các đoàn thể, tổ chức nhân dân. Ba bộ phận chính trị gắn bó chặt chẽ với nhau,
cùng chung mục đích xây dựng, phát triển đất nước, tiến lên CNXH, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Ba bộ phận ấy gắn bó chặt chẽ với nhau, hợp thành một hệ thống chính trị thống nhất, vận hành
theo quan hệ chức năng có tính nguyên tắc: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ.
Hệ thống chính trị nước ta nắm giữ toàn bộ hệ thống các quyền lực xã hội trên thực tế, từ
quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước đến các quyền lực khác trong xã hội, trong đó có các
quyền lực về xây dựng, hoàn thiện, tổ chức thực thi, kiểm sát việc thực thi hệ thống thể chế phát
triển. Chính vì thế, việc hoàn thiện và thực thi có hiệu quả thể chế phát triển chỉ có thể xảy ra khi có
một tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tốt, hợp lý, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
2. Vị trí, vai trò của từng bộ phận: Đảng, Nhà nước, các tổ chức Chính trị - xã hội.
❖ Vị trí, chức năng của Đảng:
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đồng thời là
đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ
chức cơ bản. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước và xã hội. Đảng là
hạt nhân của hệ thống chính trị. Đảng có chức năng lãnh đạo toàn thể hệ thống chính trị. Kể từ khi
Đảng ra đời cho đến nay Đảng đã chứng minh năng lực lãnh đạo của mình, sự lựa chọn của lịch sử.
Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách . . để thực hiện chức năng lãnh đạo của mình. Nhờ có
sự lãnh đạo của Đảng mà giữ vững bản chất của hệ thống chính trị Việt Nam. Đảng lãnh đạo bằng
phương pháp: giáo dục, truyên truyền, vận động, thuyết phục; bằng hành động gương mâu của
Đảng viên; thông qua công tác cán bộ; thông qua công tác kiểm tra Đảng; thông qua việc đề ra các chủ trương, chính sách.
❖ Vị trí, chức năng của Nhà nước
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực của Nhà nước thuộc về nhân dân ta mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Nhà nước ban hành pháp luật, tổ chức quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Là bộ phận quan trọng nhất của hệ thống chính trị là nhà nước. Nhà nước là trung tâm, là
trụ cột , là xương sống của hệ thống chính trị. Thế nên Nhà nước là bộ phận quan trọng nhất. Nhờ
có Nhà nước mà Đảng có thể lãnh đạo và nhân dân thực hiện được quyền làm chủ của mình. Nhà
nước là bộ phận quan trọng nhất bởi Nhà nước có những chức năng mà Đảng và các tổ chức Chính
trị - xã hội không có. Nhà nước là tổ chức duy nhất có: là chủ sở hữu các TLSX chủ yếu ( đất, tài
nguyên, khoán sản. .); Nhà nước đại diện cho mọi dân tộc, mọi người dân; nắm giữ quyền lực nhà
nước; Nắm giữ chủ quyền quốc gia; đặt ra pháp luật.
❖ Vị trí, chức năng của các tổ chức Chính trị - xã hội.
Đây là tập hợp nhân dân theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản. Bảo vệ lợi ích chính đáng của
các thành viên. Thay mặt các thành viên của mình tham gia quyền lực chính trị. Trong đó, Mặt trận
tổ quốc Việt Nam là đặt biệt nhất vì: nó tập hợp mọi lực lượng rong và ngoài nước thực hiện chính
sách đại đoàn kết toàn dân tộc. Và chỉ có MTTQ làm được mà những tổ chức khác không thể làm được.
3. Thực trạng hệ thống chính trị Việt Nam: 3.1. Ưu điểm.
Trong những năm qua, Đảng ta đã ban hành và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiều chủ
trương, nghị quyết, kết luận về xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, đạt được nhiều kết quả quan trọng.
Thứ nhất, Hệ thống tổ chức của Đảng, Nhà nước, Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể chính trị -
xã hội được đổi mới; chức năng nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của từng tổ chức được phân định,
điều chỉnh hợp lý hơn, từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Thứ hai, Hệ thống chính trị cơ bản ổn định, phù hợp với cương lĩnh và Hiến pháp; bảo đảm
vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần
quan trọng vào những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ ba, hệ thống chính trị ngày càng hướng về cơ sở; lắng nghe ý kiến của Nhân dân. Hệ
thống chính mở rộng dân chủ trên cơ sở quản lý tập trung đối với hoạt động của toàn bộ hệ thống
các đơn vị kinh tế, văn hóa, xã hội trực thuộc. Đây là biểu hiện thể hiện rõ nét yếu tố dân chủ trong
hoạt động quản lý Nhà nước. Có như vậy hoạt động của các đơn vị này mới phát triển một cách
mạnh mẽ theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Ðây cũng chính là việc thực hiện "dân là gốc"
trong hoạt động quản lý hành chính Nhà nước.luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan
điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; kiên trì
thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ
trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của nhân dân. Thế nên cần thiết phải lắng nghe nhân dân.
Thứ tư, hệ thống chính trị ngày càng tinh gọn, hiệu quả. Đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy hệ
thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ và tinh
giản biên chế được chính quyền xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm để góp phần hoàn
thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội nhằm hoàn thành mục tiêu của đất
nước “ dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Tổ chức bộ máy của các cơ quan, đơn
vị được rà soát, sắp xếp, kiện toàn theo hướng giảm đầu mối, giảm tối đa cấp trung gian, giảm cấp
phó; tổ chức bộ máy của các cơ quan, đơn vị, tổ chức sau sắp xếp đã đi vào hoạt động ổn định, bảo
đảm thực hiện tốt công tác tham mưu, phục vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà
nước, thực thi công vụ trên các lĩnh vực.
Thứ năm, các tổ chức Chính trị - xã hội có đổi mới: bảo vệ
lợi ích chính đáng của người dân; tham gia xây dựng Đảng, củng cố chính quyền; Bước đầu làm tốt
giám sát và phản biện xã hội. Hoạt động Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân ngày
càng thiết thực. Việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở được mở rộng và có hiệu quả hơn, nhất là ở
xã, phường. Công tác dân tộc, tôn giáo, vận động người Việt Nam ở nước ngoài có tiến bộ. Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân phát huy tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, mở rộng tổ chức, phát triển đoàn viên, hội viên, tổ chức nhiều
phong trào thi đua, nhiều cuộc vận động có hiệu quả thiết thực. .; cùng nhà nước chăm lo, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội,