Câu hỏi ôn tập - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Triết học giải quyết rất nhiều vấn đề có liên quan với nhau. Trong đó, vấn đề quan trọngnhất được gọi là vấn đề cơ bản của triết học. Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề cơ bản lớncủa mọi triết học. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Câu 1: Vấn đề cơ bản của triết học là gì? Phân tích nội dung vấn đề cơ bản của
triết học?
Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về bản thân con
người và vị trí của con người trong thế giới đó.
Triết học giải quyết rất nhiều vấn đề liên quan với nhau. Trong đó, vấn đề quan trọng
nhất được gọi là vấn đề bản của triết học. Vấn đề bản của triết học vấn đề bản lớn
của mọi triết học. Gọi là vấn đề cơ bản bởi dựa trên việc giải quyết các vấn đề này sẽ làm sở
để giải quyết các vấn đề của triết học. Nó bao gồm các vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại và
duy, giữa vật chất và ý thức.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, trả lời hai câu hỏi lớn
Mặt thứ nhất: Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào
quyết định cái nào? Nói cách khác, khi truy tìm nguyên nhân cuối cùng của hiện tượng,
sự vật hay sự vận động đang cần phải giải thích thì nguyên nhân vật chất hay nguyên
nhân tinh thần đóng vai trò là cái quyết định. Chia làm các trường phái:
Chủ nghĩa duy vật: vật chất có trước, có vai trò quyết định, ý thức chỉ là sự
phản ánh thế giới vật chất, vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai. Có
các hình thức:
+ Chủ nghĩa duy vật chất phát
+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng
-Chủ nghĩa duy tâm: ý thức có trước, quyết định vật chất, ý thức là tính thứ
nhất, vật chất là tính thứ hai. Chia làm các hình thức:
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan: ý thức là 1 lực lượng siêu nhiên có trước
con người
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: các sự vật, hiện tượng tồn tại là do phức
hợp của cảm giác
-Thuyết nhị nguyên luận: vật chất và ý thức không nằm trong quan hệ sản sinh
Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Nói cách
khác, khi khám quá sự vật và hiện tượng, con người có dám tin rằng mình sẽ nhận thức
được sự vật và hiện tượng hay không. Chia làm các trường phái:
- Khả tri luận: đa số thừa nhận khả năng nhận thức của con người
- Bất khả tri luận: 1 số phủ nhận khả năng nhận thức của con người
- Thuyết hoài nghi: nâng sự hoài nghi lên thành nguyên tắc trong nhận thức
Ý nghĩa cơ bản của triết học: (Nếu hỏi ý nghĩa)
- Là vấn đề nền tảng để giải quyết các vấn đề còn lại trong triết học.
- Là tiêu chuẩn để phân biệt các trường phái của các nhà triết học.
- Là vấn đề các học thuyết triết học đều quan tâm giải quyết.
Câu 2: Tại sao mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại hay giữa vật chất và ý thức là
vấn đề cơ bản của triết học?
Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt trong
triết học hiện đại, là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại hoặc mối quan hệ vật chất và ý
thức.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, trả lời hai câu hỏi lớn:
-Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
-Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại hay giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học vì:
-Tất cả các nhà triết học đều trực tiếp hoặc gián tiếp giải quyết các mối quan hệ này.
-Trên thế giới có nhiều các sự vật, hiện tượng khác nhau nhưng người ta phân thành 2 loại chính.
Đó là vật chất (tồn tại) và tinh thần (tư duy). Vì vậy mối quan hệ giữa vật chất và ý thức đã bao
trùm lên toàn bộ thế giới. Mà triết học thì chủ nghiên cứu mối quan hệ chung nhất của thế giới vì
vậy quan hệ giữa vật chất và ý thức là đối tượng nghiên cứu của triết học, nếu không nghiên cứu
vấn đề này triết học không thể tồn tại.
-Căn cứ vào cách giải quyết mối quan hệ giữ vật chất và ý thức làm cơ sở để phân định lập trường
tư tưởng thế giới quan của các nhà triết học cũng như các học thuyết của họ
Câu 1: Phân tích định nghĩa vật chất của Lênin và rút ra ý nghĩa phương pháp
luận của định nghĩa này?
1. Các quan niệm trước Mác về vật chất
- Triết học duy vật cổ đại: đồng nhất vật chất với dạng vất chất cụ thể.
VD: Các nhà triết học duy vật như Ta-lét cho rằng vật chất là nước; A-na-xi-men coi là
không khí; Hê-ra-clít coi là lửa. Thành quả vĩ đại nhất của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại trong
học thuyết về vật chất là thuyết nguyên tử của Lơ-xíp và học trò của ông là Đê-mô-crít.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình cận đại thế kỷ XVII-XVIII: đồng nhất vật chất với dạng vật
chất cụ thể và tính chất của chúng.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các phát minh của vật lý học đã bác bỏ quan niệm đồng
nhất vật chất với các dạng cụ thể của vật chất hoặc với thuộc tính của vật chất của các nhà triết học
duy vật cổ đại và cận đại. Phạm trù vật chất được V.I.Lênin nêu định nghĩa “Vật chất là một phạm
trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác”
2. Những nội dung cơ bản của định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác".
- Vật chất là “phạm trù triết học” do vậy vừa có tính trừu tượng vừa có tính cụ thể.
+ Tính trừu tượng của vật chất dùng để chỉ đặc tính chung, bản chất nhất của vật chất -
đó là đặc tính tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người và đây cũng là tiêu chí duy nhất để
phân biệt cái gì là vật chất và cái gì không phải là vật chất.
VD: Nhà nước phong kiến có bản chất là giai cấp địa chủ phong kiến chống lại nông dân
và những người lao động khác nhằm củng cố, bảo vệ sự thống trị về mọi mặt của địa chủ.
+ Tính cụ thể của vật chất thể hiện ở chỗ chỉ có thể nhận biết được vật chất bằng các giác
quan của con người; chỉ có thể nhận thức được vật chất thông qua việc nghiên cứu các sự vật,
hiện tượng vật chất cụ thể.
VD: Tính nóng của nước sôi được cảm nhận thông qua xúc giác, qua nghiên cứu biết
được rằng nước sôi nóng 100 độ C.
- Vật chất là “thực tại khách quan” có đặc tính cơ bản (cũng là đặc trưng cơ bản) là tồn tại
không phụ thuộc vào ý thức. Dù con người có nhận thức được hay chưa nhận thức được nó nó vẫn
tồn tại.
VD: Thủy triều là hiện tượng nước biển, nước sông... lên xuống trong một chu kỳ thời gian
phụ thuộc vào biến chuyển thiên văn, là đặc tính cơ bản của sông nước. Nó tồn tại một cách tự
nhiên, không phụ thuộc vào nhận thức của con người.
- Vật chất có tính khách thể - con người có thể nhận biết vật chất bằng các giác quan.
VD: Sự tăng trưởng về cân nặng, kích thước của đàn lợn sau một thời gian nuôi dưỡng có thể
được người chủ nhận biết bằng thị giác, xúc giác,…
- Ý thức là sự “chép lại, chụp lại, phản ánh lại” thực tại khách quan. Bằng các giác quan của
mình, con người có thể trực tiếp hoặc gián tiếp nhận biết được thực tại khách quan; chỉ có
những sự vật, hiện tượng của thực tại khách quan chưa được nhận biết chứ không thể không
biết.
VD: Kiến thức của nhân loại là kết quả của quá trình con người tiếp xúc và nghiên cứu thế giới
khách quan. Mọi khía cạnh về thế giới được con người cảm nhận và ghi chép lại.
1 là) được suy ra từ nội dung trên để xác định mối quan hệ biện chứng giữa thực tại khách
quan (vật chất) với cảm giác (ý thức). Vật chất (cái thứ nhất) là cái có trước, tồn tại độc lập
với ý thức và quy định ý thức. Ý thức (cái thứ hai) là cái có sau vật chất, phụ thuộc vào vật
chất. Như vậy, vật chất là nội dung, là nguồn gốc khách quan của ý thức, là nguyên nhân làm
cho ý thức phát sinh. Tuy nhiên, ý thức tồn tại độc lập tương đối so với vật chất và có tác
động, thậm chí chuyển thành sức mạnh vật chất khi nó thâm nhập vào quần chúng và được
quần chúng vận dụng.
VD: Trước thời kì Đổi mới, do những ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh (đàn ông ra
trận và hi sinh nhiều, ở hậu phương chỉ còn đàn bà và người già) thì kinh tế không thể phát
triển. Vì thếm, nếu đường lối chủ trương chính sách lúc đó mà không phù hợp với thực tế thì
kinh tế (vật chất) cũng không thể đi lên.
3. Ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận của định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đối với hoạt
động nhận thức và thực tiễn
- Định nghĩa đưa lại thế giới quan duy vật biện chứng khi giải quyết vấn đề cơ bản của
triết học. Thứ nhất, định nghĩa khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau; vật chất là nguồn
gốc khách quan của cảm giác, của ý thức (khắc phục được quan điểm về vật chất của chủ
nghĩa duy vật cổ và cận đại). Thứ hai, định nghĩa khẳng định ý thức con người có khả năng
nhận thức được thế giới vật chất (chống lại thuyết không thể biết và hoài nghi luận). Thế
giới quan duy vật biện chứng xác định được vật chất và mối quan hệ của nó với ý thức trong
lĩnh vực xã hội: đó là tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội, kinh tế quy định chính trị v.v…;
tạo cơ sở lý luận cho các nhà khoa học tự nhiên.
VD: Nước nào có kinh tế phát triển hơn thì chính trị của nước đó mạnh hơn, nước đó
có tầm ảnh hưởng đến các quốc gia khác và trong khu vực sâu sắc hơn. (Mỹ can thiệp vào
các vấn đề trên Biển Đông của Việt Nam và Trung Quốc và có tầm ảnh hưởng)
- Định nghĩa đưa lại phương pháp luận biện chứng duy vật của mối quan hệ biện chứng giữa vật
chất với ý thức. Theo đó, vật chất có trước ý thức, là nguồn gốc và quy định ý thức nên trong mọi
hoạt động cần xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng các quy luật vốn có của sự vật, hiện
tượng; đồng thời cần thấy được tính năng động, tích cực của ý thức để phát huy tính năng động
chủ quan nhưng tránh chủ quan duy ý chí mà biểu hiện là tuyệt đối hoá vai trò, tác dụng của ý
thức, cho rằng con người có thể làm được tất cả mà không cần đến sự tác động của các quy luật
khách quan, các điều kiện vật chất cần thiết.
VD: Khi khởi nghiệp mở một công ty, vốn và năng lực từ người đứng ra mở công
ty thôi là chưa đủ, cần xét đến các yếu tố khác lúc đó như xu hướng thị trường, thời cơ, nhu
cầu, khu vực… Nếu đáp ứng đúng cái thị trường đang thiếu thì cơ hội phát triển là rất mạnh.
Ngược lại, nếu công ty cho ra những sản phẩm đang phổ biến, thậm chí là dư thừa thì nguy
cơ phá sản là rất cao.
Định nghĩa của V.I. Lênin về vật chất ý nghĩa quan trọng đi với sự phát triển của chủ nghĩa
duy vật và nhận thức khoa học:
+ Chống lại tất cả các loại quan điểm của chủ nghĩa duy vật về phạm trù vật chất.
+Đấu tranh khắc phục triệt để tính chất trực quan , siêu hình, máy móc những biến tướng của
trong quan niệm về vật chất của nhà triết học sản hiện đại.Do đó định nghĩa này cũng đã giải quyết
được sự khủng khoảng trong quan điểm về vật chất của các nhà triết học khoa học theo quan điểm
của chủ nghĩa duy vật siêu hình.
+Khẳng định vật chất khách quan là vô cùng , vô tận, luôn vận động và phát triển không ngừng , nên đã
có tác động cổ vũ, động viên các nhà khoa học đi sâu nghiên cứu thế giới vật chất , tìm ra những kết cấu
mới, những thuộc tính mới những quy luật vận động của vật chất để làm phong phú thêm kho
tàng tri thức của nhân loại.
Câu 2. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về vận động và rút ra ý nghĩa của nó
đối với sự phát triển của khoa học?
1. Định nghĩa: “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn
tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất – thì bao gồm tất cả mọi sự thay
đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư
duy”
Theo quan niệm của Ăng-ghen: vận động không chỉ thuần túy là sự thay đổi vị trí trong
không gian mà là “mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ”, vận động “là một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất” nên thông qua vận
động mà các dạng cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại cụ thể của mình; vận động của vật
chất là tự thân vận động; và sự tồn tại của vật chất luôn gắn liền với vật chất.
VD: Sự di chuyển từ nơi này sang nơi khác, tăng chiều cao, sự tăng trưởng về kinh tế, sự giảm sút
trong học tập, giảm cân,…
2. Phân tích 5 hình thức cơ bản của vận động và cho ví dụ. Chỉ ra mối liên hệ biện chứng
giữa 5 hình thức vận động:
a) Vận động cơ học: sự dịch chuyển trong không gian của các vật thể. VD: di chuyển trên đường
phố khi tham gia giao thông.
b) Vận động vật lý: vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ bản, quá trình nhiệt, điện,... VD:
thanh sắt nóng sinh ra nhiệt.
c) Vận động hóa học: sự biến đổi các chất hữu cơ, vô cơ trong quá trình hóa hợp và
phân giải. VD: quá trình tạo ra nước (2H2 + O2 2H2O)
d) Vận động sinh học: sự biến đổi của các cơ thể sống, biến thái cấu trúc gen, v.v…
VD: sự hít thở, quang hợp, quá trình trao đổi chất.
e) Vận động xã hội: sự biến đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, v.v…của đời sống xã
hội. VD: xã hội loài người đi từ mông muội đến văn minh nhưng chưa có giai cấp, sau đó xuất
hiện giai cấp nhưng chưa có nhà nước, cuối cùng là hình thành nhà nước.
Các hình thức vận động nói trên được sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao tương ứng với trình độ
kết cấu của vật chất. Các hình thức vận động khác nhau về chất song chúng không tồn tại biệt lập
mà có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó: hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các
hình thức vận động thấp và bao hàm trong nó những hình thức vận động thấp hơn. Trong sự tồn tại
của mình, mỗi sự vật có thể có nhiều hình thức vận động khác nhau song bản thân nó bao giờ cũng
được đặc trưng bởi hình thức vận động cao nhất mà nó có.
3. Làm rõ đứng im là một trạng thái đặc biệt của vận động. Cho ví dụ minh họa.
Khi khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật
chất; chủ nghĩa duy vật biện chứng cũ đã khẳng định vận động là vĩnh viễn. Điều này không
có nghĩa chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận sự đứng im, cân bằng; song đứng im, cân
bằng chỉ là hiện tượng tương đối, tạm thời và thực chất đứng im, cân bằng chỉ là một trạng
thái đặc biệt của vận động.
- Đứng im là tương đối vì đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một số quan hệ nhất định chứ
không xảy ra với tất cả mọi quan hệ; đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một hình thức vận
động chứ không phải xảy ra với tất cả các hình thức vận động.
- Đứng im là tam thời vì đứng im không phải là cái tồn tại vĩnh viễn mà chỉ tồn tại trong một
thời gian nhất định, chỉ xét trong một hay một số quan hệ nhất định, ngay trong sự đứng im
vẫn diễn ra những quá trình biến đổi nhất định.
- Đứng im là trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong thế cân bằng, ổn định;
vận động chưa làm thay đổi căn bản về chất, về vị trí, hình dáng, kết cấu của sự vật.
VD: Thời bao cấp, nền kinh tế trì trệ, không phát triển, được coi như là đứng im. Nhưng chỉ
là đứng im trong hình thức vận động xã hội, trong mối quan hệ của nền kinh tế tư nhân hay
tiền tệ, chứng khoán, thị trường,… Sự đứng im của kinh tế chỉ diễn ra trong một thời kì nhất
định (1976 - 1986) tuy nhiên trong thời kì này, nội bộ nền kinh tế vẫn có những sự biến đổi:
nông nghiệp giảm nhẹ, công nghiệp và thương nghiệp có tiến triển,.. Sự tăng lên của mặt này
bù khuyết vào sự giảm đi của mặt kia khiến nền kinh tế không có sự tăng trưởng, chưa thấy
sự thay đổi nhiều.
4. Ý nghĩa của nó đối với sự phát triển của khoa học:
Bằng việc phân loại các hình thức vận động cơ bản, Ăngghen đã đặt cơ sở cho việc phân
loại, phân ngành, hợp ngành khoa học. Tư tưởng về sự thống nhất nhưng khác nhau về chất
của các hình thức vận động cơ bản còn là cơ sở để chống lại khuynh hướng đánh đồng các
hình thức vận động hoặc quy hình thức vận động này vào hình thức vận động khác trong quá
trình nhận thức.
VD: Dựa trên sự vận động của các sự vật hiện tượng, chúng ta có các ngành khoa học:
Hóa học, Vật lí học, Sinh học,…
Câu 3: Phân tích quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nguồn gốc của
ý thức và rút ra ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề này?
Ý thức là gì? Triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định, ý thức là một phạm trù triết học dùng
để chỉ toàn bộ hoạt động tinh thần phản ánh thế giới vật chất diễn ra trong não người, hình thành
trong quá trình lao động và được diễn đạt nhờ ngôn ngữ.
a. Nguồn gốc của ý thức
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức (yếu tố cần)
1) Não người là sản phẩm quá trình tiến hoá lâu dài của thế giới vật chất, từ vô cơ tới hữu cơ, chất
sống (thực vật và động vật) rồi đến con người - sinh vật - xã hội. Hoạt động ý thức của con người
diễn ra trên cơ sở hoạt động của thần kinh não bộ; bộ não càng hoàn thiện hoạt động thần kinh
càng hiệu quả, ý thức của con người càng phong phú và sâu sắc.
Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc không thôi mà không có sự tác động của thế giới bên ngoài để
bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức.
VD: Khi mới xuất hiện loài người, con người chưa có ý thức sâu sắc vì chưa có kiến thức về
thế giới tự nhiên. Trải qua các quá trình từ thời nguyên thủy đến nay, con người dần phát
triển nhờ việc quan sát tự nhiên, trong quá trình ấy, não người hoàn thiện dần, ghi lại những
kiến thức, kinh nghiệm, làm cho ý thức con người phong phú, văn minh. Từ đó, con người
làm chủ được thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ mình.
2) Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng VC này ở dạng VC khác trong quá trình tác
động qua lại lẫn nhau. Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất. Phản
ánh của vật chất có quá trình phát triển lâu dài và từ hình thức thấp lên hình thức cao, tùy thuộc
vào kết cấu của tổ chức vật chất.
VD: Sự phản ánh của quá trình nỗ lực nghiên cứu, học tập chăm chỉ là kết quả cao trong các
kì thi
Các hình thức phản ánh. a) Phản ánh của giới vô cơ (gồm phản ánh vật lý (nước đóng đá) và phản
ánh hoá học (hình thành hố vôi) ) là những phản ánh thụ động, không định hướng và không lựa
chọn.
b) Phản ánh của thực vật là tính kích thích (cây cối vươn ra ánh sáng)
c) Phản ánh của động vật đã có định hướng, lựa chọn để nhờ đó mà động vật thích
nghi với môi trường sống (ngủ đông, di cư).
Như vậy, bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc - đó là nguồn gốc tự nhiên
của ý thức.
Nguồn gốc xã hội của ý thức (yếu tố đủ)
1) Lao động là hoạt động có mục đích, có tính lịch sử - xã hội của con người nhằm tạo ra của
cải để tồn tại và phát triển. Lao động làm cho ý thức không ngừng phát triển (bằng cách tích
lũy kinh nghiệm), tạo cơ sở cho con người nhận thức những tính chất mới (được suy ra từ
những kinh nghiệm đã có) của giới tự nhiên; dẫn đến năng lực tư duy trừu tượng, khả năng
phán đoán, suy luận dần được hình thành và phát triển.
VD: Kinh nghiệm trồng trọt: Khoai đất lạ, mạ đất quen; kinh nghiệm về thiên nhiên: Ráng
mỡ gà có nhà thì giữ, Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng/Ngày tháng mười chưa cười đã tối.
2) Ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết). Trong quá trình lao động con người liên kết với nhau, tạo
thành các mối quan hệ xã hội tất yếu, dẫn đến nhu cầu cần thiết “phải trao đổi với nhau điều
gì đấy” nên ngôn ngữ xuất hiện. Ngôn ngữ trở thành “cái vỏ vật chất của ý thức”. Nhờ ngôn
ngữ, con người khái quát hoá, trừu tượng hoá những kinh nghiệm để truyền lại cho nhau.
Ngôn ngữ là sản phẩm của lao động, lại thúc đẩy lao động phát triển.
VD: Ghi lại các giai đoạn, diễn biến lịch sử thông qua các tư liệu, câu chuyện lịch sử,…
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của
ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội.
Câu 4. Bản chất của ý thức
Bản chất của ý thức thể hiện ở sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ não
người; là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan.
Ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan bởi hình ảnh ấy tuy bị thế giới khách quan quy
định cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện; nhưng thế giới ấy không còn y nguyên như nó vốn có,
mà đã bị cái chủ quan của con người cải biến thông qua tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, nhu cầu
v.v… Có thể nói, ý thức phản ánh hiện thực, còn ngôn ngữ thì diễn đạt hiện thực và nói lên tư
tưởng. Các tư tưởng đó được tín hiệu hoá trong một dạng cụ thể của vật chất - là ngôn ngữ- cái mà
con người có thể cảm giác được. Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và tồn tại
được. VD: Mọi lí thuyết chỉ là màu xám, chỉ có cây đời là mãi mãi xanh tươi.
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo, thể hiện ở chỗ, ý thức phản ánh thế giới có chọn lọc -
tùy thuộc vào mục đích của chủ thể nhận thức. Sự phản ánh đó nhằm nắm bắt bản chất, quy luật
vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng; khả năng vượt trước (dự báo) của ý thức tạo nên sự
lường trước những tình huống sẽ gây tác động tốt, xấu lên kết quả của hoạt động mà con người
đang hướng tới. Có dự báo đó, con người điều chỉnh chương trình của mình sao cho phù hợp với
dự kiến xu hướng phát triển của sự vật, hiện tượng (dự báo thời tiết, khí hậu…); xây dựng các mô
hình lý tưởng, đề ra phương pháp thực hiện phù hợp nhằm đạt kết quả tối ưu. Như vậy, ý thức
không chỉ phản ánh thế giới khách quan, mà còn tạo ra thế giới khách quan.
VD: Con người sử dụng máy móc thay cho sức kéo, thể hiện sự năng động trong việc đáp ứng
những nhu cầu thực tiễn, hay những nhà tiên tri dự báo trước về tương lai thể hiện sự
sáng tạo.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn liền
với hoạt động thực tiễn; chịu sự chi phối của các quy luật sinh học và các quy luật xã hội; do nhu
cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động
của mình, ý thức sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của bản thân và thực tiễn xã hội. Ở các thời
đại khác nhau, thậm chí ở cùng một thời đại, sự phản ánh (ý thức) về cùng một sự vật, hiện tượng
có sự khác nhau - theo các điều kiện vật chất và tinh thần mà chủ thể nhận thức phụ thuộc.
VD: Ý thức pháp luật nảy sinh từ việc giải quyết các hiện tượng xã hội, gìn giữ xã hội phát
triển. Mỗi thời đại, pháp luật lại có những quy định khác nhau, thể hiện sự phát triển của xã hội
(Thời kì bao cấp: tem phiếu, sau Đổi mới: tự do buôn bán)
Quá trình ý thức gồm các giai đoạn:
1) Trao đổi thông tin hai chiều giữa chủ thể với khách thể phản ánh; định hướng và chọn lọc các
thông tin cần thiết.
2) Mô hình hoá đối tượng trong tư duy ở dạng hình ảnh tinh thần, tức là sáng tạo lại khách thể
phản ánh theo cách mã hoá sự vật, hiện tượng vật chất thành ý tưởng tinh thần phi vật chất.
3) Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực, tức là quá trình hiện thực hoá tư tưởng.
Con người lựa chọn phương pháp, công cụ tác động vào hiện thực khách quan để thực hiện
mục đích.
VD: Giải 1 bài toán: đọc đề, nắm lấy số liệu cần thiết và yêu cầu đề bài -> suy nghĩ
cách làm, hình dung đề bài theo ý hiểu của mình -> tiến hành giải bài toán, biến suy nghĩ
thành kết quả.
- Vai trò của ý thức trong đời sống xã hội:
Tác động của ý thức xã hội đối với con ngừi là vô cùng to lớn. Nó không những là kim chỉ nam cho
hoạt động thực tiễn mà còn là động lực thực tiễn. Sự thành công hay thất bại của thực tiễn, tác động tích
cực hay tiêu cực của ý thức đối với sự phát triển của tự nhiên, xã hội chủ yếu phụ thuộc vào vai trò chỉ
đạo của ý thức mà biểu hiện ra là vãi trò của khoa học văn hoá và tư tưởng.
- Vai trò của ý thức đối với bản thân sinh viên
Đối với mỗi con người chúng ta đặc biệt sinh viên nên quan tâm đến việc phát huy vai trò của
bản thân, đóng góp năng lực, trí tuệ, lao động cho hội, cống hiến hết mình cho xứng đáng con
người của công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước giàu mạnh.
Câu 5. Kết cấu của ý thức:
- Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận thức, là sự tái tạo
lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại ngôn ngữ.
Mọi hoạt động của con người đều có tri thức, được tri thức định hướng. Mọi biểu hiện của ý thức
đều chứa đựng nội dung tri thức. Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức và là điều kiện để ý
thức phát triển. Theo Mác: “phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì đó tồn tại
đối với ý thức là tri thức”.
Căn cứ vào lĩnh vực nhận thức, tri thức có thể chia thành nhiều loại như tri thức về tự nhiên, tri
thức về xã hội, tri thức nhân văn. Căn cứ vào trình độ phát triển của nhận thức, tri thức có thể chia
thành tri thức đời thường và tri thức khoa học, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri thức cảm
tính và tri thức lý tính,…
VD: Các kiến thức về tự nhiên: các loài động vật, thực vật, các hiện tượng tự nhiên,…
Các kiến thức về xã hội: thể chế chính trị, giai cấp,…
Các kiến thức về nhân văn: sự sẻ chia, thương người như thể thương thân,…
- Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ con người trong các quan hệ. Tình cảm là một
hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự khái quát những cảm xúc cụ
thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại cảnh. Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi
lĩnh vực đời sống của con người; là một yếu tố phát huy sức mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt
động nhận thức và thực tiễn. Lênin cho rằng: không có tình cảm thì “xưa nay không có và không
thể có sự tìm tòi chân lý”; không có tình cảm thì không có một yếu tố thôi thúc những người vô
sản và nửa vô sản, những công nhân và nông dân nghèo đi theo cách mạng.
Tùy vào từng đối tượng nhận thức và sự rung động của con người về đối tượng đó trong các quan
hệ mà hình thành nên các loại tình cảm khác nhau, như tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ, tình
cảm tôn giáo,…
VD: lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần đoàn kết một lòng giúp nhân dân và quân đội Việt Nam
chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mĩ.
- Ý chí là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở trong quá trình thực
hiện mục đích của con người. Ý chí được coi là mặt năng động của ý thức, một biểu hiện của ý
thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự giác được mục đích của hoạt động nên tự đấu tranh với
mình để thực hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn. có thể coi ý chí là quyền lực của con người đối
với mình; nó điều khiển, điều chỉnh hành vi để con người hướng đến mục đích một cách tự giác;
cho phép con người tự kìm chế, tự làm chủ bản thân và quyết đoán trong hành động theo quan
điểm và niềm tin của mình. Giá trị chân chính của ý chí không chỉ thể hiện ở cường độ mạnh hay
yếu mà chủ yếu thể hiện ở nội dung, ý nghĩa của mục đích mà ý chí hướng đến. Lênin cho rằng: ý
chí là một trong những yếu tố tạo nên sự nghiệp cách mạng của hàng triệu người trong cuộc đấu
tranh giai cấp quyết liệt nhằm giải phóng mình, giải phóng nhân loại.
VD: Dù gặp vô vàn thiếu thốn, khó khăn về vật chất trong suốt giai đoạn kháng chiến
nhưng ý chí chiến đấu và chiến thắng đã thôi thúc quân và dân ta vượt qua trở ngại, tiến đến
thắng lợi.
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau song tri thức
là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân tố định hướng
đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác.
d. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Phải khách quan trong nhận thức và hành động; nhận thức và hành động phải xuất
phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Không xuất phát từ ý muốn
chủ quan, lấy ý muốn chủ quan làm cơ sở định ra chính sách, lấy ý chí áp đặt cho thực tế.
VD: Khi chỉnh sửa và ban hành các bộ luật, chính sách pháp luật phải dựa trên hiện thực
cuộc sống theo thời đại. Sau chiến tranh, cuộc sống còn nhiều khó khăn, thiệt hại về người
và của vô cùng lớn nên chưa thể bắt người dân xây dựng kinh tế mà phải làm lành các vết
thương chiến tranh cả về vật chất lần tinh thần cho nhân dân trước.
- Phát huy tính năng động chủ quan, sáng tạo của ý thức, phát huy nhân tố con người:
giáo dục nâng cao trình độ tri thức khoa học cho nhân dân, cán bộ, đảng viên; bồi dưỡng
nhiệt tình cách mạng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên; vận dụng đúng
đắn các quan hệ lợi ích, động cơ trong sáng, thái độ khách quan khoa học không vụ lợi;
chống thụ động, ỷ lại, bảo thủ, trì trệ. VD: Muốn thay đổi tình hình giao thông, phải xuất
phát từ ý thức người dân nên việc tuyên truyền và nâng cao dân trí về tham gia giao thông là
cần thiết.
- Khắc phục, ngăn chặn bệnh chủ quan, duy ý chí: khuynh hướng tuyệt đối hoá của
nhân tố chủ quan, của ý chí, xa rời hiện thực, bất chấp quy luật khách quan, lấy nhiệt tình
thay cho sự yếu kém của tri thức; bệnh chủ quan duy ý chí là lối suy nghĩ hành động giản
đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan; định ra chủ trương chính sách xa rời hiện
thực khách quan; phải đổi mới tư duy lý luận, nâng cao năng lực trí tuệ của toàn Đảng.
Đại hội VII Đảng ta khảng định: Mọi đường lối của Đảng phải xuất phát từ thực tế,
tôn trọng và hành động đúng theo quy luật khách quan.
Câu 6. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức?
1. Định nghĩa vật chất? Ý thức là gì? Cho ví dụ?
2. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức:
-Xuất phát từ quan điểm cho rằng vật chất có trước quyết định ý thức, ý thức, tinh thần là cái
có sau, cái phụ thuộc vật chất. Vì vậy, toàn bộ hoạt động tinh thần của con người xét cho
cùng đều là sự phản ánh hiện thực khách quan vao trong bộ não người và bị quy định bởi
hoạt động thực tiễn của xã hội.
Ví dụ: nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của các học thuyết chính trị, pháp
quyền, đạo đức nào đó, thì chúng ta phải căn cứ vào những điều kiện kinh tế - xã hội tương
ứng của nó trên cơ sở quan điểm lịch sử cụ thể.
Có thực mới vực được đạo, Phú quý sinh lễ nghĩa
- Mọi sự biến đổi của nhân tố vật chất tất yếu dẫn đến sự thay đổi của ý thức, của nhân tố tinh
thần. Trong hoạt động tinh thần của con người nói chung, kể cả ý thức cá nhân hay ý thức xã
hội hoặc đường lối chủ trương chính sách của một nhà nước hay sự phát triển của khoa học
cũng dựa trên cơ sở hiện thực khách quan, thì mới có thể làm cho khả năng khách quan trở
thành hiện thực. Điều đó, cũng sẽ đúng nếu như chúng ta cho rằng đường lối phát triển kinh
tế - xã hội của một chính đảng, một nhà nước đều phụ thuộc vào điều kiện khách quan nhất
định.
VD: Nhu cầu phục vụ cuộc sống khiến công nghệ khoa học phát triển: máy hơi nước ra đời
thay thế sức kéo khi con người không muốn phải xách nước xa và nặng, điện thoại di động ra
đời thay thế thư từ truyền thống khi nhu cầu liên lạc của con người tăng lên,…
- Tự thân nó, ý thức tư tưởng của con người không thể thực hiện được sự biến đổi nào trong
hiện thực, nếu nó không thông qua các nhân tố vật chất. C.Mác từng nhấn mạnh rằng: chỉ có
lực lượng vật chất đánh bại bởi một lực lượng vật chất. Vì vậy, mọi sự biến đổi của đời sống
xã hội, xét cho cùng đều phụ thuộc vật chất, nhân tố vật chất.
VD: Điều kiện sống thay đổi thì ý thức thay đổi: Ngày xưa người con gái phải tam tòng tứ
đức, công dung ngôn hạnh, xã hội trọng nam khinh nữ, ngày nay giữa nam và nữ đã có sự
bình đẳng.
Tính độc lập tương đối của ý thức:
- Xuất phát từ quan điểm cho rằng ý thức là tính thứ hai phụ thuộc vào vật chất và con
người
có khả năng nhận thức được hiện thực khách quan. Sự phản ánh của ý thức về hiện thực khách
quan, không phải là sự phản ánh thụ động, đơn giản mà nó có tính năng động và sáng tạo. Vì vậy,
ý thức, nhân tố tinh thần có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định mục đích, phương pháp hoạt
động nói chung của con người. VD: Trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, luôn có
những bài thơ, bài hát khích lệ, cổ vũ tinh thần chiến đấu cho nhân dân, củng cố niềm tin chiến
thắng để nhân dân vững lòng chiến đấu. Đó chính là một trong những nhân tố tạo nên chiến thắng.
- Trong các nhân tố tinh thần, sự phát triển của khoa học có tính vượt trước tồn tại xã hội, khẳng
định vai trò của khoa học đối với sự phát triển của xã hội. Theo C.Mác: một khi lý luận xâm nhập
vào hoạt động của quần chúng sẽ trở thành lực lượng vật chất trực tiếp. Về vấn đề này, V.I.Lênin
cũng đã nhấn mạnh: không có lý luận cách mạng sẽ không có phong trào cách mạng. VD: Tất cả
các vị tướng, những người cầm đầu, nhà lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa đều có cơ sở và lí luận cách
mạng trước khi làm cách mạng hay mở ra cuộc khởi nghĩa mới: bác Hồ tìm hiểu về Cách mạng
Nga và các nước châu Âu.
- Trong những điều kiện khách quan nhất định, ý thức của con người có thể giữ vai trò quyết định
đến kết quả của hoạt động thực tiễn. Điều này có nghĩa là ý thức, tư tưởng của con người với sự
nhận biết đúng đắn và ý chí của mình, con nguời có thể phát huy được năng lực tối ưu của các
nhân tố vật chất và nhân tố tinh thần trong những điều kiện khách quan nhất định để đạt được kết
quả cao nhất trong hoạt động thực tiễn. VD: Hẳn trong chúng ta cũng thường đặt ra những câu hỏi
là tại sao trong những điều kiện khách quan nhất định nào đó mà ranh giới giữa cái chết và cái
sống… có những con người có thể vượt lên chính mình bằng sức mạnh của lý trí, của niềm tin với
nghị lực và bản lĩnh để làm một việc gì đó mà mọi người cho là không tưởng, nhưng lại thành
công. Nhưng xét về quá trình lâu dài thì nhân tố vật chất bao gìơ cũng giữ vai trò quyết định đối
với nhân tố tinh thần.
- Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. Nhờ có ý thức con người nhận thức được quy luật vận động, phát
triển của thế giới khách quan.
Ý thức tác động lại vật chất theo hai chiều hướng:
+ Tích cực: ý thức có thể trở thành động lực phát triển của vật chất. VD: Tư tưởng khoán 10 của
Bí thư Nguyên Ngọc tỉnh Vĩnh Phú, thơ văn thời kháng chiến chống Pháp-Mĩ,...
+ Tiêu cực: Ý thức có thể là lực cản phá vỡ sự vận động và phát triển của vật chất khi ý thức phản
ánh sai, phản ánh xuyên tạc các quy luật vận động khách quan của vật chất. VD:
Tư tưởng trọng nam khinh nữ, Hợp tác xã trước 1986 của Đảng,...
Câu 7. Ý nghĩa phương pháp luận và liên hệ thực tiễn hiện nay ở Việt Nam
- Ý nghĩa phương pháp luận :Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức phải bảo đảm nguyên tắc tính
khách quan trong sự xem xét. Đây là nguyên tắc cơ bản của phương pháp nhận thức biện chứng
duy vật. Nguyên tắc này đòi hỏi xem xét các sự vật, hiện tượng không xuất phát từ ý muốn chủ
quan, mà phải xuất phát từ đối tượng trên cơ sở hiện thực khách quan vốn có để phản ánh đúng
đắn và xây dựng mô hình lý luận phù hợp với đối tượng. Nguyên tắc tính khách quan của sự xem
xét là hệ quả tất yếu của quan điểm duy vật mácxít, khi giải quyết mối quan hệ giữa vật chất - ý
thức, giữa khách quan - chủ quan.
Thứ hai, phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức phát huy nhân tố con người.
Nguyên tác tính khách quan không những không bài trừ, mà trái lại còn đòi hỏi phải phát huy tính
năng động, sáng tạo của ý thức. Tính năng động và sáng tạo của ý thức được thể hiện ngay từ khi
con người xác định đối tượng, mục tiêu, phương hướng hoạt động cũng như việc lựa chọn cách
thức, phương pháp thực hiện mục tiêu.
Thứ ba, trong hoạt động thực tiễn phải giải quyết đúng đắn giữa nhân tố khách quan và nhân tố
chủ quan. Bởi vì, nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong hoạt động thực tiễn, xét
cho cùng là giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa đời sống vật chất, nhân tố vật chất và đời sống
tinh thần, nhân tố tinh thần. Trong mối quan hệ biện chứng đó đời sống vật chất, nhân tố vật chất
giữ vai trò quyết định; ngược lại đời sống tinh thần, nhân tố tinh thần có tính năng động và sáng
tạo.
- Liên hệ thực thực tiễn hiện nay ở Việt Nam.
Từ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và từ kinh nghiệm thành công, thất bại trong quá trình lãnh
đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra bài học quan trọng là:
“Mọi chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng qui luật hiện thực khách quan”.
Nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta trong nhận thức và hành động phải xuất phát từ bản thân sự vật,
từ hiện thực khách quan, phản ánh sự vật đúng với những gì vốn có của nó, không lấy ý muốn chủ
quan của mình làm chính sách, không lấy ý chí chủ quan áp đặt cho thực tế, phải tôn trọng sự thật,
tránh thái độ chủ quan nóng vội, phiến diện, định kiến… Yêu cầu của nguyên tác tính khách quan
còn đòi hỏi phải tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Đảng chủ trương:
“Huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước, đ8ạ biệt là nguồn lực của dân
vào công cuộc phát triển đất nước”. Đó là chính sách chiến lược về con người, về phát triển giáo
dục và đào tạo...
Vì vậy, phải “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng phát huy sức mạnh toàn dân
tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển,
thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.
Câu 8. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
a. Khái niệm mối liên hệ; mối liên hệ phổ biến
Mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật hiện
tượng hay giữa các mặt của một sự vật, một hiện tượng trong thế giới.
VD: Trồng cây xanh thì con người có không khí sạch để thở.
MLH phổ biến là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật và hiện
tượng của thế giới. VD: Trong tư duy con người có những mối liên hệ giữa kiến thức cũ và kiến
thức mới; cây tơ hồng, cây tầm gửi sống nhờ; nếu chung mục đích thì phải chung tay với nhau.
b. Tính chất của các mối liên hệ phổ biến
Tính khách quan. Các mối liên hệ thể hiện mình trong sự tác động giữa các sự vật, hiện tượng vật
chất với nhau, giữa sự vật, hiện tượng với cái tinh thần, giữa những hiện tượng tinh thần với nhau,
như mối liên hệ và tác động giữa các hình thức của quá trình nhận thức. Các mối liên hệ, tác động
đó đều là sự phản ánh mối liên hệ lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan.
VD: Mối liên hệ cây xanh – cơ thể sống con người, “Oan gia ngõ hẹp”
Tính phổ biến. Mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hoá lẫn nhau không những diễn ra ở mọi sự
vật, hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội, trong tư duy, mà còn diễn ra đối với các mặt, các yếu
tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng. VD: gói hút ẩm trong các gói bánh có MLH với môi
trường bên ngoài; hiện tượng hô hấp của loài ếch trên cạn và dưới nước.
Tính đa dạng, phong phú. Có rất nhiều kiểu MLH. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
khái quát được toàn cảnh thế giới trong những mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện
tượng của nó. Tính vô hạn của thế giới khách quan; tính có hạn của sự vật, hiện tượng trong
thế giới đó chỉ có thể giải thích được trong mối liên hệ phổ biến, được quy định bằng nhiều
mối liên hệ có hình thức, vai trò khác nhau. VD: Cô A vừa là mẹ trong MLH gia đình, là giáo
viên trong MLH công việc, là người cùng câu lạc bộ trong MLH xã hội,...
Câu 9. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lí mỗi liên hệ phổ biến
Nguyên tắc toàn diện yêu cầu xem xét sự vật hiện tượng:
1) trong chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính cùng các
mối liên hệ của chúng.
2) trong mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác và với môi trường
xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp.
3) trong không gian, thời gian nhất định, nghĩa là phải nghiên cứu quá trình vận động
của sự vật, hiện tượng trong quá khứ, hiện tại và phán đoán cả tương lai của nó.
Nguyên tắc toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện chỉ thấy mặt này mà không
thấy các mặt khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét tràn lan, dàn đều, không thấy
mặt bản chất của sự vật, hiện tượng rơi vào thuật nguỵ biện (cố ý đánh tráo các mối liên hệ
cơ bản thành không cơ bản hoặc ngược lại) và chủ nghĩa chiết trung (lắp ghép vô nguyên tắc
các mối liên hệ trái ngược nhau vào một mối liên hệ phổ biến).
VD: Để đánh giá phẩm chất năng lực của một con người ta cần xem xét người đó
trong mọi MQH khác nhau, trong các hoàn cảnh tình huống khác nhau, trong sự thay đổi của
cả một quá trình. Công dân A từng đi tù vì trộm cắp tài sản, mọi người cho là người không
đàng hoàng, có nhiều chỉ trích định kiến về A nhưng sau khi ra tù, A đã thay đổi, ta cần có cái
nhìn khác. A biết yêu thương gia đình, tử tế giúp đỡ mọi người xung quanh, làm ăn lương
thiện,...
Nguyên tắc lịch sử-cụ thể yêu cầu xem xét sự vật, hiện tượng trong những mối liên hệ
cụ thể, có tính đến lịch sử hình thành, tồn tại, dự báo xu hướng phát triển của sự vật hiện
tượng. Cơ sở lý luận của nguyên tắc này là không gian, thời gian với vận động của vật chất,
là quan niệm chân lý là cụ thể và chính nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
VD: Khi TGGT, đèn đỏ phải dừng lại nhưng khi đi cấp cứu, CSGT phải cho ta đi;
kinh tế nước ta thời kì trước Đổi mới là lạc hậu, yếu kém nhưng đặt trong hoàn cảnh lịch sử
lúc bấy giờ: vừa bước ra khỏi chiến tranh, thiệt hại về người và của thì phương thức kinh tế
ấy là hợp lí, chưa thể ép người dân làm kinh tế chủ nghĩa hay kinh tế tư bản,...
Câu 10. Nguyên lý về sự phát triển
a. Khái niệm phát triển
Trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến thống nhất hữu cơ với nguyên
lý về sự phát triển, bởi liên hệ cũng là vận động, không có vận động sẽ không có sự phát triển nào.
Phát triển xuất hiện trong quá trình giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật, hiện
tượng; là sự thống nhất giữa phủ định những yếu tố không còn phù hợp và kế thừa có chọn lọc, cải
tạo cho phù hợp của sự vật, hiện tượng cũ trong sự vật, hiện tượng mới.
Khái niệm PT: quá trình vận động tiến lên của sự vật hiện tượng theo chiều từ thấp đến cao từ đơn
giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
VD: Sự phát triển của nhận thức do quá trình đấu tranh giữa cái đã biết và cái chưa biết của con
người về TGKQ.
Quá trình đó vừa diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt làm cho sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện
tượng mới về chất ra đời. Nguồn gốc của sự phát triển nằm ở mâu thuẫn bên trong của sự vật, hiện
tượng; động lực của sự phát triển là việc giải quyết mâu thuẫn đó.
b. Tính chất của sự phát triển.
1) Tính khách quan. : Nguồn gốc của sự phát triển do mâu thuẫn của sự vật, là quá trình tự thân,
độc lập với ý thức con người. VD: Sự phát triển của xã hội loài người: Công xã nguyên thủy ->
Chiếm hữu nô lệ -> Phong kiến -> Tư bản -> Xã hội chủ nghĩa => Xã hội đi lên dần dần, con
người không thể quay về được dù có muốn hay không.
2) Tính phổ biến. Sự phát triển diễn ra trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
VD: Tự nhiên: sự thích nghi của động vật dưới nước khi tự nhiên thay đổi.
Xã hội: sự thay thế của các nền văn minh: VMNN -> VNCN -> VM tri thức.
Tư duy: năng lực nhận thức của con người về TGTN ngày càng sâu sắc.
3) Tính kế thừa. Cái mới ra đời từ sự phủ định có tính kế thừa cái cũ; cái mới còn giữ lại, có
chọn lọc và cải tạo những mặt còn thích hợp của cái cũ.
VD: Nền văn hóa VN hiện đại có sự thay đổi từng ngày, du nhập thêm những nét văn
hóa mới (haloween, valentine, noel,... ) nhưng vẫn gìn giữ nét văn hóa truyền thống
(ca trù, quan họ, tục ăn trầu,... )
4) Tính đa dạng, phong phú. Sự phát triển còn phụ thuộc vào không gian và thời gian, vào các
yếu tố, điều kiện tác động lên sự phát triển đó.
VD: Cách mạng VN những năm 1930 – 1975 có bước tiến nhưng 1933 – 1935 thì đi
xuống. Tuy nhiên tất cả đều dẫn đến thành công.
Câu 11. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lí về sự phát triển với hoạt động
nhận thức và thực tiễn
(Thực tiễn) Nguyên tắc phát triển yêu cầu:
1) Đặt sự vật, hiện tượng trong sự vận động; phát hiện được các xu hướng biến đổi,
phát triển của nó để không chỉ nhận thức sự vật, hiện tượng ở trạng thái hiện tại, mà còn dự
báo được khuynh hướng phát triển của nó. VD: Dự báo thời tiết, dự báo giá vàng,...
2) Nhận thức sự phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát triển có
những đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm ra những hình thức, phương
pháp tác động phù hợp để hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển đó.
VD: Việt Nam luôn kịp thời đưa ra những chính sách phát triển khác nhau ở mỗi thời
kì để thúc đẩy mọi mặt phát triển, đồng thời, khắc phục và hạn chế cái yếu kém.
3) Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải nhạy cảm, sớm phát hiện và
ủng hộ sự vật, hiện tượng mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho nó phát triển; phải chống lại
quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến v.v bởi nhiều khi sự vật, hiện tượng mới thất bại tạm
thời, tạo nên con đường phát triển quanh co, phức tạp.
VD: Chủ trương làm cách mạng của Phan Bội Châu có điểm yếu kém, khiến cách
mạng không thành công, Bác Hồ đã nhìn nhận ra và thay đổi.
4) Trong quá trình thay thế sự vật, hiện tượng cũ bằng sự vật, hiện tượng mới phải biết
kế thừa những yếu tố tích cực đã đạt được từ cái cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều
kiện mới. VD: Thời trang áo dài cách tân.
(Nhận thức) Phát triển là nguyên tắc chung nhất chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn; nguyên tắc này giúp chúng ta nhận thức được rằng: muốn nắm được bản chất
của sự vật, hiện tượng, nắm được khuynh hướng phát triển của chúng thì phải xét sự vật
trong sự phát triển, trong sự tự vận động trong sự biến đổi của nó.
Câu 12: Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng? Ý nghĩa phương
pháp luận của việc nắm vững mối quan hệ này trong nhận thức và hoạt động thực tiễn?
1. Các khái niệm
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những mối
quan hệ giống nhau ở nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ.
VD: Người dân Việt Nam đều sử dụng tiếng nói và chữ viết tiếng Việt.
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình
riêng lẻ nhất định. VD: Mỗi vùng khác nhau ở Việt Nam có một cách nói, cách phát âm khác
nhau hay cách gọi tên các sự vật hiện tượng khác nhau. Miền Bắc – bố, miền Trung – tía,
miền Nam – ba.
Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính… chỉ có
ở một sự vật, một kết cấu vật chất. Những mặt, những thuộc tính ấy không được lặp lại ở bất
kỳ sự vật, hiện tượng hay kết cấu vật chất nào khác. VD: Chỉ có Hà Nội có Hồ Gươm.
2. Mối quan hệ biện chứng
Phép biện chứng duy vật cho rằng, cái riêng và cái chung đều tồn tại khách quan và
giữa chúng có sự thống nhất biện chứng. Cụ thể:
1. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Điều đó có nghĩa là không có cái
chung thuần tuý, trừu tượng tồn tại bên ngoài cái riêng.
VD: Thuộc tính cơ bản của vật chất là vận động. Vận động lại tồn tại dưới các hình thức
riêng biệt như vận động vậy lý, vận động hoá học, vận động xã hội v.v..
2. Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Điều đó có nghĩa là không có cái riêng
độc lập thuần tuý không có cái chung với những cái riêng khác.
VD: Các chế độ riêng biệt đều bị chi phối với các quy luật chung của xã kinh tế – chính trị
hội như quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất.
3. Cái chung là bộ phận của cái riêng, còn cái riêng không gia nhập hết vào cái chung. Cái riêng
phong phú hơn cái chung, vì ngoài những đặc điểm gia nhập vào cái chung, cái riêng còn có
những đặc điểm riêng biệt mà chỉ riêng nó có. Cái chung là cái sâu sắc hơn cái riêng bởi vì nó
phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ bên trong, tất nhiên, ổn định, phổ biến
tồn tại trong cái riêng cùng loại.
VD: Người nông dân Việt Nam ngoài đặc điểm chung giống với những người nông dân trên
thế giới là tư hữu nhỏ, sản xuất lẻ tẻ, sống ở nông thôn, còn có những đặc điểm riêng là chịu
ảnh hưởng của làng xã, có tập quán lâu đời, mỗi vùng miền lại có những đặc điểm khác
nhau. Cái chung sâu sắc hơn vì dù ở đâu, nông dân Việt Nam cũng đều cần cù lao động, chịu
thương chịu khó.
4. Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá lẫn nhau; có thể coi đây là sự chuyển hoá giữa hai
mặt đối lập. Sự chuyển hoá giữa cái đơn nhất và cái chung diễn ra theo hai hướng: cái đơn nhất
biến thành cái chung, làm sự vật phát triển và ngược lại, cái chung biến thành cái
đơn nhất làm cho sự vật dần dần mất đi.
VD: Một sáng kiến của một anh hùng lúc đầu là cái đơn nhất được nhiều người học tập trở
thành cái phổ biến; Khoán sản phẩm tới người lao động lúc đầu chỉ ở một vài tỉnh sau trở
thành cái phổ biến; Vận động cơ chế thị trường ở Việt Nam lúc đầu mới là tư tưởng chỉ đạo
thực hiện ở một số ngành kinh tế - sau trở thành chung.
3. Ý nghĩa:
– Cái chung chỉ tồn tại thông qua cái riêng. Chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng chứ không thể
ở ngoài cái riêng.
– Bất cứ cái chung nào khi áp dụng vào từng trường hợp riêng cũng cần được cá biệt hoá. Nếu
đem áp dụng nguyên xi cái chung, tuyệt đối hoá cái chung dễ dẫn đến sai lầm tả khuynh giáo điều.
VD: Tập thể dục 30 phút mỗi ngày được cho là tốt nhưng đối với những người thể lực yếu hay
khuyết tật, ... thì nên có những lộ trình tập luyện khác phù hợp với thể chất họ.
Nếu xem thường cái chung, chỉ chú ý đến cái đơn nhất dễ dẫn đến sai lầm hữu khuynh
xét lạ – Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định cái đơn nhất
có thể biến thành cái chung và ngược lại cái chung có thể biến thành cái đơn nhất. Trong
hoạt động thực tiễn cần tạo điều kiện thuận lợi cho cái đơn nhất chuyển thành cái chung nếu
cái đơn nhất có lợi cho con người. Và ngược lại biến cái chung thành cái đơn nhất nếu cái
chung tồn tại bất lợi cho con người
4. Hoạt động thực tiễn
Vân dụng cặp phạm trù này vào trong quá trình nhận thức và đánh giá các sự vật hiện
tượng một cách khách quan và khoa học
Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu hiện sự tồn tại của
mình; cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung, bất cứ cái riêng nào cũng bao
hàm cái chung nên trong hoạt động thực tiễn không nên nhấn mạnh, tuyệt đối hóa cái chung,
phủ nhận cái riêng.
Để phát hiện ra cái chung, quy luật chung chúng ta phải xuất phát từ cái riêng, phải
xuất phát từ việc phân tích các sự vật, hiện tượng riêng lẻ. Cái chung sau khi đã được rút ra
từ cái riêng, khi đem áp dụng vào cái riêng lại phải căn cứ vào đặc điểm của cái riêng để làm
cho nó phù hợp.
Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối cái riêng. Cái riêng là cái phong phú
hơn cái chung, cho nên trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn phải căn cứ vào cái
chung sâu sắc làm cơ sở, đồng thời chú ý đến cái riêng phong phú để bổ sung cho nó hoàn
thiện.
Trong những điều kiện nhất định cái đơn nhất có thể chuyển hóa thành cái chung và
ngược lại. Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn muốn xác định được đâu là cái chung đâu là cái
đơn nhất phải đặt nó trong một quan hệ xác định. Có thể và cần phải tạo điều kiện thuận lợi
để cái đơn nhất có lợi cho con người trở thành cái chung và cái chung bất lợi trở thành cái
đơn nhất.
VD1: Muốn nhận thức được một quy luật phát triển nào đó của nền sản xuất của một
nước nào đó phải nghiên cứu phân tích so sánh quá tình sản xuất thực tế ở một giai đoạn
khác nhau, ở những khu vực khác nhau mới tìm ra được mối liên hệ chung.
VD2: Xem xét một phong trào nào đó của một đơn vị nào đó phải xem xét tinh thần
thi đua đó ở từng tổ, từng người sau đó liên hệ lại với nhau, từ đó rút ra những quy định
chung để phát huy tối đa tinh thần cạnh tranh thi đua và giảm thiểu tối đa những hạn chế.
Câu 13. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả? Ý nghĩa phương
pháp luận của việc nắm vững mối quan hệ này trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn?
1. Các khái niệm
Nguyên nhân là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt
trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra một sự biến đổi nhất định.
Kết quả là phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn
nhau của các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
VD: Trời mưa là nguyên nhân, sinh ra kết quả là đường trơn và ướt.
– Khác với nguyên nhân, nguyên cớ cũng là một sự kiện nào đó trực tiếp xảy ra trước kết quả,
nhưng không sinh ra kết quả, có liên hệ với kết quả nhưng là mối liên hệ bên ngoài không bản
chất.
VD: “Sự kiện Vinh Bắc Bộ”, vào tháng 8/1964, từ đó Mỹ ném bom miền Bắc là
nguyên cơ, còn nguyên nhân thực sự là do bản chất xâm lược của đế quốc Mỹ.
– Điều kiện là tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc vào nguyên nhân, nhưng có tác
dụng đối với sự nảy sinh kết quả.
VD: Nhiệt độ, áp suất, chất xúc tác là những điều kiện không thể thiếu của một số
phản ứng hoá học.
2. Mối quan hệ biện chứng
1. Nguyên nhân sinh ra kết quả, vì vậy nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả. Còn kết quả
bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân. Chỉ những mối liên hệ trước sau về mặt thời gian
có quan hệ sản sinh mới là mối liên hệ nhân quả.
VD: + Không có lửa làm sao có khói.
+ Cuộc đấu tranh giai cấp vô sản mâu thuẫn giai cấp tư sản (là nguyên nhân bao giờ cũng có
trước để dẫn đến cuộc cách mạng vô sản với tính chất là kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau)
+ Sự biến đổi của mầm mống trong hạt lúa bao giờ cũng phải xuất hiện trước còn cây lúa là
kết quả nó xuất hiện sau.
+ Bão (nguyên nhân) xuất hiện trước, sự thiệt hại của hoa màu, mùa màng do bão gây ra thì
phải xuất hiện sau.
+ Người bị ô tô chèn chết đấy là kết quả xấu nhất nguyên nhân của nó là do việc thực hiện
luật lệ giao thông không đúng (không nghiêm chỉnh thực hiện luật lệ giao thông).
2. Trong hiện thực, mối liên hệ nhân quả biểu hiện rất phức tạp: một kết quả có thể do nhiều
nguyên nhân và một số nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả.
– Nếu các nguyên nhân tác động cùng chiều thì có xu hướng dẫn đến kết quả nhanh hơn.
– Nếu các nguyên nhân tác động ngược chiều thì làm cho tiến trình hình thành kết quả chậm
hơn, thậm chí triệt tiêu tác dụng của nhau.
VD: + Công cuộc cách mạng của chúng ta thắng lợi, giải phóng miền nam thống nhất đất
nước nó là kết quả của nhiều nguyên nhân: dân tộc ta “thà quyết hy sinh tất cả chứ không
chịu mất nước, không chịu làm nô lệ” và được sự ủng hộ của các nước, các dân tộc xã hội
chủ nghĩa và các nước, các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới.
+ Thầy giáo truyền đạt kiến thức cho học sinh (một nguyên nhân) là nguyên nhân dẫn đến
nhiều kết quả học tập đạt được của họ. Cùng một nguyên nhân như vậy nhưng lại dẫn đến
nhiều kết quả khác nhau đối với từng học sinh: học sinh đạt kết quả học tập giỏi, khá, trung
bình, yếu kém.
+ Đốt lửa vào ngọn đèn dầu (Nguyên nhân) sinh ra kết quả: thứ nhất: có ánh sáng để cho mọi
người học tập và làm việc, thứ hai: Bấc ngắn, dầu cạn đi, thứ ba: làm tăng nhiệt độ môi
trường.
3. Giữa nguyên nhân và kết quả có tính tương đối, có sự chuyển hoá, tác động qua lại tạo
thành chuỗi liên hệ nhân – quả vô cùng vô tận.
VD: Sự phát triển của vật chất là nguyên nhân sinh ra tinh thần, nhưng tinh thần lại trở thành
nguyên nhân làm biến đổi vật chất.
Con gà – quả trứng – con gà - ...
3. Ý nghĩa
– Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần tôn trọng tính khách quan của mối liên hệ nhân
quả.
– Muốn cho hiện tượng nào đó xuất hiện cần tạo nguyên nhân cùng những điều kiện cho
nguyên nhân đó phát huy tác dụng. Ngược lại, muốn hiện tượng nào đó mất đi thì phải làm
mất nguyên nhân tồn tại của nó. VD: Để học tập tốt thì cần tạo điều kiện như nào, làm mất
cái gì xấu?
– Phải biết xác định đúng nguyên nhân để giải quyết vấn đề nảy sinh vì các nguyên nhân có
vai trò không như nhau. VD: Đau bụng do nhiều nguyên nhân: ngộ độc thực phẩm, nhiễm
giun, đau bụng lạnh,... cần xác định đúng nguyên nhân để có phương án điều trị phù hợp,...
– Kết quả có thể tác động trở lại nguyên nhân. Do đó, trong hoạt động thực tiễn cần khai thác,
tận dụng những kết quả đã đạt được để thúc đẩy nguyên nhân tác động theo hướng tích cực.
VD: Học tập tốt thì đạt được kết quả cao khiến người ta phấn khích, càng muốn đạt nhiều kết
quả cao hơn nữa – phấn đấu học tập tốt hơn.
Câu 14. Trình bày khái niệm lượng chất
a. Vị trí, vai trò của quy luật
Quy luật lượng đổi-chất đổi là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy
vật. Nó chỉ ra cách thức chung nhất của sự phát triển, khi cho rằng sự thay đổi về chất chỉ
xẩy ra khi sự vật, hiện tượng đã tích luỹ được những thay đổi về lượng đã đạt đến giới hạn -
đến độ. Quy luật lượng đổi chất đổi cũng chỉ ra tính chất của sự phát triển, khi cho rằng sự
thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng vừa diễn ra từ từ, vừa có bước nhảy vọt làm cho sự
vật, hiện tượng có thể vừa có những bước tiến tuần tự, vừa có thể có những bước tiến vượt
bậc.
b. Khái niệm chất, lượng
- Chất là tên gọi tắt của chất lượng (là chất của sự vật, hiện tượng khách quan) dùng
để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ của
các thuộc tính, những yếu tố cấu thành sự vật, hiện tượng làm cho chúng là chúng mà không
phải là cái khác (thể hiện sự vật, hiện tượng đó là gì và phân biệt nó với sự vật, hiện tượng
khác).
VD: Nước không màu không mùi không vị; Con người được phân biệt với con vật ở tính có
ý thức.
Phân biệt chất với thuộc tính
- Chất là sự thống nhất các thuộc tính, còn thuộc tính là những trạng thái, tính chất cơ
cấu nên sự vật. VD: Thuộc tính của viên phấn là dùng để viết, còn chất của viên phấn là được
làm bằng thạch cao.
- Chất và thuộc tính có MQH chặt chẽ, không có chất nằm ngoài sự vật.
Thuộc tính: cơ bản và không cơ bản. Khi thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất thay
đổi, thuộc tính không cơ bản thay đổi thì chất chưa thay đổi.
Đặc điểm cơ bản của chất
1) Có tính ổn định tương đối, nghĩa là khi sự vật, hiện tượng chưa chuyển hoá thì chất
của nó chưa thay đổi. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có quá trình tồn tại và phát triển qua nhiều
giai đoạn; trong mỗi giai đoạn đó, chúng lại có chất riêng của mình.
VD: Quá trình từ nòng nọc thành ếch: Giai đoạn nòng nọc: có đuôi, sống dưới nước. Giai
đoạn thành ếch: mất đuôi, mọc 4 chân, sống trên cạn.
2) Mỗi sự vật, hiện tượng không phải chỉ có một chất mà có nhiều chất.
VD: Sắt là một nguyên tố hóa học, Fe, số hiệu nguyên tử 26, thuộc nhóm VIIIB, chu
kỳ 4.
- Lượng dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng về các yếu tố biểu
hiện ở số lượng các thuộc tính, tổng số các bộ phận, đại lượng; ở trình độ quy mô và nhịp
điệu vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
VD: Lớp A có 50 sinh viên, …
Đặc điểm cơ bản của lượng
1) tính khách quan vì lượng là lượng của chất, là một dạng vật chất nên chiếm một vị
trí nhất định trong không gian và tồn tại trong một thời gian nhất định.
VD: Lớp A có 50 sinh viên, học ở phòng 1 từ 8h đến 11h.
2) Có nhiều loại lượng khác nhau trong các sự vật, hiện tượng; có lượng là yếu tố quy
định bên trong, có lượng chỉ thể hiện những yếu tố bên ngoài; sự vật, hiện tượng càng phức
tạp thì lượng cũng phức tạp theo. VD: trình độ phát triển của xã hội là yếu tố bên trong, số
dân cư trong một xã là yếu tố bên ngoài.
3) Trong tự nhiên và xã hội, có lượng có thể đo, đếm được; nhưng trong xã hội và tư
duy lại có những lượng khó đo lường bằng những số liệu cụ thể mà chỉ có thể nhận biết được
bằng tư duy trừu tượng. VD: Ta có thể đếm được 1 gói kẹo có 20 cái nhưng không thể đếm
được lượng kiến thức ta tích lũy được.
Câu 15. Nội dung quy luật chuyển hóa lượng – chất
- Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa tương đối. Tuỳ theo từng mối quan
hệ mà xác định đâu là lượng và đâu là chất; có cái là lượng ở trong mối quan hệ này, lại có
thể là chất ở trong mối quan hệ khác.
VD: Lớp A và B có cùng sĩ số, lớp A có 20 HSG, lớp B có 30 HSG. Khi xét về trình độ
học tập của 2 lớp thì lớp B tốt hơn, 30 HSG là chất. Khi so sánh số HSG 2 lớp thì 30 HSG lớp B là
lượng.
- Mỗi sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng. Hai mặt
này tác động biện chứng lẫn nhau theo cơ chế khi sự vật, hiện tượng đang tồn tại, chất và
lượng thống nhất với nhau ở một độ nhất định.
+ Độ là khoảng giới hạn, mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi
về chất; sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó, chưa chuyển hoá. Sự thay đổi về lượng tạo điều kiện cho
chất đổi và kết quả là cái cũ mất đi, cái mới ra đời. VD: 0 < t < 100 C nước vẫn ở
thể lỏng.
Lượng thay đổi đạt tới chỗ phá vỡ độ cũ, làm cho chất của sự vật, hiện tượng thay đổi,
chuyển thành chất mới - thời điểm, mà tại đó bắt đầu xảy ra bước nhảy - được gọi là điểm
nút.
VD: 0 và 100C là điểm nút
+ Bước nhảy dùng để chỉ giai đoạn chuyển hoá cơ bản về chất của sự vật, hiện tượng
do những thay đổi về lượng trước đó gây nên; là sự thay đổi về chất khi đã tích lũy đủ về
lượng. Sự vận động của sự vật, hiện tượng diễn ra, lúc thì biến đổi tuần tự về lượng, lúc thì
nhảy vọt về chất, tạo ra một đường nút vô tận, làm cho sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ.
Các hình thức của bước nhảy.
Căn cứ vào quy mô và nhịp độ của bước nhảy, người ta chia bước nhảy thành bước
nhảy toàn bộ - là những bước nhảy làm cho tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố của sự
vật, hiện tượng thay đổi. VD: chiến thắng mùa xuân 1975, giải phóng hoàn toàn, đất nước
bước sang thời kì mới. Bước nhảy cục bộ - là loại bước nhảy chỉ làm thay đổi một số mặt,
một số yếu tố, một số bộ phận của sự vật, hiện tượng đó. VD: Dù xã hội đã hiện đại, bình
đẳng nhưng 1 phần nhỏ vẫn chưa thay đổi, tồn tại tư tưởng trọng nam khinh nữ,…
Căn cứ vào thời gian của sự thay đổi về chất và dựa trên cơ chế của sự thay đổi đó,
người ta chia bước nhảy thành bước nhảy đột biến - khi chất của sự vật, hiện tượng biến đổi
mau chóng ở tất cả mọi bộ phận cơ bản của nó. VD: Phóng xạ (radium biến đổi), núi lửa
phun trào. Bước nhảy dần dần - là quá trình thay đổi về chất diễn ra do sự tích luỹ dần những
yếu tố của chất mới và loại bỏ dần các yếu tố của chất cũ, làm cho sự vật, hiện tượng biến
đổi chậm. VD: tích lũy tư duy từ cấp 1 – cấp 2 – cấp 3 – đại học - …
Quy luật lượng đổi-chất đổi không chỉ nói lên một chiều là lượng đổi dẫn đến chất đổi
mà còn có chiều ngược lại, là khi chất mới đã ra đời, nó lại tạo ra một lượng mới phù hợp với
nó để có sự thống nhất mới giữa chất với lượng, thể hiện ở chỗ sự tác động của chất mới về
quy mô, trình độ, nhịp điệu v.v… đối với lượng mới tạo nên tính thống nhất giữa chất mới
với lượng mới.
VD: Sinh viên vượt qua kì thi tốt nghiệp (điểm nút), trở thành cử nhân (bước nhảy) có
tấm bằng tốt và tìm được việc làm tốt (chất mới thay đổi quy mô tồn tại của SVHT). Sau đó,
sinh viên có nhu cầu học tập cao hơn – thạc sĩ (chất mới thay đổi sự vận động và phát triển)
Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất biện chứng giữa chất với
lượng. Sự thống nhất đó thể hiện ở
1) những thay đổi dần về lượng tới điểm nút chuyển thành những thay đổi về chất
thông qua bước nhảy
2) chất mới ra đời sẽ tác động tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới; lượng mới
lại tiếp tục biến đổi, đến một mức độ nào đó lại phá vỡ chất cũ kìm hãm nó.
3) quá trình tác động qua lại giữa lượng và chất tạo nên con đường vận động liên tục
trong đứt đoạn, đứt đoạn trong liên tục; từ sự biến đổi dần dần về lượng tiến tới nhảy vọt về
chất; rồi lại biến đổi dần dần về lượng để chuẩn bị cho bước nhảy tiếp theo của chất, cứ thế
làm cho sự vật, hiện tượng không ngừng vận động, biến đổi và phát triển.
Câu 16. ý nghĩa phương pháp luận của quy luật chuyển hóa lượng - chất
1) sự phát triển của sự vật, hiện tượng bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích luỹ dần về
lượng. Vì vậy, phải biết từng bước tích luỹ về lượng để làm biến đổi về chất. VD: XHPK –
XHCN – CSVN
2) quy luật xã hội diễn ra thông qua các hoạt động có ý thức của con người. Vì vậy,
khi đã tích luỹ đầy đủ về lượng phải tiến hành bước nhảy, kịp thời chuyển những thay đổi về
lượng thành những thay đổi về chất; chuyển những thay đổi mang tính tiến hoá sang bước
thay đổi mang tính cách mạng. Chỉ có như vậy chúng ta mới khắc phục được tư tưởng bảo
thủ, trì trệ, hữu khuynh thường được biểu hiện ở chỗ coi sự phát triển chỉ là thay đổi đơn
thuần về lượng. VD: tình bạn – tình yêu – hôn nhân.
3) sự thay đổi về chất còn phụ thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo
thành sự vật, hiện tượng. Vì vậy, trong hoạt động của mình, phải biết tác động vào cấu trúc
và phương thức liên kết trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật các yếu tố tạo thành sự vật, hiện
tượng đó. VD: muốn duy trì nước ở thể lỏng phải để nước trong giới hạn 0 < t < 100 Co
Câu 17: Phân tích khái niệm quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập
a. Vị trí, vai trò của quy luật. Quy luật mâu thuẫn là một trong ba quy luật cơ bản của phép
biện chứng duy vật; nó chỉ ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động, phát triển.
b. Khái niệm mâu thuẫn và các tính chất chung của mâu thuẫn
Khái niệm mâu thuẫn. là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ, tương tác, tác động lẫn
nhau của các mặt đối lập. Yếu tố tạo thành mâu thuẫn là mặt đối lập - những mặt, thuộc tính,
khuynh hướng vận động trái ngược nhau; cùng tồn tại trong một sự vật, hiện tượng, trong
cùng một thời gian, một mối liên hệ; thường xuyên thống nhất, đấu tranh, chuyển hóa, triển
khai lẫn nhau.
VD: Trong nguyên tử có điện tử và hạt nhân hay trong sinh vật thì có sự đồng hoá và dị hoá,
trong kinh tế thị trường có cung và cầu, hàng và tiền.
Mâu thuẫn có một số tính chất chung là tính khách quan, phổ biến; tính đa dạng,
phong phú. thể hiện ở chỗ, trong tự nhiên, xã hội và tư duy đều có mâu thuẫn tồn tại không
phụ thuộc vào ý thức con người.
Một số loại mâu thuẫn: bên trong - bên ngoài, cơ bản - không cơ bản, chủ yếu - thứ
yếu, đối kháng- không đối kháng.
Khái niệm sự thống nhất: là các mặt đối lập nương tựa nhau, làm điều kiện tồn tại
cho nhau, không có mặt này thì không có mặt kia. VD: Đồng hóa, dị hóa; Hấp thụ và bài tiết
trong con người, xã hội vô sản và tư bản: người bán, người mua.
Xét 1 phương diện nào đó, giữa 2 mặt đối lập có những nét giống nhau, gọi là đồng
nhất. Nhờ có nó mà các mặt đối lập chuyển hóa cho nhau. VD: có nam có nữ đều là con
người mới thành vợ chồng; Cái thiện và cái ác trong con người: trong cái ác có cái thiện, làm
sao để lương tâm thức tỉnh.
Đấu tranh giữa các mặt đối lập: là sự tác động, bài trừ phủ định nhau, là sự triển khai
của các mặt đối lập. VD: Tư sản - vô sản, nông dân - địa chủ. Nông dân tìm cách để thoát
khỏi địa chủ, địa chủ tìm cách để bóc lột.
Vai trò của mâu thuẫn đối với sự vận động và phát triển: tạo nên nguồn gốc của sự
vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng. Có hai loại tác động lẫn nhau dẫn đến vận
động. Đó là sự tác động lẫn một sự vật nhau giữa các sự vật, hiện tượng và sự tác động lẫn
nhau giữa các mặt đối lập trong, hiện tượng. Cả hai loại tác động này tạo nên sự vận động;
nhưng chỉ loại tác động thứ hai- loại tác động lẫn nhau giữa các cặp mặt đối lập do mâu
thuẫn giữa chúng tạo nên mới làm cho sự vật, hiện tượng phát triển.
