-
Thông tin
-
Quiz
Câu hỏi thi vấn đáp - Lý luận nhà nước và pháp luật | Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội
Câu hỏi thi vấn đáp - Lý luận nhà nước và pháp luật | Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Lý luận chung về nhà nước và pháp luật 40 tài liệu
Đại Học Kiểm sát Hà Nội 226 tài liệu
Câu hỏi thi vấn đáp - Lý luận nhà nước và pháp luật | Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội
Câu hỏi thi vấn đáp - Lý luận nhà nước và pháp luật | Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Lý luận chung về nhà nước và pháp luật 40 tài liệu
Trường: Đại Học Kiểm sát Hà Nội 226 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:




















Preview text:
MỤC LỤC
CÂU 1: BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCNVN...............................2
CÂU 2: CHỨC NĂNG CỦA NNCHXHCNVN............................................3
CÂU 3: CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA BỘ MÁY NHÀ NƯỚC CHXHCNVN.
...........................................................................................................................5
CÂU 4: NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC và HOẠT ĐỘNG CỦA BMNNVN...6
CÂU 5 HÌNH THỨC NN CHXHCNVN. :
.....................................................7
CÂU 6: NN PHÁP QUYỀN XHCNVN.........................................................8
CÂU 7: CƠ CẤU CỦA QUY PHẠM PHÁP LUẬT..................................10
CÂU 8: CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH QUAN HỆ PHÁP LUẬT.............12
CÂU 9: CÁC TRƯỜNG HỢP ÁP DỤNG PHÁP LUẬT...........................15
CÂU 10: CÁC GIAI ĐOẠN CỦA QUÁ TRÌNH ADPL............................16
CÂU 11: CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH CỦA VPPL.................................17 1
CÂU 1: BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCNVN.
Sau CMT8 thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra
đời, là nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Nhà nước
CHXHCNVN là nhà nước kiểu mới về bản chất, khác hẳn với các kiểu
nhà nước từng có trong lịch sử. Bản chất bao trùm chi phối mọi lĩnh
vực tổ chức và hoạt động của đời sống nhà nước là tính nhân dân của
NN. Về khái niệm, bản chất NN là những phương diện cơ bản quy định
sự tồn tại và phát triển của NN, thể hiện ở 2 phương diện là tính giai cấp và tính xã hội.
Bản chất của nhà nước ta được Hiến pháp 2013 quy định
tại điều 2 như sau: Một là, nhà nước CHXHCNVN là nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Hai là, nước
CHXHCNVN do nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ tri thức.
Theo quy định trên, nhà nước ta thuộc kiểu nhà nước XHCN và
đang là nhà nước của thời kì quá độ lên CNXH. Bản chất của nhà
nước ta được thể hiện qua tính giai cấp và tính xã hội như sau:
Thứ nhất, dưới góc độ tính giai cấp: nhà nước ta mang tính
giai cấp công nhân. Nhà nước ta dựa trên nền tảng liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức, đặt dưới
sự lãnh đạo của ĐCSVN – đội tiên phong của giai cấp công nhân, tức là
Đảng phải phấn đấu theo mục tiêu lí tưởng của giai cấp công nhân. Do
đó, từ pháp luật đến cơ chế, chính sách, tổ chức và hoạt động của NN
đều quán triệt quan điểm của giai cấp công nhân, mà cụ thể là chủ
nghĩa ML và tư tưởng HCM. NN có nhiệm vụ cải tạo, xây dựng, quản lí
và phát triển đất nước theo con đường XHCN, đồng thời giữ gìn độc lập
dân tộc, bảo vệ NN XHCN.
Thứ hai, tính giai cấp của nhà nước ta gắn liền hữu cơ với
tính dân tộc và tính nhân dân sâu sắc. Sở dĩ như vậy là vì GCCN
VN ra đời và lãnh đạo cách mạng trong điều kiện nước ta đang nằm
dưới ách thống trị của thực dân Pháp, do vậy giai cấp công nhân nước
ta không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của dân tộc, của nhân dân. Vì
thế, giai cấp công nhân VN luôn đặt lợi ích của dân tộc, lợi ích của
nhân dân lên trên lợi ích củ giai cấp mình. Thêm vào đó, cách mạng
nước ta trải qua 2 giai đoạn là cách mạng DTDCND và cách mạng
XHCN. Trong cả 2 giai đoạn cách mạng đó, NN luôn phải huy động sức
mạnh đoàn kết của toàn dân và thực sự đã có sự đóng góp tích cực
của toàn dân tộc vào công cuộc kháng chiến kiến quốc, công cuộc xây
dựng NN kiểu mới ở nước ta. Sự gắn bó hữu cơ giữa tính giai cấp và
tính dân tộc, tính nhân dân của NN còn thể hiện ở chỗ NN đại diện và
bảo vệ cho lợi ích của toàn thể nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm 2
nền tảng, xây dựng một nước VN hòa bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ, công bẳng, văn minh.
Thứ ba, NN ta đang phấn đấu để từng bước đạt được mục
tiêu trở NN thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân, là NN có tính xã hội rộng rãi và sâu sắc. Trong quá trình xây
dựng CNXH ở nước ta, NN ta sẽ từng bước đáp ứng được tiêu chí là một
NN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, khi đó, NN sẽ có tính xã
hội rất rộng rãi và sâu sắc.
Thứ tư, NN ta vừa là bộ máy cưỡng chế, trấn áp, vừa là bộ
máy để tổ chức và xây dựng xã hội mới, điều hành và quản lí
các lĩnh vực hoạt động cơ bản của đời sống mà trước tiên và
quan trọng nhất là tổ chức và quản lí kinh tế. Để bảo vệ chính
quyền của nhân dân, bảo vệ chế độ, thiết lập và giữ gìn trật tự xã hội,
NN ta phải là 1 bộ máy cưỡng chế, 1 cơ quan trấn áp. Song, mục đích
cao nhất của NN ta là xây dựng thành công CNXH, xã hội đó không thể
hình thành bằng con đường bạo lực, trấn áp mà phải bằng con đường
tổ chức và xây dựng, nhất là tổ chức và quản lí kinh tế. Vì vậy, NN phải
trực tiếp điều hành và quản lí xã hội, xây dựng xã hội mới.
Thứ năm, NN ta xây dựng theo hướng trở thành NN pháp
quyền, tức là NN khẳng định và bảo đảm sự thống trị của PL trong đời
sống nhà nước, đời sống xã hội, 1 NN luôn bị ràng buộc bởi PL của
chính mình, tuyệt đối tôn trọng và thực hiện PL trong cả tổ chức và
hoạt động của nó. Đó cũng là NN có hệ thống PL dân chủ, minh bạch,
thể hiện ý chí của nhân dân, đem lại cuộc sống tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Tóm lại, NN ta mang bản chất giai cấp công nhân, quán triệt tư
tưởng, quan điểm của giai cấp công nhân từ PL, cơ chế, chính sách đến
tổ chức hoạt động của mình. Đồng thời, NN ta cũng mang tính dân tộc,
tính nhân dân sâu sắc. Đó là NN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
CÂU 2: CHỨC NĂNG CỦA NNCHXHCNVN.
Chức năng NN là một trong những vấn đề cơ bản và quan trọng
của mọi NN nói chung và NNCHXHCNVN nói riêng. Thực hiện tốt chức
năng NN sẽ là cơ sở, là điều kiện để NN ta bảo đảm và giữ vững địa vị
thống trị xã hội cũng như đảm bảo quyền tự do, dân chủ cho nhân dân.
Về khái niệm, chức năng của NN là hoạt động chủ yếu nhất, quan trọng nhất của NN,
mang tính thường xuyên, liên tục, ổn định tương đối, trực tiếp xuất phát và thể hiện đầy
đủ nhất, tập trung nhất bản chất, cơ sở kinh tế xã hội, nhiệm vụ chiến lược, mục tiêu cơ bản của NN.
Chức năng NN VN được thể hiện thông qua 2 chức năng là chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. , cụ thể như sau:
Về chức năng đối nội 3
Một là, tổ chức quản lý nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động
theo cơ chế thị trường, định hướng XHCN. Mục tiêu của chức năng này là đẩy nhanh
tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân
dân. Nội dung gồm: giải phóng và phát triển mạnh mẽ LLSX; phát huy mọi tiềm năng và
nguồn lực; xây dựng kết cấu hạ tầng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế; nâng cao chất lượng
và sức cạnh tranh, hình thành đồng bộ và hoàn thiện các loại thị trường và thể chế kinh tế
thị trường định hướng XHCN phù hợp với đặc điểm nước ta; chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế, mở rộng kinh tế đối ngoại gắn với nâng cao khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế.
Hai là, tổ chức và quản lý nền VH, GD, KH-CN. Đây là một chức năng có tính
tổng hợp cao, gồm những lĩnh vực thuộc phạm trù văn hóa theo nghĩa rộng. Mục tiêu của
chức năng này là nhằm xây dựng con người VN phát triển toàn diện về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, thể chất,… Nội dung gồm: Về văn hóa, bảo tồn và phát triển các di sản
văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa nền văn hóa nhân loại; Đầu tư phát triển văn hóa nghệ
thuật, tạo điều kiện cho người dân nâng cao trình độ thẩm mĩ và thưởng thức nghệ thuật;
Bảo đảm tự do dân chủ cho sáng tạo văn hóa nghệ thuật; Chăm sóc đời sống vật chất tinh
thần của văn nghệ sĩ: lương thưởng, đãi ngộ,... Về giáo dục, giáo dục, đào tạo có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của đất nước nên NN cần: Hết sức coi trọng
công tác giáo dục, đào tạo, coi đó là quốc sách hàng đầu; Xây dựng và chỉ đạo thực hiện
chiến lược phát triển giáo dục; Ban hành và tổ chức thực hiện PL giáo dục; Quy định
mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục; Đào tạo, bồi dưỡng, quản lí nhà giáo; Hợp tác
quốc tế trong giáo dục. Về KH-CN, ây
x dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính
sách nhiệm vụ KH – CN; Ban hành và tổ chức thực hiện PL về KH, CN; Tổ chức bộ máy
quản lí KH, CN; Quản lí hợp tác quốc tế về KH, CN,...
Ba là, chức năng xã hội, NN tiếp tục kiềm chế tốc độ tăng dân số, nâng cao chất
lượng dân số và phân bố dân cư hợp lý; Giải quyết các vấn đề việc làm, giảm tỉ lệ thất
nghiệp; Ngăn chặn các hành vi hủy hoại, gây ô nhiễm môi trường; Xóa đói, giảm nghèo,
tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng kĩ thuật; Hỗ trợ các nạn nhân chất độc gia cam, người
già cô đơn, trẻ mồ côi; Nâng cao chất lượng y tế, du lịch, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân,...
Bốn là, giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội. Mục tiêu chức năng
này là giữ vững ổn định chính trị và bảo vệ chế độ chính trị XHCN, đập tan mọi âm mưu
của kẻ thù. Nội dung gồm: Xây dựng, tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách về bảo vệ
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; Xử lí kịp thời nghiêm minh những vi phạm PL;
Kết hợp xây dựng, phất triển với bảo vệ nền chính trị xã hội; Tăng cường cơ sở vật chất
kĩ thuật cho các lực lượng vũ trang.
Năm là, công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân. Đây là một nguyên tắc Hiến định (khoản 1 điều 14 HP
2013). NN xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách về con người, quyền
con người, quyền công dân; Xử lí kịp thời mọi vi phạm; Không ngừng mở rộng các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; Hợp tác quốc tế,... 4
Sáu là, Bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng và thực hiện một cách nghiêm
chỉnh , đầy đủ và thống nhất. NN thực hiện chức năng này trên 3 lĩnh vực: xây dựng
PL, tổ chức thực hiện PL và bảo vệ PL. Tập trung trên 6 lĩnh vực chủ yếu là:
Tổ chức và hoạt động BMNN; Quyền con người và quyền công dân; Kinh tế và dân sự;
Văn hóa, giáo dục, KHCN và xã hội; Quốc phòng và an ninh; Hội nhập quốc tế.
Về chức năng đối ngoại, cụ thể như sau:
Một là, bảo vệ tổ quốc VN XHCN: Xây dựng, tổ chức thực hiện chiến lược và hệ
thống PL về quốc phòng; Phát huy nền quốc phòng toàn dân; Kết hợp chặt chẽ với kinh
tế; Xây dựng QĐND và CAND; Trang bị kĩ thuật, đời sống vật chất và tinh thần cho LLVT.
Hai là, quan hệ, hợp tác các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính
trị và xã hội khác nhau. NN xây dựng, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về đối
ngoại; Mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương; Đẩy mạnh công tác bồi
dưỡng, đào tạo cán bộ đối ngoại.
Ba là, tham gia vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. NN tích cực tham gia giải quyết các vấn đề
toàn cầu nhằm bảo vệ hòa bình, chống nguy cơ chiến tranh và chạy đua vũ trang; Ủng hộ
phong trào giải phóng dân tộc, góp phần xây dựng trật tự chính trị và kinh tế quốc tế.
Như vậy, có thể thấy, chức năng NN VN phản ánh đúng bản chất của NN ta. Đó là
NN thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, là NN có tính xã hội rộng rãi và sâu sắc.
CÂU 3: CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA BỘ MÁY NHÀ NƯỚC CHXHCNVN.
BMNN là một trong những vấn đề cơ bản và quan trọng của nhà nước ta. Về khái
niệm. Có thể hiểu, BMNN CHXHCNVN là hệ thống cơ quan NN từ TW đến địa
phương, có tính độc lập tương đối về cơ cấu tổ chức, được thành lập và có thẩm quyền
theo quy định của PL, nhân danh NN thực hiện chức năng và nhiệm vụ của NN bằng
hình thức, phương pháp đặc thù. Cơ cấu của bộ máy nhà nước là cấu trúc bên trong và
trật tự sắp xếp các bộ phận hợp thành của bộ máy nhà nước và những mối quan hệ tương hỗ giữa chúng.
BMNN VN được tổ chức thành các phân hệ cơ quan NN cơ bản và một chức
danh nguyên thủ quốc gia (người đứng đầu NN) là chủ tịch nước.
Một là, phân hệ các cơ quan dân cử trực tiếp (cơ quan quyền lực nhà nước)
gồm: Quốc hội và HĐND các cấp. Trong đó, quốc hội là cơ quan dân cử trực tiếp cao
nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực NN cao nhất của nước
CHXHCNVN, là cơ quan NN duy nhất có quyền ban hành luật, có quyền quyết định
chính sách đối nội và đối ngoại của NN, thực hiện quyền giám sát tối cao với toàn bộ
hoạt động của NN. Còn HĐND các cấp là cơ quan dân cử trực tiếp ở địa phương, là cơ
quan quyền lực NN ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của
nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân và cơ quan cấp trên. 5
Hai là, phân hệ các cơ quan hành chính nhà nước gồm: Chính phủ và UBND
các cấp. Trong đó, chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của nước CHXHCNVN,
thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành Quốc hội, chịu trách nhiệm trước Quốc
hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, UBTVQH, chủ tịch nước. Còn UBND là do
HĐND bầu ra, là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính NN ở địa phương,
chịu trách nhiệm trước HĐND cùng cấp và cơ quan NN cấp trên.
Ba là, phân hệ các cơ quan xét xử gồm: TAND tối cao, cấp cao, TAND cấp tỉnh,
TAND cấp huyện, Tòa án quân sự. Theo HP 2013, tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lí,
quyền con người, quyền công dân; bảo vệ chế độ XHCN và bảo vệ quyền làm chủ của
nhân dân; bảo vệ lợi ích của NN, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân.
Bốn là, phân hệ các cơ quan kiểm sát gồm: VKSND tối cao, cấp cao, VKSND
cấp tỉnh, VKSND cấp huyện và VKS quân sự các cấp. Theo HP 2013, VKSND có nhiệm
vụ bảo vệ PL, quyền con người, quyền công dân; bảo vệ chế độ XHCN và bảo vệ quyền
làm chủ của nhân dân; bảo vệ lợi ích của NN, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân.
Năm là, Chủ tịch nước: là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nhà nước
CHXHCNVN về đối nội, đối ngoại, chịu trách nhiệm trước quốc hội và báo cáo công tác
trước quốc hội. Chủ tịch nước có quyền trên cả 3 lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Ngoài ra, trong cơ cấu tổ chức BMNN CHXHCNVN còn có cơ quan kiểm toán
nhà nước và hội đồng bầu cử quốc gia.
Như vậy, cơ cấu tổ chức BMNN VN đang dần hoàn thiện, đồng bộ, chặt chẽ, phù
hợp với hình thức NN ta. Việc xây dựng một cơ cấu tổ chức BMNN là vô cùng quan
trọng, cần thiết đối với việc nâng cao hiệu quả hoạt động và quản lí mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
CÂU 4: NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC và HOẠT ĐỘNG CỦA BMNNVN.
