Câu hỏi ôn tập triết có đáp án - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
Triếthọc là hệ thống quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị trí của con người trong thế giới đó, là khoa học vềnhững quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác -Lênin (THML01)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
ĐỀ CƯƠNG TRIẾT HỌC (THAM KHẢO) Mục lục
Câu 1: Trình bày nội dung khái niệm của triết học và nguyên nhân cơ bản của triết học.............................................1
Câu 2: Thế giới quan và các thành phần cơ bản cấu thành thế giới quan. Vì sao nói triết học là hạt nhân lý luận của
thế giới quan ?.................................................................................................................................................................2
Câu 3: Phân tích nội dung Vấn đề cơ bản của triết học ?...............................................................................................3
1) Khái niệm thế nào là nhận thức?................................................................................................................................3
4. Biện chứng của quá trình nhận thức...........................................................................................................................5
Câu 4: Nội dung Chủ nghĩa duy vật và các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử triết học ?..............6
1. Chủ nghĩa duy vật chất phác:......................................................................................................................................7
2. Chủ nghĩa duy vật siêu hình:.......................................................................................................................................7
3. Chủ nghĩa duy vật biện chứng:...................................................................................................................................7
Câu 5: Nội dung Chủ nghĩa duy tâm và các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử triết học ?............8
Câu 6: Phân tích Thuyết khả tri, bất khả tri và hoài nghi luận?......................................................................................8
Câu 7: Nội dung phép biện chứng và các hình thức cơ bản của phép biện chứng?........................................................9
Câu 8 : Những điều kiện, tiền đề của sự ra đời triết học Mác - Lênin ?.......................................................................10
Câu 9 : Phân tích nội dung Vật chất và phương thức tồn tại của vật chất theo quan điểm triết học Mác - Lênin ?.....10
Câu 10: Phân tích Nguồn gốc của ý thức ?...................................................................................................................11
Câu 11: Phân tích Bản chất của ý thức ?.......................................................................................................................12
Câu 12: Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ Vật chất và ý thức ?......13
Câu 13. Khái niệm Biện chứng, phân biệt giữa biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan ?............................14
Câu 14: Nội dung nguyên lý mối liên hệ phổ biến, ý nghĩa phương pháp luận ?.........................................................14
Câu 15: Nội dung nguyên lý sự phát triển, ý nghĩa phương pháp luận ?......................................................................14
Câu 16: Phân tích nội dung quy luật từ sự thay đổi về chất dẫn đến sự thay đổi về lượng và ngược lại, ý nghĩa
phương pháp luận ?.......................................................................................................................................................15
I. Nội dung quy luật lượng – chất:................................................................................................................................15
II. Phân tích nội dung quy luật lượng – chất:................................................................................................................16
III. Ý nghĩa phương pháp luận:.....................................................................................................................................17
Câu 17: Phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập, ý nghĩa phương pháp luận ?..............17
Câu 18: Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định, ý nghĩa phương pháp luận ?..........................................17
1. Tính chu kì của sự phát triển:....................................................................................................................................17
2. Hình thức và khuynh hướng của sự phát triển:.........................................................................................................18
Câu 19: Phân tích nội dung Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn ?...........................................................18
Câu 20: Vai trò của thực tiễn với nhận thức ?...............................................................................................................19
Câu 21: Trình bày nội dung sản xuất vật chất và phương thức sản xuất......................................................................19
Câu 22. Phân tích quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất?......................................21
Câu 23: Tồn tại xã hội và các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội ?..................................................................................21
Câu 24: Ý thức xã hội và kết cấu của ý thức xã hội......................................................................................................22
1. Ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận..........................................................................................................23
2. Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng....................................................................................................................................23
3. Tính giai cấp của ý thức xã hội.................................................................................................................................24
Câu 25: Nội dung quan điểm Con người và bản chất con người theo triết học Mác-Lênin.........................................29
1. Anh chị hãy phân tích quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập trong phép BCDV? Rút ra ý nghĩa
đối với việc giải quyết mâu thuẫn của bản thân?..........................................................................................................32
2. Anh chị hãy phân tích khái niệm, kết cấu của LLSX? Tại sao nói LLSX là yếu tố năng động, CM nhất và thường
xuyên biến đổi trong quá trình nhận thức?...................................................................................................................32
Câu 1: Trình bày nội dung khái niệm của triết học và nguyên nhân cơ bản của triết học. Khái niệm:
-Trung Quốc: Triết học là sự truy tìm bản chất của đối tượng, là sự hiểu biết sâu sắc của con người, đi đến đạo lý của sự vật.
- Ấn Độ: Triết học là Darshana: sự chiêm ngưỡng dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến lẽ phải.
- Phương Tây (Hy Lạp cổ đại): Triết học có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, chuyển sang tiếng LaTinh là Philosophia.
=> Ta có thể thấy, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về triết học. Như vậy, có thể khái quát rằng: Triết
học là hệ thống quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị trí của con người trong thế giới đó, là khoa học về
những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. 1
Và khi triết học Mác ra đời đã xác định, đối tượng nghiên cứu là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa tồn
tại và tư duy, giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu những quy luật chung nhất
của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Nguyên nhân ra đời của Triết học:
Điều kiện kinh tế xã hội
+ Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện cách mạng công nghiệp
+ Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử - nhân tố chính trị xã hội quan trọng
+ Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản- cơ sở chủ yếu và trực tiếp
Nguồn gốc lý luận và tiền đề khoa học tự nhiên
+ Nguồn gốc lý luận: các Mac và Ang ghen đã kế thừa những thành tựu giá trị tư tưởng nhân loại. Trực
tiếp nhất là từ triết học cổ điển Đức, CNXH không tưởng Pháp và kinh tế chính trị học Anh
+ Tiền đề khoa học tự nhiên:
Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng
Học thuyết tiến hoá Đac – Uyn. Học thuyết tế bào.
—> sự phát triển của KHTN cuối thế kỉ 18-đầu19
Nhân tố chủ quan trong sự hình thành Triết học Mac:
+ Xây dựng hệ thống lí luận để cung cấp cho giai cấp công nhân một công cụ sắc bén để nhận thức và cải tạo thế giới
+ Xuất thân từ tầng lớp trên nhưng C.Mác và Ăngghen đều tích cực tham gia hoạt động thực tiễn
+ Hiểu sâu sắc cuộc sống khốn khổ của giai cấp công nhân trong nền sản xuất TBCN nên đã đứng trên lợi
ích của giai cấp công nhân
Câu 2: Thế giới quan và các thành phần cơ bản cấu thành thế giới quan. Vì sao nói triết học là hạt
nhân lý luận của thế giới quan ?
Khái niệm: Thế giới quan là hệ thống những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới, về cuộc
sống và vai trò của con người đối với thế giới.
Các thành phần cơ bản cấu thành thế giới quan:
Thế giới quan có kết cấu phức tạp. Đó là sự thống nhất giữa tri thức và niềm tin, lý trí và tình cảm.
+ Tri thức là sự hiểu biết của con người về một lĩnh vực nhất định của thế giới, là kết quả của quá trình
nhận thức thế giới, là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc của con người. Tri thức có nhiều loại
khác nhau: Tri thức về tự nhiên, về xã hội, về con người. Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành thế giới
quan, nhưng tự bản thân nó tri thức chưa phải là thế giới quan. Tri thức chỉ gia nhập vào thế giới quan khi nó kết
họp với các yếu tố lý trí, tình cảm, chuyển thành niềm tin của con người. Chỉ khi biến thành niềm tin, tri thức
mới trở nên sâu sắc và bền vững, và mới trở thành cơ sở cho hoạt động của con người.
+ Trong thế giới quan còn có sự thống nhất giữa lý trí, trí tuệ và tình cảm. Lý trí, trí tuệ là sự thống nhất
giữa tri thức và niềm tin. Thế giới quan thể hiện trình độ tương đổi cao của lý trí, trí tuệ. Nhưng lý trí đó không
tách rời tình cảm. Tình cảm là một hình thức phản ánh đặc biệt mối quan hệ giữa con người với thế giới và giữa
con người với nhau, thể hiện thái độ của con người về những tác động của thế giới xung quanh đối với bản thân.
Tình cảm củng cố thêm lý trí, làm cho lý trí có chiều sâu và có sức mạnh.
* Các hình thức của thế giới quan:
- Thế giới quan huyền thoại là thế giới quan có nội dung kết hợp một cách tự nhiên (không tự giác) giữa
thực và ảo. Thế giới quan huyền thoại đặc trưng nhận thức về thế giới, đánh giá giá trị của xã hội, được thể hiện
thông qua các chuyện thần thoại của công xã nguyên thủy. Thế giới quan huyền thoại chứa đựng sự kết hợp một
cách tự nhiên giữa thực và ảo, giữa người và thần.
- Thế giới quan tôn giáo là thế giới quan có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của lực lượng siêu nhiên đối
với thế giới, đối với con người, được thể hiện thông qua hoạt động có tổ chức để suy tôn, sùng bái các lực lượng
siêu nhiên. Sự ra đời của thế giới quan tôn giáo có nguồn gốc xã hội và nguồn gốc nhận thức. Nguồn gốc xã hội
do sự bất lực của con người trước những lực lượng xã hội gây ra nhiều tai họa cho con người làm nảy sinh ra tín
ngưỡng tôn giáo với những ước mơ, khát vọng vào cuộc sống sau khi đã chết. Nguồn gốc về mặt nhận thức, do
tuyệt đối hóa vai trò của ý thức, tách ý thức ra khỏi con người, mặt khác còn do sự bất lực của con người trước
các hiện tượng tự nhiên dẫn đến thần thánh hóa các hiện tượng tựnhiên, hình thành biểu tượng và tình cảm, niềm
tin và lý tưởng tôn giáo. Sự hình thành và phát triển của thế giới quan tôn giáo đều gắn liền với với quá trình hình
thành và phát triển của tôn giáo. 2
- Thế giới quan triết học là hệ thống những quan điểm có tính khái quát về thế giới về vai trò của con
người đối với thế giới thông qua hệ thống các khái niệm, phạm trù, qui luật. Quá trình hình thành và phát triển
của thế giới quan triết học gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của triết học.
Như vậy, thế giới quan không phải là tri thức, niềm tin, tình cảm đơn lẻ, mà là sự tổng hợp toàn bộ hiểu
biết và kinh nghiệm sống của con người. Thế giới quan là một hiện tượng xã hội phức tạp.
Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan vì :
- Bản thân triết học là thế giới quan (thế giới quan triết học)
- Trong mối quan hệ với các thế giới quan khác thì thế giới quan triết học đóng vai trò cốt lõi, ảnh hưởng,
chi phối, định hướng cho các thế giới quan khác.
Câu 3: Phân tích nội dung Vấn đề cơ bản của triết học ?
Vấn đề cơ bản của Triết học bao gồm 2 nội dung:
A) Nội dung thứ nhất, chỉ ra mối quan hệ giữa vật chất với ý thức: cái nào có trước, cái nào có sau,
cái nào quyết định cái nào?
- Khái niệm vật chất: Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
- Khái niệm ý thức: ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc của con người thông qua lao động và ngôn ngữ.
- Mối liên hệ giữa vật chất và ý thức:
+ Vật chất là cái có trước, nó quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức:
Nguồn gốc của ý thức chính là vật chất: bộ não, cơ quan phản ánh thế giới xung quanh, sự tác động của thế
giới xung quanh vào bộ não người tạo thành nguồn gốc tự nhiên.
Lao động và ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) trong hoạt động thực tiễn cũng với nguồn gốc tự nhiên,
quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức.
+ Sự tác động trở lại của ý thức:
Ý thức do vật chất sinh ra và quy định, nhưng ý thức lại có tính độc lập tương đối của nó. Hơn nữa, sự
phản ánh của ý thức với vật chất là sự phản ánh tinh thần,phản ánh sáng tạo và chủ động, vì vậy nó tác động trở
lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Dựa trên ý thức về quy luật khách quan, con người đề ra mục tiêu, phương hướng, xác định phương pháp,
dùng ý chí thực hiện mục tiêu ấy. Vì thế ý thức tác động đến nhận thức thông qua 2 hướng chủ yếu.
Tóm lại, vật chất và ý thức là quan hệ hai chiều, qua lại và tác động lẫn nhau, trong đó vật chất quyết định
ý thức, song ý thức thì không hoàn toàn thụ động mà tác động trở lại thực tiễn thông qua những hoạt động nhận thức của con người.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức chính là mối quan hệ biện chứng.
Ví dụ về vật chất quyết định ý thức:
1.Trong ca dao tục ngữ “có thực mới vực được đạo” có nghĩa là vật chất có quyết định nhiều tới ý thức của
con người. Bộ não con người sẽ phản ánh những hiện thực của cuộc sống một cách cụ thể. Từ mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức, con người sẽ biết những hành động, cư xử đúng mực.
2.Giáo dục chính trị và tư tưởng gắn liền với khuyến khích lợi ích vật chất, như khi đạt danh hiệu thi đua, được phần thưởng.
Ví dụ về ý thức quyết định vật chất:
1. Khi ý thức được việc cây xanh là "lá phổi của Trái Đất" thì con người đã ra sức trồng trọt,
chăm sóc để có một môi trường sống lành mạnh, tốt đẹp hơn
2. Tiết kiệm, sử dụng tiền bạc đúng mức lâu ngà- Khái niệm vật chất: Vật chất là phạm trù triết học dùng
để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh, tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
B) Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
1) Khái niệm thế nào là nhận thức?
Nhận thức (tiếng Anh: cognition) là hành động hay quá trình tiếp thu kiến thức và những am hiểu thông
qua suy nghĩ, kinh nghiệm và giác quan, bao gồm các quy trình như là tri thức, sự chú ý, trí nhớ, sự đánh giá, sự
ước lượng, sự lí luận, sự tính toán, việc giải quyết vấn đề, việc đưa ra quyết định, sự lĩnh hội và việc sử dụng ngôn ngữ.
Triết học Mác - Lênin cho rằng nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người,
là quá trình tạo thành tri thức về thế giới khách quan trong bộ óc con người. 3
2. Quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng về bản chất của nhận thức
Lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau đây:
Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, ở ngoài con người, độc lập đối với cảm giác, tư duy
và ý thức của con người – Hiện thực khách quan là đối tượng của nhận thức.
Hai là, công nhận cảm giác, tri thức, ý thức nói chung là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan; thừa
nhận năng lực nhận thức thế giới của con người. Về nguyên tắc không có cái gì là không thể biết. Dứt khoát là
không có và không thể có đối tượng nào mà con người không thể biết được, chỉ có những cái hiện nay con người
chưa biết, nhưng trong tương lai với sự phát triển của khoa học và thực tiễn, con người sẽ biết được. Với khẳng
định trên đây, lý luận nhận thức macxít khẳng định sức mạnh của con người trong việc nhận thức và cải tạo thế giới.
Ba là, là một quá trình biện chứng, tích cực, sáng tạo. Quá trình nhận thức diễn ra theo con đường từ trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng rồi từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Đó cũng là quá trình nhận thức đi từ
hiện tượng đến bản chất, từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn.
Bốn là, cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức là thực tiễn. Thực tiễn còn là mục đích của nhận
thức, là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý của nhận thức. Nhận thức là quá trình con người phản ánh một cách biện
chứng, năng động sáng tạo thế giới khách quan trên cơ sở thực tiễn lịch sử – xã hội.
3.Chủ thể và khách thể nhận thức
Nhận thức là quá trình xảy ra do sự tương tác giữa chủ thể và khách thể nhận thức Chủ thể nhận thức:
Theo nghĩa rộng đó là xã hội, là loài người nói chung. Hay cụ thể hơn đó là những nhóm người như các giai cấp,
dân tộc, tập thể, các nhà bác học.v.v.. Nhưng không phải con người bất kỳ nào cũng là chủ thể nhận thức, con
người chỉ trở thành chủ thể nhận thức khi tham gia vào các hoạt động xã hội nhằm biến đổi và nhận thức khách
thể. Do vậy, con người (cá nhân, nhóm người, giai cấp, dân tộc hoặc cả nhân loại) là chủ thể tích cực, sáng tạo của nhận thức.
Khi nhận thức, các yếu tố của chủ thể như lợi ích, lý tưởng, tài năng, ý chí, phẩm chất đạo đức… đều tham
gia vào quá trình nhận thức với những mức độ khác nhau và ảnh hưởng đến kết quả nhận thức.
Còn khách thể nhận thức là một bộ phận nào đó của hiện thực mà nhận thức hướng tới nắm bắt, phản ánh,
nó nằm trong phạm vi tác động của hoạt động nhận thức. Do vậy, khách thể nhận thức không đồng nhất hoàn
toàn với hiện thực khách quan, phạm vi của khách thể nhận thức được mở rộng đến đâu là tuỳ theo sự phát triển
của nhận thức, của khoa học.
Trong hoạt động nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, chủ thể nhận thức và khách thể nhận thức
quan hệ gắn bó với nhau, trong đó khách thể đóng vai trò quyết định chủ thể. Chính sự tác động của khách thể
lên chủ thể đã tạo nên hình ảnh nhận thức về khách thể. Song chủ thể phản ánh khách thể như một quá trình sáng
tạo, trong đó chủ thể ngày càng nắm bắt được bản chất, quy luật của khách thể.
Cả chủ thể nhận thức và khách thể nhận thức đều mang tính lịch sử – xã hội.
4.Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
a. Thực tiễn là cơ sở, là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức
Ph. Ăngghen khẳng định: “… chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự
nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con
người đã phát triển song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên”.
Con người quan hệ với thế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Chính từ trong quá
trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức ở con người được hình thành và phát triển. Bằng hoạt
động thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc thế giới phải bộc lộ những thuộc tính, những tính quy luật
để cho con người nhận thức chúng. Ban đầu con người thu nhận những tài liệu cảm tính, sau đó tiến hành so
sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá… để phản ánh bản chất, quy luật vận động của các sự
vật, hiện tượng trong thế giới, từ đó xây dựng thành các khoa học, lý luận. Như vậy, thực tiễn cung cấp những tài
liệu cho nhận thức, cho lý luận. Mọi tri thức dù trực tiếp hay gián tiếp đối vơi người này hay người kia, thế hệ
này hay thế hệ khác, ở trình độ kinh nghiệm hay lý luận xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn. Trong quá trình
hoạt động thực tiễn biến đổi thế giới, con người cũng biến đổi luôn cả bản thân mình, phát triển năng lực bản
chất, năng lực trí tuệ của mình. Nhờ đó, con người ngày
càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của thế giới, làm phong phú và sâu sắc tri thức
của mình về thế giới. Thực tiễn còn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức. Nhu cầu 4
thực tiễn đòi hỏi phải có tri thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm, khái quát lý luận, nó thúc đẩy sự ra đời và phát
triển của các ngành khoa học. Khoa học ra đời chính vì chúng cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người.
b. Thực tiễn là mục đích của nhận thức:
Nhận thức phải quay về phục vụ thực tiễn. Kết quả nhận thức phải hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn. Lý luận,
khoa học chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn.
Ngày nay, công cuộc đổi mới xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề
mới mẻ và phức tạp đòi hỏi lý luận phải đi sâu nghiên cứu để đáp ứng những yêu cầu đó. Chẳng hạn, đó là những
vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; về công nghiệp hoá, hiện đại hóa; về
kinh tế thị trường; về đổi mới hệ thống chính trị, về thời đại ngày nay…
Qua việc làm sáng tỏ những vấn đề do thực tiễn đặt ra trên đây, lý luận sẽ có được vai trò quan trọng, góp
phần đắc lực vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
c. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
“Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải
là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân
lý…”. Tất nhiên, nhận thức khoa học còn có tiêu chuẩn riêng, đó là tiêu chuẩn lôgíc. Nhưng tiêu chuẩn lôgíc
không thể thay thế cho tiêu chuẩn thực tiễn, và xét đến cùng, nó cũng phụ thuộc vào tiêu chuẩn thực tiễn.
Cần phải hiểu thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý một cách biện chứng; tiêu chuẩn này vừa có tính tuyệt đối
vừa có tính tương đối.
Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm chân lý, thực
tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử có thể xác nhận được chân lý.
Nhưng tiêu chuẩn thực tiễn có cả tính tương đối vì thực tiễn không đứng nguyên một chỗ mà biến đổi và
phát triển; thực tiễn là một quá trình và được thực hiện bởi con người không tránh khỏi có cả yếu tố chủ quan.
Tiêu chuẩn thực tiễn không cho phép biến những tri thức của con người thành những chân lý tuyệt đích cuối
cùng. Trong quá trình phát triển của thực tiễn và nhận thức, những tri thức đạt được trước kia và hiện nay vẫn
phải thường xuyên chịu kiểm nghiệm bởi thực tiễn tiếp theo, tiếp tục được thực tiễn bổ sung, điều chỉnh, sửa
chữa và phát triển hoàn thiện hơn.
Việc quán triệt tính biện chứng của tiêu chuẩn thực tiễn giúp chúng ta tránh khỏi những cực đoan sai lầm
như chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ hoặc chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa tương đối.
Sự phân tích trên đây về vai trò thực tiễn đối với nhận thức, đối với lý luận đòi hỏi chúng ta phải quán triệt
quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn,
đi sâu vào thực tiễn, phải “coi trọng tổng kết thực tiễn Việt Nam”. Nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn,
học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn tới các sai lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, bệnh quan liêu.
4. Biện chứng của quá trình nhận thức
Nhận thức của con người là một quá trình trong đó có nhiều giai đoạn, trình độ, vòng khâu và hình thức
khác nhau; chúng có nội dung cũng như vai trò khác nhau đối với việc nhận thức sự vật.
a. Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là những giai đoạn khác nhau của cùng một quá trình nhận thức thống nhất.
b. Nhận thức cảm tính (hay còn gọi là trực quan sinh động)
Là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức. Nó được thể hiện dưới 3 hình thức là cảm giác, tri giác và biểu tượng.
Cảm giác là hình thức đầu tiên của quá trình nhận thức và là nguồn gốc của mọi hiểu biết của con người.
Cảm giác là sự phản ánh từng mặt, từng thuộc tính bên ngoài của sự vật vào các giác quan của con người. Sự vật
hoặc hiện tượng trực tiếp tác động vào các giác quan con người thì gây nên cảm giác (chẳng hạn như cảm giác về
màu sắc, mùi vị, âm thanh, nhiệt độ…). Cảm giác là kết quả của sự tác động vật chất của sự vật vào các giác
quan con người, là sự chuyển hoá năng lượng kích thích bên ngoài thành yếu tố của ý thức. Cảm giác, theo
Lênin, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Tri giác là sự tổng hợp nhiều cảm giác; nó đem lại hình ảnh hoàn chỉnh hơn về sự vật. Tri giác nảy sinh
trên cơ sở các cảm giác, là sự kết hợp của các cảm giác. So với cảm giác, tri giác là hình thức cao hơn của nhận
thức cảm tính, nó đem lại cho chúng ta tri thức về sự vật đầy đủ hơn, phong phú hơn.
Biểu tượng là hình ảnh của sự vật được giữ lại trong trí nhớ. Sự tiếp xúc trực tiếp nhiều lần với sự vật sẽ để
lại trong chúng ta những ấn tượng, những hình ảnh về sự vật đó. Những ấn tượng, hình ảnh này đậm nét và sâu 5
sắc đến mức có thể hiện lên trong ký ức của chúng ta ngay cả khi sự vật không ở trước mắt. Đó chính là những
biểu tượng. Trong biểu tượng chỉ giữ lại những nét chủ yếu, nổi bật nhất của sự vật do cảm giác, tri giác đem lại
trước đó. Biểu tượng thường hiện ra khi có những tác nhân tác động, kích thích đến trí nhớ con người. Hình thức
cao nhất của biểu tượng là sự tưởng tượng; sự tưởng tượng đã mang tính chủ động, sáng tạo. Tưởng tượng có vai
trò rất to lớn trong hoạt động sáng tạo khoa học và sáng tạo nghệ thuật.
Biểu tượng tuy vẫn còn mang tính chất cụ thể, sinh động của nhận thức cảm tính, song đã bắt đầu mang
tính chất khái quát và gián tiếp. Có thể xem biểu tượng như là hình thức trung gian quá độ cần thiết để chuyển từ
nhận thức cảm tính lên nhận thức lý tính. Trên cơ sở những tài liệu do nhận thức cảm tính cung cấp, nhận thức sẽ
phát triển lên một giai đoạn cao hơn, đó là nhận thức lý tính.
c. Nhận thức lý tính (hay còn gọi là tư duy trừu tượng)
Là giai đoạn tiếp theo và cao hơn về chất của quá trình nhận thức, nó nảy sinh trên cơ sở nhận thức cảm
tính. Nếu chỉ bằng cảm giác, tri giác thì nhận thức của con người sẽ rất hạn chế, bởi vì con người không thể bằng
cảm giác mà hiểu được những cái như tốc độ ánh sáng, giá trị của hàng hoá, quan hệ giai cấp, hình thái kinh tế –
xã hội, v.v.. Muốn hiểu được những cái đó phải nhờ đến sức mạnh của tư duy trừu tượng.
Tư duy trừu tượng là sự phản ánh khái quát và gián tiếp hiện thực khách quan. Tư duy phải gắn liền với
ngôn ngữ, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy. Tư duy có tính năng động sáng tạo, nó có thể phản ánh được
những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, bên trong của sự vật, do đó phản ánh sự vật sâu sắc hơn và đầy đủ hơn.
Muốn tư duy, con người phải sử dụng các phương pháp như so sánh, phân tích và tổng hợp, khái niệm hoá
và trừu tượng hoá, v.v.. Nhận thức lý tính, hay tư duy trừu tượng, được thể hiện ở các hình thức như khái niệm, phán đoán và suy lý.
Khái niệm là một hình thức của tư duy trừu tượng, phản ánh những mối liên hệ và thuộc tính bản chất, phổ
biến của một tập hợp các sự vật, các hiện tượng nào đó, chẳng hạn, các khái niệm “cái nhà”, “con người”, “giai cấp”, v.v…
Khái niệm đóng vai trò quan trọng trong tư duy khoa học. Khái niệm là những vật liệu tạo thành ý thức, tư
tưởng. Khái niệm là những phương tiện để con người tích luỹ thông tin, suy nghĩ và trao đổi tri thức với nhau.
Khái niệm có tính chất khách quan bởi chúng phản ánh những mối liên hệ, những thuộc tính khách quan
của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Vì vậy, khi vận dụng khái niệm phải chú ý đến tính khách quan của nó.
Nếu áp dụng khái niệm một cách chủ quan, tuỳ tiện sẽ rơi vào chiết trung và ngụy biện. V.I.Lênin chỉ rõ: “Những
khái niệm của con người là chủ quan trong tính trừu tượng của chúng, trong sự tách rời của chúng, nhưng là
khách quan trong chỉnh thể, trong quá trình, trong kết cuộc, trong khuynh hướng, trong nguồn gốc”.
Nội hàm của khái niệm không phải là bất biến, bởi vì hiện thực khách quan luôn vận đông và phát triển
cho nên khái niệm phản ánh hiện thực đó không thể bất biến mà cũng phải vận động, phát triển theo, liên hệ
chuyển hoá lẫn nhau, mềm dẻo, linh hoạt, năng động. Vì vậy, cần phải chú ý đến tính biện chứng, sự mềm dẻo
của các khái niệm khi vận dụng chúng. Phải mài sắc, gọt giũa các khái niệm đã có, thay thế khái niệm cũ bằng
khái niệm mới để phản ánh hiện thực mới, phù hợp với thực tiễn mới.
Phán đoán là hình thức của tư duy trừu tượng vận dụng các khái niệm để khẳng định hoặc phủ định một
thuộc tính, một mối liên hệ nào đó của hiện thực khách quan. Phán đoán là hình thức liên hệ giữa các khái niệm,
phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong ý thức của con người. Tuy nhiên, phán đoán không phải là
tổng số giản đơn của những khái niệm tạo thành mà là quá trình biện chứng trong đó các khái niệm có sự liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau.
Phán đoán được biểu hiện dưới hình thức ngôn ngữ là các mệnh đề theo những quy tắc văn phạm nhất định.
Suy lý là một hình thức của tư duy trừu tượng trong đó xuất phát từ một hoặc nhiều phán đoán làm tiền đề
để rút ra phán đoán mới làm kết luận. Nói cách khác, suy lý là quá trình đi đến một phán đoán mới từ những phán đoán tiền đề.
Câu 4: Nội dung Chủ nghĩa duy vật và các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử triết học ?
Khái niệm: Chủ nghĩa duy vật lịch sử là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về xã hội của triết học
Mác-Lênin, là kết quả của sự vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện
chứng duy vật vào việc nghiên cứu đời sống xã hội và lịch sử nhân loại, nhờ đó hoàn thiện và phát triển những
quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật; hoàn thiện thế giới quan và phương
pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác – Lênin. 6
Chủ nghĩa duy vật lịch sử nhằm phát hiện ra những quy luật chung nhất của sự vận động phát triển của lịch
sử, là nguyên nhân dẫn đến sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội thấp đến trình độ cao hơn, vận động theo
hình xoáy ốc và đỉnh cao của nó là xã hội cộng sản chủ nghĩa, một xã hội công bằng, tiến bộ, văn minh. - Nội dung cơ bản:
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.
Cốt lõi là học thuyết hình thái kinh tế-xã hội, theo đó, trong các quan hệ xã hội, các quan hệ
sản xuất là cơ sở hiện thực của mỗi xã hội nhất định, cấu trúc hạ tầng, trên đó xây dựng lên kiến trúc thượng
tầng: chính trị, pháp luật và các hình thái ý thức xã hội khác, với những thiết chế của chúng. Mỗi hệ thống quan
hệ sản xuất của một xã hội nhất định, phụ thuộc vào tính chất và trình độ phát triển của các lực lượng sản xuất.
Các lực lượng sản xuất luôn luôn phát triển không ngừng, đến một giai đoạn nhất định sẽ mâu
thuẫn với những quan hệ sản xuất cũ đã lỗi thời và đòi hỏi phải thay đổi các quan hệ sản xuất ấy bằng những
quan hệ sản xuất mới, tiến bộ hơn. Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi ấy được thực hiện bằng cách mạng xã hội.
Một khi cơ sở hạ tầng đã thay đổi, thì toàn bộ cấu trúc thượng tầng sớm muộn cũng thay đổi
theo. Hình thái kinh tế - xã hội cũ được thay thế bằng một hình thái kinh tế - xã hội mới tiến bộ hơn. Như vậy,
lịch sử loài người là lịch sử thay thế của những hình thái kinh tế - xã hội khác nhau. -
Các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật
Cùng với sự phát triển của khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật để được hình thành và phát triển vói
ba hình thức cơ bản là: Chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng. 1.
Chủ nghĩa duy vật chất phác: -
Gồm 2 trường phái: trường phái Phật giáo Ấn Độ và trường phái Âm dương gia ở Trung Quốc. -
Chủ nghĩa duy vật chất phác:
+ Là hình thức sơ khai của chủ nghĩa duy vật.
+ Lý giải toàn bộ sự hình thành của thế giới từ một hoặc một số dạng vật chất cụ thể.
+ Hạn chế: Mang nặng tính trực quan, cảm tính, chất phác.
+ Ưu điểm: Cơ bản là đúng vì đã lấy tự nhiên để giải thích tự nhiên, không vênh vào Thần linh, Thượng
đế, thế lực siêu nhiên.
VD: Quan niệm của Thales , Democrit ,Heraclit
- Thales cho rằng mọi cái đều bắt đầu từ nước, nước là khởi nguồn của mọi vật (bản nguyên).
- Hay cao hơn là Democrit , nếu đất, nước, lửa, không khí tương tác nhau, ở chúng có cái gì đó chung làm
nền, là đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật cổ đại: thuyết nguyên tử luận.
- Hecralit cho rằng: “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông” 2.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình: -
Là hình thức thứ hai của chủ nghĩa duy vật. -
Ở thời kì này triết học gắn liền với khoa học tự nhiên, các nhà triết học cũng là các nhà khoa học tự nhiên. -
Thể hiện rõ nét vào thế kỉ XVII-XVIII ở các nước Tây âu. -
Chủ nghĩa duy vật siêu hình:
+ Ưu điểm: Góp phần đẩy lùi thế giới quan duy tâm và tôn giáo.
+ Hạn chế: Chưa phản ứng đúng hiện thực trong mỗi liên hệ phổ biến và sự phát triển
+ Thế giới là cỗ máy khổng lồ
+ Xem xét sự vật hoàn toàn cô lập.
+ Xem xét sự vật trong trạng thái tĩnh tại cố định.
+ Tìm nguồn gốc của sự vận động và phát triển ở bên ngoài sự vật.
+ Quá trình phát triển chỉ thay đổi về chất lượng.
VD: Quan niệm của C Mác, V Lê-nin
-V Lê-nin cho rằng: “Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng” - C.Mác cho rằng:
+ “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân.”
+ “Lịch sử lặp lại, ban đầu là bi kịch, sau là hài kịch” 3.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng: -
Là hình thức thứ ba trong chủ nghĩa duy vật. 7 -
Ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được những hạn chế của các chủ nghĩa duy vật trước đó. -
Đó là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Vật chất: -
Các hiện tượng vật chất có quá trình phát sinh phát triển chuyển hóa. -
Tồn tại bên ngoài ý thức, độc lập với ý thức. -
Ý thức là sự phản ánh vật chất trong bộ não con người
Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất
Chủ nghĩa duy vật biện chứng phát triển khoa học làm thay đổi mối quan hệ giữa triết học và
khoa học đem lại thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn cho sự phát triển VD:
+ Gioocđano Bruno cho rằng: “ Mọi vật đều nằm trong vũ trụ và vũ trụ nằm trong tất thảy mọi vật “
+ Galileo Galilei cho rằng: “Dù sao Trái Đất vẫn quay”
Chủ nghĩa Duy vật triệt để trong giải quyết Tự nhiên – Xã hội trong nhận thức.
Câu 5: Nội dung Chủ nghĩa duy tâm và các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử triết học ?
Khái niệm: Chủ nghĩa duy tâm là trường phái triết học khẳng định rằng mọi thứ đều tồn tại bên trong tâm
thức và thuộc về tâm thức. Là một nền tảng của ngành vũ trụ học , hay một cách tiếp cập tới hiểu biết về sự tồn
tại, chủ nghĩa duy tâm thường được đặt đối lập với chủ nghĩa duy vật, cả hai đều thuộc lớp bản thể học nhất
nguyên chứ không phải nhị nguyên hay đa nguyên. Vật chất có trước tinh thần, Tinh thần quyết định vật
chất,Chủ nghĩa duy tâm là thế giới quan của giai cấp thống trị và lực lượng phản động, có mối quan hệ mật thiết
với tôn giáo, Chống lại chủ nghĩa duy vật, khoa học tự nhiên -
1. Về phương diện nhận thức luận
Sai lầm của chủ nghĩa duy tâm bắt nguồn từ cách xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa, thần thánh hóa một
mặt, một đặc tính nào đó của quá trình nhận thức mang tính biện chứng của con người. Theo quan điểm của chủ
nghĩa duy vật thô lỗ, giản đơn, siêu hình, thì chủ nghĩa duy tâm triết học chỉ là một sự ngu xuẩn. Trái lại, theo
quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, thì chủ nghĩa duy tâm triết học là một sự phát triển (một sự thổi
phồng, bơm to) phiến diện, thái quá,… của một trong những đặc trưng, những mặt, khía cạnh của nhận thức
thành cái tuyệt đối, tách rời khỏi vật chất, khỏi giới tự nhiên, thần thánh hóa, “phát triển một cách trừu tượng” (C.Mác). -
2. Về nguồn gốc xã hội
Sự tách rời lao động trí óc với lao động chân tay và địa vị thống trị của lao động trí óc đối với lao động
chân tay trong các xã hội cũ đã tạo ra quan niệm về vai trò quyết định của nhân tố tinh thần. Các giai cấp thống
trị và những lực lượng xã hội phản động ủng hộ, sử dụng chủ nghĩa duy tâm làm nền tảng lý luận cho những
quan điểm chính trị - xã hội của mình.