Câu 18. Trình bày nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối
lập
Trong mỗi mâu thuẫn, các cặp mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh lẫn
nhau tạo nên tình trạng ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng. Thống nhất giữa các cặp mặt đối
lập:
| 1/43

Preview text:

Câu 1: Vấn đề cơ bản của triết học là gì? Phân tích nội dung vấn đề cơ bản của triết học?
Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về bản thân con
người và vị trí của con người trong thế giới đó.
Triết học giải quyết rất nhiều vấn đề có liên quan với nhau. Trong đó, vấn đề quan trọng
nhất được gọi là vấn đề cơ bản của triết học. Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề cơ bản lớn
của mọi triết học. Gọi là vấn đề cơ bản bởi dựa trên việc giải quyết các vấn đề này sẽ làm cơ sở
để giải quyết các vấn đề của triết học. Nó bao gồm các vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại và tư
duy, giữa vật chất và ý thức.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, trả lời hai câu hỏi lớn
Mặt thứ nhất: Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào
quyết định cái nào? Nói cách khác, khi truy tìm nguyên nhân cuối cùng của hiện tượng,
sự vật hay sự vận động đang cần phải giải thích thì nguyên nhân vật chất hay nguyên
nhân tinh thần đóng vai trò là cái quyết định. Chia làm các trường phái:
Chủ nghĩa duy vật: vật chất có trước, có vai trò quyết định, ý thức chỉ là sự
phản ánh thế giới vật chất, vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai. Có các hình thức:
+ Chủ nghĩa duy vật chất phát
+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng
-Chủ nghĩa duy tâm: ý thức có trước, quyết định vật chất, ý thức là tính thứ
nhất, vật chất là tính thứ hai. Chia làm các hình thức:
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan: ý thức là 1 lực lượng siêu nhiên có trước con người
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: các sự vật, hiện tượng tồn tại là do phức hợp của cảm giác
-Thuyết nhị nguyên luận: vật chất và ý thức không nằm trong quan hệ sản sinh
Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Nói cách
khác, khi khám quá sự vật và hiện tượng, con người có dám tin rằng mình sẽ nhận thức
được sự vật và hiện tượng hay không. Chia làm các trường phái: -
Khả tri luận: đa số thừa nhận khả năng nhận thức của con người -
Bất khả tri luận: 1 số phủ nhận khả năng nhận thức của con người -
Thuyết hoài nghi: nâng sự hoài nghi lên thành nguyên tắc trong nhận thức
Ý nghĩa cơ bản của triết học: (Nếu hỏi ý nghĩa) -
Là vấn đề nền tảng để giải quyết các vấn đề còn lại trong triết học. -
Là tiêu chuẩn để phân biệt các trường phái của các nhà triết học. -
Là vấn đề các học thuyết triết học đều quan tâm giải quyết.
Câu 2: Tại sao mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại hay giữa vật chất và ý thức là
vấn đề cơ bản của triết học?
Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt trong
triết học hiện đại, là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại hoặc mối quan hệ vật chất và ý thức.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, trả lời hai câu hỏi lớn:
-Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
-Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại hay giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học vì:
-Tất cả các nhà triết học đều trực tiếp hoặc gián tiếp giải quyết các mối quan hệ này.
-Trên thế giới có nhiều các sự vật, hiện tượng khác nhau nhưng người ta phân thành 2 loại chính.
Đó là vật chất (tồn tại) và tinh thần (tư duy). Vì vậy mối quan hệ giữa vật chất và ý thức đã bao
trùm lên toàn bộ thế giới. Mà triết học thì chủ nghiên cứu mối quan hệ chung nhất của thế giới vì
vậy quan hệ giữa vật chất và ý thức là đối tượng nghiên cứu của triết học, nếu không nghiên cứu
vấn đề này triết học không thể tồn tại.
-Căn cứ vào cách giải quyết mối quan hệ giữ vật chất và ý thức làm cơ sở để phân định lập trường
tư tưởng thế giới quan của các nhà triết học cũng như các học thuyết của họ
Câu 1: Phân tích định nghĩa vật chất của Lênin và rút ra ý nghĩa phương pháp
luận của định nghĩa này?
1. Các quan niệm trước Mác về vật chất
- Triết học duy vật cổ đại: đồng nhất vật chất với dạng vất chất cụ thể.
VD: Các nhà triết học duy vật như Ta-lét cho rằng vật chất là nước; A-na-xi-men coi là
không khí; Hê-ra-clít coi là lửa. Thành quả vĩ đại nhất của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại trong
học thuyết về vật chất là thuyết nguyên tử của Lơ-xíp và học trò của ông là Đê-mô-crít.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình cận đại thế kỷ XVII-XVIII: đồng nhất vật chất với dạng vật
chất cụ thể và tính chất của chúng.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các phát minh của vật lý học đã bác bỏ quan niệm đồng
nhất vật chất với các dạng cụ thể của vật chất hoặc với thuộc tính của vật chất của các nhà triết học
duy vật cổ đại và cận đại. Phạm trù vật chất được V.I.Lênin nêu định nghĩa “Vật chất là một phạm
trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
2. Những nội dung cơ bản của định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác".
- Vật chất là “phạm trù triết học” do vậy vừa có tính trừu tượng vừa có tính cụ thể.
+ Tính trừu tượng của vật chất dùng để chỉ đặc tính chung, bản chất nhất của vật chất -
đó là đặc tính tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người và đây cũng là tiêu chí duy nhất để
phân biệt cái gì là vật chất và cái gì không phải là vật chất.
VD: Nhà nước phong kiến có bản chất là giai cấp địa chủ phong kiến chống lại nông dân
và những người lao động khác nhằm củng cố, bảo vệ sự thống trị về mọi mặt của địa chủ.
+ Tính cụ thể của vật chất thể hiện ở chỗ chỉ có thể nhận biết được vật chất bằng các giác
quan của con người; chỉ có thể nhận thức được vật chất thông qua việc nghiên cứu các sự vật,
hiện tượng vật chất cụ thể.
VD: Tính nóng của nước sôi được cảm nhận thông qua xúc giác, qua nghiên cứu biết
được rằng nước sôi nóng 100 độ C.
- Vật chất là “thực tại khách quan” có đặc tính cơ bản (cũng là đặc trưng cơ bản) là tồn tại
không phụ thuộc vào ý thức. Dù con người có nhận thức được hay chưa nhận thức được nó nó vẫn tồn tại.
VD: Thủy triều là hiện tượng nước biển, nước sông... lên xuống trong một chu kỳ thời gian
phụ thuộc vào biến chuyển thiên văn, là đặc tính cơ bản của sông nước. Nó tồn tại một cách tự
nhiên, không phụ thuộc vào nhận thức của con người.
- Vật chất có tính khách thể - con người có thể nhận biết vật chất bằng các giác quan.
VD: Sự tăng trưởng về cân nặng, kích thước của đàn lợn sau một thời gian nuôi dưỡng có thể
được người chủ nhận biết bằng thị giác, xúc giác,…
- Ý thức là sự “chép lại, chụp lại, phản ánh lại” thực tại khách quan. Bằng các giác quan của
mình, con người có thể trực tiếp hoặc gián tiếp nhận biết được thực tại khách quan; chỉ có
những sự vật, hiện tượng của thực tại khách quan chưa được nhận biết chứ không thể không biết.
VD: Kiến thức của nhân loại là kết quả của quá trình con người tiếp xúc và nghiên cứu thế giới
khách quan. Mọi khía cạnh về thế giới được con người cảm nhận và ghi chép lại.
1 là) được suy ra từ nội dung trên để xác định mối quan hệ biện chứng giữa thực tại khách
quan (vật chất) với cảm giác (ý thức). Vật chất (cái thứ nhất) là cái có trước, tồn tại độc lập
với ý thức và quy định ý thức. Ý thức (cái thứ hai) là cái có sau vật chất, phụ thuộc vào vật
chất. Như vậy, vật chất là nội dung, là nguồn gốc khách quan của ý thức, là nguyên nhân làm
cho ý thức phát sinh. Tuy nhiên, ý thức tồn tại độc lập tương đối so với vật chất và có tác
động, thậm chí chuyển thành sức mạnh vật chất khi nó thâm nhập vào quần chúng và được quần chúng vận dụng.
VD: Trước thời kì Đổi mới, do những ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh (đàn ông ra
trận và hi sinh nhiều, ở hậu phương chỉ còn đàn bà và người già) thì kinh tế không thể phát
triển. Vì thếm, nếu đường lối chủ trương chính sách lúc đó mà không phù hợp với thực tế thì
kinh tế (vật chất) cũng không thể đi lên.
3. Ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận của định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đối với hoạt
động nhận thức và thực tiễn
- Định nghĩa đưa lại thế giới quan duy vật biện chứng khi giải quyết vấn đề cơ bản của
triết học. Thứ nhất, định nghĩa khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau; vật chất là nguồn
gốc khách quan của cảm giác, của ý thức (khắc phục được quan điểm về vật chất của chủ
nghĩa duy vật cổ và cận đại). Thứ hai, định nghĩa khẳng định ý thức con người có khả năng
nhận thức được thế giới vật chất (chống lại thuyết không thể biết và hoài nghi luận). Thế
giới quan duy vật biện chứng xác định được vật chất và mối quan hệ của nó với ý thức trong
lĩnh vực xã hội: đó là tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội, kinh tế quy định chính trị v.v…;
tạo cơ sở lý luận cho các nhà khoa học tự nhiên.
VD: Nước nào có kinh tế phát triển hơn thì chính trị của nước đó mạnh hơn, nước đó
có tầm ảnh hưởng đến các quốc gia khác và trong khu vực sâu sắc hơn. (Mỹ can thiệp vào
các vấn đề trên Biển Đông của Việt Nam và Trung Quốc và có tầm ảnh hưởng)
- Định nghĩa đưa lại phương pháp luận biện chứng duy vật của mối quan hệ biện chứng giữa vật
chất với ý thức. Theo đó, vật chất có trước ý thức, là nguồn gốc và quy định ý thức nên trong mọi
hoạt động cần xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng các quy luật vốn có của sự vật, hiện
tượng; đồng thời cần thấy được tính năng động, tích cực của ý thức để phát huy tính năng động
chủ quan nhưng tránh chủ quan duy ý chí mà biểu hiện là tuyệt đối hoá vai trò, tác dụng của ý
thức, cho rằng con người có thể làm được tất cả mà không cần đến sự tác động của các quy luật
khách quan, các điều kiện vật chất cần thiết.
VD: Khi khởi nghiệp mở một công ty, vốn và năng lực từ người đứng ra mở công
ty thôi là chưa đủ, cần xét đến các yếu tố khác lúc đó như xu hướng thị trường, thời cơ, nhu
cầu, khu vực… Nếu đáp ứng đúng cái thị trường đang thiếu thì cơ hội phát triển là rất mạnh.
Ngược lại, nếu công ty cho ra những sản phẩm đang phổ biến, thậm chí là dư thừa thì nguy cơ phá sản là rất cao.
 Định nghĩa của V.I. Lênin về vật chất có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của chủ nghĩa
duy vật và nhận thức khoa học:
+ Chống lại tất cả các loại quan điểm của chủ nghĩa duy vật về phạm trù vật chất.
+Đấu tranh khắc phục triệt để tính chất trực quan , siêu hình, máy móc và những biến tướng của nó
trong quan niệm về vật chất của nhà triết học tư sản hiện đại.Do đó định nghĩa này cũng đã giải quyết
được sự khủng khoảng trong quan điểm về vật chất của các nhà triết học và khoa học theo quan điểm
của chủ nghĩa duy vật siêu hình.
+Khẳng định vật chất khách quan là vô cùng , vô tận, luôn vận động và phát triển không ngừng , nên đã
có tác động cổ vũ, động viên các nhà khoa học đi sâu nghiên cứu thế giới vật chất , tìm ra những kết cấu
mới, những thuộc tính mới và những quy luật vận động của vật chất để làm phong phú thêm kho
tàng tri thức của nhân loại.
Câu 2. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về vận động và rút ra ý nghĩa của nó
đối với sự phát triển của khoa học?
1. Định nghĩa: “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn
tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất – thì bao gồm tất cả mọi sự thay
đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”
Theo quan niệm của Ăng-ghen: vận động không chỉ thuần túy là sự thay đổi vị trí trong
không gian mà là “mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ”, vận động “là một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất” nên thông qua vận
động mà các dạng cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại cụ thể của mình; vận động của vật
chất là tự thân vận động; và sự tồn tại của vật chất luôn gắn liền với vật chất.
VD: Sự di chuyển từ nơi này sang nơi khác, tăng chiều cao, sự tăng trưởng về kinh tế, sự giảm sút
trong học tập, giảm cân,…
2. Phân tích 5 hình thức cơ bản của vận động và cho ví dụ. Chỉ ra mối liên hệ biện chứng
giữa 5 hình thức vận động:
a) Vận động cơ học: sự dịch chuyển trong không gian của các vật thể. VD: di chuyển trên đường
phố khi tham gia giao thông.
b) Vận động vật lý: vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ bản, quá trình nhiệt, điện,... VD:
thanh sắt nóng sinh ra nhiệt.
c) Vận động hóa học: sự biến đổi các chất hữu cơ, vô cơ trong quá trình hóa hợp và
phân giải. VD: quá trình tạo ra nước (2H2 + O2 2H2O) 
d) Vận động sinh học: sự biến đổi của các cơ thể sống, biến thái cấu trúc gen, v.v…
VD: sự hít thở, quang hợp, quá trình trao đổi chất.
e) Vận động xã hội: sự biến đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, v.v…của đời sống xã
hội. VD: xã hội loài người đi từ mông muội đến văn minh nhưng chưa có giai cấp, sau đó xuất
hiện giai cấp nhưng chưa có nhà nước, cuối cùng là hình thành nhà nước.
Các hình thức vận động nói trên được sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao tương ứng với trình độ
kết cấu của vật chất. Các hình thức vận động khác nhau về chất song chúng không tồn tại biệt lập
mà có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó: hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các
hình thức vận động thấp và bao hàm trong nó những hình thức vận động thấp hơn. Trong sự tồn tại
của mình, mỗi sự vật có thể có nhiều hình thức vận động khác nhau song bản thân nó bao giờ cũng
được đặc trưng bởi hình thức vận động cao nhất mà nó có.
3. Làm rõ đứng im là một trạng thái đặc biệt của vận động. Cho ví dụ minh họa.
Khi khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật
chất; chủ nghĩa duy vật biện chứng cũ đã khẳng định vận động là vĩnh viễn. Điều này không
có nghĩa chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận sự đứng im, cân bằng; song đứng im, cân
bằng chỉ là hiện tượng tương đối, tạm thời và thực chất đứng im, cân bằng chỉ là một trạng
thái đặc biệt của vận động.
- Đứng im là tương đối vì đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một số quan hệ nhất định chứ
không xảy ra với tất cả mọi quan hệ; đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một hình thức vận
động chứ không phải xảy ra với tất cả các hình thức vận động.
- Đứng im là tam thời vì đứng im không phải là cái tồn tại vĩnh viễn mà chỉ tồn tại trong một
thời gian nhất định, chỉ xét trong một hay một số quan hệ nhất định, ngay trong sự đứng im
vẫn diễn ra những quá trình biến đổi nhất định.
- Đứng im là trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong thế cân bằng, ổn định;
vận động chưa làm thay đổi căn bản về chất, về vị trí, hình dáng, kết cấu của sự vật.
VD: Thời bao cấp, nền kinh tế trì trệ, không phát triển, được coi như là đứng im. Nhưng chỉ
là đứng im trong hình thức vận động xã hội, trong mối quan hệ của nền kinh tế tư nhân hay
tiền tệ, chứng khoán, thị trường,… Sự đứng im của kinh tế chỉ diễn ra trong một thời kì nhất
định (1976 - 1986) tuy nhiên trong thời kì này, nội bộ nền kinh tế vẫn có những sự biến đổi:
nông nghiệp giảm nhẹ, công nghiệp và thương nghiệp có tiến triển,.. Sự tăng lên của mặt này
bù khuyết vào sự giảm đi của mặt kia khiến nền kinh tế không có sự tăng trưởng, chưa thấy sự thay đổi nhiều.
4. Ý nghĩa của nó đối với sự phát triển của khoa học:
Bằng việc phân loại các hình thức vận động cơ bản, Ăngghen đã đặt cơ sở cho việc phân
loại, phân ngành, hợp ngành khoa học. Tư tưởng về sự thống nhất nhưng khác nhau về chất
của các hình thức vận động cơ bản còn là cơ sở để chống lại khuynh hướng đánh đồng các
hình thức vận động hoặc quy hình thức vận động này vào hình thức vận động khác trong quá trình nhận thức.
VD: Dựa trên sự vận động của các sự vật hiện tượng, chúng ta có các ngành khoa học:
Hóa học, Vật lí học, Sinh học,…
Câu 3: Phân tích quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nguồn gốc của
ý thức và rút ra ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề này?
Ý thức là gì? Triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định, ý thức là một phạm trù triết học dùng
để chỉ toàn bộ hoạt động tinh thần phản ánh thế giới vật chất diễn ra trong não người, hình thành
trong quá trình lao động và được diễn đạt nhờ ngôn ngữ.
a. Nguồn gốc của ý thức
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức (yếu tố cần)
1) Não người là sản phẩm quá trình tiến hoá lâu dài của thế giới vật chất, từ vô cơ tới hữu cơ, chất
sống (thực vật và động vật) rồi đến con người - sinh vật - xã hội. Hoạt động ý thức của con người
diễn ra trên cơ sở hoạt động của thần kinh não bộ; bộ não càng hoàn thiện hoạt động thần kinh
càng hiệu quả, ý thức của con người càng phong phú và sâu sắc.
Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc không thôi mà không có sự tác động của thế giới bên ngoài để
bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức.
VD: Khi mới xuất hiện loài người, con người chưa có ý thức sâu sắc vì chưa có kiến thức về
thế giới tự nhiên. Trải qua các quá trình từ thời nguyên thủy đến nay, con người dần phát
triển nhờ việc quan sát tự nhiên, trong quá trình ấy, não người hoàn thiện dần, ghi lại những
kiến thức, kinh nghiệm, làm cho ý thức con người phong phú, văn minh. Từ đó, con người
làm chủ được thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ mình.
2) Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng VC này ở dạng VC khác trong quá trình tác
động qua lại lẫn nhau. Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất. Phản
ánh của vật chất có quá trình phát triển lâu dài và từ hình thức thấp lên hình thức cao, tùy thuộc
vào kết cấu của tổ chức vật chất.