BMNN là một trong những vấn đề cơ bản và quan trọng của NN ta. Về khái niệm,
BMNN CHXHCNVN là hệ thống cơ quan NN từ TW đến địa phương, có tính độc lập
tương đối về cơ cấu tổ chức, được thành lập và có thẩm quyền theo quy định của PL,
nhân danh NN thực hiện chức năng và nhiệm vụ của NN bằng hình thức, phương pháp đặc thù.
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của BMNN là những tư tưởng nền tảng, chỉ đạo
việc tổ chức và hđ của BMNN. Là công cụ có hiệu lực nhất để thực hiện quyền lực nhân
dân, BMNNVN được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc hiến định, xuất phát từ bản
chất chế độ chính trị - xã hội nước ta. Các nguyên tắc đó gồm:
Một là, nhân dân tổ chức nên BMNN và tham gia quản NN. (Điều 2, Điều 28
HP 2013). Việc thực hiện tốt nguyên tắc này không những đảm bảo cho NN ta luôn luôn
là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, mà còn là một biện pháp hữu hiệu
để ngăn ngừa và chống lại tệ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng trong BMNN.
Về cách thức nhân dân tổ chức, nhân dân tổ chức nên BMNN trc hết thông qua chế độ
bầu cử phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín để lựa chọn những người có đủ
đức, đủ tài vào các cơ quan đại diện cho quyền lực của nhân dân. Nhân dân có quyền 6
kiểm tra, giám sả hoạt động cuẩ đại biểu dân cử và có thể bãi miễn họ khi không xứng đáng với nhân dân.
Nhân dân tham gia quản lí NN dưới 2 hình thức. Dưới hình thức trực tiếp, nhân
dân bỏ phiếu cho người đại diện cho mình vào các cơ quan đại diện cho quyền lực của
nhân dân; Thảo luận, đóng góp ý kiến vào dự thảo các văn bản QPPL quan trọng; Bỏ
phiếu quyết định những vấn đề trọng đại của quốc gia; Kiểm tra giám sát sự hoạt động
của BMNN. Dưới hình thức gián tiếp: quản lí thông qua những cá nhân, tổ chức đại diện
cho mình như đại biểu dân cử, tổ chức CT-XH, các đoàn thể quần chúng khác.
Hai là, ĐCS lãnh đạo NN và XH ( Điều 4 HP 2013). ĐCSVN là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc VN, được vũ trang bằng CN
MLN, tư tưởng HCM, là tổ chức chính trị duy nhất có khả năng và điều kiện lãnh đạo đất
nước và xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng đối với NN là nhân tố quyết định đến hiệu lực,
hiệu quả quản lí NN. Trong chế độ dân chủ nước ta, Đảng lãnh đạo NN nhưng ko làm
thay NN, còn NN chịu sự lãnh đạo của Đảng những vẫn chủ động lãnh đạo NN và XH trên cơ sở PL.
Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với NN bao gồm: Đảng xác định mô hình tổ chức
BMNN sao cho NN thực sự là tổ chức quyền lực của nhân dân, vì nhân dân; Vạch ra
đường lối chiến lược về đối nội và đối ngoại để NN thể chế hóa thành PL và tổ chức thực
hiện PL ấy; Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho NN, giới thiệu đảng viên ưu tú và người
ngoài Đảng vào những vị trí then chốt trong BMNN; Giáo dục đạo đức, chính trị, tư
tưởng cho đảng viên và quần chúng; Kiểm tra, giám sát hoạt động của BMNN.
Như vậy, Đảng lãnh đạo NN một cách toàn diện. Để thực hiện vai trò của mình,
Đảng chủ yếu sử dụng các phương pháp: tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục và tự nêu gương.
Ba là, tập trung dân chủ: (Điều 8 HP 2013). Thực chất của nguyên tắc này là kết
hợp hài hòa giữa sự chỉ đạo tập trung thống nhất của cấp trên với việc phát huy dân chủ
và quyền chủ động sáng tạo của cấp dưới. Về tổ chức, các cơ quan NN đều bắt nguồn từ
cơ quan đại diện cao nhất cho quyền lực nhân dân là Quốc hội, báo cáo công tác trước
quốc hội. QH chỉ đạo thống nhất sự hoạt động của cả BMNN.
Trong hoạt động của BMNN, nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện trong quan hệ
2 chiều giữa cấp trên và cấp dưới. Đối với cấp trên: thường xuyên theo dõi, chỉ đạo hoạt
động của cấp dưới; Kịp thời ban hành những quyết định để cấp dưới thực hiện; Kịp thời
sửa chữa, khắc phục thiếu sót và nhược điểm quản lí của mình; Tôn trọng thẩm quyển
luật định của cấp dưới, tạo điều kiện cho cấp dưới thực hiện. Đối với cấp dưới, cần phục
tùng sự chỉ đạo của cấp trên; Thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh thống nhất các quyết định
quản lí của cấp trên; Kịp thời thông báo tình hình quản lí NN cho cấp trên; Nhanh chóng
sửa chữa, khắc phục thiêu sót của chính mình; Chịu trách nhiệm về sai phạm của mình khi quản lí NN.
Bốn là, tuân thủ PL. Nguyên tắc này đòi hỏi cơ cấu tổ chức và hoạt động của
BMNN cũng như của mọi cơ quan NN phải theo Hiến pháp và PL. Tất cả các cơ quan
NN và viên chức NN phải tôn trọng và thực hiện PL một cách đầy đủ, nghiêm chỉnh và
thống nhất. Chỉ được làm những gì PL cho phép, không được làm những gì mà PL cấm, 7
phải làm những gì mà PL yêu cầu phải làm và đều chịu trách nhiệm pháp lí như nhau khi VPPL.
Năm là, bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc. Nguyên tắc này thể hiện ở chỗ,
các dân tộc đều có quyền bầu người đại diện cho mình trong các cơ quan dân cử trực tiếp
và tham gia quản lí nhà nước; Được hưởng quyền và lợi ích như nhau, có nghĩa vụ như
nhau trong xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCN; Có quyền sử dụng những gì
thuộc về dân tộc mình: tiếng nói, chữ viết, bản sắc dt; NN thực hiện chính sách bình
đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc.
Như vậy, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của BMNN VN xuất phát từ bản chất
và phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước ta. Việc thực hiện tốt nguyên tắc này
sẽ góp phần giúp NN ta thực sự trở thành NN của dân, do dân, vì dân, một NN tiến bộ và
lí tưởng trong lịch sử dân tộc.
CÂU 5: HÌNH THỨC NN CHXHCNVN.
Hình thức nhà nước là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất
quan trọng. Kết quả của việc tiến hành sự thống trị về chính trị phục
thuộc phần lớn vào việc giai cấp thống trị tổ chức thực hiễn quyền lực
nhà nước theo hình thức nào.Hình thức nhà nước là cách tổ chức quyền
lực nhà nước và những phương pháp để thực hiện quyền lực nhà nước.
Hình thức nhà nước là một khái niệm chung được hình thành từ ba yếu
tố cụ thể: Hình thức chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước và chế độ chính trị.
Về hình thức chính thể, xuất phát từ bản chất của NN VN là NN của dân, do dân,
vì dân nên hình thức chính thể của NN VN là Cộng hòa dân chủ nhân dân. Theo HP
2013 và quy định của PL, Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất, là cơ quan đại diện
cao nhất của nhân dân, do nhân dân trực tiếp bầu ra. Quốc hội thực hiện quyền lập pháp,
thực hiện bầu chủ tich nước, thủ tướng chính phủ, thành lập và giám sát các hoạt động
của chính phủ. Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, TAND thực hiện quyền tư pháp,
Chủ tịch nước là người đứng đầu NN về đối nội và đối ngoại, chịu trách nhiệm trước
Quốc hội và có thể bị Quốc hội miễn nhiệm, bãi nhiệm. BMNN được tổ chức và hoạt
động theo nguyên tắc xuất phát từ bản chất của chế độ dân chủ XHCN (nhân dân tổ chức
nên BMNN và tham gia quản NN, ĐCS lãnh đạo NN và XH, tập trung dân chủ,…); Mặt
trận tổ quốc VN và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân,
NN luôn tạo điều kiện để Mặt trận tổ quốc VN và các tổ chức thành viên hoạt động hiệu
quả, phát huy thực chất vai trò của mình.
Về hình thức cấu trúc, NN VN là nhà nước đơn nhất trung ương tập quyền.