VD: Khi ta đói ta suy nghĩ là sẽ mua cơm để ăn rồi mới mua cơm, khi đó ta suy nghĩ rồi mới dẫn đến hành động.
Có 2 hình thức: Chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan -
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng cảm giác, ý thức của con người là cái có trước cái quyết định
sự tồn tại của mọi sự vật, hiện tưởng ở bên ngoài. Các sự vật, hiện tượng chỉ là “ Phức hợp của những cảm giác”
VD: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” đề cao cái tình cảm tâm lí bên trong con người mà phủ nhận
cái hiện thực khách quan bên ngoài. Nghĩa là khi người buồn thì mặc nhiên qui định cảnh bên ngoài cũng buồn. -
Chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng , ý thức, ý niệm là cái có trước thế giới vật chất. Cái thực thể
tinh thần tồn tại một cách “khách quan”, không phụ thuộc vào con người và loài người, nó quyết định sự tồn tại
của tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội đều là hiện thân của ý niệm.
VD: “Cha mẹ sinh con, trời sinh tánh” con cái được cha mẹ sinh ra nhưng không thể nào qui định tính cách
của con được mà là 'trời' qui định là do một thế lực tối cao nào đó qui định.
Câu 6: Phân tích Thuyết khả tri, bất khả tri và hoài nghi luận? -
Thuyết khả tri ( thuyết có thể biết) bao gồm hầu hết các nhà triết học duy vật và các nhà triết học
duy tâm. Thuyết này khẳng định khả năng nhận thức của con người. Những người theo thuyết này cho rằng con
người có thể hiểu được bản chất của sự vật. Tuy nhiên nếu các nhà triết học duy vật cho rằng nhận thức sự phản
ánh thế giới vật chất , nắm bắt các qui luật, bản chất vật chất của thế giới , thì các nhà triết học duy tâm lại coi
nhận thức thế giới chỉ là sự tự nhận thức của cái tinh thần và chính nó.
VD: Con người có thể hiểu 8
+ Sóng là sự xáo trộn của một trường trong đó một thuộc tính vật lý dao động liên tục tại mỗi điểm hoặc
truyền từ một điểm đến các điểm lân cận khác, hoặc dường như di chuyển trong không gian.
+ Cầu vồng bản chất là sự tán sắc ánh sáng Mặt trời khi khúc xạ và phản xạ qua các giọt nước mưa -
Thuyết hoài nghi luận: là thuyết mà khi giải quyết mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học, các
nhà triết học cho rằng con người chỉ có thể nhận thức được hiện tượng bên ngoài của sự vật chứ không nhận thức
được bản chất bên trong của sự vật
+ Hoài nghi luận xuất hiện từ thời Cổ đại (từ chữ Hy Lạp skeptikos và skiptomai có nghĩa là tôi thẩm tra)
mà đại biểu là Pirôn (nhà triết học Hy Lạp cổ đại). Họ là những người đã luận nâng sự hoài nghi lên thành
nguyên tắc trong việc xem xét tri thức đã đạt được và cho rằng con người không thể đạt tới chân lý khách quan.
+ Hoài nghi luận thời Phục
hưng lại có tác dụng quan trọng trong cuộc đấy tranh chống hệ tư tưởng Trung
cổ và uy tín của Giáo hội thời trung cổ vì nó thừa nhận sự hoài nghi đối với cả Kinh thánh và các tín điều tôn giáo. -
Thuyết bất khả tri (agnosticism): là quan điểm triết học cho rằng tính đúng hay sai của một số
tuyên bố nhất định - đặc biệt là các tuyên bố thần học về sự tồn tại của Chúa Trời hay các vị thần - là chưa biết và
không thể biết được hay không mạch lạc. Một số người theo thuyết bất khả tri suy diễn từ đó rằng các tuyên bố
đó không liên quan đến ý nghĩa của cuộc sống.
+Thuật ngữ “bất khả tri” (agnosticism) được đưa ra năm 1869 bởi Thomas
Henry Huxley (1825-1895), một nhà tự nhiên học người Anh, người đã lấy cảm hứng từ các tư tưởng của
David Hume và Emmanuel Kant. Thuật ngữ này còn được dùng để miêu tả những người chưa bị thuyết phục hay
cố tình chưa đưa ra quan điểm về sự tồn tại của các vị thần thánh cũng như các vấn đề tôn giáo khác.
+ Thuyết bất khả tri, khi tập trung vào những gì có thể biết, là một luận điểm nhận thức luận về bản chất và
giới hạn của kiến thức con người; trong khi thuyết vô thần và thuyết hữu thần là các quan điểm bản thể học (một
nhánh của siêu hình học nghiên cứu về các loại thực thể tồn tại). Không nên lẫn lộn thuyết bất khả tri với một
cách nhìn đối lập với học thuyết về sự ngộ đạo và thuyết ngộ đạo - đây là các khái niệm tôn giáo nói chung
không liên quan đến thuyết bất khả tri.
+ Những người theo thuyết bất khả tri có thể tuyên bố rằng không thể có tri thức tinh thần “tuyệt đối” hay
“chắc chắn” hay “nói cách khác” rằng tuy những sự chắc chắn đó là có thể có nhưng cá nhân họ không có tri
thức đó. Trong cả hai trường hợp, thuyết bất khả tri bao hàm một hình thức của chủ nghĩa hoài nghi đối với các
khẳng định tôn giáo. Điều này khác với sự phi tín ngưỡng (irreligion) đơn giản của những người không suy nghĩ về chủ đề này.
+ Thuyết bất khả tri khác với thuyết vô thần mạnh (còn gọi là “vô thần tích cực” hay “vô thần giáo điều”) VD:
- Con người không thể biết sự vật, hiện tượng nào đó có tồn tại không nếu không dùng giác quan cảm nhận
hoặc đo đạc thông tin về vật, hiện tượng đó.
- Con người thậm chí có thể nhận những giác quan bị tác động bởi bên thứ ba (một vật, hiện tượng nào đó)
sao cho con người không thể tìm thấy (tìm thấy ở đây là một dạng của một biểu hiện hay một hiện tượng trong
triết học hiện đại) một nguyên tố mà ngành khoa học đang cần để lý giải thế giới chẳng hạn.
- Những khám phá lớn về vật lý thường được con người đo đạc qua những cỗ máy tinh vi, tuy nhiên, việc
nhìn qua 1 màn hình để nói hiện tượng gì tồn tại hoặc không là một lỗ hổng dễ nhận thấy, và tất nhiên ảnh hưởng đến cả ngành khoa học.
Câu 7: Nội dung phép biện chứng và các hình thức cơ bản của phép biện chứng? a.
Nội dung phép biện chứng:
- Trong chủ nghĩa Mác - Lênin, khái niệm biện chứng dùng để chỉ những mối liên hệ, tương tác, chuyển
hóa và vận động, phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Biện chứng bao gồm biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan. Biện chứng khách quan là biện
chứng của thế giới vật chất, còn biện chứng chủ quan là sự phản ánh biện chứng khách quan vào trong đời sống ý thức của con người.
- Theo Ph.Ăngghen: "Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên, còn biện
chứng gọi là chủ quan, tức là tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh sự chi phối, trong toàn bộ giới tự nhiên...".
- Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới thành hệ thống các nguyên
lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn. Với 9
nghĩa như vậy, phép biện chứng thuộc về biện chứng chủ quan, đồng thời nó cũng đối lập với phép siêu hình -
phương pháp tư duy về sự vật, hiện tượng của thế giới trong trạng thái cô lập và bất biến. b.
Các hình thức cơ bản của phép biện chứng:
- Phép biện chứng chất phác thời cổ đại.
- Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức.
- Phép biện chứng duy vật chủ nghĩa Mác-Lênin.
Câu 8 : Những điều kiện, tiền đề của sự ra đời triết học Mác - Lênin ?
Chủ nghĩa Mác ra đời, phát triển trên cơ sở ba điều kiện, tiền đề cơ bản sau đây:
– Điều kiện kinh tế – xã hội
Cho đến giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã được thiết lập và đã đạt được sự phát triển mạnh mẽ của nó
ở các nước Tây Âu, đặc biệt là tại các nước Anh, Pháp. Sự phát triển đó, một mặt đã tạo ra được những thành tựu
to lớn về nhiều mặt kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, mặt trái của nó là đã tự tạo ra những mâu thuẫn không thể giải
quyết được trong phạm vi chế độ tư bản chủ nghĩa. Trung tâm của những mâu thuẫn đó được biểu hiện về mặt xã
hội là mâu thuẫn gay gắt giữa hai giai cấp: giai cấp tư sản (chủ sở hữu tư liệu sản xuất của xã hội) và giai cấp vô
sản (giai cấp công nhân làm thuê). Mâu thuẫn đó được bộc lộ thành những cuộc đấu tranh ngày càng phát triển
của giai cấp công nhân tại nhiều nước tư bản, đặc biệt là những cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân làm thuê
tại các nước Anh, Pháp và Đức. Sự phát triển của các cuộc đấu tranh đó làm phát sinh nhu cầu cần có một lý luận
cách mạng và khoa học của nó. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác là nhằm đáp ứng nhu cầu này. Đồng thời chính thực
tiễn phát triển của nó lại là một trong những điều kiện thực tiễn cho sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác. – Tiền đề lý luận
Chủ nghĩa Mác ra đời không chỉ xuất phát từ nhu cầu khách quan của lịch sử mà còn là kết quả của sự kế
thừa tinh hoa di sản lý luận của nhân loại, trong đó trực tiếp nhất là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ
điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng ở các nước Pháp và Anh.
+ Với Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học của Ph. Hêghen và L. Phoiơbắc đã ảnh hưởng sâu sắc đến
sự hình thành thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã kế thừa những nội dung cơ bản trong phép biện chứng của Hêghen,
chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc. Đồng thời, các ông cũng khắc phục những hạn chế cơ bản của hai học thuyết
ấy; đó là thế giới quan duy tâm trong triết học Hêghen và phương pháp siêu hình trong triết học của Phoiơbắc.
Trên cơ sở đó các ông đã sáng lập ra một thế giới quan triết học mới là: chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép
biện chứng duy vật. Nhờ thế giới quan mới này các ông đã vận dụng nó vào việc nghiên cứu một cách khoa học
những quy luật chung nhất của sự phát triển xã hội, đặc biệt là nghiên cứu những quy luật ra đời, phát triển, suy
tàn của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời tất yếu của chủ nghĩa xã hội.
+ Với Kinh tế chính trị cổ điển Anh, đặc biệt là với các học thuyết của những đại biểu lớn của nó (A. Xmít
và Đ. Ricácđô), c. Mác và Ph. Ăngghen kế thừa những quan điểm hợp lý khoa học của những học thuyết này. Đó
là: quan điểm duy vật trong nghiên cứu lĩnh vực khoa học kinh tế chính trị và học thuyết giá trị về lao động.
Đồng thời các ông cũng phê phán và khắc phục tính chất chưa triệt để trong học thuyết giá trị về lao động và
phương pháp siêu hình trong nghiên cứu của các nhà kinh tế học cổ điển Anh. Trên cơ sở đó các ông đã xây dựng
thành công học thuyết về giá trị lao động và học thuyết giá trị thặng dư.
+ Với Chủ nghĩa xã hội không tưởng ở nước Anh và Pháp, đặc biệt là với những đại biểu lớn của nó là H.
Xanh Ximông, S. Phuriê và R. Ôoen, c. Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa những tư tưởng nhân đạo và những sự
phê phán hợp lý của các nhà tư tưởng này đối với những hạn chế của chủ nghĩa tư bản. Đồng thời, các ông cũng
khắc phục và vượt qua những hạn chế trong học thuyết của họ. Đó là tính chất không tưởng trong các học thuyết
ấy. Từ đó các ông xây dựng nên một lý luận mói – lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội.