VD: Sự phản ánh của quá trình nỗ lực nghiên cứu, học tập chăm chỉ là kết quả cao trong các kì thi
Các hình thức phản ánh. a) Phản ánh của giới vô cơ (gồm phản ánh vật lý (nước đóng đá) và phản
ánh hoá học (hình thành hố vôi) ) là những phản ánh thụ động, không định hướng và không lựa chọn.
b) Phản ánh của thực vật là tính kích thích (cây cối vươn ra ánh sáng)
c) Phản ánh của động vật đã có định hướng, lựa chọn để nhờ đó mà động vật thích
nghi với môi trường sống (ngủ đông, di cư).
Như vậy, bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc - đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Nguồn gốc xã hội của ý thức (yếu tố đủ)
1) Lao động là hoạt động có mục đích, có tính lịch sử - xã hội của con người nhằm tạo ra của
cải để tồn tại và phát triển. Lao động làm cho ý thức không ngừng phát triển (bằng cách tích
lũy kinh nghiệm), tạo cơ sở cho con người nhận thức những tính chất mới (được suy ra từ
những kinh nghiệm đã có) của giới tự nhiên; dẫn đến năng lực tư duy trừu tượng, khả năng
phán đoán, suy luận dần được hình thành và phát triển.
VD: Kinh nghiệm trồng trọt: Khoai đất lạ, mạ đất quen; kinh nghiệm về thiên nhiên: Ráng
mỡ gà có nhà thì giữ, Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng/Ngày tháng mười chưa cười đã tối.
2) Ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết). Trong quá trình lao động con người liên kết với nhau, tạo
thành các mối quan hệ xã hội tất yếu, dẫn đến nhu cầu cần thiết “phải trao đổi với nhau điều
gì đấy” nên ngôn ngữ xuất hiện. Ngôn ngữ trở thành “cái vỏ vật chất của ý thức”. Nhờ ngôn
ngữ, con người khái quát hoá, trừu tượng hoá những kinh nghiệm để truyền lại cho nhau.
Ngôn ngữ là sản phẩm của lao động, lại thúc đẩy lao động phát triển.
VD: Ghi lại các giai đoạn, diễn biến lịch sử thông qua các tư liệu, câu chuyện lịch sử,…
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của
ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội.
Câu 4. Bản chất của ý thức
Bản chất của ý thức thể hiện ở sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ não
người; là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan.
Ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan bởi hình ảnh ấy tuy bị thế giới khách quan quy
định cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện; nhưng thế giới ấy không còn y nguyên như nó vốn có,
mà đã bị cái chủ quan của con người cải biến thông qua tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, nhu cầu
v.v… Có thể nói, ý thức phản ánh hiện thực, còn ngôn ngữ thì diễn đạt hiện thực và nói lên tư
tưởng. Các tư tưởng đó được tín hiệu hoá trong một dạng cụ thể của vật chất - là ngôn ngữ- cái mà
con người có thể cảm giác được. Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và tồn tại
được. VD: Mọi lí thuyết chỉ là màu xám, chỉ có cây đời là mãi mãi xanh tươi.
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo, thể hiện ở chỗ, ý thức phản ánh thế giới có chọn lọc -
tùy thuộc vào mục đích của chủ thể nhận thức. Sự phản ánh đó nhằm nắm bắt bản chất, quy luật
vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng; khả năng vượt trước (dự báo) của ý thức tạo nên sự
lường trước những tình huống sẽ gây tác động tốt, xấu lên kết quả của hoạt động mà con người
đang hướng tới. Có dự báo đó, con người điều chỉnh chương trình của mình sao cho phù hợp với
dự kiến xu hướng phát triển của sự vật, hiện tượng (dự báo thời tiết, khí hậu…); xây dựng các mô
hình lý tưởng, đề ra phương pháp thực hiện phù hợp nhằm đạt kết quả tối ưu. Như vậy, ý thức
không chỉ phản ánh thế giới khách quan, mà còn tạo ra thế giới khách quan.
VD: Con người sử dụng máy móc thay cho sức kéo, thể hiện sự năng động trong việc đáp ứng
những nhu cầu thực tiễn, hay những nhà tiên tri dự báo trước về tương lai thể hiện sự sáng tạo.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn liền
với hoạt động thực tiễn; chịu sự chi phối của các quy luật sinh học và các quy luật xã hội; do nhu
cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động
của mình, ý thức sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của bản thân và thực tiễn xã hội. Ở các thời
đại khác nhau, thậm chí ở cùng một thời đại, sự phản ánh (ý thức) về cùng một sự vật, hiện tượng
có sự khác nhau - theo các điều kiện vật chất và tinh thần mà chủ thể nhận thức phụ thuộc.
VD: Ý thức pháp luật nảy sinh từ việc giải quyết các hiện tượng xã hội, gìn giữ xã hội phát
triển. Mỗi thời đại, pháp luật lại có những quy định khác nhau, thể hiện sự phát triển của xã hội
(Thời kì bao cấp: tem phiếu, sau Đổi mới: tự do buôn bán)
Quá trình ý thức gồm các giai đoạn:
1) Trao đổi thông tin hai chiều giữa chủ thể với khách thể phản ánh; định hướng và chọn lọc các thông tin cần thiết.
2) Mô hình hoá đối tượng trong tư duy ở dạng hình ảnh tinh thần, tức là sáng tạo lại khách thể
phản ánh theo cách mã hoá sự vật, hiện tượng vật chất thành ý tưởng tinh thần phi vật chất.
3) Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực, tức là quá trình hiện thực hoá tư tưởng.
Con người lựa chọn phương pháp, công cụ tác động vào hiện thực khách quan để thực hiện mục đích.
VD: Giải 1 bài toán: đọc đề, nắm lấy số liệu cần thiết và yêu cầu đề bài -> suy nghĩ
cách làm, hình dung đề bài theo ý hiểu của mình -> tiến hành giải bài toán, biến suy nghĩ thành kết quả. -
Vai trò của ý thức trong đời sống xã hội:
Tác động của ý thức xã hội đối với con ngừi là vô cùng to lớn. Nó không những là kim chỉ nam cho
hoạt động thực tiễn mà còn là động lực thực tiễn. Sự thành công hay thất bại của thực tiễn, tác động tích
cực hay tiêu cực của ý thức đối với sự phát triển của tự nhiên, xã hội chủ yếu phụ thuộc vào vai trò chỉ
đạo của ý thức mà biểu hiện ra là vãi trò của khoa học văn hoá và tư tưởng. -
Vai trò của ý thức đối với bản thân sinh viên
Đối với mỗi con người chúng ta đặc biệt là sinh viên nên quan tâm đến việc phát huy vai trò của
bản thân, đóng góp năng lực, trí tuệ, lao động cho xã hội, cống hiến hết mình cho xứng đáng là con
người của công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước giàu mạnh.
Câu 5. Kết cấu của ý thức:
- Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận thức, là sự tái tạo
lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại ngôn ngữ.
Mọi hoạt động của con người đều có tri thức, được tri thức định hướng. Mọi biểu hiện của ý thức
đều chứa đựng nội dung tri thức. Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức và là điều kiện để ý
thức phát triển. Theo Mác: “phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì đó tồn tại
đối với ý thức là tri thức”.
Căn cứ vào lĩnh vực nhận thức, tri thức có thể chia thành nhiều loại như tri thức về tự nhiên, tri
thức về xã hội, tri thức nhân văn. Căn cứ vào trình độ phát triển của nhận thức, tri thức có thể chia
thành tri thức đời thường và tri thức khoa học, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri thức cảm
tính và tri thức lý tính,…
VD: Các kiến thức về tự nhiên: các loài động vật, thực vật, các hiện tượng tự nhiên,…
Các kiến thức về xã hội: thể chế chính trị, giai cấp,…
Các kiến thức về nhân văn: sự sẻ chia, thương người như thể thương thân,…
- Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ con người trong các quan hệ. Tình cảm là một
hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự khái quát những cảm xúc cụ
thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại cảnh. Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi
lĩnh vực đời sống của con người; là một yếu tố phát huy sức mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt
động nhận thức và thực tiễn. Lênin cho rằng: không có tình cảm thì “xưa nay không có và không
thể có sự tìm tòi chân lý”; không có tình cảm thì không có một yếu tố thôi thúc những người vô
sản và nửa vô sản, những công nhân và nông dân nghèo đi theo cách mạng.
Tùy vào từng đối tượng nhận thức và sự rung động của con người về đối tượng đó trong các quan
hệ mà hình thành nên các loại tình cảm khác nhau, như tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn giáo,…
VD: lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần đoàn kết một lòng giúp nhân dân và quân đội Việt Nam
chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mĩ.
- Ý chí là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở trong quá trình thực
hiện mục đích của con người. Ý chí được coi là mặt năng động của ý thức, một biểu hiện của ý
thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự giác được mục đích của hoạt động nên tự đấu tranh với
mình để thực hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn. có thể coi ý chí là quyền lực của con người đối
với mình; nó điều khiển, điều chỉnh hành vi để con người hướng đến mục đích một cách tự giác;
cho phép con người tự kìm chế, tự làm chủ bản thân và quyết đoán trong hành động theo quan
điểm và niềm tin của mình. Giá trị chân chính của ý chí không chỉ thể hiện ở cường độ mạnh hay
yếu mà chủ yếu thể hiện ở nội dung, ý nghĩa của mục đích mà ý chí hướng đến. Lênin cho rằng: ý
chí là một trong những yếu tố tạo nên sự nghiệp cách mạng của hàng triệu người trong cuộc đấu
tranh giai cấp quyết liệt nhằm giải phóng mình, giải phóng nhân loại.
VD: Dù gặp vô vàn thiếu thốn, khó khăn về vật chất trong suốt giai đoạn kháng chiến
nhưng ý chí chiến đấu và chiến thắng đã thôi thúc quân và dân ta vượt qua trở ngại, tiến đến thắng lợi.
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau song tri thức
là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân tố định hướng
đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác.
d. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Phải khách quan trong nhận thức và hành động; nhận thức và hành động phải xuất
phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Không xuất phát từ ý muốn
chủ quan, lấy ý muốn chủ quan làm cơ sở định ra chính sách, lấy ý chí áp đặt cho thực tế.
VD: Khi chỉnh sửa và ban hành các bộ luật, chính sách pháp luật phải dựa trên hiện thực
cuộc sống theo thời đại. Sau chiến tranh, cuộc sống còn nhiều khó khăn, thiệt hại về người
và của vô cùng lớn nên chưa thể bắt người dân xây dựng kinh tế mà phải làm lành các vết
thương chiến tranh cả về vật chất lần tinh thần cho nhân dân trước.
- Phát huy tính năng động chủ quan, sáng tạo của ý thức, phát huy nhân tố con người:
giáo dục nâng cao trình độ tri thức khoa học cho nhân dân, cán bộ, đảng viên; bồi dưỡng
nhiệt tình cách mạng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên; vận dụng đúng
đắn các quan hệ lợi ích, động cơ trong sáng, thái độ khách quan khoa học không vụ lợi;
chống thụ động, ỷ lại, bảo thủ, trì trệ. VD: Muốn thay đổi tình hình giao thông, phải xuất
phát từ ý thức người dân nên việc tuyên truyền và nâng cao dân trí về tham gia giao thông là cần thiết.
- Khắc phục, ngăn chặn bệnh chủ quan, duy ý chí: khuynh hướng tuyệt đối hoá của
nhân tố chủ quan, của ý chí, xa rời hiện thực, bất chấp quy luật khách quan, lấy nhiệt tình
thay cho sự yếu kém của tri thức; bệnh chủ quan duy ý chí là lối suy nghĩ hành động giản
đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan; định ra chủ trương chính sách xa rời hiện
thực khách quan; phải đổi mới tư duy lý luận, nâng cao năng lực trí tuệ của toàn Đảng.
Đại hội VII Đảng ta khảng định: Mọi đường lối của Đảng phải xuất phát từ thực tế,
tôn trọng và hành động đúng theo quy luật khách quan.
Câu 6. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức?
1. Định nghĩa vật chất? Ý thức là gì? Cho ví dụ?
2. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức:
-Xuất phát từ quan điểm cho rằng vật chất có trước quyết định ý thức, ý thức, tinh thần là cái
có sau, cái phụ thuộc vật chất. Vì vậy, toàn bộ hoạt động tinh thần của con người xét cho
cùng đều là sự phản ánh hiện thực khách quan vao trong bộ não người và bị quy định bởi
hoạt động thực tiễn của xã hội.
Ví dụ: nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của các học thuyết chính trị, pháp
quyền, đạo đức nào đó, thì chúng ta phải căn cứ vào những điều kiện kinh tế - xã hội tương
ứng của nó trên cơ sở quan điểm lịch sử cụ thể.
Có thực mới vực được đạo, Phú quý sinh lễ nghĩa
- Mọi sự biến đổi của nhân tố vật chất tất yếu dẫn đến sự thay đổi của ý thức, của nhân tố tinh
thần. Trong hoạt động tinh thần của con người nói chung, kể cả ý thức cá nhân hay ý thức xã
hội hoặc đường lối chủ trương chính sách của một nhà nước hay sự phát triển của khoa học
cũng dựa trên cơ sở hiện thực khách quan, thì mới có thể làm cho khả năng khách quan trở
thành hiện thực. Điều đó, cũng sẽ đúng nếu như chúng ta cho rằng đường lối phát triển kinh
tế - xã hội của một chính đảng, một nhà nước đều phụ thuộc vào điều kiện khách quan nhất định.
VD: Nhu cầu phục vụ cuộc sống khiến công nghệ khoa học phát triển: máy hơi nước ra đời
thay thế sức kéo khi con người không muốn phải xách nước xa và nặng, điện thoại di động ra
đời thay thế thư từ truyền thống khi nhu cầu liên lạc của con người tăng lên,…
- Tự thân nó, ý thức tư tưởng của con người không thể thực hiện được sự biến đổi nào trong
hiện thực, nếu nó không thông qua các nhân tố vật chất. C.Mác từng nhấn mạnh rằng: chỉ có
lực lượng vật chất đánh bại bởi một lực lượng vật chất. Vì vậy, mọi sự biến đổi của đời sống
xã hội, xét cho cùng đều phụ thuộc vật chất, nhân tố vật chất.
VD: Điều kiện sống thay đổi thì ý thức thay đổi: Ngày xưa người con gái phải tam tòng tứ
đức, công dung ngôn hạnh, xã hội trọng nam khinh nữ, ngày nay giữa nam và nữ đã có sự bình đẳng.
Tính độc lập tương đối của ý thức: -
Xuất phát từ quan điểm cho rằng ý thức là tính thứ hai phụ thuộc vào vật chất và con người
có khả năng nhận thức được hiện thực khách quan. Sự phản ánh của ý thức về hiện thực khách
quan, không phải là sự phản ánh thụ động, đơn giản mà nó có tính năng động và sáng tạo. Vì vậy,
ý thức, nhân tố tinh thần có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định mục đích, phương pháp hoạt
động nói chung của con người. VD: Trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, luôn có
những bài thơ, bài hát khích lệ, cổ vũ tinh thần chiến đấu cho nhân dân, củng cố niềm tin chiến
thắng để nhân dân vững lòng chiến đấu. Đó chính là một trong những nhân tố tạo nên chiến thắng.
- Trong các nhân tố tinh thần, sự phát triển của khoa học có tính vượt trước tồn tại xã hội, khẳng
định vai trò của khoa học đối với sự phát triển của xã hội. Theo C.Mác: một khi lý luận xâm nhập
vào hoạt động của quần chúng sẽ trở thành lực lượng vật chất trực tiếp. Về vấn đề này, V.I.Lênin
cũng đã nhấn mạnh: không có lý luận cách mạng sẽ không có phong trào cách mạng. VD: Tất cả
các vị tướng, những người cầm đầu, nhà lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa đều có cơ sở và lí luận cách
mạng trước khi làm cách mạng hay mở ra cuộc khởi nghĩa mới: bác Hồ tìm hiểu về Cách mạng
Nga và các nước châu Âu.
- Trong những điều kiện khách quan nhất định, ý thức của con người có thể giữ vai trò quyết định
đến kết quả của hoạt động thực tiễn. Điều này có nghĩa là ý thức, tư tưởng của con người với sự
nhận biết đúng đắn và ý chí của mình, con nguời có thể phát huy được năng lực tối ưu của các
nhân tố vật chất và nhân tố tinh thần trong những điều kiện khách quan nhất định để đạt được kết
quả cao nhất trong hoạt động thực tiễn. VD: Hẳn trong chúng ta cũng thường đặt ra những câu hỏi
là tại sao trong những điều kiện khách quan nhất định nào đó mà ranh giới giữa cái chết và cái
sống… có những con người có thể vượt lên chính mình bằng sức mạnh của lý trí, của niềm tin với
nghị lực và bản lĩnh để làm một việc gì đó mà mọi người cho là không tưởng, nhưng lại thành
công. Nhưng xét về quá trình lâu dài thì nhân tố vật chất bao gìơ cũng giữ vai trò quyết định đối với nhân tố tinh thần.
- Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. Nhờ có ý thức con người nhận thức được quy luật vận động, phát
triển của thế giới khách quan.
Ý thức tác động lại vật chất theo hai chiều hướng:
+ Tích cực: ý thức có thể trở thành động lực phát triển của vật chất. VD: Tư tưởng khoán 10 của
Bí thư Nguyên Ngọc tỉnh Vĩnh Phú, thơ văn thời kháng chiến chống Pháp-Mĩ,...
+ Tiêu cực: Ý thức có thể là lực cản phá vỡ sự vận động và phát triển của vật chất khi ý thức phản
ánh sai, phản ánh xuyên tạc các quy luật vận động khách quan của vật chất. VD:
Tư tưởng trọng nam khinh nữ, Hợp tác xã trước 1986 của Đảng,...
Câu 7. Ý nghĩa phương pháp luận và liên hệ thực tiễn hiện nay ở Việt Nam
- Ý nghĩa phương pháp luận :Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức phải bảo đảm nguyên tắc tính
khách quan trong sự xem xét. Đây là nguyên tắc cơ bản của phương pháp nhận thức biện chứng
duy vật. Nguyên tắc này đòi hỏi xem xét các sự vật, hiện tượng không xuất phát từ ý muốn chủ
quan, mà phải xuất phát từ đối tượng trên cơ sở hiện thực khách quan vốn có để phản ánh đúng
đắn và xây dựng mô hình lý luận phù hợp với đối tượng. Nguyên tắc tính khách quan của sự xem
xét là hệ quả tất yếu của quan điểm duy vật mácxít, khi giải quyết mối quan hệ giữa vật chất - ý
thức, giữa khách quan - chủ quan.
