Câu hỏi triết học - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
Đây là quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển lịch sử xã hội. Nóchỉ rõ mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, quy định sự vậnđộng, phát triển các phương thức sản xuất. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác -Lênin (THML01)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Câu 6. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật quan hệ SX phù hợp với
trình độ phát triển của LLSX là gì?
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất 1. Đặt vấn đề
Đây là quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển lịch sử xã hội. Nó
chỉ rõ mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, quy định sự vận
động, phát triển các phương thức sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có tác động biện chứng với nhau.
Trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất có tác
động mạnh mẽ trở lại lực lượng sản xuất.
Trình độ của lực lượng sản xuất: thể hiện trình độ chinh phục, cải biến tự
nhiên phục vụ cho sự sinh tồn và phát triển của con người. Trình độ của lực lượng
sản xuất được thể hiện ở: trình độ phát triển của công cụ lao động; trình độ tổ chức
và phân công lao động xã hội; trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất;
trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người.
Tính chất của lực lượng sản xuất: là tính chất cá nhân hay xã hội trong sử
dụng công cụ lao động của người lao động trong quá trình sản xuất. Khi quá trình
sản xuất được thực hiện bằng công cụ thủ công, lực lượng sản xuất chủ yếu là
mang tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí hóa, đòi hỏi phải được
vận động trong sự hợp tác xã hội rộng rãi trên cơ sở chuyên môn hóa. Ph .
Ăngghen nhận định: giai cấp tư sản “không thể biến những tư liệu sản xuất có hạn
ấy thành những lực lượng sản xuất hùng mạnh mà lại không biến chúng từ chỗ là
những tư liệu sản xuất do cá nhân sử dụng thành những tư liệu sản xuất xã hội, chỉ
có thể được sử dụng chung bởi một số đông người”1. Trong thực tế, tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất không tách biệt nhau.
1 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nxb CTQG, H, 1994, tr. 373.
Sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là trạng thái mà quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” tất yếu của lực
lượng sản xuất. Trạng thái mà các mối quan hệ cơ bản trong quan hệ sản xuất đạt
tới sự thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, “tạo địa bàn đầy
đủ”, điều kiện tối ưu cho sự kết hợp giữa lao động và tư liệu sản xuất. Với trạng
thái đó, lực lượng sản xuất sẽ phát triển. Sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất được thể hiện ở các dấu hiệu cơ bản:
năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền sản xuất xã hội không ngừng phát triển;
kích thích được thái độ nhiệt tình, tính tích cực của người lao động; mức sống
người dân được nâng cao, xã hội ổn định...
2. Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất
Sự ra đời, tồn tại và biến đổi của quan hệ sản xuất phụ thuộc vào trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, do lực lượng sản xuất quyết định. Vì, trong nền
sản xuất xã hội, lực lượng sản xuất là nội dung kinh tế kỹ thuật, còn quan hệ sản
xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất được hình thành trên cơ sở lực
lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất quyết định sự ra đời, nội dung, tính chất và sự
vận động biến đổi của quan hệ sản xuất.
Mặt khác, khuynh hướng của sản xuất xã hội là không ngừng biến đổi, phát
triển; sự phát triển đó xét đến cùng bắt nguồn từ sự biến đổi, phát triển của lực
lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, để lao
động bớt nặng nhọc, đạt hiệu quả cao hơn, con người luôn tìm cách cải tiến, hoàn
thiện công cụ lao động và chế tạo ra những công cụ lao động mới. Cùng với sự
biến đổi của công cụ lao động, kinh nghiệm, thói quen, kỹ năng lao động, kiến thức
khoa học của con người cũng tiến bộ hơn. Do vậy, lực lượng sản xuất là yếu tố
năng động, cách mạng, biến đổi và phát triển không ngừng. Đó là sự vận động tất
yếu khách quan của lực lượng sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển
của xã hội loài người. Lực lượng sản xuất vận động, phát triển chuyển sang một
trình độ mới với tính chất xã hội hóa ở mức cao hơn dẫn đến mâu thuẫn với quan
hệ sản xuất. Trạng thái mâu thuẫn thay thế trạng thái phù hợp. Mâu tthuẫn sẽ ngày
càng gay gắt và đến một lúc nào đó quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của
lực lượng sản xuất. Sự phát triển khách quan của lực lượng sản xuất đòi hỏi xã hội
phải xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay bằng kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất đã thay đổi, mở đường cho lực lượng sản xuất phát
triển. C. Mác nhận định: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực
lượng sản xuất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có... trong
đó từ trước đến nay, các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình
thức phát triển của lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành xiềng xích của các
lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại của một cuộc cách mạng xã hội”2.
Việc xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế bằng quan hệ sản xuất mới cũng
có nghĩa là sự diệt vong của một phương thức sản xuất lỗi thời và sự ra đời của
một phương thức sản xuất mới. C. Mác chỉ rõ: “Do có được những lực lượng sản
xuất mới, con người thay đổi phương thức sản xuất của mình, và do thay đổi
phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả các
quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái
cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”3.
3. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
Là hình thức xã hội của quá trình sản xuất, quan hệ sản xuất có tính độc lập
tương đối và tác động mạnh mẽ trở lại lực lượng sản xuất - nội dung kinh tế kỹ
thuật của quá trình đó.
Quan hệ sản xuất quy định mục đích xã hội của sản xuất, khuynh hướng
phát triển công nghệ, phương thức giải quyết quan hệ lợi ích, quy định các hình
thức tổ chức, quản lý sản xuất, quản lý xã hội. Từ đó hình thành một hệ thống các
yếu tố thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự tác động của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất diễn ra theo hai
chiều hướng. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất thì
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, khi quan hệ sản xuất không phù
hợp với trình độ của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
2 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H, 1993, tr. 15.
3 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H, 1995, tr. 187.
xuất (không phù hợp kể cả khi quan hệ sản xuất lỗi thời lạc hậu và khi có những
yếu tố, bộ phận của quan hệ sản xuất vượt quá xa so với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất). Sự tác động kìm hãm của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản
xuất chỉ là tạm thời, tương đối. Với sự phát triển tất yếu khách quan của lực lượng
sản xuất thì quan hệ sản xuất lỗi thời cuối cùng cũng bị thay thế bằng một kiểu
quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất không tách rời vai trò, tác động trở lại
của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất là tác nhân to lớn, trực tiếp thúc đẩy hoặc
kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Dù tác động to lớn đến đâu chăng
nữa, quan hệ sản xuất cũng không vượt qua được vai trò quyết định của lực lượng sản xuất.
4. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật quan hệ SX phù hợp với
trình độ phát triển của LLSX
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là quy luật xã hội, nó được biểu hiện thông qua hoạt động tự giác của con
người. Việc phát hiện và giải quyết mẫu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất, phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con người. Con người phát hiện
những yếu tố không phù hợp, giải quyết mâu thuẫn đem lại sự phù hợp với trình độ
phát triển mới của lực lượng sản xuất. Sợi dây phù hợp - không phù hợp là vô cùng
vô tận. Do đó, việc giải quyết mâu thuẫn cũng không phải một lần là xong. Để kinh
tế xã hội phát triển không ngừng, đòi hỏi con người phải theo sát quá trình sản
xuất, kịp thời phát hiện ra những thời điểm không phù hợp của quan hệ sản xuất,
đưa ra các hình thức mới phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất.
Nếu mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã bộc lộ gay
gắt và đòi hỏi phải giải quyết, nhưng con người không phát hiện được, không giải
quyết, hoặc do những sai lầm chủ quan trong quá trình giải quyết mâu thuẫn, thì
lúc đó không chỉ lực lượng sản xuất bị kìm hãm mà xã hội nói chung sẽ ít nhiều bị
đảo lộn. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là quy luật phổ biến và cơ bản nhất tác động trong toàn bộ lịch sử nhân loại.
Dưới chủ nghĩa xã hội, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất cũng biểu hiện ra dưới hình thức phù hợp và không phù hợp. Việc phát hiện
và giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vẫn thường
xuyên đặt ra đối với chủ thể quản lý. Sẽ là sai lầm nếu quan niệm rằng, trong chủ
nghĩa xã hội, khi đã xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất thì không còn mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, ở đó chỉ diễn ra sự phù hợp đầy
đủ, hoàn toàn và tự động. Những sai lầm chủ quan do không vận dụng đúng quan
hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vẫn có thể gây ra những
hậu quả nghiêm trọng, thậm chí gây sự đổ vỡ nền kinh tế xã hội. 5. Ví dụ
Ví dụ về vấn đề đổi mới kinh tế trong quá trình xây dựng đất nước tiến
lên chủ nghĩa xã hội
Đổi mới kinh tế là đòi hỏi khách quan của quy luật này. Đổi mới nhằm
không ngừng tìm ra những hình thức kinh tế thích hợp, những bước đi phù hợp đáp
ứng nhu cầu phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Đó là công việc
thường xuyên đối với việc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.
Để xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định
hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI, Đảng ta xác định: “phát triển kinh tế
là nhiệm vụ trung tâm”4, cần đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt mối
quan hệ “giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”5.
Như vậy, Đảng ta đã chỉ ra thực chất quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong điều kiện cụ thể ở nước ta. Đây là
vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận hết sức lớn lao trong chỉ đạo và hoạt động
thực tiễn của Đảng. Sự vận dụng đúng đắn quy luật này của Đảng đã đem lại hiệu
quả to lớn trong thực tiễn xây dựng và đổi mới đất nước những năm qua. Song, bên
cạnh những thành tựu cơ bản vẫn còn những khuyết điểm: chưa nhận thức đúng và
đầy đủ về sự phù hợp, thích ứng giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
4 Đảng Cộng sản Việt Nam, , Nxb CTQG, H, 201
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI 1, tr. 75.
5 Đảng Cộng sản Việt Nam, , Nxb CTQG, H, 201
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI 1, tr. 73.
lực lượng sản xuất; biểu hiện đặc thù của quy luật trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Do vậy, Đảng ta khẳng định: “Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất
với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản
xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”6. Tuy nhiên, trong
tình hình hiện nay có nhiều vấn đề mới, phức tạp, cần được tiếp tục nghiên cứu
giải quyết trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật này sát hợp điều kiện Việt Nam.
Câu 7. Chỉ ra biểu hiện của mqh biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng ở VN hiện nay
Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng xã hội 1. Đặt vấn đề
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, nhà nước và pháp luật quyết định
quan hệ kinh tế, ý thức tư tưởng quyết định tiến trình phát triển của xã hội. Chủ
nghĩa duy vật kinh tế lại cho rằng, kinh tế là yếu tố duy nhất quyết định, còn ý thức
tư tưởng, chính trị không có vai trò gì đối với tiến bộ xã hội.
Khắc phục những quan điểm duy tâm, sai lầm đó chủ nghĩa duy vật lịch sử
chỉ rõ quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng xã hội. Đây là một trong hai quy luật cơ bản chi phối mọi biển đổi của đời sống xã hội.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt thống nhất biện chứng
của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định, trong đó cơ sở hạ tầng quyết định kiến
trúc thượng tầng và kiến trúc thượng tầng tác động to lớn trở lại cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.
2. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng
6 Đảng Cộng sản Việt Nam, , Nxb CTQG, H, 201
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI 1, tr. 30.
Cơ sở hạ tầng là những quan hệ vật chất khách quan quy định mọi quan hệ
chính trị, tinh thần, tư tưởng của xã hội. Cơ sở hạ tầng nào thì kiến trúc thượng
tầng ấy. Kiến trúc thượng tầng bao giờ cũng phản ánh một cơ sở hạ tầng nhất định,
không có kiến trúc thượng tầng chung cho mọi xã hội.
Trong đời sống xã hội, bộ mặt của kiến trúc thượng tầng luôn biểu hiện ra
một cách phong phú, phức tạp, đôi khi dường như không gắn trực tiếp với cơ sở hạ
tầng. Nhưng đó chỉ là biểu hiện bề ngoài, còn thực tế, ngay cả những hiện tượng lạ
lùng nhất của kiến trúc thượng tầng cũng đều có nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ cấu
kinh tế của xã hội. Vì thế, C. Mác khẳng định: “Không thể lấy những quan hệ pháp
quyền cũng như những hình thái nhà nước, hay lấy cái gọi là sự phát triển chung
của tinh thần của con người, để giải thích những quan hệ và hình thái đó, mà trái
lại, phải thấy rằng những quan hệ và hình thái đó bắt nguồn từ những điều kiện
sinh hoạt vật chất... Nếu không thể nhận định về một người căn cứ vào chính ý
kiến của người đó đối với bản thân, thì ta cũng không thể nhận định về một thời
đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức của thời đại ấy”7.
Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng về tính chất, nội dung, hình
thức và sự biến đổi. Tính chất của kiến trúc thượng tầng đối kháng hay không đối
kháng, nội dung của kiến trúc thượng tầng nghèo nàn hay đa dạng phong phú, hình
thức tổ chức của kiến trúc thượng tầng gọn nhẹ hay cồng kềnh phức tạp đều do cơ
sở hạ tầng quyết định. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng còn thể hiện
ở chỗ, sự biến đổi căn bản trong cơ sở hạ tầng dẫn đến sự biến đổi căn bản trong
kiến trúc thượng tầng. C. Mác viết: “Cơ sở hạ tầng thay đổi thì toàn bộ cái kiến
trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng”8.
Sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng diễn ra rõ rệt khi cơ sở hạ tầng này
được thay thế bằng cơ sở hạ tầng khác. Nghĩa là, khi cách mạng xã hội đưa đến sự
thủ tiêu cơ sở hạ tầng cũ và thay thế cơ sở hạ tầng mới thì sự thống trị về chính trị
của giai cấp cũ bị xóa bỏ và được thay thế bằng sự thống trị của giai cấp mới, ý
thức xã hội cũng biến đổi, hệ tư tưởng của giai cấp mới giữ vị trí thống trị thay thế
7 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H, 1993, tr. 15.
8 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H, 1993, tr. 15.
cho hệ tư tưởng của giai cấp cũ. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, sự biến đổi
của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng diễn ra do kết quả của cuộc đấu tranh
giai cấp gay go, phức tạp giữa các giai cấp thống trị và bị trị, mà đỉnh cao là cách mạng xã hội.
Sự biến đổi của cơ sở hạ tầng dẫn đến biến đổi của kiến trúc thượng tầng là
cả quá trình phức tạp. Nguyên nhân những biến đổi của cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng xét cho cùng là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nhưng sự phát
triển của lực lượng sản xuất chỉ trực tiếp gây ra sự biến đổi của cơ sở hạ tầng và
chính sự biến đổi của cơ sở hạ tầng mới làm biến đổi căn bản kiến trúc thượng tầng.
Sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng diễn ra hết sức phức tạp. Có bộ phận
thay đổi nhanh chóng cùng với sự biến đổi của cơ sở hạ tầng như: chính trị, pháp
luật..., có bộ phận biến đổi chậm chạp hơn như: tôn giáo, nghệ thuật... và có yếu tố,
những hình thức không cơ bản nào đó của kiến trúc thượng tầng cũ được giai cấp
mới giữ lại, cải tạo để phục vụ cho yêu cầu phát triển của kiến trúc thượng tầng mới.
Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, cho nên trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa việc xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa có tác dụng vô cùng to
lớn đến mọi mặt của đời sống xã hội. Khi xem xét, cải tạo một bộ phận nào đó của
kiến trúc thượng tầng phải xem xét cải tạo từ cơ sở hạ tầng xã hội. V.I. Lênin viết:
“Những quan hệ vật chất của xã hội, chứ không phải những quan hệ tư tưởng của
xã hội là cơ sở của lịch sử”9.
3. Kiến trúc thượng tầng tác động to lớn trở lại cơ sở hạ tầng
Trong mối quan hệ với cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng không hoàn toàn
thụ động mà có tác động to lớn trở lại cơ sở hạ tầng.
Là một bộ phận cấu thành xã hội, được sinh ra và phát triển trên cơ sở hạ
tầng nhất định, cho nên nhiệm vụ hàng đầu của mọi kiến trúc thượng tầng là: luôn
9 V.I.Lê-nin, Toàn tập, tập 1, Nxb Tiến Bộ, Mát-xcơ-va 1974, tr.177.
luôn bảo vệ, duy trì, củng cố và hoàn thiện cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó, kể cả khi
các cơ sở hạ tầng ấy đã trở nên lỗi thời, lạc hậu.
Kiến trúc thượng tầng tìm mọi cách để xóa bỏ những tàn dư của cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng cũ, ngăn chặn những mầm mống tự phát của cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng mới nảy sinh. Thực chất những hoạt động của kiến
trúc thượng tầng đều nhằm bảo vệ và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó. Vì vậy,
kiến trúc thượng tầng thực sự trở thành công cụ, phương tiện để duy trì, bảo vệ địa
vị thống trị về kinh tế của giai cấp thống trị xã hội.
Trong các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trò đặc
biệt quan trọng, có tác động to lớn đối với cơ sở hạ tầng. Nó là một lực lượng vật
chất tập trung sức mạnh kinh tế và chính trị của giai cấp thống trị. Ph. Ăngghen
khẳng định: “Bạo lực (nghĩa là quyền lực nhà nước) cũng là một lực lượng kinh tế”10.
Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp đối kháng đấu tranh với nhau giành
chính quyền, cũng chính là để tạo cho mình sức mạnh kinh tế. Sử dụng quyền lực
nhà nước, giai cấp thống trị không ngừng mở rộng ảnh hưởng kinh tế, nhằm từng
bước thống trị về kinh tế đối với toàn xã hội. Kinh tế vững mạnh làm cho nhà nước
được tăng cường. Nhà nước được tăng cường lại tạo thêm phương tiện vật chất để
củng cố vững chắc hơn địa vị kinh tế và xã hội của giai cấp thống trị. Cứ như thế,
sự tác động biện chứng giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng (giữa chính trị
và kinh tế) đưa lại sự phát triển hợp quy luật của kinh tế và chính trị. Ở đây, nhà
nước là phương tiện vật chất, có sức mạnh kinh tế, còn kinh tế là mục đích của
chính trị. Lịch sử ra đời và tồn tại của nhà nước khác nhau đã chứng minh rõ nguyên lý đó.
Cùng với nhà nước, các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng cũng tác động
không nhỏ đến cơ sở hạ tầng bằng nhiều hình thức khác nhau, theo những cơ chế
khác nhau. Các yếu tố của kiến trúc thượng tầng không những có tác động đến cơ
sở hạ tầng, mà còn tác động lẫn nhau. Thông thường sự tác động qua lại này phải
10 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 37, Nxb CTQG, H, 1997, tr. 683.
thông qua nhà nước, pháp luật và các tổ chức tương ứng mới phát huy được hiệu
lực đối với cơ sở hạ tầng, cũng như đối với xã hội.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai
chiều hướng: khi kiến trúc thượng tầng tác động cùng chiều, phù hợp quy luật phát
triển của cơ sở hạ tầng sẽ thúc đẩy cơ sở hạ tầng phát triển. Trái lại, nếu tác động
ngược chiều, không phù hợp với quy luật phát triển của cơ sở hạ tầng sẽ cản trở sự
phát triển của cơ sở hạ tầng và xã hội.
Hiệu quả tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng, phụ
thuộc vào năng động chủ quan trong nhận thức và vận dụng quy luật kinh tế xã hội
vào hoạt động thực tiễn của con người. Kiến trúc thượng tầng có vai trò định
hướng những hoạt động thực tiễn, đưa lại phương án phát triển tối ưu cho kinh tế
xã hội. Tuy nhiên, kiến trúc thượng tầng có vai trò to lớn đến đâu cũng không bao
giờ vượt qua được vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng. Nếu quá nhấn mạnh, tuyết
đối hóa vai trò của kiến trúc thượng tầng, phủ nhận vai trò quyết định của cơ sở hạ
tầng, sẽ rơi vào sai lầm của chủ nghĩa duy tâm chủ quan, không thấy được tiến
trình khách quan của lịch sử.
Ph. Ăngghen chỉ rõ: chính là con người sáng tạo ra lịch sử của mình, nhưng
là sự sáng tạo trong một hoàn cảnh nhất định, mà con người phải thích ứng, và trên
cơ sở những quan hệ thực tế đang tồn tại, trong đó quan hệ kinh tế mặc dù có thể bị
những quan hệ khác, những quan hệ về chính trị và tư tưởng ảnh hưởng đến đâu
chăng nữa, nhưng xét đến cùng nó vẫn là những quan hệ quyết định, hình thành sợi
dây chỉ đạo xuyên qua toàn bộ sự phát triển, sợi dây duy nhất làm cho ta hiểu được sự phát triển.
4. Ý nghĩa phương pháp luận
Nghiên cứu quy luật này giúp chúng ta có cơ sở lý luận để nhận thức đúng
đắn quá trình phát triển của lịch sử xã hội và đấu tranh phê phán các quan điểm sai
lầm, duy tâm về vấn đề này, nhận thức và vận dụng quan điểm của Đảng vào xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Từ một nước thuộc địa nửa phong kiến với nền kinh tế lạc hậu sản xuất nhỏ
là phổ biến, đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, chúng ta gặp
những khó khăn và thách thức to lớn. Cơ sở hạ tầng thời kỳ quá độ ở nước ta còn
đan xen các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với hình thức sở hữu khác nhau, thậm
chí đối lập nhau cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế. Đó là, nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, Nhà nước sử dụng tổng thể các
biện pháp kinh tế, hành chính và giáo dục, với những hình thức và bước đi thích
hợp. Bảo đảm các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận quan
trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và
cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Chủ động,
tích cực hội nhập quốc tế, đồng thời giữ vững, tăng cường tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế.
Về kiến trúc thượng tầng, Đảng ta khẳng định: lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động, lấy
tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Giữ vững và tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị,
tư tưởng và tổ chức. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng là nhiệm
vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân
dân ta hiện nay. Tiếp tục xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân. Nhà nước ta là nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, chăm lo,
phục vụ nhân dân, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. 5. ví dụ
Ví dụ về Đảng xác định phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ
Vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào tình hình thực tiễn Việt
Nam, Đảng ta xác định: “Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là
xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng
tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước
xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”11.
Câu 8. Chỉ ra các yếu tố thuộc về CSHT,KTTT ở VN hiện nay?
1. Các khái niệm cơ bản
a, Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh
tế của một xã hội nhất định.
Mỗi một xã hội có một kết cấu kinh tế đặc trưng là cơ sở hiện thực của xã
hội “cơ sở hạ tầng”, hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất vật
chất. C. Mác chỉ rõ: “Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế
của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng
pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”12.
Cơ sở hạ tầng của một xã hội thường bao gồm: kiểu quan hệ sản xuất thống
trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội trước và quan hệ sản xuất mầm mống của xã
hội tương lai. Mỗi quan hệ sản xuất đó đặc trưng cho một phương thức sản xuất,
chúng vừa đấu tranh, vừa liên hệ với nhau hợp thành cơ sở kinh tế của một xã hội
cụ thể ở mỗi giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử.
b, Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền,
đạo đức, triết học, tôn giáo, nghệ thuật,… với những thể chế tương ứng như nhà
nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể … được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
Kiến trúc thượng tầng biểu hiện tập trung đời sống tinh thần của xã hội. Tất
cả các bộ phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều ra đời và phát triển trên
một cơ sở hạ tầng nhất định, phản ánh cơ sở hạ tầng và có vai trò nhất định trong
11 Đảng Cộng sản Việt Nam, , Nxb CTQG, H, 201
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI 1, tr. 25,71.
12 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H, 1995, tr. 15.
việc tạo nên bộ mặt tinh thần, tư tưởng của xã hội. Nó cùng với các bộ phận khác
trong xã hội hợp thành cơ cấu hoàn chỉnh của xã hội đó.
V.I. Lênin viết: “Kiến trúc thượng tầng gồm những quan hệ xã hội về tư
tưởng ở trên những quan hệ vật chất”13.
2. Các yếu tố thuộc về cơ sở hạ tầng
– Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam hiện nay bao gồm các kiểu
quan hệ sản xuất gắn liền với các hình thức sở hữu khác nhau.
Các hình thức sở hữu đó tương ứng với các thành phần kinh tế khác nhau,
thậm chí đối lập nhau, nhưng cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế thống nhất theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ở Việt Nam hiện nay, các hình thức sở hữu cơ bản gồm sở hữu nhà nước
(hay sở hữu toàn dân, trong đó nhà nước là đại diện của nhân dân), sở hữu tập thể,
sở hữu tư nhân. Các thành phần kinh gồm kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể, hợp tác
xã; kinh tế tư nhân; kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài.
Ví dụ:Kinh tế nhà nước: Tiêu biểu là các tập đoàn Viettel, PVN, EVN,
Vietnam Airline, Vinamilk…Kinh tế tập thể, hợp tác xã: Tiêu biểu là các hợp tác xã
nội nghiệp, công nghiệp ở các địa phương.Kinh tế tư nhân: Tiêu biểu là các tập
đoàn Vingroup, FLC, Massan, Vietjet…Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Tiêu
biểu là Toyota Vietnam, Huyndai Vietnam…
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của nền kinh tế thị trường, đồng thời
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đó là nền kinh tế hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân
là động lực quan trọng của nền kinh tế, các thành phần kinh tế khác được khuyến
khích phát triển hết mọi tiềm năng.
13 V.I. Lê-nin, Toàn tập, tập 1, Nxb Tiến Bộ, Mát-xcơ-va 1974, tr.219.
3. Các yếu tố thuộc về kiến trúc thượng tầng
– Trong xây dựng kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước Việt Nam khẳng định:
Lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng. Xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa mang tính chất giai cấp công
nhân, do đội tiên phong của giai cấp công nhân là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo, bảo đảm để nhân dân là người làm chủ xã hội.
Các tổ chức, bộ máy thuộc hệ thống chính trị như Đảng Cộng sản, Quốc
hội, Chính phủ, quân đội, công an, tòa án, ngân hàng… không tồn tại vì lợi ích
của riêng nó mà là để phục vụ nhân dân, thực hiện cho được phương châm mọi
lợi ích, quyền lực đều thuộc về nhân dân.
Cụ thể có thể hiểu
Kiến trúc tượng tầng gồm các thành tố:Những quan điểm, tư tưởng xã hội:
Đó là những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ
thuật…Những thiết chế xã hội tương ứng: Đó là nhà nước (gồm quốc hội, chính
phủ, quân đội, công an, tòa án…), đảng phái, giáo hội, hội nghề nghiệp và những đoàn thể xã hội khác.
Trong đó, mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm và quy luật phát
triển riêng. Nhưng chúng đều liên hệ với nhau và đều nảy sinh từ cơ sở hạ tầng,
phản ánh cơ sở hạ tầng, trong đó nhà nước là yếu tố có quyền lực mạnh mẽ nhất.
Câu 9. Tại sao nói sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
theo định hướng XHCN ở VN hiện nay là hợp quy luật?
Vì những lý do như sau 1.
Từ lý luận nền kinh tế thị trường theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, xã hội tồn tại và phát triển được là nhờ
sản xuất vật chất, lịch sử của xã hội trước hết là lịch sử phát triển của sản xuất vật chất.
C. Mác khẳng định, sự phát triển của xã hội tương lai, xã hội cộng sản chủ
nghĩa ở giai đoạn cao, lúc đó nhà nước tự tiêu vong và khi ấy kinh tế hàng hóa
(kinh tế thị trường) cũng không còn tồn tại. Lênin cũng cho rằng: Chủ nghĩa xã hô „i
(CNXH) là sản phẩm của nền đại công nghiệp cơ khí. Và nếu “không có kỹ thuật
tư bản chủ nghĩa quy mô lớn được xây dựng trên những phát minh mới nhất của
khoa học hiện đại... thì không thể nói đến CNXH được”. Tuy nhiên, trước khi
không còn cơ sở tồn tại, bản thân nhà nước và kinh tế thị trường lại cần thiết cho
quá trình xây dựng thành công một xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Logic này được Lênin khẳng định từ chính thực tiễn phát triển của nước
Nga. Khi Cách mạng tháng Mười (Nga) thành công, ngay bản thân Lênin, trong
giai đoạn đầu cũng triển khai chính sách cộng sản thời chiến. Tuy nhiên, sau đó
ông nhận ra sai lầm, nóng vội nó đối lập Đảng với quần chúng nhân dân và chỉ làm
trầm trọng thêm nền kinh tế vốn đã hoang tàn của đất nước. Lênin đã chỉ ra con
đường khắc phục thông qua triển khai thực hiện chính sách kinh tế mới, tức chuyển
từ kế hoạch hóa tập trung sang khuyến khích phát triển kinh tế hàng hóa, chấp
nhận mức độ nhất định cơ chế thị trường. Để phát triển lực lượng sản xuất trong
điều kiện mới hình thành còn nhiều khó khăn, cần phải duy trì nền kinh tế nhiều thành phần… 2.
Từ thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường ở Viê \t Nam
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tham khảo kinh
nghiệm phát triển của các quốc gia trên thế giới và từ thực tiễn phát triển Việt
Nam, Đảng ta đã đề ra đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCH.
Đây là bước phát triển mới về tư duy lý luận, một sự vận dụng độc lập, sáng tạo
của Đảng ta trong quá trình đổi mới và là sự vận dụng sáng tạo từ chỉ dẫn của chủ
nghĩa Mác - Lênin về CNXH và con đường đi lên CNXH, đặc biệt là những chỉ
dẫn của Lê-nin trong chính sách kinh tế mới.
Với mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nền kinh tế nước ta đã đạt nhiều
thành tựu, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn chiến tranh, bảo vệ nền độc lập dân tộc,
thống nhất đất nước. Tuy nhiên, sau khi thống nhất đất nước, cả nước đi lên
CNXH, mô hình kinh tế này đã bộc lộ nhiều hạn chế. Trước tình trạng sản xuất
đình đốn, thương mại trì trệ, năng suất lao động thấp, tốc độ tăng trưởng kinh tế rất
thấp, lực lượng sản xuất lạc hậu... Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn nước ta, quyết tâm từ bỏ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp để chuyển sang nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN.
Ở Việt Nam, mặc dù đã có quan điểm manh nha về kinh tế thị trường từ Đại
hội VI khi xác định xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tuy nhiên đến
Đại hội IX, thuật ngữ “phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN” mới chính
thức được sử dụng trong Văn kiện của Đảng.
Đến Đại hội X của Đảng (2006), 5 thành phần kinh tế gồm: kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài được xác lập trong nền kinh tế nước ta. Vị trí, vai trò của từng
thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân đã được nhận thức rõ ràng và xác định cụ thể.
Đến Đại hội XI của Đảng (2011) đã phát triển và hoàn thiện thêm một bước
đặc trưng kinh tế của CNXH, trong đó Đảng ta xác định: “Nền kinh tế với nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình
thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận
hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển
lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước và kinh
tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh
tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết
với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển”.
Trên cơ sở kế thừa nhận thức của các đại hội trước, Đại hội XII của Đảng đã
có những bổ sung đáng kể với sự hiện diện khá toàn diện và cụ thể các thành tố cấu
thành nền kinh tế, thể hiện bước tiến trong nhận thức lý luận của Đảng về mô hình
kinh tế Việt Nam, đó là: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam là nền
kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng
thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất
nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của
Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến
bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh
tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành
phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai
trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là
động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân
bố theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.
Như vâ „y, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam không phải là cái khác biệt mà
vẫn là “nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật khách quan của
kinh tế thị trường” như quy luật tự do cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá
trị; thực hiện tự do hoá thương mại... Các nguyên tắc, thông lệ quốc tế trong quản
lý và điều hành kinh tế được tuân thủ và vận dụng một cách hợp lý, linh hoạt. Nhà
nước quản lý, điều hành nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính
sách, pháp luật và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế nhà nước; thực
hiện sự điều tiết ở tầm vĩ mô, “định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế;
tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch” bảo đảm cho thị trường phát triển
lành mạnh, tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường.
Ngoài ra, nền kinh tế thị trường phải hiện đại và hội nhập quốc tế. Nền kinh
tế thị trường ở Việt Nam đã và đang thực hiện quá trình hội nhập quốc tế, mở rộng
và gia tăng các mối quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm
tranh thủ nhiều cơ hội hợp tác, giúp đỡ về nhiều mặt từ các nước, đặc biệt là các
quốc gia phát triển; chủ động và tích cực, nhanh chóng và hiệu quả, tận dụng tốt
những thời cơ, vận hội, phát huy tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước cho mục
tiêu tăng trưởng kinh tế, đồng thời có những biện pháp gia tăng khả năng dự phòng
của nền kinh tế, ứng phó tốt với những rủi ro, thách thức của tiến trình hội nhập.
Câu 11. Ý nghĩa của mqh biện chứng giữa tồn tại XH và ý thức XH
trong việc xây dựng nền văn hóa VN tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay?
1. Khái niệm tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội là toàn bộ điều kiện sinh hoạt vật chất và những quan hệ vật
chất của xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Tồn tại xã hội bao gồm: điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý; điều kiện dân
số và phương thức sản xuất. Các yếu tố trên có quan hệ biện chứng, thống nhất với
nhau tạo thành nền tảng vật chất cho sự tồn tại và phát triển của xã hội, nhưng vị
trí, yếu tố giữ vai trò quyết định.
2. Khái niệm ý thức xã hội
Ý thức xã hội thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần xã hội, gồm toàn bộ những
quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, tập quán, truyền thống.., nảy sinh từ tồn
tại xã hội và. phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
3. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, tồn tại xã hội và ý thức xã hội có mối
quan hệ biện chứng với nhau, trong mối quan hệ ấy tồn tại xã hội quyết định ý thức
xã hội, ý thức xã hội có vai trò tác động tích cực to lớn trở lại tồn tại xã hội.
a) Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
Các tư tưởng triết học trước C. Mác về xã hội đều giải thích sai lầm về
nguồn gốc, bản chất của ý thức xã hội. Họ cho rằng, ý thức xã hội là do thần thánh,
hoặc “ý niệm tuyệt đối” tạo ra, ý thức xã hội là cái vốn có, cái quyết định tất cả
không liên quan hay phụ thuộc vào tồn tại xã hội.
Đối lập với các quan điểm trên, chủ nghĩa Mác - Lênin lần đầu tiên nghiên
cứu xã hội trên quan điểm duy vật triệt để và khẳng định: ý thức xã hội có nguồn
gốc từ tồn tại xã hội do tồn tại xã hội quyết định. Bản chất của ý thức xã hội là
phản ánh tồn tại xã hội. Công lao to lớn của C. Mác, Ph. Ăngghen là phát triển chủ
nghĩa duy vật đến đỉnh cao, xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử, lần đầu tiên
hai ông đã giải quyết khoa học về sự hình thành và phát triển của ý thức xã hội và
chứng minh đời sống tinh thần xã hội được hình thành, phát triển trên cơ sở của
đời sống vật chất, do đời sống vật chất quyết định; rằng không thể tìm nguồn gốc
của tư tưởng, tâm lý xã hội trong bản thân nó, nghĩa là không thể tìm trong đầu óc
con người mà phải tìm trong hiện thực vật chất. C. Mác viết: “Không phải ý thức
của con người quyết định sự tồn tại của họ, trái lại tồn tại xã hội quyết định ý thức của họ”14.
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội cả về nguồn gốc ra đời, nội dung,
tính chất và sự vận động biến đổi. Ý thức xã hội được nảy sinh từ tồn tại xã hội do
tồn tại xã hội quyết định, luận điểm trên của C. Mác đã bác bỏ những quan điểm
sai lầm của chủ nghĩa duy tâm muốn tìm nguồn gốc của ý thức xã hội trong bản
thân ý thức, tư tưởng và xem tinh thần, tư tưởng là nguồn gốc của mọi hiện tượng
xã hội, quyết định sự phát triển của lịch sử xã hội. Ý thức xã hội là cái đi phản ánh
tồn tại xã hội. Vì vậy, tồn tại xã hội như thế nào thì ý thức xã hội căn bản như thế
ấy, trong xã hội có giai cấp ý thức xã hội cũng mang tính giai cấp sâu sắc.
Thực tiễn lịch sử chứng minh, ở các giai đoạn lịch sử khác nhau ý thức xã
hội cũng khác nhau. Nếu tồn tại xã hội không có sự đối lập về địa vị, lợi ích giữa
các tập đoàn người, các giai cấp thì tư tưởng xã hội mang tính thuần nhất không có
đối kháng. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, khi con người vừa tách khỏi giới
động vật, sống trong trạng thái mông muội, công cụ lao động thô sơ, năng xuất lao
động thấp kém, không có sự đối lập về địa vị, lợi ích kinh tế cho nên ý thức xã hội
của họ “mang tính động vật như chính đời sống xã hội ở giai đoạn ấy, đó là ý thức
14 C. M¸c vµ Ph.¡ngghen, Toµn tËp, tập. 3, Nxb CTQG, H, 1995, tr. 66.
quần cư đơn thuần”15. Do lực lượng sản xuất thấp kém, hoạt động kiếm sống của
con người theo kiểu làm chung, hưởng chung nên chưa nảy sinh quan niệm về tư
hữu. Ý thức xã hội của con người lúc này là ý thức cộng sản nguyên thủy.
Sự tan rã của xã hội cộng sản nguyên thuỷ làm cho “ý thức quần cư”
nguyên thủy cũng mất đi theo và đưa tới sự ra đời của xã hội chiếm hữu nô lệ, chế
độ xã hội đầu tiên có giai cấp và đối kháng giai cấp. Ý thức con người cũng có sự
biến đổi; tư tưởng tư hữu, bóc lột, ăn bám chủ nghĩa cá nhân hình thành và phát
triển. Sự đối lập về địa vị, điều kiện sinh hoạt vật chất đầu tiên này đã đưa tới sự
đối lập sâu sắc về tư tưởng. Sự ra đời của xã hội phong kiến và chế độ tư bản chủ
nghĩa đã đưa tới sự biến đổi tương ứng của ý thức xã hội. Do cơ sở kinh tế, giai
cấp quy định, ý thức xã hội trong xã hội phong kiến và xã hội tư bản mang tính đối
kháng sâu sắc, C. Mác viết: “Không thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thế
căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những
mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản
xuất xã hội và những quan hệ sản xuất xã hội”16. Như vậy, tồn tại xã hội không chỉ
quyết định đến nội dung và tính chất của ý thức xã hội mà còn quyết định sự biến
đổi của ý thức xã hội. Khi tồn tại xã hội thay đổi, đặc biệt là khi phương thức sản
xuất xã hội có sự thay đổi căn bản, thì sớm hay muộn các quan điểm, tư tưởng, lý
luận xã hội như; ý thức chính trị, pháp quyền, đạo đức…cũng sẽ thay đổi theo. Ở
mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, mỗi chế độ xã hội khác nhau, có những điều kiện
vật chất, quan hệ vật chất khác nhau thì thức xã hội cũng khác nhau.
Trong quan hệ biện chứng với ý thức xã hội, cả ba yếu tố của tồn tại xã hội
đều tham ra quyết định ý thức xã hội. Song vị trí, vai trò của từng yếu tố là không
ngang bằng nhau. Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội chủ yếu, tập trung phản
ánh phương thức sản xuất vật chất, mà trực tiếp là quan hệ sản xuất trong từng giai
đoạn phát triển lịch sử nhất định.
b) Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
15 C.Mác và Ph. Ăngghen, Toµn tËp, tập. 3, Nxb CTQG, H, 1995 , tr. 38.
16 C.M¸c vµ Ph.¨ngghen, Toµn tËp, tập.13, Nxb. CTQG, H, 1993, tr. 15.