– Tiền đề khoa học tự nhiên
Cho đến những năm giữa thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã có những bước phát triển mới, đem lại một số
quan niệm mới mẻ về giới tự nhiên so với trước đó. Tiêu biểu cho những quan niệm mới này là: khẳng định tính
chất bảo toàn năng lượng trong quá trình biến đổi của vật chất trong giới tự nhiên; khẳng định tính thống nhất về
cơ sở vật chất của mọi sự sống là tế bào; khẳng định tính tất yếu khách quan của quá trình phát triển các loài sinh
vật trên trái đất. Những quan niệm mới này đóng vai trò là những bằng chứng xác thực (ở tầm khoa học) của các
quan điểm duy vật biện chứng về giới tự nhiên.
Câu 9 : Phân tích nội dung Vật chất và phương thức tồn tại của vật chất theo quan điểm triết học Mác - Lênin ? 10
Để hiểu rõ về quan điểm của tríêt học Mac-Lênin về vật chất thì chúng ta phải tìm hiểuvề những quan
điểm về vật chất trước Mac
+ Thời kỳ cổ đại thì các nhà triết học đã đồng nhất vật chất với dạng vật chất cụ thể, nhưTalet đã cho rằng
vật chất là nước… Quan điểm này chỉ mang tính chất trực quan, cảmtính. Nó chỉ có tác dụng chống lại CNDT và tôn giáo
+ Thời kỳ cận đại thế kỷ XVII-XVIII: thời kỳ này thì các nhà triết học đã đồng nhất vậtchất với thiọc tính
của vật chất, như Niutơn đã cho rằng khối lượng là vật chất… Quanđiểm này mang tính chất siêu hình, máy móc.
+ Quan điểm của triết học Mac-Lênin về vật chất: Lênin cho rằng vật chất là một phạmtrù triết học dùng
để chỉ thực tại khác quan được đem lại cho con người trong cảm giác,được cảm giác chép lại, chụp lại, phản ánh
và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.Sau đây chúng ta sẽ phân tích nội dung quan điểm của triết học Mac- Lênin về vật chất:
+ Trước hết vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức của con người và khôngphụ thuộc vào ý
thức. Đây chính là nội dung quan trọng nhất của quan điểm về vật chất.Không phải là khi con người ý thức được
một cái gì đó thì nó là vật chất mà vật chất làcái đã tồn tại một cách khách quan, như là trước khi các nhà vật lý
tìm ra các tia phóng xạthì chúng đã tồn tại rồi,…
+ Thứ hai là con người có thể cảm giác được sự tồn tại khách quan của vật chất. Nếu cáigì đó mà con
người không thể cảm giác được thì nó không phải là vật chất, vật chất nóluôn tồn tại trước ý thức của con người
nhưng con người luôn có thể cảm giác được nó. + Thứ ba là ý thức của con người chỉ là sự phản ánh thế giới hiện
thực. Những điều kiệnvật chất cụ thể, hoàn cảnh cụ thể mà nó quyết định tới việc hình thành lên ý thức của
conngười.Trên đây chúng ta đã phân tích những nội dung của quan điểm triết học Mac-Lênin về vậtchất, tiếp sau
chúng ta sẽ phân tích ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm đó:
+ Nó đã giải quyết triệt để hai mặt trong một vấn đề cơ bản của triết học theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
+ Khắc phục hạn chế sai lầm của CNDV trước Mác về phạm trù vật chất: bác bỏ phủnhận quan điểm của
CNDT và tôn giáo về vấn đề này.
+ Nó tạo cơ sở cho các nhà triết học duy vật biện chứng xây dựng quan điểm vật chấttrong lĩnh vực đời sống xã hội.
Phương thức tồn tại của vật chất là vận động (phân tích)
Các hình thức vận động: vận động cơ học, vận động vật lý, vận động hóa học, vận động sinh học, vận động xã hội (Phấn tích thêm)
Câu 10: Phân tích Nguồn gốc của ý thức ? NGUỒN GỐC Ý THỨC
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc người và có sự cải biến và sáng tạo.
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức là sự xuất hiện con người và hình thành bộ óc của con người có khả
năng phản ánh hiện thực khách quan.
- Bộ óc người (não bộ): là vật chất có cấu trúc đặc biệt phát triển, rất tinh vi và phức tạp gồm 14 – 15 tỷ tế
bào thần kinh. Sự phân khu của não bộ và hệ thống dây thần kinh liên hệ với các giác quan để thu nhận và xử lý
thông tin từ thế giới khách quan vào não bộ, hình thành những phản xạ không điều kiện và có điều kiện.
Phản ánh là thuộc tính phổ biến của mọi dạng vật chất, được biểu hiện trong sự liên hệ tác động qua lại
giữa các đối tượng vật chất với nhau. Có các dạng phản ánh: vật lý, sinh học, ý thức…
Ví dụ: Khi ngắm nhìn một bức tranh thì các hình ảnh trong bức tranh sẽ được phản ánh vào não thông qua
giác quan. Não bộ sẽ thu nhận và phân tích (màu sắc, đường nét, nội dung…) để con người đưa ra đánh giá về bức tranh đó Nguồn gốc xã hội
của ý thức cũng có 2 yếu tố đó là: lao động và ngôn ngữ.
- Lao động là hoạt động có mục đích sáng tạo của con người, sử dụng công cụ sản xuất tác động vào các
đối tượng của tự nhiên để sản xuất ra của cải vật chất nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển xã hội.
+ Nhờ có lao động, con người tác động vào thế giới khách quan, bắt chúng bộc lộ những thuộc tính, những
kết cấu, những quy luật vận động của mình thành những hiện tượng nhất định và các hiện tượng ấy tác động vào
óc người hình thành dần những tri thức về tự nhiên và xã hội.
+ Nhờ lao động mà các bộ phận của cơ thể, các giác quan, khí quan của con người được hoàn thiện trong
quá trình phản ánh thế giới xung quanh.
+ Lao động góp phần cải tạo chế độ dinh dưỡng, làm cho bộ não và hệ thần kinh phát triển.
Ví dụ: khi chúng ta làm việc chúng vận động, suy nghĩ giúp cho cơ thể khỏe mạnh và nâng cao tư duy của bản thân. 11
Như vậy, ý thức được hình thành chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách quan của con người làm biến
đổi thế giới đó. Nên nguồn gốc cơ bản của ý thức, tư tưởng là sự phản ánh thế giới khách quan vào đầu óc con
người trong quá trình lao động. Nhưng bản thân quá trình lao động ngay từ đầu đã mang tính tập thể, tính xã hội.
Vì vậy xuất hiện nhu cầu trao đổi kinh nghiệm lao động và trao đổi tư tưởng tình cảm. Chính nhu cầu đó đòi hỏi xuất hiện ngôn ngữ.
- Ngôn ngữ bao gồm tiếng nói và chữ viết tồn tại dưới dạng các khái niệm, ngôn ngữ do nhu cầu của lao
động và nhờ lao động mà hình thành. Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức, là “cái vỏ vật
chất của tư duy”. Nếu không có ngôn ngữ thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện được. Ngôn ngữ vừa là phương
tiện giao tiếp trong xã hội, đồng thời là công cụ của tư duy nhằm khái quát hoá, trừu tượng hoá hiện thực. Nhờ
ngôn ngữ mà con người tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin và tri thức từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Tóm lại: Nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động và
thực tiễn xã hội. Ýthức phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội.
Câu 11: Phân tích Bản chất của ý thức ? BẢN CHẤT CỦA Ý THỨC
Chủ nghĩa duy vật biện chứng coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người
một cách năng động, sáng tạo.
Như vậy bản chất của nó được thể hiện qua 4 khía cạnh sau:
1. Ý thức là sự phản ánh, cái phản ánh, còn vật chất là cái được phản ánh:
- Cái được phản ánh (tức vật chất) tồn tại khách quan, bên ngoài và độc lập với cái phản ánh (tức ý thức).
Ý thức là hình ảnh tinh thần của sự khách quan. Vì vậy, không thể đồng nhất hoặc tách rời ý thức với vật chất.
- Ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan, nhưng lại thuộc phạm vi chủ quan, không có tính vật chất.
Nó là hình ảnh phi cảm tính của các đối tượng vật chất có tồn tại cảm tính.
2. Ý thức là sự phản ánh có tính chủ động, năng động, sáng tạo.
Tuy thuộc phạm vi chủ quan nhưng ý thức không phải là bản sao thụ động, giản đơn, máy móc của sự vật.
Tức là, không phải cứ sự vật tác động như thế nào thì ý thức sẽ chép lại, chụp lại y nguyên như thế.
Con người là một thực thể xã hội năng động, sáng tạo
Trong quá trình lao động để cải tạo thế giới quan, con người tác động vào sự vật một cách có định hướng,
chọn lọc tùy theo nhu cầu của mình. Chính vì thế ý thức của con người là sự phản ánh năng động, sáng tạo, có
định hướng, chọn lọc về hiện thực khách quan.
Tính năng động, sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú
Trên cơ sở những cái đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra cái không có
trong thực tế. Nó có thể tiên đoán, dự báo tương lai một cách tương đối chính xác, hoặc có thể tạo ra những ảo
tưởng, huyền thoại. Thậm chí, một số người còn có khả năng tiên tri, ngoại cảm, thấu thị,...
VD: Vào thời kỳ đồ đá, con người muốn sưởi ấm là làm chín thức ăn nên đã tạo ra lửa,...
Tính sáng tạo của ý thức không có nghĩa là ý thức đẻ ra vật chất. Sáng tạo của nó là sáng tạo của sự phản
ánh, theo quy luật và trong khuôn khổ của sự phản ánh.
3. Ý thức ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới
Cho nên quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người là quá trình năng động sáng tạo thống nhất ba mặt sau:
Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể (con người) và đối tượng phản ánh (núi, sông, mưa,…). Sự trao đổi
này mang tính hai chiều, có định hướng, chọn lọc các thông tin cần thiết.
Hai là, con người mô hình hóa (tức là vẽ lại, lắp ghép lại…) đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh
tinh thần. Thực chất đây là quá trình ý thức sáng tạo lại hiện thực, là sự mã hóa các đối tượng vật chất thành các
ý tưởng tinh thần phi vật chất.
Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức quá trình hiện thực hóa tư tưởng, thông qua
hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực tại, biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các
dạng vật chất ngoài hiện thực. Trong giai đoạn này, con người lựa chọn những phương pháp, phương tiện, công
cụ để tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình.
Ví dụ: Con người sẽ xây cầu qua sông, làm đường xuyên núi… theo mô hình thiết kế đã có ở bước 2 ở trên.
4. Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội 12
Chỉ khi con người xuất hiện, tiến hành hoạt động thực tiễn để cải tạo thế giới khách quan theo mục đích
của mình, ý thức mới xuất hiện. Như thế, ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần túy, mà bắt nguồn
từ thực tiễn lịch sử – xã hội, phản ánh những quan hệ xã hội khách quan.
Ý thức bị chi phối không chỉ bởi các quy luật tự nhiên, mà chủ yếu bởi các quy luật xã hội. Ở những thời
đại khác nhau, thậm chí trong cùng một thời đại, ý thức về cùng một sự vật, hiện tượng có thể khác nhau ở các chủ thể khác nhau.
Câu 12: Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ Vật chất và ý thức ? a) Đinh nghĩa:
- Vật chất: Vật chất, theo Lênin. “là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, được đem lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh lại, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
Vật chất tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động để thể hiện sự tồn tại của mình.
Không thể có vật chất không vận động và không có vận động ở ngoài vật chất.
Đồng thời vật chất vận động trong không gian và thời gian.
Không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính chung vốn có của các dạng vật chất cụ thể .
- Ý thức: Ý thức lẩn phẩm của quá trình phát triển của tự nhiên và lịch sử - xã hội.
Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo thế giới khách quan và bộ não người thông qua hoạt động thực tiễn.