Thứ hai, phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức phát huy nhân tố con người.
Nguyên tác tính khách quan không những không bài trừ, mà trái lại còn đòi hỏi phải phát huy tính
năng động, sáng tạo của ý thức. Tính năng động và sáng tạo của ý thức được thể hiện ngay từ khi
con người xác định đối tượng, mục tiêu, phương hướng hoạt động cũng như việc lựa chọn cách
thức, phương pháp thực hiện mục tiêu.
Thứ ba, trong hoạt động thực tiễn phải giải quyết đúng đắn giữa nhân tố khách quan và nhân tố
chủ quan. Bởi vì, nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong hoạt động thực tiễn, xét
cho cùng là giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa đời sống vật chất, nhân tố vật chất và đời sống
tinh thần, nhân tố tinh thần. Trong mối quan hệ biện chứng đó đời sống vật chất, nhân tố vật chất
giữ vai trò quyết định; ngược lại đời sống tinh thần, nhân tố tinh thần có tính năng động và sáng tạo.
- Liên hệ thực thực tiễn hiện nay ở Việt Nam.
Từ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và từ kinh nghiệm thành công, thất bại trong quá trình lãnh
đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra bài học quan trọng là:
“Mọi chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng qui luật hiện thực khách quan”.
Nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta trong nhận thức và hành động phải xuất phát từ bản thân sự vật,
từ hiện thực khách quan, phản ánh sự vật đúng với những gì vốn có của nó, không lấy ý muốn chủ
quan của mình làm chính sách, không lấy ý chí chủ quan áp đặt cho thực tế, phải tôn trọng sự thật,
tránh thái độ chủ quan nóng vội, phiến diện, định kiến… Yêu cầu của nguyên tác tính khách quan
còn đòi hỏi phải tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Đảng chủ trương:
“Huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước, đ8ạ biệt là nguồn lực của dân
vào công cuộc phát triển đất nước”. Đó là chính sách chiến lược về con người, về phát triển giáo dục và đào tạo...
Vì vậy, phải “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng phát huy sức mạnh toàn dân
tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển,
thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.
Câu 8. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
a. Khái niệm mối liên hệ; mối liên hệ phổ biến
Mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật hiện
tượng hay giữa các mặt của một sự vật, một hiện tượng trong thế giới.
VD: Trồng cây xanh thì con người có không khí sạch để thở.
MLH phổ biến là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật và hiện
tượng của thế giới. VD: Trong tư duy con người có những mối liên hệ giữa kiến thức cũ và kiến
thức mới; cây tơ hồng, cây tầm gửi sống nhờ; nếu chung mục đích thì phải chung tay với nhau.
b. Tính chất của các mối liên hệ phổ biến
Tính khách quan. Các mối liên hệ thể hiện mình trong sự tác động giữa các sự vật, hiện tượng vật
chất với nhau, giữa sự vật, hiện tượng với cái tinh thần, giữa những hiện tượng tinh thần với nhau,
như mối liên hệ và tác động giữa các hình thức của quá trình nhận thức. Các mối liên hệ, tác động
đó đều là sự phản ánh mối liên hệ lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan.
VD: Mối liên hệ cây xanh – cơ thể sống con người, “Oan gia ngõ hẹp”
Tính phổ biến. Mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hoá lẫn nhau không những diễn ra ở mọi sự
vật, hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội, trong tư duy, mà còn diễn ra đối với các mặt, các yếu
tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng. VD: gói hút ẩm trong các gói bánh có MLH với môi
trường bên ngoài; hiện tượng hô hấp của loài ếch trên cạn và dưới nước.
Tính đa dạng, phong phú. Có rất nhiều kiểu MLH. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
khái quát được toàn cảnh thế giới trong những mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện
tượng của nó. Tính vô hạn của thế giới khách quan; tính có hạn của sự vật, hiện tượng trong
thế giới đó chỉ có thể giải thích được trong mối liên hệ phổ biến, được quy định bằng nhiều
mối liên hệ có hình thức, vai trò khác nhau. VD: Cô A vừa là mẹ trong MLH gia đình, là giáo
viên trong MLH công việc, là người cùng câu lạc bộ trong MLH xã hội,...
Câu 9. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lí mỗi liên hệ phổ biến
Nguyên tắc toàn diện yêu cầu xem xét sự vật hiện tượng:
1) trong chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính cùng các mối liên hệ của chúng.
2) trong mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác và với môi trường
xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp.
3) trong không gian, thời gian nhất định, nghĩa là phải nghiên cứu quá trình vận động
của sự vật, hiện tượng trong quá khứ, hiện tại và phán đoán cả tương lai của nó.
Nguyên tắc toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện chỉ thấy mặt này mà không
thấy các mặt khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét tràn lan, dàn đều, không thấy
mặt bản chất của sự vật, hiện tượng rơi vào thuật nguỵ biện (cố ý đánh tráo các mối liên hệ
cơ bản thành không cơ bản hoặc ngược lại) và chủ nghĩa chiết trung (lắp ghép vô nguyên tắc
các mối liên hệ trái ngược nhau vào một mối liên hệ phổ biến).
VD: Để đánh giá phẩm chất năng lực của một con người ta cần xem xét người đó
trong mọi MQH khác nhau, trong các hoàn cảnh tình huống khác nhau, trong sự thay đổi của
cả một quá trình. Công dân A từng đi tù vì trộm cắp tài sản, mọi người cho là người không
đàng hoàng, có nhiều chỉ trích định kiến về A nhưng sau khi ra tù, A đã thay đổi, ta cần có cái
nhìn khác. A biết yêu thương gia đình, tử tế giúp đỡ mọi người xung quanh, làm ăn lương thiện,...
Nguyên tắc lịch sử-cụ thể yêu cầu xem xét sự vật, hiện tượng trong những mối liên hệ
cụ thể, có tính đến lịch sử hình thành, tồn tại, dự báo xu hướng phát triển của sự vật hiện
tượng. Cơ sở lý luận của nguyên tắc này là không gian, thời gian với vận động của vật chất,
là quan niệm chân lý là cụ thể và chính nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
VD: Khi TGGT, đèn đỏ phải dừng lại nhưng khi đi cấp cứu, CSGT phải cho ta đi;
kinh tế nước ta thời kì trước Đổi mới là lạc hậu, yếu kém nhưng đặt trong hoàn cảnh lịch sử
lúc bấy giờ: vừa bước ra khỏi chiến tranh, thiệt hại về người và của thì phương thức kinh tế
ấy là hợp lí, chưa thể ép người dân làm kinh tế chủ nghĩa hay kinh tế tư bản,...
Câu 10. Nguyên lý về sự phát triển
a. Khái niệm phát triển
Trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến thống nhất hữu cơ với nguyên
lý về sự phát triển, bởi liên hệ cũng là vận động, không có vận động sẽ không có sự phát triển nào.
Phát triển xuất hiện trong quá trình giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật, hiện
tượng; là sự thống nhất giữa phủ định những yếu tố không còn phù hợp và kế thừa có chọn lọc, cải
tạo cho phù hợp của sự vật, hiện tượng cũ trong sự vật, hiện tượng mới.
Khái niệm PT: quá trình vận động tiến lên của sự vật hiện tượng theo chiều từ thấp đến cao từ đơn
giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
VD: Sự phát triển của nhận thức do quá trình đấu tranh giữa cái đã biết và cái chưa biết của con người về TGKQ.
Quá trình đó vừa diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt làm cho sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện
tượng mới về chất ra đời. Nguồn gốc của sự phát triển nằm ở mâu thuẫn bên trong của sự vật, hiện
tượng; động lực của sự phát triển là việc giải quyết mâu thuẫn đó.
b. Tính chất của sự phát triển.
1) Tính khách quan. : Nguồn gốc của sự phát triển do mâu thuẫn của sự vật, là quá trình tự thân,
độc lập với ý thức con người. VD: Sự phát triển của xã hội loài người: Công xã nguyên thủy ->
Chiếm hữu nô lệ -> Phong kiến -> Tư bản -> Xã hội chủ nghĩa => Xã hội đi lên dần dần, con
người không thể quay về được dù có muốn hay không.
2) Tính phổ biến. Sự phát triển diễn ra trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
VD: Tự nhiên: sự thích nghi của động vật dưới nước khi tự nhiên thay đổi.
Xã hội: sự thay thế của các nền văn minh: VMNN -> VNCN -> VM tri thức.
Tư duy: năng lực nhận thức của con người về TGTN ngày càng sâu sắc.
3) Tính kế thừa. Cái mới ra đời từ sự phủ định có tính kế thừa cái cũ; cái mới còn giữ lại, có
chọn lọc và cải tạo những mặt còn thích hợp của cái cũ.
VD: Nền văn hóa VN hiện đại có sự thay đổi từng ngày, du nhập thêm những nét văn
hóa mới (haloween, valentine, noel,... ) nhưng vẫn gìn giữ nét văn hóa truyền thống
(ca trù, quan họ, tục ăn trầu,... )
4) Tính đa dạng, phong phú. Sự phát triển còn phụ thuộc vào không gian và thời gian, vào các
yếu tố, điều kiện tác động lên sự phát triển đó.
VD: Cách mạng VN những năm 1930 – 1975 có bước tiến nhưng 1933 – 1935 thì đi
xuống. Tuy nhiên tất cả đều dẫn đến thành công.
Câu 11. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lí về sự phát triển với hoạt động
nhận thức và thực tiễn
(Thực tiễn) Nguyên tắc phát triển yêu cầu:
1) Đặt sự vật, hiện tượng trong sự vận động; phát hiện được các xu hướng biến đổi,
phát triển của nó để không chỉ nhận thức sự vật, hiện tượng ở trạng thái hiện tại, mà còn dự
báo được khuynh hướng phát triển của nó. VD: Dự báo thời tiết, dự báo giá vàng,...
2) Nhận thức sự phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát triển có
những đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm ra những hình thức, phương
pháp tác động phù hợp để hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển đó.
VD: Việt Nam luôn kịp thời đưa ra những chính sách phát triển khác nhau ở mỗi thời
kì để thúc đẩy mọi mặt phát triển, đồng thời, khắc phục và hạn chế cái yếu kém.
3) Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải nhạy cảm, sớm phát hiện và
ủng hộ sự vật, hiện tượng mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho nó phát triển; phải chống lại
quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến v.v bởi nhiều khi sự vật, hiện tượng mới thất bại tạm
thời, tạo nên con đường phát triển quanh co, phức tạp.
VD: Chủ trương làm cách mạng của Phan Bội Châu có điểm yếu kém, khiến cách
mạng không thành công, Bác Hồ đã nhìn nhận ra và thay đổi.
4) Trong quá trình thay thế sự vật, hiện tượng cũ bằng sự vật, hiện tượng mới phải biết
kế thừa những yếu tố tích cực đã đạt được từ cái cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều
kiện mới. VD: Thời trang áo dài cách tân.
(Nhận thức) Phát triển là nguyên tắc chung nhất chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn; nguyên tắc này giúp chúng ta nhận thức được rằng: muốn nắm được bản chất
của sự vật, hiện tượng, nắm được khuynh hướng phát triển của chúng thì phải xét sự vật
trong sự phát triển, trong sự tự vận động trong sự biến đổi của nó.
Câu 12: Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng? Ý nghĩa phương
pháp luận của việc nắm vững mối quan hệ này trong nhận thức và hoạt động thực tiễn?
1. Các khái niệm
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những mối
quan hệ giống nhau ở nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ.
VD: Người dân Việt Nam đều sử dụng tiếng nói và chữ viết tiếng Việt.
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình
riêng lẻ nhất định. VD: Mỗi vùng khác nhau ở Việt Nam có một cách nói, cách phát âm khác
nhau hay cách gọi tên các sự vật hiện tượng khác nhau. Miền Bắc – bố, miền Trung – tía, miền Nam – ba.
Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính… chỉ có
ở một sự vật, một kết cấu vật chất. Những mặt, những thuộc tính ấy không được lặp lại ở bất
kỳ sự vật, hiện tượng hay kết cấu vật chất nào khác. VD: Chỉ có Hà Nội có Hồ Gươm.
2. Mối quan hệ biện chứng
Phép biện chứng duy vật cho rằng, cái riêng và cái chung đều tồn tại khách quan và
giữa chúng có sự thống nhất biện chứng. Cụ thể:
1. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Điều đó có nghĩa là không có cái
chung thuần tuý, trừu tượng tồn tại bên ngoài cái riêng.
VD: Thuộc tính cơ bản của vật chất là vận động. Vận động lại tồn tại dưới các hình thức
riêng biệt như vận động vậy lý, vận động hoá học, vận động xã hội v.v..
2. Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Điều đó có nghĩa là không có cái riêng
độc lập thuần tuý không có cái chung với những cái riêng khác.
VD: Các chế độ kinh tế – chính trị riêng biệt đều bị chi phối với các quy luật chung của xã
hội như quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất.
3. Cái chung là bộ phận của cái riêng, còn cái riêng không gia nhập hết vào cái chung. Cái riêng
phong phú hơn cái chung, vì ngoài những đặc điểm gia nhập vào cái chung, cái riêng còn có
những đặc điểm riêng biệt mà chỉ riêng nó có. Cái chung là cái sâu sắc hơn cái riêng bởi vì nó
phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ bên trong, tất nhiên, ổn định, phổ biến
tồn tại trong cái riêng cùng loại.
VD: Người nông dân Việt Nam ngoài đặc điểm chung giống với những người nông dân trên
thế giới là tư hữu nhỏ, sản xuất lẻ tẻ, sống ở nông thôn, còn có những đặc điểm riêng là chịu
ảnh hưởng của làng xã, có tập quán lâu đời, mỗi vùng miền lại có những đặc điểm khác
nhau. Cái chung sâu sắc hơn vì dù ở đâu, nông dân Việt Nam cũng đều cần cù lao động, chịu thương chịu khó.
4. Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá lẫn nhau; có thể coi đây là sự chuyển hoá giữa hai
mặt đối lập. Sự chuyển hoá giữa cái đơn nhất và cái chung diễn ra theo hai hướng: cái đơn nhất
biến thành cái chung, làm sự vật phát triển và ngược lại, cái chung biến thành cái
đơn nhất làm cho sự vật dần dần mất đi.
VD: Một sáng kiến của một anh hùng lúc đầu là cái đơn nhất được nhiều người học tập trở
thành cái phổ biến; Khoán sản phẩm tới người lao động lúc đầu chỉ ở một vài tỉnh sau trở
thành cái phổ biến; Vận động cơ chế thị trường ở Việt Nam lúc đầu mới là tư tưởng chỉ đạo
thực hiện ở một số ngành kinh tế - sau trở thành chung. 3. Ý nghĩa:
– Cái chung chỉ tồn tại thông qua cái riêng. Chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng chứ không thể ở ngoài cái riêng.
– Bất cứ cái chung nào khi áp dụng vào từng trường hợp riêng cũng cần được cá biệt hoá. Nếu
đem áp dụng nguyên xi cái chung, tuyệt đối hoá cái chung dễ dẫn đến sai lầm tả khuynh giáo điều.
VD: Tập thể dục 30 phút mỗi ngày được cho là tốt nhưng đối với những người thể lực yếu hay
khuyết tật, ... thì nên có những lộ trình tập luyện khác phù hợp với thể chất họ.
Nếu xem thường cái chung, chỉ chú ý đến cái đơn nhất dễ dẫn đến sai lầm hữu khuynh
xét lạ – Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định cái đơn nhất
có thể biến thành cái chung và ngược lại cái chung có thể biến thành cái đơn nhất. Trong
hoạt động thực tiễn cần tạo điều kiện thuận lợi cho cái đơn nhất chuyển thành cái chung nếu
cái đơn nhất có lợi cho con người. Và ngược lại biến cái chung thành cái đơn nhất nếu cái
chung tồn tại bất lợi cho con người
4. Hoạt động thực tiễn
Vân dụng cặp phạm trù này vào trong quá trình nhận thức và đánh giá các sự vật hiện
tượng một cách khách quan và khoa học
Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu hiện sự tồn tại của
mình; cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung, bất cứ cái riêng nào cũng bao
hàm cái chung nên trong hoạt động thực tiễn không nên nhấn mạnh, tuyệt đối hóa cái chung, phủ nhận cái riêng.
Để phát hiện ra cái chung, quy luật chung chúng ta phải xuất phát từ cái riêng, phải
xuất phát từ việc phân tích các sự vật, hiện tượng riêng lẻ. Cái chung sau khi đã được rút ra
từ cái riêng, khi đem áp dụng vào cái riêng lại phải căn cứ vào đặc điểm của cái riêng để làm cho nó phù hợp.
Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối cái riêng. Cái riêng là cái phong phú
hơn cái chung, cho nên trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn phải căn cứ vào cái
chung sâu sắc làm cơ sở, đồng thời chú ý đến cái riêng phong phú để bổ sung cho nó hoàn thiện.
Trong những điều kiện nhất định cái đơn nhất có thể chuyển hóa thành cái chung và
ngược lại. Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn muốn xác định được đâu là cái chung đâu là cái
đơn nhất phải đặt nó trong một quan hệ xác định. Có thể và cần phải tạo điều kiện thuận lợi
để cái đơn nhất có lợi cho con người trở thành cái chung và cái chung bất lợi trở thành cái đơn nhất.
VD1: Muốn nhận thức được một quy luật phát triển nào đó của nền sản xuất của một
nước nào đó phải nghiên cứu phân tích so sánh quá tình sản xuất thực tế ở một giai đoạn
khác nhau, ở những khu vực khác nhau mới tìm ra được mối liên hệ chung.
VD2: Xem xét một phong trào nào đó của một đơn vị nào đó phải xem xét tinh thần
thi đua đó ở từng tổ, từng người sau đó liên hệ lại với nhau, từ đó rút ra những quy định
chung để phát huy tối đa tinh thần cạnh tranh thi đua và giảm thiểu tối đa những hạn chế.
Câu 13. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả? Ý nghĩa phương
pháp luận của việc nắm vững mối quan hệ này trong nhận thức và hoạt động thực tiễn?
1. Các khái niệm
Nguyên nhân là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt
trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra một sự biến đổi nhất định.