NN VN có 1 chủ quyền chung, toàn vẹn và thống nhất, có 1 hệ thống cơ quan NN thống
ngất từ TW đến địa phương, có 1 hệ thống PL thống nhất...Chủ quyền quốc gia do chính
quyền TW nắm giữ, chính quyền địa phương gồm 3 cấp tỉnh, huyện, xã phục tùng cấp
TW. Địa phương là các đơn vị hành chính lãnh thổ không có chủ quyền, không có quyền
ban hành Hiến pháp và pháp luật, không được tự tổ chức bộ máy chính quyền riêng mình. 8
Về chế độ chính trị, cũng xuất phát từ bản chất của NN, NN VN sử dụng phương
pháp dân chủ XHCN để thực hiện quyền lực NN, tổ chức và triển khai hoạt động của
NN như: Tổ chức bầu cử ra các cơ quan quyền lực, cơ quan đại diện cho nhân dân theo
nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp, bỏ phiếu kín; Các cơ quan NN được tổ chức
và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, nhân dân tham gia quản lí NN và xã hội,
bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc; NN thực hiện công khai, minh bạch nhiều chính
sách, quyết định quan trọng để cá nhân, tổ chức tham gia góp ý,...Trong giai đoạn đổi
mới, NN XHCNVN tiếp tục áp dụng và mở rộng các quyền tự do dân chủ cho phù hợp
với sự phát triển của xã hội, thường xuyên hoàn thiện chế độ dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Như vậy, hình thức chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước luôn có
liên quan mật thiết với chế độ chính trị. Ba yếu tố này có tác động qua
lại lẫn nhau tạo thành khái niệm hình thức nhà nước, phản ánh bản
chất và nội dung của nhà nước. Trong các nhà nước xã hội chủ nghĩa,
ba yếu tố này phải phù hợp với nhau, phản ánh đúng bản chất và nội
dung của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
CÂU 6: NN PHÁP QUYỀN XHCNVN.
Xây dựng NN pháp quyền ở VN là một đòi hỏi cấp thiết, cần có quá trình để thể
chế hóa vào PL và thực tiễn. Cùng với việc ban hành HP 2013, NN VN đã thể hiện rõ nét
quan điểm xây dựng NN pháp quyền trong giai đoạn hiện nay với những nội dung cơ bản sau:
Một là, NN XHCNVN là NN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Hiến
pháp năm 2013 đã khẳng định rằng:“Nước CHXHCNVN do nhân dân làm chủ; tất cả
quyền lực NN thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Nguyên tắc đó là một mệnh đề cơ bản để xây
dựng NN pháp quyền ở VN, là một đường thẳng xuyên suốt từ bản HP đầu tiên năm
1946 đến bản HP hiện nay (2013).
NN ngày càng đảm bảo và phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân, đảm
bảo việc tham gia vào quyền lực NN của dân: Nhân dân thực hiện quyền lực NN bằng
cách dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân
và thông quan các cơ quan khác của NN”(Điều 6, HP 2013). Các cơ quan NN, cán bộ,
công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, đấu tranh chống
tham nhũng, quan liêu, cửa quyền, hách dịch nhân dân.
Hai là, NN pháp quyền XHCNVN dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN. Mục tiêu xây
dựng NN pháp quyền được nhà nước ta kiên định từ khi giành độc lập đến nay, được
khẳng định 1 lần nữa trong HP 2013:“NN CHXHCNVN là nhà nước pháp quyền XHCN
của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”.
Xây dựng NN pháp quyền luôn đồng hành cùng với sự lãnh đạo của ĐCS. Điều 4
HP 2013 quy định:“ĐCSVN - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội
tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc VN, đại biểu trung thành lợi ích của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa MLN và tư
tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo NN và xã hội”. ĐCS là đại 9
diện chính thức cho dân tộc VN, chịu trách nhiệm trước nhân dân trong việc đưa ra
đường lối phát triển đất nước và xây dựng NN pháp quyền ở VN.
Ba là, quyền lực NN thống nhất, có sự phân công rõ ràng, phối hợp và kiểm
sỏa giữa các cơ quan NN trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đây
là một giá trị cơ bản và phổ biến, là linh hồn của tư tưởng NN pháp quyền. Hiến pháp
năm 2013 không những quy định sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan NN trong
việc thực hiện 3 quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp mà còn xác định cơ chế phải kiểm
soát lẫn nhau trong quá trình thực hiện quyền lực nhằm loại vị các vi phạm, lạm dụng quyền lực.
Sự phân công thực hiện 3 nhánh quyền lực được quy định như sau: quyền lập pháp
được trao cho Quốc hội - cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực NN
cao nhất của nước CHXHCNVN; quyền hành pháp được trao cho Chính phủ - cơ quan
hành chính cao nhất của nước CHXHCNVN, là cơ quan chấp hành Quốc hội; quyền tư
pháp được trao cho Tòa án nhân dân – là cơ quan xét xử của nước CHXHCNVN.
Các cơ chế kiểm soát quyền lực NN được quy định cụ thể trong chức năng, nhiệm
vụ của từng cơ quan NN, của Mặt trận TQVN, của công dân và các tổ chức của công dân.
Bốn là, đảm bảo tính tối thượng của HP và PL. HP và PL là công cụ hữu hiệu
nhất để quản lí XH. Sự tuân thủ HP và PL là một nguyên tắc cơ bản, cụ thể được HP
2013 quy định như sau: thứ nhất, các tổ chức của Đảng và Đảng viên ĐCSVN hoạt động
trong khuôn khổ HP và PL (điều 4); thứ hai, NN được tổ chức và hoạt động theo HP và
PL, quản lí xã hội bằng HP và PL (điều 8); thứ ba, mặt trận tổ quốc VN, các tổ chức
thành viên và các tổ chức xã hội khác hoạt động trong khuôn khổ HP và PL (điều 9); thứ
tư, công dân có nghĩa vụ tuân theo HP và PL (điều 46).
Năm là, đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong NN pháp quyền
XHCNVN. Trong HP 2013, quyền con người được thừa nhận và NN có nghĩa vụ tôn
trọng, bảo đảm cho cac quyền đó được thực hiện trong thực tế, bao gồm các quyền như:
quyền sống, quyền bất khả xâm phạm vè thân thể, quyền bất khả xâm phạm về đời sống
riêng tư,…Bên cạnh quyền con người, quyền công dân có nhiều điểm trùng khớp vối
quyền con người nên một số quyền công dân được ẩn chứa trong quyền con người và
ngược lại: quyền có nơi ở hợp pháp, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, quyền tự do
ngôn luận,… Các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là khung
pháp lí cơ bản để thể chế hóa vào hệ thống PL quốc gia. Đây là 1 trong những giá trị cốt
lõi mà NN ta hướng tới trong quá trình xây dựng NN pháp quyền XHCN.
Như vậy, NN pháp quyền trở thành giá trị văn minh của nhân loại mà mọi NN
muốn trở thành NN dân chủ, NN văn minh đều phải hướng tới. Ở VN, NN pháp quyền
VN XHCN, NN của dân, do dân, vì dân đã được Đảng ta đặt sự quan tâm và mong muốn
thiết lập, ngày càng đưa nhà nước ta trở nên tiến bộ và văn minh hơn.
CÂU 7: CƠ CẤU CỦA QUY PHẠM PHÁP LUẬT.
Một trong những thuộc tính cơ bản, quan trọng của PL là tính quy phạm. PL được
tạo nên chủ yếu từ các QPPL. Về khái niệm, quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung
do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh quan hệ xã hội 10
theo những định hướng và nhằm đạt được những mục đích nhất định. Cơ cấu của QPPL
bao gồm những thành phần sau:
Thứ nhất là giả định. Về khái niệm, giả định là bộ phận của quy phạm pháp luật
trong đó nêu ra những tình huống (hoàn cảnh, điều kiện) có thể xảy ra trong đời sống xã
hội mà quy phạm pháp luật sẽ tác động đối với những chủ thể (tổ chức, cá nhân), nói
cách khác giả định nêu lên phạm vi tác động của QPPL đối với cá nhân hay tổ chức nào?
trong những điều kiện, hoàn cảnh nào?
Ví dụ như trong Điều 45 Luật tố cáo năm 2011 đã quy định:“ Cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thành tích trong việc giải quyết tố cáo, người tố cáo có công trong việc ngăn
ngừa thiệt hại cho NN, tổ chức, cá nhân thì được khen thưởng về vật chất và tinh thần”.
Bộ phận giả định của quy phạm này là: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích trong
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, người tố cáo có công trong việc ngăn ngừa thiệt hại cho NN, tổ chức, cá nhân.
Về cách xác định, những tình huống (hoàn cảnh, điều kiện) được nêu ra trong
bộ phận giả định của quy phạm pháp luật là vô cùng phong phú. Hoàn cảnh có thể là
những sự kiện: liên quan đến hành vi của con người (tham gia giao thông, cố ý gây
thương tích cho người khác...); liên quan đến sự biến thiên tai, sự sinh, tử...); liên quan
đến thời gian (phạm vi lãnh thổ, đồng núi, miền núi). Về điều kiện có thể là: điều kiện về
thời gian (trước, trong hoặc sau một thời gian nào đó như trong thời gian bào hành sản
phẩm...), điều kiện về không gian ( địa điểm xảy ra sự kiện như nơi tội phạm xảy ra...),
điều kiện về chủ thể (độ tuổi, giới tính, dân tộc, tốn giáo, quốc tịch,...) tuỳ theo hoàn
cảnh mà NNquy định về điều kiện đối với chủ thể.
Về vai trò, bộ phận giả định của quy phạm pháp luật trả lời cho câu hỏi: Tổ chức,
cá nhân nào? trong những tình huống (hoàn cảnh, điều kiện) nào? Thông qua bộ phận giả
định của quy phạm pháp luật chúng ta biết được tổ chức, cá nhân nào? khi ở vào những
hoàn cảnh, điều kiện nào? thì chịu sự tác động của quy phạm pháp luật đó. Việc xác định
tổ chức, cá nhân nào và những hoàn cảnh, điều kiện nào để tác động là phụ thuộc vào ý chí của nhà nước.
Về yêu cầu, những chủ thể, hoàn cảnh, điều kiện nêu trong bộ phận giả định của
quy phạm pháp luật phải rõ ràng, chính xác, sát với tình hình thực tế, tránh tình trạng nêu
mập mờ, khó hiểu dẫn đến khả năng không thể hiểu được hoặc hiểu sai lệch nội dung của quy phạm pháp luật.
Về phân loại, giả định gồm có giả định giản đơn (nêu lên 1 điều kiện, hoàn cảnh)
và giả định phức tạp (nêu lên nhiều điều kiện hoàn cảnh). Ví dụ như :“Việc kết hôn được
tiến hành tại nơi thường trú của một bên nam hoặc nữ” < Giản đơn> hay “Người nào
thấy người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà không
cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết .
Giả định của QPPL có thể thay đổi do sự thay đổi của các điều kiện kinh tế, chính
trị, xã hội,…của đất nước hoặc sự thay đổi các quan điểm chính trị pháp lí của NN và sự
nhận thức của những người có liên quan đến quá trình xây dựng PL của đất nước.
Thứ hai là quy định. Về khái niệm, quy định là bộ phận của QPPL nêu lên những
cách hoạt động mà các chủ thể có thể hoặc phải thực hiện gắn với những tình huống đã 11
nêu ở bộ phận giả định của QPPL. Nói cách khác là khi xảy ra những hoàn cảnh, điều
kiện đã nêu ở bộ phận giả định của QPPL thì NN đưa ra những chỉ dẫn có tính chất mệnh
lệnh để các chủ thể thực hiện.
Về cách xác định: chủ thể phải xử xự như thế nào? (phải làm gì, hay được làm gì,
hoặc không được làm gì và làm ntn?)
Về vị trí, vai trò: Bộ phận quy định của QPPL được coi là phần cốt lõi của quy
phạm. Nó mô hình hóa ý chí của nhà nước. Đưa ra những cách xử sự để chủ thể thực
hiện sao cho phù hợp với ý chí của nhà nước.
Về yêu cầu, mức độ chính xác rõ ràng, chặt chẽ, rõ ràng của bộ phận quy định là
một trong những điều kiện đảm bảo nguyên tắc pháp chế.
Như vậy, bộ phận quy định của QPPL thường chỉ ra các quyền (lợi ích) mà các
chủ thể được hưởng hoặc các nghĩa vụ pháp lý mà họ phải thực hiện, mặc dù không phải
khi nào thuật ngữ quyền và nghĩa vụ cũng được trực tiếp thể hiện trong lời văn của quy
phạm. VD: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật
không cấm” (Điều 33 HP 2013). Bộ phận quy định của PL này (được làm gì) là: có
quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà PL không cấm.
Phân loại quy định: Dứt khoát (1 cách xử sự) và không dứt khoát (nhiều cách xử
sự).VD: “Việc NN quyết định giao đất đối với đất đang có người sử dụng cho người
khác chỉ được thực hiện sau khi cơ quan NN có thẩm quyền quyết định thu hồi đất” (điều
53 Luật đất đai 2013) ; “UBND cấp xã nơi cư trú của một trong hai bên nam,
nữ thực hiện đăng ký kết hôn” (khoản 1 điều 17 Luật hộ tịch 2014) .
Trong trường hợp này, các chủ thể tham gia quan hệ hôn nhân có thể lựa chọn việc đăng
kí kết hôn tại UBND nơi thường trú của bên nam hoặc bên nữ đều được cả.
Thứ ba là chế tài. Về khái niệm, chế tài là bộ phận của QPPL chỉ ra biện pháp
mang tính chất trừng phạt mà các chủ thể có thẩm quyền áp dụng quy phạm có thể áp
dụng đối với các chủ thể VPPL, không thực hiện đúng mệnh lệnh đã được nêu trong
phần quy định của QPPL. Ví dụ điều 130 BLHS năm 2015 quy định “Người nào đối xử
tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình làm người
đó tự sát, thì bị tù từ 2 – 7 năm”. Bộ phận chế tài ở đây là bị tù từ 2 – 7 năm.
Về cách xác định, bộ phận chế tài thường trả lời cho câu hỏi: các chủ thể có thẩm
quyền áp dụng quy phạm có thể áp dụng những biện pháp nào đối với các chủ thể đã
VPPL, không thực hiện đúng những mệnh lệnh đã được nêu trong bộ phận quy định của
QPPL. Còn đối với các chủ thể được nêu ở bộ phận giả định của QPPL thì NN gián tiếp
thông báo hoặc cảnh cáo cho họ biết họ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi bằng những biện pháp gì?
Về vai trò, chế tài đảm bảo QPPL được thực hiện nghiêm chỉnh.
Về yêu cầu: biện pháp tác động phải tương xứng với mức độ, tính chất của hành vi VPPL.
Về phân loại, căn cứ vào khả năng lựa chọn biện pháp áp dụng, mức áp dụng, có
2 loại: cố định (nêu lên 1 biện pháp trừng phạt) và không cố định (nêu lên nhiều biện
pháp trừng phạt). VD: “Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe 12
của người khác mà tỷ lệ thương tật từ ...% trở lên hoặc dẫn đến chết người do vượt quá
giới hạn phòng vệ chính đáng... thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giưc đến hai
năm hoặc phạt tù từ ba đến một năm” (Điều 136 Bộ luật hình sự năm 2015). Việc áp
dụng biện pháp nào, mức độ bao nhiêu là do chủ thể có thẩm quyền áp dụng quy phạm
lựa chọn. Ngoài ra, căn cứ vào tính chất và thẩm quyền áp dụng, chế tài được chia thành
4 loại: hình sự, hành chính, dân sự, kỷ luật.
Như vậy, trình tự trình bày các bộ phận của QPPL có thể thay đổi, không nhất
thiết phải theo trình tự: giả định – quy định – chế tài. Một điều luật không nhất thiết phải
có đủ 3 bộ phận: GĐ- QĐ- CT.
CÂU 8: CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH QUAN HỆ PHÁP LUẬT.
QHPL là một trong những vấn đề cơ bản và trọng tâm của PL.Về khái niệm,
QHPL là quan hệ xã hội được QPPL điều chỉnh, trong đó các bên tham gia trong QHPL
có các quyền và nghĩa vụ pháp lý được đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp nhà nước.
Là một dạng đặc biệt của quan hệ xẫ hội, QHPL cấu thành bởi các yếu tố: chủ thể, nội
dung và khách thể của QHPL.
Thứ nhất là chủ thể QHPL. Về khái niệm, chủ thể của QHPL là các cá nhân, tổ
chức có những điều kiện do PL quy định và tham gia QHPL. Điều kiện để cá nhân, tổ
chức trở thành chủ thể QHPL là có năng lực chủ thể pháp luật (năng lực pháp luật và năng lực hành vi).
Năng lực pháp luật là khả năng có các quyền và nghĩa vụ pháp lý do nhà nước quy
định cho các cá nhân, tổ chức nhất định. Nói cách khác, đó là toàn bộ quyền và nghĩa vụ
pháp lí mà chủ thể có thể có được theo định của PL. NLPL xuất hiện khi cá nhân được
sinh ra và mở rộng dần theo độ tuổi, chấm dứt khi cá nhân chết đi. VD như quyền bầu
cử, ứng cử,… Còn năng lực hành vi là khả năng mà nhà nước thừa nhận cho các cá
nhân, tổ chức, bằng hành vi mình có thể xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp
lý. Nó xuất hiện khi đủ độ tuổi, khả năng nhận thức và khả năng điều chỉnh hành vi. Ví
dụ như đi bầu cử, ứng cử,… Giữa quan hệ pháp luật và quan hệ hành vi có mối quan hệ
mật thiết với nhau. NLPL giữ vai trò quyết định, là tiền đề, cơ sở để tạo ra NLHV.
Không có chủ thể nào không có NLPL mà có NLHV. Mọi các nhân, tổ chức nếu chỉ có
NLPL mà không có NLHV thì không thể tham gia một cách độc lập vào các QHPL.
Chủ thể QHPL bao gồm các cá nhân, tổ chức có năng lực chủ thể theo quy định
của PL. Chủ thể QHPL là cá nhân bao gồm công dân, người nước ngoài, người không
quốc tịch. Công dân là các cá nhân mang quốc tịch của một quốc gia cụ thể, là chủ thể
hầu hết của các ngành luật. Tuy nhiên, để trở thành chủ thể của mỗi nhóm quan hệ PL
nhất định, công dân phải đảm bảo các điều kiện khác nhau đặc trưng cho nhóm quan hệ
đó. Ví dụ như trong quan hệ PL về kết hôn, công dân phải thỏa mãn điều kiện đủ từ 18
tuổi đối với nữ và từ 20 tuổi đối với nam. Người nước ngoài là người có quốc tịch của 1
quốc gia khác mà không phải là quốc gia mà họ đang sinh sống; người không có quốc
tịch là người không có quốc tịch ở bất kì quốc gia nào. So với công dân thì họ có năng
lực chủ thể hạn chế hơn. Họ có thể trở thành chủ thể của QHPL như: lao động, dân sự,…
nhưng không thể là chủ thể của 1 số QHPL như bầu cử, ứng cử,… 13
Chủ thể QHPL là tổ chức gồm pháp nhân, các tổ chức khác. Tổ chức do các nhóm
người thành lập nên theo một tiêu chí nhất định để hoạt động và hướng tới mục tiêu nhất
định. Pháp nhân là một tổ chức thống nhất, độc lập, hợp pháp, có tài sản riêng và chịu
trách nhiệm bằng tài sản của mình, nhân danh mình tham gia vào các quan hệ PL một
cách độc lập. Ngoài ra còn có một số các tổ chức không có tư cách pháp nhân: các tổ hợp
tác, hộ gia đình, doanh nghiệp tư nhân,…Các chủ thể này khi tham gia QHPL phải tuân
theo những điều kiện nhất định.
Thứ hai là nội dung của QHPL. Khi tham gia vào quan hệ pháp luật, các chủ thể
phải tuân theo cách xử sự mù quy phạm pháp luật ra. Ví dụ, trong quan hệ mua bán hàng
hóa giữa bên mua A và bên bán B. Bên A nhận hàng và phải trả tiền, còn bên B phải giao
hàng và được nhận tiền theo thỏa thuận. Cách xử sự của các bên trong quan hệ pháp luật
tạo thành nội dung quan hệ pháp luật bao gồm quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể.
Quyền chủ thể là khả năng của chủ thể được xử sự theo những cách thức nhất định
mà pháp luật cho phép. Quyền chủ thể gồm các khả năng sau đây: một là, khả năng của
chủ thể tự xử sự theo cách thức nhất định mà pháp luật cho phép. Hai là, khả năng yêu
cầu chủ thể khác chấm dứt hoặc thay đổi hành động, hoặc thực hiện nghĩa vụ tương ứng
để chủ thể đó thực hiện quyền của mình. Ba là, khả năng yêu cầu cơ quan nhà nước có
thẩm quyền bảo vệ quyền hợp pháp của mình.
Nghĩa vụ pháp lý là cách xử sự mà chủ thể buộc phải thực hiện theo quy định của
pháp luật nhằm đáp ứng việc thực hiện quyền của chủ thể khác. Nghĩa vụ pháp lý chủ thể
gồm những sự cần thiết xử sự sau: một là, phải thực hiện những xử sự bắt buộc mà pháp
luật đã xác định. Hai là, phải kiềm chế không thực hiện một số hoạt động nhất định. Ba
là, phải chịu trách nhiệm pháp lý khi xử sự không đúng với những quy định của PL.
Như vậy, quyền và nghĩa vụ có mối quan hệ mật thiết và thường có tính tương ứng
với nhau, quyền của chủ thể này là nghĩa vụ của chủ thể kia và ngược lại. Có những
quyền và nghĩa vụ có thể chuyển giao, có những quyền và nghĩa vụ không thể chuyển giao cho khách thể khác.
Thứ ba là khách thế của QHPL. Về khái niệm, khách thế QHPL là những lợi ích
vật chất, tinh thần hoặc các lợi ích xã hội khác mà các chủ thể mong muốn đạt được
nhằm thoả mãn nhu cầu của mình khi tham gia vào các quan hệ pháp luật nhất định.
Khách thể của quan hệ pháp luật chính là nguyên nhân thúc đẩy các chủ thể tham
gia quan hệ pháp luật để hưởng các quyền, nghĩa vụ pháp lý nhất định mà pháp luật quy
định. Ví dụ, xây dựng gia đình, xây dựng cuộc sống chung hạnh phúc giữa vợ chồng,
giữa cha mẹ và con cái là khách thể của quan hệ hôn nhân.
Hình thức (các loại) khách thể của quan hệ pháp luật bao gồm: tài sản vật chất,
tiền, vàng, nhà ở, các loại hàng hóa khác; sản phẩm của sáng tạo tinh thần, những lợi ích
phi vật chất như âm nhạc, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín ... Khách thể quan hệ
pháp luật phản ánh lợi ích của chủ thể.
Xét ví dụ cụ thể:
VD: Anh Nguyễn Văn A, sinh năm 1990, đến Công An Xã đăng ký tạm trú. 14
Các yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật :
* Chủ thể của quan hệ pháp luật là anh Nguyễn Văn A. (có năng lực pháp luật và năng
lực hành vi). Trong ví dụ trên :
+ Về năng lực pháp luật, anh Nguyễn Văn A sinh năm 1990 (24 tuổi) đủ ngăng lực pháp luật, theo luật cư trú.
+ Về năng lực hành vi, anh Nguyễn Văn A đã đạt được độ tuổi quy định về năng lực
nhận thức và điều khiển hành vi của mình. * của Nội dung
quan hệ pháp luật: Ở ví dụ trên, quyền của anh Nguyễn Văn A là đăng ký
tạm trú theo luật cư trú.
* Khách thể của quan hệ pháp luật: Ở ví dụ trên, khách thể của quan hệ pháp luật là đăng
ký tạm trú. Nhằm bảo đảm trật tự quản lí hành chính nhà nước trong lĩnh vực cư trú.
CÂU 9: CÁC TRƯỜNG HỢP ÁP DỤNG PHÁP LUẬT.
Trong các hình thức thực hiện PL, ADPL là hình thức quan trọng
và cần thiết hơn cả. Về khái niệm, Áp dụng PL là hoạt động do các chủ
thể có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục PL quy định nhằm
cá biệt hóa những QPPL vào các trường hợp cụ thể. ADPL được thực
hiện trong các trường hợp sau:
Một là, ADPL trong quá trình truy cứu trách nhiệm pháp lí
đối với những tổ chức, cá nhân có hành vi VPPL. Khi những hành
vi có dấu hiệu VPPL xảy ra thì các cơ quan NN, những người có thẩm
quyền tiến hành hàng loạt hoạt động ADPL đối với chủ thể đã thực
hiện hành vi đó. VD: công dân A thực hiện hành vi cướp tài sản của
người khác. Để truy cứu trách nhiệm pháp lí của A thì cơ quan điều tra,
VKSND, TAND tiến hành các hoạt động ADPL với A như: ra quyết định
tạm giam, ra quyết định khởi tố, ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, áp
dụng đưa ra các biện pháp cưỡng chế với A,…
Hai là, ADPL khi xảy ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ
pháp lí giữa các bên không thể tự giải quyết được, cần nhờ đến
sự can thiệp của NN. Thông thường, đây là tranh chấp trong lĩnh vực
dân sự khi các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia không thực
hiện được. Ví dụ như tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng
thương mại, dân sự, mua bán, các quyền về sở hữu,…
Ba là, áp dụng các biện pháp tác động mang tính cưỡng
chế nhưng không phải là trách nhiệm pháp lí, nhằm mục đích
đảm bảo an ninh trật tự và an toàn xã hội. Ví dụ như đưa trẻ vị thành
niên có VPPL vào trại giáo dưỡng, cách li người bị bệnh tâm thần, bệnh
truyền nhiễm với cộng đồng, đưa người nghiện ma túy cai nghiện,…
Bốn là, ADPL khi những quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lí
không mặc nhiên phát sinh nếu thiếu sự can thiệp của NN, của
những người có thẩm quyền trong cơ quan NN. Đó là những 15
trường hợp thuộc về lĩnh vực tổ chức và hoạt động của NN. Ví dụ như
nếu muốn vào ngành KS cần phải thông qua quá trình thi cử bổ nhiệm
rồi mới nhận quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Năm là, trong trường hợp NN (hoặc các chủ thể khác được
NN ủy quyền) xác nhận sự tồn tại hoặc không tồn tại của một
hiện tượng, sự việc, sự kiện, giấy tờ nào đó. Ví dụ như cơ quan
NN chứng thực các loại giấy tờ, xác nhận tính hợp pháp của di chúc, chứng sinh, chứng tử,…
Sáu là, ADPL trong trường hợp NN cần áp dụng các hình
thức khen thưởng đối với các chủ thể có thành tích theo quy
định của PL. PL không chỉ quy định những biện pháp trừng phạt đối
với các chủ thế VPPL mà còn có những hình thức khen thưởng đối với
những chủ thể có thành tích. Mục đích là nhằm đền đáp công ơn của
những người có công với đất nước, khuyến khích, động viên các chủ
thể,…từ đó làm cho PL được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, tự giác
hơn. Ví dụ như xét tặng bằng khen, danh hiệu danh dự của NN,…
Như vậy, tùy vào từng trường hợp mà các cơ quan nhà nước hay
người có thẩm quyền áp dụng PL khác nhau. Việc áp dụng PL cần tuân
thủ tuyệt đối các quy định của PL, đòi hỏi các chủ thể khi áp dụng cần
linh hoạt, sáng tạo để phù hợp với hoàn cảnh điều kiện thực tế.
CÂU 10: CÁC GIAI ĐOẠN CỦA QUÁ TRÌNH ADPL.
PL điều chỉnh các quan hệ xã hội khác nhau. Tùy thuộc vào tính
chất và đặc thù của quan hệ xã hội ấy mà PL có những cách thức và
mức độ điều chỉnh khác nhau. Vì vậy mà các quy trình, thủ tục ADPL
cũng được quy định khác nhau. Về khái niệm, ADPL là hoạt động do
các chủ thể có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục PL quy định
nhằm cá biệt hóa những QPPL vào các trường hợp cụ thể. Nhìn chung,
các giai đoạn của quá trình ADPL được tiến hành như sau:
Giai đoạn 1 là phân tích, đánh giá toàn bộ các tình tiết,
điều kiện của sự việc thực tế cần ADPL. Khi các cá nhân, tổ chức
có yêu cầu, tự nhận thấy cần thiết phải ADPL thì các cơ quan NN,
người có thẩm quyền phải tiến hành phân tích, đánh giá các điều kiện,
tình tiết của sự việc. Giai đoạn này cần làm sáng tỏ một số nội dung
sau: Một là, xác định tính chất pháp lí của sự việc, đặc biệt xác định
tình huống xảy ra trong thực tế có được PL điều chỉnh hay không? Nếu
điều chỉnh thì thuộc lĩnh vực nào và thời hạn áp dụng thế nào? Hai là,
xác định các bên tham gia quan hệ pháp luật đó: chủ thể ADPL, chủ
thể bị ADPL và người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Ba là, tìm hiểu,
điều tra, nghiên cứu khách quan, toàn diện các tình tiết sự việc, bao
gồm cả hoàn cảnh, điều kiện, mục đích và chủ thể thực hiện sự việc
hoặc có yêu cầu ADPL. Bốn là, tuân thủ các quy định thủ tục gắn với mỗi loại sự việc. 16
Kết thúc giai đoạn này, các cơ quan NN, người có thẩm quyền
phải kết luận sự việc xảy ra trong thực tế có cần ADPL hay không? Nếu
thấy không cần thiết hoặc không đủ điều kiện thì ra quyết định chấm
dứt hoặc không ADPL với trường hợp đó. Nếu thấy cần ADPL thì chuyển
sang giai đoạn tiếp theo.
Giai đoạn 2 là lựa chọn QPPL để giải quyết và làm rõ nội
dung, ý nghĩa của QPPL đó đối với trường hợp cần áp dụng. Giai
đoạn này có ý nghĩa quan trọng trong việc ADPL, đòi hỏi các chủ thể
ADPL cần thận trọng lựa chọn QPPL phù hợp. Giai đoạn này cần phải
thực hiện những nội dung: Một là, xác định vụ việc thuộc sự điều
chỉnh của ngành luật nào, sau đó lựa chọn QPPL tương ứng. QPPL được
lựa chọn phải là QP được công nhận chính thức và đang có hiệu lực PL.
Nếu có sự quy định khác nhau về vụ việc thi cần thì cần lựa chọn quy
phạm trong văn bản PL có hiệu lực pháp lí cao hơn.
Hai là, làm sáng tỏ những tình tiết khách quan của vụ việc có nội
dung và ý nghĩa tương ứng với QPPL đã lựa chọn, phù hợp với mục đích
và nguyên tắc của PL, chủ trường chính sách của NN. Trong thực tế,
các sự việc xảy ra thường đa dạng, phức tạp nên đòi hỏi các chủ thể
ADPL cần làm rõ tình tiết nào là quan trọng để việc ADPL được chính xác.
Giai đoạn 3 là ban hành quyết định ADPL. Giai đoạn này là
giai đoạn trung tâm, thể hiện toàn bộ sự đánh giá, nhận định, sự đồn
tình hay không đồng tình, thậm chí là sự trừng phạt của NN đối với
những tình huống thực tế cần ADPL. Hình thức của quyết định ADPL
chủ yếu thể hiện bằng văn bản. Quyết định ADPL có những đặc điểm
sau: Về thẩm quyền ban hành: quyết định ADPL do cơ quan NN, cá
nhân có thẩm quyền ban hành; Về căn cứ ban hành: thứ nhất: quyết
định ADPL phải được ban hành trên cơ sở các QPPL hiện hành. Nó
quyết định tính hợp pháp của một quyết định PL. Thứ hai: quyết định
ADPL căn cứ vào tình huống vào điều kiện thực tế. Đây là yêu cầu về
tính hợp lí của một quyết định ADPL. Về tính chất của quyết định
ADPL: có tính chất cá biệt, nghĩa là chủ áp dụng một lần đối với cá
nhân, tổ chức cụ thể. Về hình thức của quyết định ADPL: thường là văn
bản, là hình thức có ý nghĩa pháp lí cao nhất.
Các yêu cầu cơ bản đối với một quyết định ADPL: thứ nhất,
yêu cầu về tính hợp pháp: phải được ban hành đúng mục đích, đúng
nội dung, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục do PL quy định. Bên cạnh
đó, cần tuân thủ những quy định về trình tự ban hành và hình thức văn bản. Thứ hai, yêu
cầu về tính hợp :
lí được thể hiện rõ nét trong việc
định ra các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể PL đối với tình huống
thự tế có tính khả thi. Thứ ba, yêu cầu về sự cam kết của các chủ thể
PL: chủ thể PL cần thể hiện rõ ràng trong quyết định áp dụng PL về các 17
cam kết, các yêu cầu thực hiện quyền và nghĩa vụ các bên tham gia,
đặc biệt là các chủ thể bị ADPL.
Giai đoạn 4 là tổ chức thực hiện quyết định ADPL. Giai đoạn
này bao gồm những hoạt động tổ chức về kĩ thuật, vật chất cho thực
hiện đúng quyết định ADPL. Ví dụ như sau khi ban hành quyết định giải
quyết bạn khiếu nại, chủ thể ADPL tổ chức, hướng dẫn người khiếu nại,
người bị khiếu nại thực hiện quyền quyết định giải quyết khiếu nại. Giai
đoạn này còn bao gồm cả những hoạt động để đảm bảo cho việc thi
hành nghĩa vụ của các chủ thể PL như hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm sát.
Như vậy, các giai đoạn của quá trình ADPL khá chặt chẽ, hợp lí,
đem lại hiệu quả hoạt động cao. Việc thực hiện các giai đoạn này cần
tuân thủ tuyệt đối các quy định của PL, đòi hỏi các chủ thể khi áp dụng
cần linh hoạt, sáng tạo để phù hợp với hoàn cảnh điều kiện thực tế.
CÂU 11: CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH CỦA VPPL.
Kể từ khi trong xã hội xuất hiện PL thì cũng xuất hiện hiện tượng
VPPL. Về khái niệm, VPPL là hành vi trái PL, xâm hại các quan hệ xã
hội được PL bảo vệ, có lỗi do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lí
thực hiện. VPPL được cấu thành bởi 4 yếu tố: mặt khách quan, mặt chủ
quan, chủ thể và khách thể VPPL.
Thứ nhất là mặt khách quan của VPPL. Mặt khách quan của
VPPL là những biểu hiện ra bên ngoài của VPPL. Nó gồm những yếu tố
sau: Một là, hành vi trái PL: bất kì một VPPL nào cũng được cấu
thành bởi hành vi trái PL. Nếu không tồn tại hành vi trái PL của cá nhân
hoặc hoạt động trái PL của tổ chức cụ thể thì sẽ không có VPPL xảy ra.
Ví dụ: Ngày 4/5, Linh đến căn hộ 1101 chung cư nơi Nghĩa đang sống,
sau khi có quan hệ với nhau, Linh ngồi đánh điện tử, bất ngờ Nghĩa
dùng dao thái dài khoảng 20cm đâm 2 nhát vào sau lưng nạn nhân,
làm nạn nhân chết ngay tại chỗ. Đây là hành vi xâm hại đến tính mạng
của con người, là hành vi bị pháp luật tuyệt đối ngăn cấm.
Hai là, hậu quả (sự thiệt hại) do hành vi trái PL gây ra cho xã
hội: VPPL ở mức độ nào cũng nguy hiểm và gây hại cho xã hội về mặt
vật chất, tinh thần và những thiệt hại khác. Mức độ nguy hiểm của
hành vi trái PL được xác định phụ thuộc vào tính chất và mức độ thiệt
hại cho xã hội mà hành vi đó gây ra. Ví dụ: vụ án giết người của Nghĩa
ngày 4/5, hậu quả: hành động giết người của Nghĩa trực tiếp gây nên
cái chết thương tâm cho Linh, cướp đi sinh mạng của một cô gái trẻ
cùng một tương lai tươi sáng ở phía trước và gây một nỗi đau lớn cho gia đình…
Ba là, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái PL với hậu
quả mà nó gây ra cho xã hội: sự thiệt hại cho xã hội là hậu quả tất
yếu của hành vi trái PL. Nếu giữa hành vi trái PL và sự thiệt hại cho xã 18
hội không có mối quan hệ nhân quả thì thì sự thiệt hại xã hội không
phải do hành vi trái pháp luật đó gây ra mà do những nguyên nhân
khác. Ví dụ với vụ án giết người: sau khi Nghĩa giết nạn nhân, nạn
nhân mới tử vong có nghĩa là hành vi trái pháp luật xảy ra trước sự
thiệt hại. Hành động dùng dao đâm người luôn chứa đựng khả năng
làm mất sinh mạng của người bị đâm. Hơn thế nữa, cái chết của Linh là
kết quả tất yếu mà hành động của Nghĩa mang lại. Nói một cách khái
quát nhất, nguyên nhân dẫn đến cái chết của Linh chính là hành động giết người của Nghĩa.
Ngoài ra, còn một số các yếu tố như thời gian, địa điểm,
phương tiện,… Ví dụ, trong vụ án giết người ở ví dụ trên: thời gian
phạm nhân thựchiện hành vi của mình là khoảng 20h30, đấy là khoảng
thời gian “rất không an toàn” cho kẻ sát nhân, vì lúc đó còn rất nhiều
người thức, chưa kể địa điểm xảy ra vụ việc là một chung cư đông dân.
Công cụ giết người là một con dao thái sắc nhọn, vì vậy mà nguy cơ
xảy ra cái chết của nạn nhân là rất lớn.
Thứ hai là mặt chủ quan của VPPL. Mặt chủ quan của VPPL là
những biểu hiện tâm lí bên trong của chủ thể VPPL. Nó gồm những yếu tố sau:
Một là, lỗi của chủ thể VPPL: Lỗi là trạng thái tâm lí của chủ
thể đối với hành vi vi phạm của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra.
Lỗi thể hiện thái độ tiêu cực của chủ thể đối với xã hội.
Lỗi có 2 loại: lỗi cố ý và lỗi vô ý. Lỗi cố ý có thể là lỗi cố ý trực
tiếp: chủ thể vi phạm nhận thức được rõ hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi
của mình gây ra và mong muốn hậu quả xảy ra. Lỗi cố ý gián tiếp:
chủ thể vi phạm nhận thức được rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho
xã hội, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình
gây ra nhưng vẫn để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
Lỗi vô ý có thể là vô vì quá tự tin: chủ thể vi phạm nhận thức
được rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả
nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra nhưng hy vọng, tin
tưởng hậu quả đó không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được. Lỗi vô ý
vì cẩu thả: chủ thể vi phạm đã không nhận thấy trước được hậu quả
nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra mặc dù có thể hoặc
buộc phải thấy trước điều đó.
Ví dụ trong vụ án này, Nguyễn Đức Nghĩa có lỗi cố ý, có nghĩa là
thủ phạm hoàn toàn nhận thức được hành vi của mình sẽ khiến nạn
nhân tử vong mà vẫn thực hiện đến cùng. Đặc biệt hành vi của Nghĩa
chứa lỗi cố ý trực tiếp, hắn nhận thức rõ hành vi của mình là nguy
hiểm đến tính mạng của nạn nhân nhưng vẫn làm và mong muốn nạn nhân sẽ chết. 19
Hai là, động cơ vi phạm: là động lực thúc đẩy chủ thể thực
hiện hành vi VPPL như: vụ lợi, trả thù,…Ví dụ, động cơ vi phạm của
Nghĩa là muốn kiếm đựơc một số tiền lớn trong khoảng thời gian ngắn
nhất để chuộc xe lại cho người yêu mới trước khi bị người đó phát hiện.
Đây chính là động lực bên trong thúc đẩy thủ phạm thực hiện hành vi tàn ác của mình.
Ba là, mục đích vi phạm: là kết quả cuối cùng mà trong suy
nghĩ của mình chủ thể mong muốn đạt được khi thực hiện hành vi
VPPL. Ví dụ, mục đích của Nghĩa khi giết Linh là muốn chiếm đoạt tài
sản của cô. Trong trường hợp này, mục đích cuối cùng của chủ thể đã
được thực hiện, hoàn toàn trùng lặp với kết quả.
Thứ ba là khách thể của VPPL. Về khái niệm, khách thể của
VPPL là những quan hệ xã hội được PL bảo vệ nhưng bị hành vi VPPL
xâm hại. Những quan hệ xã hội khác nhau thì có tính chất và tầm quan
trọng khác nhau, do vậy, tính chất và tầm quan trọng của khách thể
cũng là những yếu tố để xác định mức độ nguy hiểm của hành vi VPPL.
Khác với khách thể của VPPL, khách thể của QHPL là giá trị vật chất,
tinh thần, lợi ích mà các bên muốn đạt được khi tham gia QHPL. Ví dụ,
trong vụ án trên, khách thể của vi phạm là tính mạng và tài sản của Linh.
Thứ tư là chủ thể của VPPL. Về khái niệm, chủ thể của VPPL là
cá nhân hoặc tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lí, nghĩa là theo
quy định của PL thì họ phải chịu trách nhiệm đối với hành vi trái PL của
mình. Nếu chủ thể VPPL là cá nhân thì phải là người đã đạt được
đến độ tuổi nhất định theo quy định của PL, có khả năng nhận thức và
kiểm soát hoạt động của bản thân. Nếu chủ thể VPPL là tổ chức:
phải có tư cách pháp nhân hoặc địa vị pháp lí. Ví dụ như trong vụ án
trên, Nghĩa là người bình thường, hoàn toàn tỉnh táo và có khả năng
điều khiển hành động bản thân, thêm vào đó việc giết người của Nghĩa
đã có chuẩn bị sẵn, có động cơ, có mục đích, có kế hoạch. Như vậy,
chủ thể của vi phạm trong trường hợp này hoàn toàn có năng lực trách
nhiệm pháp lí đã thực hiện hành vi trái pháp luật và có lỗi.
Như vậy, một VPPL phải được cấu thành bởi 4 yếu tố trên. Nó là
cơ sở để các cơ quan NN hay người có thẩm quyền xác định đó có phải
là hành vi VPPL hay không, từ đó đưa ra quyết định xử lí phù hợp. 20