Chính vì vậy, không thể xem xét hai phạm trù này tách rời, cứng nhắc, càng không thể coi ý thức (bao gồm
cảm xúc,ý chí,tri thức,….) là cái có trước, cái sinh ra và quyết định sự tồn tại, phát triển của thế giới vật chất.
b) Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
- Vật chất quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức.
Vật chất là cái có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức: Nguồn gốc của ý thức chính là vật chất: bộ não
ngưòi – cơ quan phản ánh thế giơí xung quanh,sự tác động của thế giới vật chất vào bộ não người, tạo thành nguồn gốc tự nhiên
Lao động và ngôn ngữ(tiếng nói,chữ viết )trong hoạt động thực tiễn cùng với nguồn gốc tự nhiên quyết
định sự hình thành,tồn tại và phát triển của ý thức . Mặt khác,ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan.Vật chất là đối tượng,khách thể của ý thức,nó quy định nội dung,hình thức,khả năng và quá trình vận động
của ý thức . -Tác động trở lại của ý thức Ý thức do vật chất sinh ra và quy định,nhưng ý thức lại có tính độc lập
tương đối của nó.Hơn nữa,sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh tinh thần,phản ánh sáng tạo và
chủ động chứ không thụ động,máy móc,nguyên si thế giới vật chất,vì vậy nó có tác động trở lại đối với vật chất
thông qua hoạt động thực tiễn của con người . Dựa trên các tri thức về quy luật khách quan,con người đề ra mục
tiêu,phương hướng,xác định phương pháp,dùng ý chí để thực hiện mục tiêu ấy.Vì vậy,ý thức tác động đến vật
chất theo hai hướng chủ yếu :Nếu ý thức phản ánh đúng đắn điều kiện vật chất,hoàn cảnh khách quan thì sẽ thúc
đẩy tạo sự thuận lợi cho sự phát triển của đối tượng vật chất.Ngược lại,nếu ý thức phản ánh sai lệch hiện thực sẽ
làm cho hoạt động của con người không phù hợp với quy luật khách quan,do đó:sẽ kìm hãm sự phát triển của vật
chất. Tuy vậy,sự tác động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với một mức độ nhất định chứ nó không thể sinh
ra hoă ’c tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất được.Và suy cho cùng,dù ở mức độ nào nó vẫn phải dựa trên
cơ sở sự phản ánh thế giới vật chất . Biểu hiện ở mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là
quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội,trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội,đồng thời ý thức xã
hội có tính độc lập tương đối và tác động trở lại tồn tại xã hội . Ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức còn
là cơ sở để nghiên cứu,xem xét các mối quan hệ khác như: lý luận và thực tiễn,khách thể và chủ thể,vấn đề chân lý …
c) Ý nghĩa và phương pháp luận:
Do vật chất là nguồn gốc và là cái quyết định đối với ý thức, cho nên để nhận thức cái đúng đắn sự vật,
hiện tượng, trước hết phải xem xét nguyên nhân vật chất, tồn tại xã hội_ để giải quyết tận gốc vấn đề chứ không
phải tìm nguồn gốc, nguyên nhân từ những nguyên nhân tinh thần nào.“tính khách quan của sự xem xét” chính là
ở chỗ đó . Mặt khác, ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với vật chất, cho nên trong nhận thức
phải có tính toàn diện, phải xem xét đến vai trò của nhân tố tinh thần. Trong hoạt động thực tiễn, phải xuất phát
từ những điều kiện khách quan và giải quyết những nhiệm vụ của thực tiễn đặt ra trên cơ sở tôn trọng sự thật.
Đồng thời cũng phải nâng cao nhận thức, sử dụng và phát huy vai trò năng động của các nhân tố tinh thần,tạo
thành sức mạnh tổng hợp giúp cho hoạt động của con người đạt hiệu quả cao. Không chỉ có vậy, việc giải quyết 13
đúng đắn mối quan hệ trên khắc phục thái độ tiêu cực thụ động, chờ đợi, bó tay trước hoàn cảnh hoặc chủ quan,
duy ý chí do tách rời và thổi từng vai trò của từng yếu tố vật chất hoặc ý thức.
Câu 13. Khái niệm Biện chứng, phân biệt giữa biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan ? a. Khái niệm:
- Trong chũ nghĩa Mác — Lênin, khái niệm biện chứng dùng để chỉ những mối liên hệ, tương tác, chuyển
hóa và vận động, phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, xã hội và tư duy. b. Phân biệt:
- Biện chứng khách quan là biện chứng của thế giới vật chất (các mối liên hệ, sự vận động và phát triển
diễn ra ngoài ý thức, không phụ thuộc vào ý thức).
- Biện chứng chủ quan là sự phản ánh biện chứng khách quan vào đời sống ý thức của con người. Đây là
biện chứng của quá trình nhận thức, của ý thức.
Câu 14: Nội dung nguyên lý mối liên hệ phổ biến, ý nghĩa phương pháp luận ?
- Mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa sự vật, hiện tượng hay
giữa các mặt, yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới là môí liên hệ phổ biến. + Tính khách quan:
Liên hệ lá cái vốn có của sự vật hiện tượng, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con
người, là điều kiện tồn tại và phát triển của sự vật hiện tượng.
Con người nhận thức và vận dụng các mối liên hệ giữa sự vật hiện tượng.
- Tính đa dạng, phong phú:
Mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng đa dạng, phong phú.
Phân loại các mối quan hệ căn cứ vào vị trí, vai trò hoặc phạm vi tác dụng và tính chất phức tạp của nó. - Tính phổ biến:
Không có bất cứ sự vật hiện tượng nào tồn tại tuyệt đối biệt lập.
Một tồn tại là một hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với các hệ thống khác, tương tác và biến đổi lẫn nhau
Câu 15: Nội dung nguyên lý sự phát triển, ý nghĩa phương pháp luận ?
I. Nội dung nguyên lí sự phát triển.
1/ Khái niệm về sự phát triển
Trong chủ nghĩa duy vật biện chứng, phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình vận
động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Như vậy, phát
triển là vận động nhưng không phải mọi vận động đều là phát triển, mà chỉ vận động nào theo hướng đi lên thì
mới là phát triển. Vận động diễn ra trong không gian và thời gian, nếu thoát ly khỏi chúng thì không thể phát triển.
Cần phân biệt hai khái niệm gắn với khái niệm phát triển là tiến hóa và tiến bộ.
+ Tiến hóa là một dạng của phát triển, diễn ra theo cách từ từ, và thường là là sự biến đổi hình thức của tồn
tại xã hội từ đơn giản đến phức tạp.
+ Khái niệm tiến bộ đề cập đến sự phát triển có giá trị tích cực. Tiến bộ là một quá trình biến đổi hướng tới
cải thiện thực trạng xã hội từ chỗ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn so với ban đầu.
2/ Tính chất của sự phát triển
a/Tính khách quan của sự phát triển
Tất cả các sự vật, hiện tượng trong hiện thực luôn vận động, phát triển một cách khách quan, độc lập với ý
thức của con người. Đây là sự thật hiển nhiên, dù ý thức của con người có nhận thức được hay không, có mong muốn hay không.
Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong chính bản thân của sự vật, hiện tượng, chứ không phải do tác
động từ bên ngoài và đặc biệt không phụ thuộc vào ý thích, ý muốn chủ quan của con người.
b/Tính phổ biến của sự phát triển
Sự phát triển diễn ra ở tất cả mọi lĩnh vực, từ tự nhiên, xã hội và tư duy. Từ hiện thực khách quan đến
những khái niệm, những phạm trù phản ánh hiện thực ấy.
Trong hiện thực, không có sự vật, hiện tượng nào là đứng im, luôn luôn duy trì một trạng thái cố định
trong suốt quãng đời tồn tại của nó.
c/Tính kế thừa của sự phát triển 14
Sự vật, hiện tượng mới ra đời không thể là sự phủ định tuyệt đối, phủ định sạch trơn, đoạn tuyệt siêu hình
với các sự vật hiện tượng cũ. Sự vật, hiện tượng mới ra đời từ sự vật, hiện tượng cũ, chứ không phải ra đời từ hư
vô, vì vậy, trong sự vật và hiện tượng mới còn giữ lại, có chọn lọc, có cải tạo các yếu tố còn tác dụng, còn thích
hợp với chúng, trong khi vẫn gạt bỏ mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của sự vật hiện tượng cũ đang gây cản trở sự vật mới phát triển.
d/Tính phong phú, đa dạng của sự phát triển
Sự phát triển có muôn hình, muôn vẻ, biểu hiện ra bên ngoài theo vô vàn loại hình khác nhau.
Tuy sự phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy, nhưng mỗi sự vật, hiện tượng lại có
quá trình phát triển không giống nhau. Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển còn phụ thuộc vào không gian
và thời gian,vào các yếu tố, điều kiện tác động lên sự phát triển đó. * Nguyên tắc phát triển:
Thứ nhất, khi nghiên cứu, cần đặt đối tượng vào sự vận động, phát triển xu hướng biến đổi của nó để
không chỉ nhận thức nó ở trạng thái hiện tại, mà còn dự báo được khuynh hướng phát triển của nó trong tương lai.
Thứ hai, cần nhận thức được rằng, phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có đặc
điểm, tính chất, hình thức khác nhauu nên cần tìm hình thức, phương pháp tác động phù hợp để thúc đẩy, hoặc
kìm hãm sự phát triển đó.
Thứ ba, phải sớm phát hiện và ủng hộ đối tượng mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho nó phát triển.
Thứ tư, trong quá trình thay thế đối tượng cũ bằng đối tượng mới phải biết kế thừa các yếu tố tích cực của
đối tượng cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới.
II. Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về sự phát triển
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển của các sự vật, hiện tượng, chúng ta rút ra quan điểm phát
triển trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điển này đòi hỏi:
1. Khi xem xét các sự vật, hiện tượng, ta phải đặt nó trong sự vận động và phát triển.
– Ta cần phải nắm được sự vật không chỉ như là cái nó đang có, đang hiện hữu trước mắt, mà còn phải nắm
được khuynh hướng phát triển tương lai, khả năng chuyển hóa của nó. Bằng tư duy khoa học, ta phải làm sáng tỏ
được xu hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi khác nhau đó.
– Quan điểm phát triển hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Tuyệt đối hóa một nhận
thức nào đó về sự vật có được trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, xem đó là nhận thức duy nhất đúng về toàn
bộ sự vật trong quá trình phát triển tiếp theo của nó sẽ đưa chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng.
2. Không dao động trước những quanh co, phức tạp của sự phát triển trong thực tiễn.
Ta cần phải xác quyết rằng các sự vật, hiện tượng phát triển theo một quá trình biện chứng đầy mâu thuẫn.
Do đó ta phải công nhận tính quanh co, phức tạp của quá trình phát triển như một hiện tượng phổ biến, đương
nhiên. Quan điểm phát triển đòi hỏi phải có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan đối với mỗi bước thụt lùi tương
đối của sự vật, hiện tượng. Bi quan về sự thụt lùi tương đối sẽ khiến chúng ta gặp phải những sai lầm tai hại.
3. Phải chủ động tìm ra phương pháp thúc đẩy sự phát triển của sự vật, hiện tượng.
– Ta phải tích cực, chủ động nghiên cứu, tìm ra những mâu thuẫn trong mỗi sự vật, hiện tượng. Từ đó, xác
định biện pháp phù hợp giải quyết mâu thuẫn để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển.
Việc xác định những biện pháp cũng cần căn cứ vào từng giai đoạn, hoàn cảnh cụ thể của sự vật, hiện
tượng. Vì sự phát triển diễn ra theo nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
– Vì trong sự phát triển có sự kế thừa, ta phải chủ động phát hiện, cổ vũ cái mới phù hợp, tìm cách thúc
đẩy để cái mới đó chiếm vai trò chủ đạo.
Ta cũng phải tìm cách kế thừa những bộ phận, thuộc tính… còn hợp lý của cái cũ, đồng thời kiên quyết
loại bỏ những gì thuộc cái cũ mà lạc hậu, cản trở sự phát triển.
4/ Phải tích cực học hỏi, tích lũy kiến thức khoa học và kiến thức thực tiễn.
Tuyệt đối tránh bảo thủ, trì trệ trong tư duy và hành động.
– Sự phát triển được thực hiện bằng con đường tích lũy về lượng để tạo ra sự thay đổi về chất. Do đó,
chúng ta phải luôn nỗ lực, chăm chỉ lao động để làm cho sự vật, hiện tượng tích lũy đủ về lượng rồi dẫn đến sự thay đổi về chất.
Câu 16: Phân tích nội dung quy luật từ sự thay đổi về chất dẫn đến sự thay đổi về lượng và ngược
lại, ý nghĩa phương pháp luận ?
Quy luật lượng – chất: là một trong ba quy luật cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Diễn đạt một cách
đầy đủ, đó quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại. 15
I. Nội dung quy luật lượng – chất:
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại phát biểu
rằng: Bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới
hạn của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời sẽ tác động trở
lại tới sự thay đổi của lượng.
II. Phân tích nội dung quy luật lượng – chất:
1. Phạm trù “chất” và phạm trù “lượng”:
1.1. Phạm trù “chất”:
Định nghĩa: Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật và
hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho nó là nó mà không phải là cái khác. Ví dụ về chất
Nguyên tố đồng có nguyên tử lượng là 63,54đvC, nhiệt độ nóng chảy là 1083, nhiệt độ sôi là 2880oC…
Những thuộc tính (tính chất) này nói lên chất riêng của đồng, phân biệt nó với các kim loại khác.
1.2. Phạm trù “lượng”:
Định nghĩa: Lượng là một phạm trù triết học để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, biểu thị số lượng, quy
mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật cũng như các thuộc tính của nó. Ví dụ về lượng
Đối với mỗi phân tử nước (H O), lượng là số nguyên tử tạo thành nó, tức là 2 nguyên tử Hidro và 1 nguyên 2
tử Oxi.2. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng thể hiện như thế nào?
a) Lượng đổi dẫn đến chất đổi
Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cùng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng. Hai mặt đó không
tách rời nhau mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Sự thay đổi về lượng tất yếu sẽ dẫn tới sự chuyển
hóa về chất của sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên, không phải sự thay đổi về lượng bất kỳ nào cũng dẫn đển sự
thay đổi về chất. Ở một giới hạn nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn tới sự thay đổi về chất. Giới hạn mà
sự thay đổi về lượng chưa làm chất thay đổi được gọi là độ.
Khái niệm độ chỉ tính quy định, mối liên hệ thống nhất giữa chất và lượng, là khoảng giới hạn mà trong
đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, trong giới hạn của độ, sự
vật, hiện tượng vẫn còn là nó, chưa chuyển hóa thành sự vật và hiện tượng khác.
Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Khi lượng thay đổi
đền một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến những sự thay đổi về chất. Giới hạn đó chính là . điểm nút Sự thay
đổi về lượng khi đạt tới điếm nút, với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới. Đây
chính là bước nhảy trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Bước nhảy là sự chuyển hóa tất yếu trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Sự thay đổi về chất
diễn ra với nhiều hình thức bước nhảy khác nhau, được quyết định bởi mâu thuẫn, tính chất và điều kiện của mỗi
sự vật. Đó là các bước nhảy: nhanh và chậm, lớn và nhỏ, cục bộ và toàn bộ, tự phát và tự giác, V.V..
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển; đồng thời, đó cũng là điểm khởi đầu cho một
giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát triển liên tục của sự vật, hiện tượng. Trong thế giới
luôn luôn diễn ra quá trình biến đổi tuần tự về lượng dẫn đến bước nhảy về chất, tạo ra một đường nút vô tận. thể
hiện cách thức vận động và phát triển cùa sự vật từ thấp đến cao. Ph.Ăngghen khái quát tính tất yếu này: “Những
thay đổi đơn thuần về lượng, đến một mức độ nhất định sẽ chuyển hóa thành những sự khác nhau về chất”.
Từ những thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất
Chất và lượng là 2 mặt đối lập, chất tương đối ổn định còn lượng thường xuyên biến đổi xong hai mặt đó
không thể tách rời nhau mà tác động qua lại với nhau một cách biện chứng sự thống nhất giữa chất và
lượng trong một độ nhất định khi sự vật đang tồn tại.
– Độ: Là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm căn bản về chất của sự vật.
– Điểm nút: Là giới hạn mà tại đó bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng đưa ngay tới sự thay đổi về chất của sự vật.
– Bước nhảy: Dùng để chí sự chuyển hóa về chất của sự vật do những thay đổi về lượng trước đó gây ra.
Các hình thức của bước nhảy: 16
Bước nhảy đột biến: Là bước nhảy làm thay đổi căn bản về chất nhanh chóng ở tất cả các bộ
phận cấu thành sự vật.
Bước nhảy dần dần: là quá trình thay đổi về chất diễn ra trong thời gian dài.
Bước nhảy toàn bộ: làm thay đổi căn bản về chất của sự vật ở tất cả các mặt các bộ phận các
yếu tố cấu thành nên sự vật.
Bước nhảy cục bộ: là bước nhảy làm thay đổi một số yếu tố 1 số bộ phận của sự vật.
b) Sự ảnh hưởng của chất mới đến lượng mới
Khi chất mới ra đời lại có sự tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mới tác động tới lượng của sự vật,
hiện tượng trên nhiều phương diện: làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển
của sự vật, hiện tượng.
Sự thay đổi về chất tác động sự thay đổi về lượng:
Chất mới của sự vật chỉ xuất hiện khi sự thay đổi về lượng đạt đến điểm nút khi sự vật mới ra đời với chất
mới lại có một lượng mới phù hợp tạo nên sự thống nhất mới giữa chất và lượng, sự tác động của chất mới đối
với lượng mới được biểu hiện ở quy mô tồn tại nhịp điệu sự vận động.
Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt chất vả lượng. Sự
thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút lất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước nhảy; đồng
thời, chất mới sẽ tác động trở lại lượng, tạo ra những biến đổi mới về lượng của sự vật, hiện tượng. Quá
trình đó liên tục diễn ra, tạo thành phương thức cơ bản, phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
III. Ý nghĩa phương pháp luận:
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại giúp
chúng ta nhận thức được phương thức vận động và phát triển của sự vật. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn.
1. Để có tri thức đầy đủ về sự vật, ta phải nhận thức cả mặt lượng và mặt chất của nó.
Những nhận thức ban đầu về chất của các sự vật chỉ trở nên đúng đắn và sâu sắc hơn khi đạt tới tri thức về
sự thống nhất giữa chất và lượng của sự vật đó.
Để nhận thức được sự vật, ta phải nhận thức trong mối quan hệ tác động qua lại giữa sự vật đó với những
sự vật khác, cũng như giữa các mặt, thuộc tính của sự vật đó. Vì chỉ khi đó, mặt lượng và mặt chất của sự vật mới bộc lộ ra.
2. Ta phải tổ chức hoạt động thực tiễn dựa trên sự hiểu biết đúng đắn vị trí, vai trò và ý nghĩa của sự
thay đổi về lượng cũng như sự thay đổi về chất trong sự phát triển xã hội.
Ta phải biết kịp thời chuyển từ sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất, từ những thay đổi
mang tính tiến hóa sang thay đổi mang tính cách mạng.
Để xây dựng chiến lược và sách lược cách mạng, ta phải xem xét tiến hóa và cách mạng trong mối quan hệ
biện chứng của chúng. Hiểu đúng đắn mối quan hệ này sẽ giúp chúng ta có cái nhìn nghiêm khắc với chủ nghĩa
cải lương, chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa tả khuynh.
3. Ta phải kiên trì đổi mới trên từng lĩnh vực để tiến tới đổi mới toàn diện đời sống xã hội.
Nắm được quy luật lượng – chất sẽ giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan, toàn diện và xác định đúng
phương pháp, lộ trình thực hiện công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam hiện nay.
Theo tính chất, ý nghĩa và phạm vi bao quát của nó, đổi mới là một quá trình mang tính cách mạng. Ta cần
phải thực hiện đổi mới thành công trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội để tạo ra bước nhảy về chất ở đó. Với
sự thành công trên nhiều lĩnh vực, ta có cơ sở thực tế để đổi mới thành công toàn diện đất nước Việt Nam. Đó là
khi ta tạo được bước nhảy về chất của toàn bộ xã hội nói chung.
Những bước nhảy trong quá trình đổi mới hiện nay chỉ có thể là kết quả của qúa trình thay đổi về lượng
thích hợp. Do đó, bất kỳ sự nôn nóng, chủ quan, ảo tưởng nào đều có thể gây ra những tổn thất lớn cho đất nước.
Câu 17: Phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập, ý nghĩa phương pháp luận ?
Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất với nhau vừa đấu tranh với nhau.
Mặt đối lập của mâu thuẫn: Là những khuynh hướng, tính chất, đặc điểm….mà trong quá trình vận động,
phát triển của sự vật và hiện tượng chúng phát triển theo chiều hướng trái ngược nhau. 17
Mặt đối lập của mâu thuẫn (mặt đối lập biện chứng) là những mặt đối lập ràng buộc, thống nhất và đấu
tranh với nhau trong mâu thuẫn.
Ví dụ: Mọi hoạt động kinh tế đều có mặt sản xuất và mặt tiêu dùng. Chúng thống nhất với nhau tạo thành
một chỉnh thể nhưng đồng thời cũng luôn tác động bài trừ nhau. Hoạt động sản xuất tạo ra sản phẩm còn hoạt
dộng tiêu dùng thì lại triệt tiêu sản phẩm.
Câu 18: Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định, ý nghĩa phương pháp luận ?
I. Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định:
1. Tính chu kì của sự phát triển:
- Mỗi chu kỳ phát triển của sự vật thường phải trải qua ít nhất 2 lần phủ định cơ bản, hình thái mỗi chu kỳ
sẽ lặp lại những đặc trưng cơ bản của hình thái ban đầu của chu kỳ đó nhưng trên cơ sở cao hơn, hoàn thiện hơn.
- Sự vật ra đời và tồn tại đã khẳng định chính nó. Trong quá trình vận động của sự vật ấy, những nhân tố
mới xuất hiện sẽ thay thế những nhân tố cũ. Khi đó, sự phủ định biện chứng lần 1 diễn ra: Sự vật ban đầu không
còn nữa mà bị thay thế bằng sự vật mới, trong đó những nhân tố tích cực của sự vật ban đầu được giữ lại.
- Tuy nhiên, sau một thời gian, sự vật mới ra đời ở trên lại bị phủ định bằng sự vật mới khác. Đó là sự phủ
định lần 2. Cứ thế tiếp tục, tùy vào sự vật sẽ có phủ định lần 3, lần 4…, lần n.
- Sau 2 hoặc nhiều lần phủ định, sẽ có một sự vật mới dường như lặp lại (rất giống) với sự vật ban đầu,
song không phải là sự trùng lặp hoàn toàn với sự vật ban đầu đó, mà ở nấc thang cao hơn; nó được bổ sung
những nhân tố mới và chỉ bảo tồn những nhân tố tích cực đối với sự phát triển tiếp tục của nó.
- Sau 2 hoặc nhiều lần phủ định dẫn đến sự xuất hiện sự vật mới mà dường như lặp lại sự vật ban đầu thì ta
có một chu kỳ phát triển. Ở đây có sự phủ định của phủ định. Ví dụ:
+ Một quả trứng là sự khẳng định ban đầu (trong điều kiện được ấp) => Phủ định lần 1 tạo ra gà mái con
=> Phủ định lần 2 (gà mái con lớn lên) sinh ra . nhiều quả trứng + Một hạt là
thóc sự khẳng định ban đầu (được gieo trồng) => Phủ định lần 1 tạo ra cây lúa => Phủ định lần 2, cây lúa sinh ra . nhiều hạt thóc
- Ở 2 ví dụ trên ta có một chu kỳ phát triển: Từ một quả trứng ban đầu đến nhiều quả trứng mới. Từ một
hạt thóc ban đầu đến nhiều hạt thóc mới. Từ một đến nhiều tức là có sự phát triển lên nấc thang cao hơn. Đó là
kết quả phủ định của phủ định.
- Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng là sự thống nhất giữa loại bỏ, kế thừa
và phát triển. Mỗi lần phủ định biện chứng được thực hiện sẽ mang lại những nhân tố tích cực mới.
- Như thế, những lần phủ định biện chứng nối tiếp nhau sẽ tạo ra xu hướng tiến lên không ngừng, như việc
sẽ ngày càng có nhiều quả trứng hơn, ngày càng có nhiều hạt thóc hơn.
2. Hình thức và khuynh hướng của sự phát triển:
- Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính tất yếu tiến lên của sự vận động của sự vật, hiện tượng. Sự
đi lên đó không diễn ra theo đường thẳng mà theo đường "xoáy ốc"
- Sở dĩ nói “theo hình xoáy ốc” vì “hình xoáy ốc” đã biểu đạt được các đặc trưng của quá trình phát triển
biện chứng: tính kế thừa, tính lặp lại nhưng không quay trở lại và tính chất tiến lên của sự phát triển.
- Mỗi vòng mới của đường “xoáy ốc” thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển, đồng thời dường như
quay lại cái đã qua, lặp lại vòng trước. Sự nối tiếp nhau của các vòng thể hiện tính vô tân của sự phát triển, tính
vô tận của sự tiến lên từ thấp lên cao.
II. Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ quy luật phủ định của phủ định:
1. Cái mới nhất định sẽ xuất hiện từ cái cũ nhưng ta không được phủ sạch cái cũ.
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, ta cần lưu ý rằng cái mới nhất định sẽ thay thế cái cũ, cái tiến bộ
nhất định sẽ chiến thắng cái lạc hậu. Cái mới ra đời từ cái cũ, kế thừa tất cả những gì tích cực của cái cũ. Do đó,
ta cần chống thái độ phủ định sạch trơn cái cũ.
2. Chúng ta phải chủ động phát hiện, bồi dưỡng, thúc đẩy cái mới.
- Trong thực tiễn, ta phải biết phát hiện và quý trọng cái mới, phải tin tưởng vào tương lai phát triển của cái
mới. Mặc dù cái mới lúc đầu còn yếu ớt, ít ỏi, ta phải ra sức ủng hộ, bồi dưỡng, phát huy cái mới, tạo điều kiện
cho cái mới chiến thắng cái cũ. 18
- Trong khi đấu tranh với cái cũ, chúng ta phải biết sàng lọc, gạn đục khơi trong, giữ lấy những gì còn tích
cực, có giá trị từ cái cũ, cải tạo cái cũ cho phù hợp với những điều kiện mới. Chúng ta phải chống thái độ “hư vô
chủ nghĩa” trong khi nhìn nhận, đánh giá quá khứ.
3. Phải khắc phục thái độ bảo thủ, loại bỏ những hủ tục trong xã hội.
- Trong khi chống thái độ hư vô chủ nghĩa, phủ định sạch trơn quá khứ, chúng ta cũng phải khắc phục thái
độ bảo thủ, khư khư giữ lại những cái lỗi thời cản trở sự phát triển của lịch sử.
Chúng ta phải nhận thức rõ những cái lỗi thời, ví dụ như những hủ tục cũ trong việc cưới xin, tang lễ, hội
hè…, quan niệm “có nếp có tẻ” trong việc sinh con… sẽ gây ra nhiều tốn kém và nhiễu nhương.
Câu 19: Phân tích nội dung Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn ?
- Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải
biến tự nhiên và xã hội.
- Hoạt động thực tiễn là loại hoạt động mà con người sử dụng những công cụ vật chất tác động vào những
đối tượng vật chất nhất định làm biến đổi chúng theo mục đích của mình (là những hoạt động đặc trưng và bản
chất của con người). Nó được thực hiện một cách tất yếu khách quan và không ngừng phát triển bởi con người
qua các thời kỳ lịch sử.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động vật chất mang tính sáng tạo và có tính mục đích, tính lịch sử - xã hội.
- Thực tiễn có 3 hình thức cơ bản: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.
+ Hoạt động sản xuất vật chất (hình thức cơ bản, đầu tiên) là hoạt động mà con người sử dụng những công
cụ lao động tác động vào tự nhiên để tạo ra của cải vật chất, các điều kiện cần thiết nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển
+ Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động của các cộng đồng người, các tổ chức khác nhau trong xã hội
nhằm cải biến những quan hệ chính trị - xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển.
+ Thực nghiêm khoa học (hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn) là hoạt động được tiến hành trong
những điều kiện do con người tạo ra, gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm
xác định những quy luật biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu.
Có vai trò quan trọng trong sự phát triển xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
Mỗi hình thức hoạt động của thực tiễn có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, hoạt
động sản xuất vật chất có vai trò quan trọng nhất, đóng vai trò quyết định. Bởi vì, nó là hoạt động nguyên thủy
nhất và tồn tại một cách khách quan, thường xuyên nhất trong đời sống của con người và tạo ra những điều kiện,
của cải thiết yếu nhất, có tính quyết định đối với sự sinh tồn và phát triển của con người. Không có hoạt động sản
xuất vật chất thì không thể có các hình thức thực tiễn khác.
Câu 20: Vai trò của thực tiễn với nhận thức ?
Thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn của chân lý, kiểm tra
tính chân lý của quá trình nhận thức.
Câu 21: Trình bày nội dung sản xuất vật chất và phương thức sản xuất. a. Sản xuất vật chất
- Sản xuất vật chất: là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải tiến các
dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
VD: Máy may có thể may trang phục.
- Sản xuất vật chất giữ vai trò là nhân tố quyết định sự sinh tồn, phát triển của con người và xã hội là hoạt
động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối quan hệ xã hội của con người, nó chính là cơ sở của sự hình
thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người.
VD: Muốn thực hiện các hoạt động kinh tế, chính trị, pháp luật,... đều phải ăn, ở, mặc và tư liệu tiêu dùng.
Muốn có được những điều đó, con người phải sản xuất vật chất như nông - lâm - ngư - công nghiệp, xây dựng,...
- Trong quá trình sản xuất vật chất, con người không ngừng làm biến đổi tự nhiên, xã hội, đồng thời làm
biến đổi bản thân mình.
VD: Thay đổi cấu trúc cơ thể.
- Sản xuất vật chất có tính khách quan, tính xã hội, tính lịch sử và tính sáng tạo. Bất kỳ một quá trình sản
xuất nào cũng được tạo nên từ ba yếu tố cơ bản là sức lao động của người lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động.
- Ở thế giới loài vật không có hoạt động sản xuất. Có thể nói, điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài
người với thế giới động vật là ở chỗ: Con người lao động sản xuất, còn loài vật thì không. 19
- Khi sản xuất vật chất tức là con người đã lao động.
Chính lao động đã đem lại những thay đổi to lớn và mang tính quyết định cho con người như:
+ Cơ thể con người không ngừng hoàn thiện và phát triển, có dáng đi thẳng, không còn gù lưng như loài
vượn. Có sự phân hóa chức năng giữa chân, tay và bộ óc. Các giác quan của con người cũng phát triển.
+ Trong quá trình lao động sản xuất, con người xuất hiện nhu cầu “nói chuyện” với nhau. Nếu không giao
tiếp được với nhau, con người không thể lao động sản xuất.
Do đó, tiếng nói, chữ viết (tức là ngôn ngữ) xuất hiện, trở thành phương tiện để giao tiếp, trao đổi, truyền
bá tri thức, kinh nghiệm từ thế hệ này sang thế hệ khác.
+ Nhờ lao động sản xuất, buôn bán, tiêu thụ hàng hóa, giữa con người xuất hiện những mối quan hệ xã hội
trong mọi lĩnh vực như chính trị, tôn giáo, đoàn thể, nghệ thuật…
– Sản xuất là yêu cầu khách quan của sự sinh tồn xã hội.
+ Trong bất kỳ xã hội nào, con người đều có những nhu cầu tiêu dùng từ cấp độ tối thiểu đến cấp độ
thưởng thức như ăn, mặc, nghe nhạc, xem phim, đi lại, đi du lịch…
+ Muốn thỏa mãn những nhu cầu trên thì con người phản sản xuất. Bởi vì sản xuất là điều kiện của tiêu
dùng. Sản xuất càng phát triển thì hàng hóa càng nhiều, tiêu dùng càng phong phú và ngược lại. Bất cứ xã hội
nào cũng không thể tồn tại, phát triển nếu không tiến hành sản xuất vật chất.
– Sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự tiến bộ xã hội.
+ Suốt chiều dài lịch sử của xã hội loài người, nền sản xuất của cải xã hội không ngừng phát triển từ thấp đến cao.
+ Từ chỗ chỉ dùng công cụ lao động bằng đá (thời kỳ đồ đá ở xã hội nguyên thủy), con người dần dần chế
tạo được công cụ bằng đồng (vào thời kỳ đồ đồng ở xã hội cổ đại), sắt (vào thời kỳ đồ sắt từ thời cổ đại đến trung đại).
+ Sau đó, nhờ cuộc cách mạng công nghiệp để phục vụ sản xuất, con người đã biết dùng máy móc động cơ
hơi nước, các hệ thống cơ khí hóa, hiện đại hóa (vào thời cận đại và hiện đại).
+ Ngày nay, công cụ sản xuất của con người đã rất hiện đại, vượt quá sự tưởng tượng của loài người cách đây không lâu.
+ Mỗi khi nền sản xuất phát triển đến một giai đoạn mới thì cách thức sản xuất của con người thay đổi,
năng suất lao động tăng cao, quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất thay đổi…, kéo theo
sự thay đổi trong mọi mặt của đời sống xã hội.
+ Như vậy, chính là nhờ sự sản xuất ra của cải vật chất để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình, con
người đồng thời sáng tạo ra toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của xã hội với tất cả sự phong phú và phức tạp của nó.
- Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội loài người.
+ Vai trò của sản xuất vật chất được thể hiện, trước hết , sản xuất vật chất là tiền đề trực tiếp tạo ra “ tư liệu
sinh hoạt của con người ” nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của con người nói chung cũng như từng cá thể
người nói riêng. C.Mác khẳng định: “ Đứa trẻ nào cũng biết rằng bất kể dân tộc nào cũng sẽ diệt vong, nếu như
nó ngừng lao động, không phải một năm, mà chỉ mấy tuần thôi”.
- Sản xuất vật chất là tiền đề của mọi hoạt động lịch sử của con người.
+ Hoạt động sản xuất vật chất là cơ sở hình thành nên quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với người, từ
đó hình thành nên các quan hệ xã hội khác - quan hệ giữa người với người về chính trị, pháp luật, đạo đức, tôn
giáo. Sản xuất vật chất đã tạo ra các điều kiện, phương tiện bảo đảm cho hoạt động tinh thần của con người và
duy trì, phát triển phương thức sản xuất tinh thần của xã hội. C.Mác chỉ rõ: “Việc sản xuất ra những tư liệu sinh
hoạt vật chất trực tiếp ... tạo ra một cơ sở từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp
quyền, nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của con người ta".
- Sản xuất vật chất là điều kiện chủ yếu sáng tạo ra bản thân con người.
+ Nhờ hoạt động sản xuất vật chất mà con người hình thành nên ngôn ngữ, nhận thức, tư duy, tình cảm,
đạo đức. Sản xuất vật chất là điều kiện cơ bản, quyết định nhất đối với sự hình thành, phát triển phẩm chất xã hội
của con người. Ph.Ăngghen khẳng định rằng, trên một ý nghĩa cao nhất, “lao động đã sáng tạo ra bản thân con
người”. Như vậy, nhờ lao động sản xuất mà con người vừa tách khỏi tự nhiên, vừa hoà nhập với tự nhiên, cải tạo
tự nhiên, sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần, đồng thời sáng tạo ra chính bản thân con người.
“Nguyên lý về vai trò của sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội loài người có ý
nghĩa phương pháp luận quan trọng. Để nhận thức và cải tạo xã hội, phải xuất phát từ đời sống sản xuất, từ nền 20