Kết quả là phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn
nhau của các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
VD: Trời mưa là nguyên nhân, sinh ra kết quả là đường trơn và ướt.
– Khác với nguyên nhân, nguyên cớ cũng là một sự kiện nào đó trực tiếp xảy ra trước kết quả,
nhưng không sinh ra kết quả, có liên hệ với kết quả nhưng là mối liên hệ bên ngoài không bản chất.
VD: “Sự kiện Vinh Bắc Bộ”, vào tháng 8/1964, từ đó Mỹ ném bom miền Bắc là
nguyên cơ, còn nguyên nhân thực sự là do bản chất xâm lược của đế quốc Mỹ.
– Điều kiện là tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc vào nguyên nhân, nhưng có tác
dụng đối với sự nảy sinh kết quả.
VD: Nhiệt độ, áp suất, chất xúc tác là những điều kiện không thể thiếu của một số phản ứng hoá học.
2. Mối quan hệ biện chứng
1. Nguyên nhân sinh ra kết quả, vì vậy nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả. Còn kết quả
bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân. Chỉ những mối liên hệ trước sau về mặt thời gian
có quan hệ sản sinh mới là mối liên hệ nhân quả.
VD: + Không có lửa làm sao có khói.
+ Cuộc đấu tranh giai cấp vô sản mâu thuẫn giai cấp tư sản (là nguyên nhân bao giờ cũng có
trước để dẫn đến cuộc cách mạng vô sản với tính chất là kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau)
+ Sự biến đổi của mầm mống trong hạt lúa bao giờ cũng phải xuất hiện trước còn cây lúa là
kết quả nó xuất hiện sau.
+ Bão (nguyên nhân) xuất hiện trước, sự thiệt hại của hoa màu, mùa màng do bão gây ra thì phải xuất hiện sau.
+ Người bị ô tô chèn chết đấy là kết quả xấu nhất nguyên nhân của nó là do việc thực hiện
luật lệ giao thông không đúng (không nghiêm chỉnh thực hiện luật lệ giao thông).
2. Trong hiện thực, mối liên hệ nhân quả biểu hiện rất phức tạp: một kết quả có thể do nhiều
nguyên nhân và một số nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả.
– Nếu các nguyên nhân tác động cùng chiều thì có xu hướng dẫn đến kết quả nhanh hơn.
– Nếu các nguyên nhân tác động ngược chiều thì làm cho tiến trình hình thành kết quả chậm
hơn, thậm chí triệt tiêu tác dụng của nhau.
VD: + Công cuộc cách mạng của chúng ta thắng lợi, giải phóng miền nam thống nhất đất
nước nó là kết quả của nhiều nguyên nhân: dân tộc ta “thà quyết hy sinh tất cả chứ không
chịu mất nước, không chịu làm nô lệ” và được sự ủng hộ của các nước, các dân tộc xã hội
chủ nghĩa và các nước, các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới.
+ Thầy giáo truyền đạt kiến thức cho học sinh (một nguyên nhân) là nguyên nhân dẫn đến
nhiều kết quả học tập đạt được của họ. Cùng một nguyên nhân như vậy nhưng lại dẫn đến
nhiều kết quả khác nhau đối với từng học sinh: học sinh đạt kết quả học tập giỏi, khá, trung bình, yếu kém.
+ Đốt lửa vào ngọn đèn dầu (Nguyên nhân) sinh ra kết quả: thứ nhất: có ánh sáng để cho mọi
người học tập và làm việc, thứ hai: Bấc ngắn, dầu cạn đi, thứ ba: làm tăng nhiệt độ môi trường.
3. Giữa nguyên nhân và kết quả có tính tương đối, có sự chuyển hoá, tác động qua lại tạo
thành chuỗi liên hệ nhân – quả vô cùng vô tận.
VD: Sự phát triển của vật chất là nguyên nhân sinh ra tinh thần, nhưng tinh thần lại trở thành
nguyên nhân làm biến đổi vật chất.
Con gà – quả trứng – con gà - ... 3. Ý nghĩa
– Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần tôn trọng tính khách quan của mối liên hệ nhân quả.
– Muốn cho hiện tượng nào đó xuất hiện cần tạo nguyên nhân cùng những điều kiện cho
nguyên nhân đó phát huy tác dụng. Ngược lại, muốn hiện tượng nào đó mất đi thì phải làm
mất nguyên nhân tồn tại của nó. VD: Để học tập tốt thì cần tạo điều kiện như nào, làm mất cái gì xấu?
– Phải biết xác định đúng nguyên nhân để giải quyết vấn đề nảy sinh vì các nguyên nhân có
vai trò không như nhau. VD: Đau bụng do nhiều nguyên nhân: ngộ độc thực phẩm, nhiễm
giun, đau bụng lạnh,... cần xác định đúng nguyên nhân để có phương án điều trị phù hợp,...
– Kết quả có thể tác động trở lại nguyên nhân. Do đó, trong hoạt động thực tiễn cần khai thác,
tận dụng những kết quả đã đạt được để thúc đẩy nguyên nhân tác động theo hướng tích cực.
VD: Học tập tốt thì đạt được kết quả cao khiến người ta phấn khích, càng muốn đạt nhiều kết
quả cao hơn nữa – phấn đấu học tập tốt hơn.
Câu 14. Trình bày khái niệm lượng chất
a. Vị trí, vai trò của quy luật
Quy luật lượng đổi-chất đổi là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy
vật. Nó chỉ ra cách thức chung nhất của sự phát triển, khi cho rằng sự thay đổi về chất chỉ
xẩy ra khi sự vật, hiện tượng đã tích luỹ được những thay đổi về lượng đã đạt đến giới hạn -
đến độ. Quy luật lượng đổi chất đổi cũng chỉ ra tính chất của sự phát triển, khi cho rằng sự
thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng vừa diễn ra từ từ, vừa có bước nhảy vọt làm cho sự
vật, hiện tượng có thể vừa có những bước tiến tuần tự, vừa có thể có những bước tiến vượt bậc.
b. Khái niệm chất, lượng
- Chất là tên gọi tắt của chất lượng (là chất của sự vật, hiện tượng khách quan) dùng
để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ của
các thuộc tính, những yếu tố cấu thành sự vật, hiện tượng làm cho chúng là chúng mà không
phải là cái khác (thể hiện sự vật, hiện tượng đó là gì và phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác).
VD: Nước không màu không mùi không vị; Con người được phân biệt với con vật ở tính có ý thức.
Phân biệt chất với thuộc tính
- Chất là sự thống nhất các thuộc tính, còn thuộc tính là những trạng thái, tính chất cơ
cấu nên sự vật. VD: Thuộc tính của viên phấn là dùng để viết, còn chất của viên phấn là được làm bằng thạch cao.
- Chất và thuộc tính có MQH chặt chẽ, không có chất nằm ngoài sự vật.
Thuộc tính: cơ bản và không cơ bản. Khi thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất thay
đổi, thuộc tính không cơ bản thay đổi thì chất chưa thay đổi.
Đặc điểm cơ bản của chất
1) Có tính ổn định tương đối, nghĩa là khi sự vật, hiện tượng chưa chuyển hoá thì chất
của nó chưa thay đổi. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có quá trình tồn tại và phát triển qua nhiều
giai đoạn; trong mỗi giai đoạn đó, chúng lại có chất riêng của mình.
VD: Quá trình từ nòng nọc thành ếch: Giai đoạn nòng nọc: có đuôi, sống dưới nước. Giai
đoạn thành ếch: mất đuôi, mọc 4 chân, sống trên cạn.
2) Mỗi sự vật, hiện tượng không phải chỉ có một chất mà có nhiều chất.
VD: Sắt là một nguyên tố hóa học, Fe, số hiệu nguyên tử 26, thuộc nhóm VIIIB, chu kỳ 4.
- Lượng dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng về các yếu tố biểu
hiện ở số lượng các thuộc tính, tổng số các bộ phận, đại lượng; ở trình độ quy mô và nhịp
điệu vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
VD: Lớp A có 50 sinh viên, …
Đặc điểm cơ bản của lượng
1) tính khách quan vì lượng là lượng của chất, là một dạng vật chất nên chiếm một vị
trí nhất định trong không gian và tồn tại trong một thời gian nhất định.
VD: Lớp A có 50 sinh viên, học ở phòng 1 từ 8h đến 11h.
2) Có nhiều loại lượng khác nhau trong các sự vật, hiện tượng; có lượng là yếu tố quy
định bên trong, có lượng chỉ thể hiện những yếu tố bên ngoài; sự vật, hiện tượng càng phức
tạp thì lượng cũng phức tạp theo. VD: trình độ phát triển của xã hội là yếu tố bên trong, số
dân cư trong một xã là yếu tố bên ngoài.
3) Trong tự nhiên và xã hội, có lượng có thể đo, đếm được; nhưng trong xã hội và tư
duy lại có những lượng khó đo lường bằng những số liệu cụ thể mà chỉ có thể nhận biết được
bằng tư duy trừu tượng. VD: Ta có thể đếm được 1 gói kẹo có 20 cái nhưng không thể đếm
được lượng kiến thức ta tích lũy được.
Câu 15. Nội dung quy luật chuyển hóa lượng – chất
- Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa tương đối. Tuỳ theo từng mối quan
hệ mà xác định đâu là lượng và đâu là chất; có cái là lượng ở trong mối quan hệ này, lại có
thể là chất ở trong mối quan hệ khác.
VD: Lớp A và B có cùng sĩ số, lớp A có 20 HSG, lớp B có 30 HSG. Khi xét về trình độ
học tập của 2 lớp thì lớp B tốt hơn, 30 HSG là chất. Khi so sánh số HSG 2 lớp thì 30 HSG lớp B là lượng.
- Mỗi sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng. Hai mặt
này tác động biện chứng lẫn nhau theo cơ chế khi sự vật, hiện tượng đang tồn tại, chất và
lượng thống nhất với nhau ở một độ nhất định.
+ Độ là khoảng giới hạn, mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi
về chất; sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó, chưa chuyển hoá. Sự thay đổi về lượng tạo điều kiện cho
chất đổi và kết quả là cái cũ mất đi, cái mới ra đời. VD: 0 < t < 100 C nước vẫn ở thể lỏng.
Lượng thay đổi đạt tới chỗ phá vỡ độ cũ, làm cho chất của sự vật, hiện tượng thay đổi,
chuyển thành chất mới - thời điểm, mà tại đó bắt đầu xảy ra bước nhảy - được gọi là điểm nút.
VD: 0 và 100C là điểm nút
+ Bước nhảy dùng để chỉ giai đoạn chuyển hoá cơ bản về chất của sự vật, hiện tượng
do những thay đổi về lượng trước đó gây nên; là sự thay đổi về chất khi đã tích lũy đủ về
lượng. Sự vận động của sự vật, hiện tượng diễn ra, lúc thì biến đổi tuần tự về lượng, lúc thì
nhảy vọt về chất, tạo ra một đường nút vô tận, làm cho sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ.
Các hình thức của bước nhảy.
Căn cứ vào quy mô và nhịp độ của bước nhảy, người ta chia bước nhảy thành bước
nhảy toàn bộ - là những bước nhảy làm cho tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố của sự
vật, hiện tượng thay đổi. VD: chiến thắng mùa xuân 1975, giải phóng hoàn toàn, đất nước
bước sang thời kì mới. Bước nhảy cục bộ - là loại bước nhảy chỉ làm thay đổi một số mặt,
một số yếu tố, một số bộ phận của sự vật, hiện tượng đó. VD: Dù xã hội đã hiện đại, bình
đẳng nhưng 1 phần nhỏ vẫn chưa thay đổi, tồn tại tư tưởng trọng nam khinh nữ,…
Căn cứ vào thời gian của sự thay đổi về chất và dựa trên cơ chế của sự thay đổi đó,
người ta chia bước nhảy thành bước nhảy đột biến - khi chất của sự vật, hiện tượng biến đổi
mau chóng ở tất cả mọi bộ phận cơ bản của nó. VD: Phóng xạ (radium biến đổi), núi lửa
phun trào. Bước nhảy dần dần - là quá trình thay đổi về chất diễn ra do sự tích luỹ dần những
yếu tố của chất mới và loại bỏ dần các yếu tố của chất cũ, làm cho sự vật, hiện tượng biến
đổi chậm. VD: tích lũy tư duy từ cấp 1 – cấp 2 – cấp 3 – đại học - …
Quy luật lượng đổi-chất đổi không chỉ nói lên một chiều là lượng đổi dẫn đến chất đổi
mà còn có chiều ngược lại, là khi chất mới đã ra đời, nó lại tạo ra một lượng mới phù hợp với
nó để có sự thống nhất mới giữa chất với lượng, thể hiện ở chỗ sự tác động của chất mới về
quy mô, trình độ, nhịp điệu v.v… đối với lượng mới tạo nên tính thống nhất giữa chất mới với lượng mới.
VD: Sinh viên vượt qua kì thi tốt nghiệp (điểm nút), trở thành cử nhân (bước nhảy) có
tấm bằng tốt và tìm được việc làm tốt (chất mới thay đổi quy mô tồn tại của SVHT). Sau đó,
sinh viên có nhu cầu học tập cao hơn – thạc sĩ (chất mới thay đổi sự vận động và phát triển)
Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất biện chứng giữa chất với
lượng. Sự thống nhất đó thể hiện ở
1) những thay đổi dần về lượng tới điểm nút chuyển thành những thay đổi về chất thông qua bước nhảy
2) chất mới ra đời sẽ tác động tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới; lượng mới
lại tiếp tục biến đổi, đến một mức độ nào đó lại phá vỡ chất cũ kìm hãm nó.
3) quá trình tác động qua lại giữa lượng và chất tạo nên con đường vận động liên tục
trong đứt đoạn, đứt đoạn trong liên tục; từ sự biến đổi dần dần về lượng tiến tới nhảy vọt về
chất; rồi lại biến đổi dần dần về lượng để chuẩn bị cho bước nhảy tiếp theo của chất, cứ thế
làm cho sự vật, hiện tượng không ngừng vận động, biến đổi và phát triển.
Câu 16. ý nghĩa phương pháp luận của quy luật chuyển hóa lượng - chất
1) sự phát triển của sự vật, hiện tượng bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích luỹ dần về
lượng. Vì vậy, phải biết từng bước tích luỹ về lượng để làm biến đổi về chất. VD: XHPK – XHCN – CSVN
2) quy luật xã hội diễn ra thông qua các hoạt động có ý thức của con người. Vì vậy,
khi đã tích luỹ đầy đủ về lượng phải tiến hành bước nhảy, kịp thời chuyển những thay đổi về
lượng thành những thay đổi về chất; chuyển những thay đổi mang tính tiến hoá sang bước
thay đổi mang tính cách mạng. Chỉ có như vậy chúng ta mới khắc phục được tư tưởng bảo
thủ, trì trệ, hữu khuynh thường được biểu hiện ở chỗ coi sự phát triển chỉ là thay đổi đơn
thuần về lượng. VD: tình bạn – tình yêu – hôn nhân.
3) sự thay đổi về chất còn phụ thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo
thành sự vật, hiện tượng. Vì vậy, trong hoạt động của mình, phải biết tác động vào cấu trúc
và phương thức liên kết trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật các yếu tố tạo thành sự vật, hiện
tượng đó. VD: muốn duy trì nước ở thể lỏng phải để nước trong giới hạn 0 < t < 100 C o
Câu 17: Phân tích khái niệm quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
a. Vị trí, vai trò của quy luật. Quy luật mâu thuẫn là một trong ba quy luật cơ bản của phép
biện chứng duy vật; nó chỉ ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động, phát triển.
b. Khái niệm mâu thuẫn và các tính chất chung của mâu thuẫn
Khái niệm mâu thuẫn. là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ, tương tác, tác động lẫn
nhau của các mặt đối lập. Yếu tố tạo thành mâu thuẫn là mặt đối lập - những mặt, thuộc tính,
khuynh hướng vận động trái ngược nhau; cùng tồn tại trong một sự vật, hiện tượng, trong
cùng một thời gian, một mối liên hệ; thường xuyên thống nhất, đấu tranh, chuyển hóa, triển khai lẫn nhau.
VD: Trong nguyên tử có điện tử và hạt nhân hay trong sinh vật thì có sự đồng hoá và dị hoá,
trong kinh tế thị trường có cung và cầu, hàng và tiền.
Mâu thuẫn có một số tính chất chung là tính khách quan, phổ biến; tính đa dạng,
phong phú. thể hiện ở chỗ, trong tự nhiên, xã hội và tư duy đều có mâu thuẫn tồn tại không
phụ thuộc vào ý thức con người.
Một số loại mâu thuẫn: bên trong - bên ngoài, cơ bản - không cơ bản, chủ yếu - thứ
yếu, đối kháng- không đối kháng.
Khái niệm sự thống nhất: là các mặt đối lập nương tựa nhau, làm điều kiện tồn tại
cho nhau, không có mặt này thì không có mặt kia. VD: Đồng hóa, dị hóa; Hấp thụ và bài tiết
trong con người, xã hội vô sản và tư bản: người bán, người mua.
Xét 1 phương diện nào đó, giữa 2 mặt đối lập có những nét giống nhau, gọi là đồng
nhất. Nhờ có nó mà các mặt đối lập chuyển hóa cho nhau. VD: có nam có nữ đều là con
người mới thành vợ chồng; Cái thiện và cái ác trong con người: trong cái ác có cái thiện, làm
sao để lương tâm thức tỉnh.
Đấu tranh giữa các mặt đối lập: là sự tác động, bài trừ phủ định nhau, là sự triển khai
của các mặt đối lập. VD: Tư sản - vô sản, nông dân - địa chủ. Nông dân tìm cách để thoát
khỏi địa chủ, địa chủ tìm cách để bóc lột.
Vai trò của mâu thuẫn đối với sự vận động và phát triển: tạo nên nguồn gốc của sự
vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng. Có hai loại tác động lẫn nhau dẫn đến vận
động. Đó là sự tác động lẫn một sự vật nhau giữa các sự vật, hiện tượng và sự tác động lẫn
nhau giữa các mặt đối lập trong, hiện tượng. Cả hai loại tác động này tạo nên sự vận động;
nhưng chỉ loại tác động thứ hai- loại tác động lẫn nhau giữa các cặp mặt đối lập do mâu
thuẫn giữa chúng tạo nên mới làm cho sự vật, hiện tượng phát triển. Câu 18.
Trình bày nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Trong mỗi mâu thuẫn, các cặp mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh lẫn
nhau tạo nên tình trạng ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng. Thống nhất giữa các cặp mặt đối lập: