Câu hỏi Triết học - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính làm cho sự vật là chính nó chứ không phải là cái khác. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác -Lênin (THML01)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Câu hỏi Triết học:
1. Qui luật tích lũy về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất? Ý nghĩa đối với việc học tập của sinh viên? Khái niệm chất:
Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách
quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ của
các thuộc tính làm cho sự vật là chính nó chứ không phải là cái khác. Khái niệm lượng:
Lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
sự vật về các phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, quy
mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận động,
phát triển của sự vật.
Lượng thường được xác định bởi những đơn vị đo lường cụ thể với con số chính
xác nhưng cũng có lượng biểu thị dưới dạng khái quát, phải dùng
tới khả năng trừu tượng hoá để nhận thức
Mối quan hệ biện chứng:
Mỗi sự vật, hiện tượng là sự thống nhất giữa hai cặp đối lập chất
và lượng. Hai mặt đối lập không tách rời nhau mà tác động qua
lại biện chứng làm cho sự vận động, biến đổi theo cách thức từ
những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất của sự vật và ngược lại.
2.3.1. Lượng đổi dẫn đến chất đổi:
Khi sự vật đang tồn tại, chất và lượng thống nhất với nhau ở một độ nhất định.
Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ giới hạn, trong đó sự thay đổi về lượng
của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy.
VD: Độ tồn tại của nước nguyên chất ở trạng thái lỏng từ 0C đến 100C.
Trong giới hạn của một độ nhất định, lượng thường xuyên biến đổi còn chất
tương đối ổn định. Sự thay đổi về lượng của sự vật có thể làm
chất thay đổi ngay lập tức nhưng cũng có thể làm thay đổi dần
dần chất cũ. Lượng biến đổi đến một giới hạn nhất định có xu
hướng tích luỹ đạt tới điểm nút, nếu có điều kiện sẽ diễn ra bước
nhảy làm thay đổi chất của sự vật.
Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó, sự thay đổi về
lượng đã làm thay đổi chất của sự vật.
VD: 0C và 100C là điểm nút để nước chuyển sang trạng thái rắn hoặc trạng thái khí (bay hơi).
Muốn chuyển từ chất cũ sang chất mới phải thông qua bước nhảy.
Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hoá về chất của sự
vật do những sự thay đổi về lượng trước đó gây nên.
VD: một cuộc cách mạng, một kỳ thi, một đám cưới,…
Bước nhảy kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng và mở đầu cho một giai
đoạn phát triển mới. Đó là gián đoạn trong quá trình vận động
liên tục của sự vật, đồng thời là một tiền đề cho một quá trình
tích luỹ liên tục về lượng tiếp theo.
VD: Trong xã hội: Sự phát triển của lực lượng sản xuất (lượng đổi) tới khi mâu
thuẫn với quan hệ sản xuất lỗi thời (chất cũ) sẽ dẫn đến đấu
tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng xã hội (bước nhảy) làm
cho xã hội cũ mất đi, xã hội mới tiến bộ hơn ra đời.
2.3.2. Chất mới ra đời, nó tác động trở lại lượng mới, làm thay đổi kết cấu,
quy mô, trình độ nhịp điệu của sự vận động phát triển của sự vật:
Như vậy, bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất biện chứng giữa
hai mặt chất và lượng. Sự thay đổi về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về
chất thông qua bước nhảy. Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng
mới. Quá trình đó liên tục diễn ra, tạo thành phương thức phổ
biến của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng trong tự nhiên, xã hội, tư duy.
Tóm tắt nội dung quy luật:
Mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về lượng
trong khuôn khổ của độ tới điểm nút sẽ làm thay đổi chất của sự
vật thông qua bước nhảy, chất mới ra đời tác động trở lại sự thay
đổi của lượng mới, tạo thành quá trình vận động phát triển liên tục của sự vật.
Kiến thức là vô ngàn vô tận và việc bước qua một quá trình học
tập mới cũng đồngnghĩa với việc tiếp thu kiến thức nhiều hơn và
khó khăn hơn. Để lên được bậc Đại học đồng nghĩa với việc thu
nạp đủ kiến thức của 12 năm học. Và nếu như ở bậc THPT, việc
học được kéo dài xuyên suốt 1 năm với tất cả các môn và kiến
thức sẽ được xoay quanh liên tục thì lên Đại học mỗi môn học là
hệ thống kiến thức kéo dài trong khoảng 1-2 tháng. Khác với
phương pháp học thụ động như THPT, sinh viên Đại học sẽ phải
tham gia rất nhiều hoạt động nhóm, thuyết trình, ngoại khoá,..
Không chỉ vậy, các môn học tại bậc Đại học rất đa dạng và mới
mẻ, ngoài việc đọc sách giáo trình, sinh viên còn phải tìm thêm
nhiều nguồn thông tin từ trong sách báo, tài liệu liên quan. Chính
sự thay đổi về khối lượng kiến thức, thời gian và phương pháp học
sẽ khiến nhiều tân sinh viên gặp khó khăn trong quá trình thích
nghi với môi trường học tập, giáo dục mới. Đây chính là sự thay
đổi về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất. Sự khác nhau lớn nhất
giữa bậc THPT và Đại học có lẽ là nhiệm vụ trong học tập, đối với
bậc THPT thì việc lên lớp và hoàn thành các mục tiêu mà giáo
viên đề ra chính là nhiệm vụ lớn nhất nhưng đối với sinh viên Đại
học, điều họ đang đối mặt không chỉ là những nhiệm vụ đơn
thuần trên lớp mà họ còn phải thực hiện các kì thực tập, phải bắt
đầu đặt ra mục tiêu cho tương lai của chính bản thân họ. Ngoài
ra, khi lên Đại học, ý thức của bản thân là yếu tố quan trọng nhất,
không còn sổ liên lạc hay họp phụ huynh, tinh thần tự
học sẽ được phát huy rõ rệt. Do đó, nếu muốn thành công thì
ngay khi bước chân vào giảng đường họ phải luôn nhắc nhở mình
phải chuẩn bị kế hoạch và thực hiện chúng thật nghiêm túc để
mang lại những kết quả to lớn.
2. Trong mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX thì sự
phát triển của LLSX bị kìm hãm khi nào? Nêu những giải
pháp để phát triển LLSX ở nước ta hiện nay? Không biết…
3. Phân tích quan điểm triết học Mác Lê Nin về nhân tố con
người và vấn đề phát huy vai trò của nhân tố con người
trong sự nghiệp đổi mới ở Vn hiện nay?
Quan điểm của Mác: Điều kiện quyết định của sự hình thành con
người, theo các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác là lao động. Lao động
xuất hiện đánh dấu sự chuyển biến từ tổ tiên động vật thành con
người. Trong lao động, con người thường xuyên biến đổi những
điều kiện tồn tại của mình, cải tạo chúng cho phù hợp với những
nhu cầu thường xuyên phát triển của mình, xây dựng nên thế giới
văn hoá vật chất và tinh thần của mình. Nền văn hoá do con
người sáng tạo ra như thế nào thì nền văn hoá ấy lại tạo ra con
người như vậy. Hoạt động lao động phát triển làm biến đổi toàn
bộ bản chất tự nhiên của tổ tiên con người. Về mặt xã hội, lao
động đưa đến sự hình thành những chất mới - chất xã hội của con
người, như ngôn ngữ, tư duy, giao tiếp, quan niệm, định hướng
giá trị, thế giới quan…Không chỉ thế, lao động còn đưa đến sự cải
tạo bản năng con người trên hai bình diện là bắt bản năng phục
tùng sự kiểm soát của lý trí và cải tạo bản năng thành trạng thái
mới về chất của hoạt động nhận thức. Tất cả những điều ấy làm
xuất hiện một loài sinh vật mới - Homo sapiens (người khôn) mà
ngay từ đầu, nó đã thể hiện tính xã hội và lý trí. Nhấn mạnh tính
phổ biến của yếu tố xã hội trong con người, C.Mác đã khẳng định:
“Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà
những quan hệ xã hội”. Bản chất con người không phải là “cái
trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt” như người ta nghĩ, mà
có tính lịch sử – cụ thể. Nghĩa là, nội dung của bản chất ấy, tuy về
căn bản là có tính xã hội, song tính xã hội ấy lại có sự biến đổi tuỳ
theo nội dung cụ thể của thời đại, của hoàn cảnh xã hội – văn
hoá,… Tổng hợp những nét bản chất của con người,
có thể nói, con người là một thực thể có lý tính, là chủ thể của lao động, của
những quan hệ xã hội và giao tiếp. Trên cơ sở quan niệm duy vật
về lịch sử, C.Mác đã đưa ra một quan niệm hoàn chỉnh về con
người với tư cách thực thể sinh học – xã hội. Thông qua cấu trúc
này, C.Mác đã làm sáng tỏ mối quan hệ con người – tự nhiên – xã
hội. C.Mác không phủ nhận mặt sinh học khi xem xét con người
với tư cách “những cá nhân sống”. Ông cho rằng, “điều cụ thể
đầu tiên cần phải xác định là tổ chức cơ thể của những cá nhân
ấy” và mọi khoa học “đều phải xuất phát từ những cơ sở tự nhiên
ấy”. Mặt sinh học của con người thể hiện ra trong các hiện tượng
hình thái – sinh lý học, di truyền học, các quá trình thần kinh –
não và một số quá trình khác của cơ thể con người. C.Mác không
thừa nhận quan điểm coi cái duy nhất tạo nên bản chất con người
là đặc tính sinh học. Mặt xã hội là nói về thế
giới tinh thần bên trong của con người - đó là những quá trình ý thức và vô
thức, ý chí, ấn tượng, trí nhớ, tính cách, tính khí,… Mỗi mặt riêng
rẽ trên không làm rõ được hiện tượng con người trong tính chỉnh
thể của nó. Khi chúng ta tiếp cận con người với tư cách một thực
thể có lý tính, thì lý tính (tư duy) của con người là một hiện tượng
sinh học – tâm lý – xã hội, được tổ chức một cách phức tạp. Cơ
chất vật chất của tư duy tuân theo mặt sinh học, còn nội dung
của tư duy là sự đan xen lẫn nhau giữa cái tâm lý và cái xã hội.
Mặt sinh học và mặt xã hội tồn tại một cách thống nhất, không tách rời trong
con người. Ở cấp độ sinh học, con người nằm trong mối liên hệ tự
nhiên của các hiện tượng và phục tùng tính tất yếu tự nhiên. Ở
bản tính xã hội, con người hướng về tồn tại xã hội, về xã hội, về
lịch sử loài người và văn hoá. Như vậy, con người là thể thống
nhất hoàn chỉnh, là thực thể sinh học - xã hội, hình thành nên từ
hai mặt: tự nhiên và xã hội. Yếu tố sinh học trong con người
không phải tồn tại bên cạnh yếu tố xã hội, mà hoà quyện vào và
tồn tại trong yếu tố xã hội. Bản tính tự nhiên được chuyển vào
bản tính xã hội và được cải biến ở trong đó. Tự nhiên và xã hội
thống nhất với nhau trong bản chất con người. Con người là một
thực thể sinh học – xã hội được cụ thể hoá trong những cá nhân
hiện thực. Cá nhân với nghĩa là một cá thể riêng rẽ, đại biểu cho
loài sinh vật cao nhất – Homo sapiens - không phải là tổng số
giản đơn cái sinh học và cái xã hội, mà là thể thống nhất dẫn đến
hình thành một bậc thang mới về chất – nhân cách con người.
Bản chất của nhân cách là sự kết tinh tiềm năng điều chỉnh – tinh
thần, là trung tâm của tự ý thức, là nguồn gốc của ý chí và hạt
nhân của tính cách, là chủ thể của hành động tự do và quyền lực
tối cao trong đời sống nội tâm của con người. Trong nhân cách,
điều quan trọng không chỉ là thấy cái chung, mà phải còn phải
thấy cái đơn nhất là cá tính. Tính đa dạng và phong phú của cá
tính con người là điều kiện chủ yếu tạo nên sự đa dạng của các cá
nhân, là hình thức biểu hiện sự phát triển cao đẹp của xã hội, là
nhu cầu thực sự của sự phát triển xã hội lành mạnh, được tổ chức
một cách hợp lý. Mối liên hệ giữa cá nhân với xã hội trước hết
được biểu hiện thông qua tập thể ban đầu (tập thể gia đình, tập
thể lớp học, tập thể lao động) để gia nhập vào xã hội. Tập thể
ban đầu là xã hội ở quy mô nhỏ của xã hội loài người – trình độ tổ
chức cao nhất của các hệ thống sống. Chính ở đây, cá nhân và xã
hội trực tiếp tác động lẫn nhau. Ở tập thể ban đầu này, cá nhân
được hình thành về mặt tinh thần, thể xác và hấp thụ được ở mức
độ này hay mức độ khác cái đã được tạo ra bằng lao
động của những thế hệ trước. Những hình thức giao tiếp trong tập
thể tạo thành những mối liên hệ xã hội, làm hình thành diện mạo
của mỗi con người. Thông qua tập thể ban đầu, “sự hoàn trả” cái
cá nhân cho xã hội và những thành tựu của xã hội cho cá nhân đã
diễn ra. Mỗi cá nhân mang trong mình dấu ấn của tập thể và mỗi
tập thể cũng mang trong mình dấu ấn của các thành viên. Tập
thể không phải là cái gì phi nhân cách, mà là sự liên hiệp những
cá tính khác nhau, không lặp lại. Trong tập thể, cá nhân không
chìm đi, không tan ra, mà nổi lên và tự khẳng định mình. C.Mác
đã chỉ rõ vai trò của xã hội đối với sự hình thành cá nhân và vai
trò của cá nhân đối với sự hình thành xã hội: “Bản thân xã hội sản
xuất ra con người với tính cách là con người như thế nào thì nó
cũng sản xuất ra xã hội như thế”. Trình độ giải phóng xã hội luôn
được thể hiện ra ở sự tự do của cá nhân con người. Cá nhân được
giải phóng sẽ tạo ra động lực cho giải phóng xã hội và đến lượt
mình, giải phóng xã hội lại trở thành điều kiện thiết yếu cho sự
giải phóng cá nhân. Con người tự giải phóng cho mình và qua đó,
giải phóng xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội.Cùng với việc xem xét
con người với tư cách một thực thể sinh học – xã hội,
con người với tư cách nhân cách, C.Mác còn làm sáng tỏ vị thế và
vai trò của con người trong lịch sử. Theo C.Mác, khuynh hướng
chung của tiến trình phát triển lịch sử được quy định bởi lực lượng
sản xuất xã hội; trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
thước đo năng lực thực tiễn của con người và xã hội. Sự vận động
và phát triển của lịch sử là sự vận động chuyển giao lực lượng sản
xuất giữa các thế hệ con người. Mỗi thế hệ con người luôn nhận
được những lực lượng sản xuất do thế hệ trước tạo ra và sử dụng
chúng làm phương tiện cho hoạt động sản xuất mới. Nhờ sự
chuyển giao ấy mà con người “hình thành nên mối liên hệ trong
lịch sử loài người, hình thành lịch sử loài người”. Lực lượng sản
xuất và cả quan hệ sản xuất càng phát triển thì lịch sử càng trở
thành lịch sử loài người. Với quan niệm ấy, C.Mác khẳng định:
“Lịch sử xã hội của con người luôn chỉ là lịch sử của sự phát triển
cá nhân của những con người”. Thông qua hoạt động thực tiễn,
con người đã để lại những dấu ấn sáng tạo của bản thân mình
vào giới tự nhiên, vào xã hội và qua đó, phát triển bản thân mình.
Khả năng và năng lực sáng tạo tiềm tàng của con người thông
qua hoạt động thực tiễn đã làm nên các cuộc cách mạng trong
những thời đại văn minh của nó, từ nền văn minh nông nghiệp,
văn minh công nghiệp đến nền văn minh tin học hiện nay. Với khả
năng và năng lực đó, con người chính là động lực cho sự phát
triển kinh tế – xã hội, là chủ thể sáng tạo nên những nền văn
minh trong lịch sử nhân loại. Như vậy, có thể nói, trong quan
niệm của C.Mác, con người không chỉ là chủ thể của lao động sản
xuất, mà còn là chủ thể của hoạt động lịch sử, là kẻ sáng tạo ra lịch sử.
Vấn đề phát huy vai trò của nhân tố của con người:
Thứ nhất, phát triển mạnh mẽ giáo dục và đào tạo, xây dựng tiềm
lực trí tuệ - cốt lõi của nguồn nhân lực chất lượng cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng
khẳng định: một dân tộc dốt là một dân tộc yếu và “vì lợi ích
mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng
người” [8]. Trí tuệ là một trong những chỉ số quan trọng nhất của
chất lượng nhân tố con người, nhất là trong thời đại cách mạng
khoa học và công nghệ có những bước phát triển nhảy vọt, khoa
học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và sự xuất hiện
của kinh tế tri thức hiện nay. Bên cạnh đó, cần phải chú trọng
công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho con người, trước hết là
với các thế hệ trẻ - những chủ nhân tương laicủa đất nước.
Bởi vì trong xã hội hiện đại ngày nay, không chỉ cần có những con người
chuyên gia mà còn rất cần những con người công dân, có nhân cách và trách
nhiệm cao đối với cộng đồng và xã hội. Do đó Đảng ta đã coi
“Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo
nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài” [7]. Vì vậy quan điểm này đã trở thành tư tưởng chỉ đạo, được
tất cả các cấp, các ngành, gia đình và xã hội quán triệt sâu rộng
và thực thi nghiêm túc nhằm đào tạo những “con người Việt Nam
phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng
sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng
bào, sống tốt và làm việc hiệu quả” tạo nền tảng đưa đất nước
phát triển nhanh và bền vững.
Tuy nhiên để phát huy vai trò của giáo dục và đào tạo trong sự
nghiệp đổi mới hiện nay, cần phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa
đào tạo và sử dụng hợp lý, hiệu quả lực lượng lao động. Đồng
thời, cần kết hợp giữa nâng cao trình độ dân trí và phát triển
nguồn nhân lực đồng đều ở các vùng miền, các cộng đồng xã hội;
gắn chiến lược phát triển khoa học công nghệ với nâng cao hàm
lượng trí tuệ trong nhân tố con người. Từ chỗ có nguồn lực con
người bảo đảm về chất lượng, cần xây dựng và thực hiện những
phương thức, cơ chế phát huy nguồn lực đó lâu dài và bền vững.
Vì lẽ đó, Đại hội XII của Đảng đã có chủ trương 2“Quy hoạch lại
mạng lưới cơ sở giáo dục nghề, giáo dục đại học gắn với quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nguồn
nhân lực. Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho đất
nước, cho từng ngành, từng lĩnh vực với những giải pháp đồng bộ,
trong đó tập trung cho giải pháp đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân
lực trong nhà trường cũng như quá trình sản xuất kinh doanh, chú
trọng nâng cao tính chuyên nghiệp và kỹ năng thực hành” [7].
Hai là tạo lập môi trường để hoàn thiện và phát triển con người.
Trên cơ sở lý luận về con người trong tư tưởng của chủ nghĩa Mác
– Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Con người là
trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát
triển” [6, tr. 76]. Vì vậy để xây dựng con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, trước hết cần phải tạo ra một môi
trường kinh tế phát triển, môi trường chính trị ổn định, môi trường
văn hóa – xã hội lành mạnh, trong đó mỗi cá nhân sống, lao động
sáng tạo, cống hiến và hưởng thụ hài hòa. Đó là, “một xã hội:
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân
dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc; có điều kiện phát triển toàn diện; các
dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng
và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế
giới” [6]. Đảng ta đã vận dụng sáng tạo tư tưởng của chủ nghĩa
Mác - Lênin về con người vào hoàn cảnh cụ thể nước ta hiện nay
để hoạch định phương hướng và giải pháp phát triển con người.
Trước hết, Đảng lãnh đạo nhân dân kiên định trên con đường đổi
mới, xây dựng xã hội dân chủ vì lợi ích chân chính và phẩm giá
con người. Văn kiện Đại hội XII đã khẳng định rõ: “Tiếp tục phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm
túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm nhân
dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết
định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân” [7]. Đồng thời
hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học vào việc xây
dựng con người hướng tới các giá trị phổ quát của nhân loại là
chân - thiện - mỹ. Gắn xây dựng, rèn luyện đạo đức với thực hiện
quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; nâng
cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế, của kinh tế tri thức và xã hội học tập;
xây dựng và phát triển lối sống “mỗi người vì mọi người, mọi
người vì mỗi người”; nâng cao ý thức tự trọng, tự chủ, sống và
làm việc theo Hiến pháp và pháp luật; phát huy tính tích cực xã
hội; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã
hội. Vì vậy, các yếu tố trên là môi trường để hoàn thiện và phát
triển con người Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập hiện nay. Ba
là tạo động lực để phát huy nhân tố con người. Bên cạnh việc xây
dựng và phát triển con người với tính cách là mỗi nhân cách phát
triển, việc phát huy nhân tố con người cũng là vấn đề có ý nghĩa
quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới. Để phát huy nhân
tố con người cần phải giải quyết hài hòa mối quan hệ về lợi ích -
giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, giữa lợi ích riêng và lợi ích
chung. Con người bao giờ cũng tồn tại và phát triển trong mối
quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, đây là mối quan hệ thống
nhất có tác động nhân quả. Mỗi cá nhân đơn lẻ không làm nên xã
hội và xã hội bao giờ cũng là tập hợp của những cá nhân trong
mối quan hệ của họ. Nói cách khác, do lợi ích và thông qua việc
thực hiện lợi ích mà các cá nhân tập hợp, liên kết và có mối quan
hệ. Ăngghen đã khẳng định: ở đâu không có lợi ích chung thì ở đó
không thể có sự thống nhất về mục đích và càng không thể thống
nhất về hành động được. Đồng
thời ông cũng chỉ ra rằng: chừng nào còn có sự chia cắt giữa lợi
ích riêng và lợi ích chung... chừng đó bản thân con người sẽ trở
thành một lực lượng xã hội đối lập với con người và nô dịch con
người, chứ không phải bị con người thống trị. Lợi ích riêng là động
lực trực tiếp cho mọi hoạt động của con người. Con người ở bất kỳ
thời đại nào cũng hoạt động trước hết cho lợi ích của bản thân
mình. Vì vậy, lợi ích cá nhân đóng vai trò trực tiếp, cơ sở cho mọi
hoạt động tự giác, hoạt động tích cực của con người. Lợi ích cá
nhân là nhân tố quyết định trước hết, là cơ sở để thực hiện lợi ích
xã hội. Lợi ích xã hội với ý nghĩa là hướng vào giải quyết những
nhu cầu chung của nhiều thành viên hợp lại thành cộng đồng xã
hội. Vì vậy, lợi ích xã hội đóng vai trò là điều kiện và định hướng
cho việc thực hiện lợi ích cá nhân. Không chỉ quan tâm đến lợi
riêng, Đảng Cộng sản Việt Nam còn thực hiện các
chủ trương, giải pháp phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa
phục vụ lợi ích chung. Lợi ích chung luôn bao hàm và không mâu
thuẫn với lợi ích riêng và lợi ích cá nhân. Đại hội Đại biểu Đảng
toàn quốc lần thứ XII đã nhấn mạnh: “Đại đoàn kết toàn dân tộc
phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các
thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân”
[7]. Từ những sự phân tích trên, có thể khẳng định, việc giải
quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng, giữa
lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng,
xã hội sẽ tạo động lực cho sự phát triển con người nói riêng và xã
hội nói chung, như Ăngghen đã chỉ rõ, lịch sử chẳng qua chỉ là
hoạt động theo đuổi lợi ích của
mình. Công cuộc đổi mới 30 năm qua đã đạt được những thành
tựu rất to lớn, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, đất nước
đang từng bước chuyển mình, phát triển. Vậy, đâu là động lực
nếu không phải là kết quả các chính sách của Đảng về sự thay
đổi cơ cấu quan hệ lợi ích trong thực tiễn cuộc sống. Thời kỳ trước
đổi mới, lợi ích tập thể được đề cao, thậm chí còn lấn át lợi ích cá
nhân. Chính vì vậy đã hạn chế động lực của con người, dẫn đến
tình trạng thiếu trách nhiệm đối với các hoạt động chung, “cha
chung không ai khóc”... tạo nên sức ỳ, hạn chế tinh thần sáng tạo
của mỗi cá nhân. Từ khi đất nước bước vào đổi mới, phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế thị
trường với tính đặc thù của nó đã thừa nhận tính hợp lý và thỏa
mãn tối đa lợi ích cá nhân chính đáng. Trên mặt tích cực của nó,
lợi ích cá nhân thực sự là “kích thích tố” quan trọng thôi thúc con
người tích cực hoạt động, năng động và sáng tạo. Chính trong
quá trình tham gia chủ động tích cực các hoạt động kinh tế hướng
đến lợi ích, con người phát triển toàn diện hơn. Trên cơ sở các kỳ
Đại hội trước, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã đặt vấn đề giải
quyết mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng, xã
hội, giữa lợi ích chung và lợi ích riêng một cách phù hợp đúng
mức và cần thiết. Việc quan tâm đúng mức đến lợi ích của cá
nhân, đặt lợi ích của cá nhân trong mục tiêu đạt được lợi ích tập
thể sẽ thôi thúc con người phát huy tối đa năng lực của bản thân
góp phần thúc đẩy cho sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, thay
đổi cơ cấu lợi ích trong thực tiễn đời sống xã hội và cá nhân nhằm
phát huy nhân tố con người cần phải tránh cả hai khuynh hướng:
tuyệt đối hóa lợi ích riêng cũng như tuyệt đối hóa lợi ích chung.
Bởi tuyệt đối hóa lợi ích riêng, vô hình chung đã đẩy tự do cá
nhân thành chủ nghĩa cá nhân sẽ đẩy mỗi cá nhân lao vào sản
xuất kinh doanh, làm giàu bằng mọi cách, bất chấp cả pháp luật,
đạo lý, lao vào “cuộc chiến tranh của tất cả mọi người chống mọi
người, cuộc chiến tranh của tất cả chống lại tất cả” [9]. Tuyệt đối
hóa lợi ích chung, lợi ích tập thể, cộng đồng, sẽ dẫn đến vi phạm
quyền tự do cá nhân, giảm động lực hoạt động, phát triển của
mỗi cá nhân; đồng thời cũng ngăn cản sự vận động và phát triển
của xã hội. Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích chung và
lợi ích riêng, lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng, xã hội theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội XII là: lợi ích chung đóng vai trò định
hướng cho các hoạt động xã hội nhằm phát huy mọi tiềm năng
của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội để xây dựng một xã
hội “dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, với
quan điểm “Gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã
hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng đời sống của nhân
dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn
thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất
nước… Thực hiện tốt chính sách chăm sóc người có công trên cơ
sở huy động mọi nguồn lực xã hội kết hợp với nguồn lực của Nhà
nước” [7]; lợi ích riêng, lợi ích cá nhân đóng vai trò động lực thúc
đẩy tính tích cực, năng động, chủ động sáng tạo của con người,
tạo điều kiện để hướng đến “mọi người dân đều có cơ hội và điều
kiện phát triển toàn diện” [7]
Câu 6: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Vận dụng?
a) Vật chất quyết định ý thức
- Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức nên vật chất
là cái có trước, là tính thứ nhất. Ý thức chỉ là hình thức phản
ánh của vật chất vào trong bộ óc con người nên ý thức là cái có sau, là tính thứ hai.
Phải có sự vận động của vật chất trong tự nhiên (bộ óc người
và thế giới khách quan) và vật chất trong xã hội (lao động và
ngôn ngữ) thì mới có sự ra đời ý thức.
- Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là phản ánh hiện thực khách quan. Nội dung
của ý thức là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan trong đầu óc con người.
Sự phát triển của hoạt động thực tiễn là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính
phong phú và độ sâu sắc nội dung của ý thức con người qua các thế hệ.
- Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Bản chất của ý thức là phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan, tức là thế
giới vật chất được dịch chuyển vào bộ óc con người và được cải
biên trong đó. Vậy nên vật chất là cơ sở để hình thành bản chất của ý thức.
- Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với sự biến
đổi của vật chất. Vật chất thay đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo.
Vật chất luôn vận động và biến đổi nên con người cũng ngày
càng phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức
cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh.
Ví dụ: Tục ngữ có câu “có thực mới vực được đạo”, nghĩa là
có ăn uống đầy đủ thì mới có sức để đi theo đạo, hoàn cảnh sẽ
quyết định lối suy nghĩ, đời sống vật chất phải được đáp ứng
thì chúng ta mới hướng tới đời sống tinh thần. Điều này đã
chứng minh cho quan niệm vật chất có trước, ý thức có sau,
vật chất quyết định ý thức.
b) Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
- Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ ý
thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con
người nhưng khi đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, không
lệ thuộc máy móc vào vật chất mà tác động trở lại thế giới vật chất.
- Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông
qua hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ hoạt động thực
tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh vật
chất để phục vụ cho cuộc sống con người.
- Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động,
hành động của con người, nó có thể quyết định làm cho hoạt
động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Ý
thức không trực tiếp tạo ra hay làm thay đổi thế giới mà nó
trang bị cho con người tri thức về hiện tượng khách quan để
con người xác định mục tiêu, kế hoạch, hành động nên làm. Sự
tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
Tích cực: Khi phản ánh đúng đắn hiện thực, ý thức sẽ là
động lực thúc đẩy vật chất phát triển.
Tiêu cực: Khi phản ánh sai lạc hiện thực, ý thức có thể kìm
hãm sự phát triển của vật chất
- Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày
càng to lớn, nhất là trong thời
đại ngày nay, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
- Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn nhưng
không thể vượt quá tính quy định của những tiền đề vật chất
đã xác định, phải dựa vào các điều kiện khách quan và năng
lực chủ quan của các chủ thể hoạt động.
Ví dụ: Có nhận thức đúng đắn về thực tế kinh tế đất nước, từ
sau Đại hội VI, Đảng ta chuyển nền kinh tế tự cung, quan liêu
sang nền kinh tế thị trường để phát triển đất nước như hôm
nay. Điều này cho thấy ý thức đã phản ánh được thực tiễn và
đưa ra mục tiêu, phương hướng để tác động lại vật chất, tạo sự
phát triển cho vật chất.
Vận dụng vào học tập và cuộc sống của bản thân tôi.
- Đầu tiên, vì vật chất quyết định ý thức nên nhận thức và hoạt
động của tôi phải xuất phát từ thực tế khách quan. Bản thân tôi
phải nhận thức được các điều kiện thực tiễn ảnh hưởng đến học
tập, cuộc sống của mình để tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Ví dụ: Trong học tập, tôi cần phải xác định được nội quy trường
học, giờ học, thời khóa biểu, những yếu tố thực tế để có ý thức
chấp hành đúng quy định, tham gia các tiết học đầy đủ và hoàn
thành các nhiệm vụ giảng viên đề ra. Trong thời gian dịch bệnh
Covid-19 diễn biến phức tạp, tôi nhận thức được sự nguy hiểm
của dịch bệnh để thực hiện các phương pháp phòng tránh dịch,
tuân thủ quy tắc 5K, ở yên tại nhà để bảo vệ sức khỏe bản thân, gia đình và cộng đồng.
- Thứ hai, ý thức cũng có sự tác động trở lại với vật chất nên cần
phải phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức. Tôi phải chủ
động tìm kiếm và trau dồi tri thức cho bản thân mình, bồi dưỡng
những kỹ năng cần thiết cho bản thân, không quá phụ thuộc vào
người khác mà phải tự phát huy tính sáng tạo, suy nghĩ mới lạ.
Ví dụ: Trước mỗi giờ học, tôi phải chủ động xem trước giáo trình
của ngày hôm đó để đánh dấu những chỗ mình vẫn chưa hiểu.
Trong giờ học tôi thường xuyên tích cực phát biểu và thảo luận để
hiểu rõ hơn bài học. Sau giờ học tôi sẽ tìm thêm bài tập và tài liệu
để luyện tập thêm, trau dồi thêm kiến thức. Ngoài ra để cải thiện
kỹ năng mềm tôi cũng tích cực tham gia các hoạt động ngoại
khóa, các phong trào của các tổ chức xã hội.
Không chỉ bồi dưỡng kiến thức, tôi còn cố gắng rèn luyện đạo đức, phẩm chất
của mình qua việc đọc sách, tập yoga, tham gia các buổi trao đổi, thảo luận.
- Thứ ba, tôi phải tiếp thu chọn lọc các ý kiến mới, không để bản
thân thụ động, bảo thủ, không chủ quan trước mọi tình huống.
Ví dụ: Khi tham gia thảo luận nhóm, tôi sẽ lắng nghe và tiếp thu
những điều hay mà các thành viên góp ý cho mình để hoàn thành
công việc theo kế hoạch. Hay khi đăng ký học phần, tôi không
chủ quan vào năng lực của mình mà đăng ký quá nhiều môn
tránh cho bản thân không kham nổi.
Trong cuộc sống, trước khi đánh giá một người nào đó, tôi phải tiếp xúc với
người đó và lắng nghe những đánh giá của những người xung
quanh về người đó, không thể chủ quan “trông mặt mà bắt hình
dong”, không thể chỉ dựa vào cảm xúc cá nhân mà đánh giá người đó
Câu 5: Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng (TL khác)
Câu 7: mối liên hệ phổ biến. Vận dụng:
Qua đó, ta có thể rút ra định nghĩa về mối liên hệ như sau: “Mối liên hệ là
một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc tương hỗ, quy định và ảnh
hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một đối tượng hoặc giữa các đối
tượng với nhau”5. Còn “liên hệ là quan hệ giữa hai đối tượng nếu sự thay đổi của
một trong số chúng nhất định làm đối tượng kia thay đổi”6. Trái lại, cô lập là trạng
thái của các đối tượng, khi sự thay đổi của chúng không ảnh hưởng tới nhau,
không làm đối tượng còn lại thay đổi. Liên hệ và cô lập luôn luôn đồng hành với
nhau, là mặt tất yếu của mọi quan hệ giữa các đối tượng. Mối liên hệ không chỉ là sự liên
hệ, ràng buộc tác động lẫn nhau giữa cácvật cụ thể, hữu hình, giữa các mặt trong cùng
một đối tượng với nhau mà còn có mối liên hệ giữa những sự vật vô hình với sự vật hữu
hình, hay giữa các sự vật vô thể với nhau. Và bởi vậy trên thế giới có vô vàn những mối
liên hệ, trong đó có loại liên hệ chung nhất, là đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng,
loại liên hệ này là liên hệ phổ biến. Và cơ sở cho mối liên hệ phổ biến hay cơ sở cho mọi
mối liên hệ chính là tính thống nhất vật chất của thế giới. Bởi thế giới không phải là thể
hỗn loạn các đối tượng, mà là hệ thống các liên hệ đối tượng. Và nhờ sự thống nhất đó
các đối tượng không thể tồn tại cô lập, mà luôn tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau. Và
đó chính là nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Tính chất: Tính khách quan của mối liên hệ thể hiện ở các mối liên hệ chính là đặc tính vốn có c a m ủ i s ọ
ự vật, hiện tượng, là tự thân các sự vật, hiện tượng sinh ra
chứ không phụ thuộc vào ý mu n hay ý th ố ức c a con ngu ủ ời. Ví như mối liên hệ
giữa cơ thể sinh vật và môi trường sống, khi môi trường sống thay đổi thì cơ thể
sinh vật cũng cần phải có những biến đổi để thích ứng với môi trường. M i liên ố
hệ đó không phải do một người sáng tạo ra hay phụ thuộc vào ý chí của bất kì
người nào, mà là cái vốn có của thế giớ ậ i v t chất.
Các mối liên hệ có tính phổ biến bởi bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào, ở
bất kỳ không gian, thời gian nào đều có m i liên h ố
ệ với những sự vật, hiện tượng khác. Còn trong cùng m t s ộ
ự vật, hiện tượng thì bất kỳ một thành phần nào, yếu
tố nào cũng có mối liên hệ với những thành phần khác, yếu t khác. Không ố có sự
vật, hiện tượng nào nằm ngoài m i liên h ố ệ. Và nó còn t n t ồ ại trong tất cả các mặt:
tự nhiên, xã hội và tư duy Mối liên hệ ph bi
ổ ến có tính đa dạng, phong phú bởi các sự vật, hiện tượng
trong thế giới vô cùng đa dạng, đa trạng thái chính vì vậy cũng có vô hạn những
mối liên hệ khác nhau. Dựa vào tính chất và vai trò c a m ủ ối liên hệ, có thể phân chia các m i liên h ố ệ thành: m i liên h ố
ệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài; m i ố
liên hệ cơ bản và mối liên hệ không cơ bản; mối liên hệ chung và m i liên h ố ệ riêng; m i liên h ố
ệ trực tiếp, mối liên hệ gián tiếp; m i liên h ố ệ chủ yếu và mối liên
hệ thứ yếu… Tuy nhiên, việc phân loại các mố
ệ cũng chỉ mang tính tương i lên h
đối. bởi vì các mối liên hệ của các đối tượng rất phức tạp, không thể tách chúng
khỏi tất cả các m i liên h ố
ệ khác. Mọi liên hệ còn cần được nghiên cứu cụ thể
trong sự biến đổi và phát triển cụ thể của chúng.
Liên hệ bản thân: đã có đã có kinhnghiệm học tập trực tuyến trong thời gian dài, ở
bậc phổ thông cũng như bậc đại học, cùng với việc vận dụng linh hoạt, sáng tạo quan
điểm toàn diện, thì những giải pháp để có thể trang bị cho bản thân học sinh, sinh viên
một tâm thế học tập chủ động, tích cực có thể khái quát lại như sau:
Thứ nhất, cần phải có ý thức cao cùng một sức khỏe tốt. Trong tình trạng
học online tại nhà, học sinh, sinh viên không chỉ đối mặt với những khó khăn về
thiết bị học tập, hay về việc tiếp thu bài giảng trên lớp mà còn tăng khả năng bị
xao nhãng trong học tập bởi những kích thích từ bên ngoài… Chính vì vậy, để
việc tiếp thu kiến thức đạt hiệu quả cao nhất, trước hết mỗi người học cần tạo cho
mình mục tiêu để chiến đấu cùng với tinh thần mạnh mẽ, kiên trì, bền bỉ vượt qua
những khó khăn; một ý chí vững vàng để có thể vượt qua những cám dỗ từ bên
ngoài. Đồng thời bên cạnh đó, mỗi người học cần phải tích cực tập luyện thể dục
thể thao, ăn uống lành mạnh để có thể bảo đảm sức khỏe trong quá trình học.
Thứ hai, cần tận dụng tối đa nguồn lực hiện có. Tuy không thể trực tiếp
đến trường nghe giảng trực tiếp, nhưng với sự phát triển của khoa học – công
nghệ, hiện nay trên mạng có vô số nguồn tài nguyên, bài giảng quý báu để người
học có thể sử dụng hay những sự trợ giúp từ thầy cô, bạn bè thông qua những ứng
dụng thông minh và vô kể những nguồn lực khác. Nếu biết tận dụng tối đa những
nguồn lực của mình đang có sẽ khiến việc học tập sẽ trở nên dễ dàng hơn rất nhiều.
Và cuối cùng, để có thể thể xây dựng cho mình một phương pháp học tập
tích cực, thì một không gian học tập phù hợp đóng vai trò không nhỏ. Mỗi người
học sẽ phù hợp với một không gian học tập khác nhau, trong mỗi thời điểm khác
nhau. Bởi vậy, thông qua quá trình học tập, người học cần tự tìm hiểu xem đâu là
không gian học tập phù hợp nhất với mình, từ đó tạo cho mình một thời khóa biểu
hợp lý để việc học có thể diễn ra một cách hiệu quả và trơn tru.
Câu 8: Tại sao trong nhận thức và thực tiễn cần phải có sự toàn
diện? ý nghĩa đối với sinh viên?
Quan điểm toàn diện là quan điểm được phản ánh trong phương pháp luận
triết học. Khi các nhìn nhận phải được thể hiện một cách toàn diện. Quan điểm
này mang đến tính đúng đắn trong hoạt động xem xét hay đánh giá một đối
tượng nhất định. Các nhà nghiên cứu chỉ ra tính hợp lý cần thiết trong nhu cầu
phản ánh chính xác và hiệu quả đối tượng. Từ đó mà các đánh giá mới mang đến
tính chất khách quan, hiệu quả. Trên thực tế, quan điểm này giữ nguyên giá trị
của nó. Khi mà ta cần đánh giá hay phán xét đối tượng.
Quan điểm này thể hiện vai trò của người thực hiện các phân tích trên
đối tượng. Khi nghiên cứu và xem xét hiện tượng, sự vật hay sự việc. Chúng ta phải
quan tâm đến tất cả các yếu tố kể cả khâu gián tiếp hay trung gian có liên quan
đến sự vật. Tức là tất cả những tác động có thể lên chủ thể đang quan tâm.
Không chỉ nhìn nhận với tính chất tiêu cực hay tích cực theo cả xúc. Mà phải là
những tiến hành trên lý trí, kinh nghiệm và trình độ đánh giá chuyên môn. Như
vậy các hướng tác động mới mang đến hiệu quả.
Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Mọi sự vật, hiện tượng hay quá trình trong thế giới đều tồn tại trong
muôn vàn mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau. Mối liên hệ tồn tại khách quan, phổ biến và đa dạng.
Trong muôn vàn mối liên hệ chi phối sự tồn tại của chúng có những mối
liên hệ phổ biến. Mối liên hệ phổ biến tồn tại khách quan, phổ biến; chúng chi
phối một cách tổng quát quá trình vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện
tượng xảy ra trong thế giới. Nội dung:
- Nhận thức sự vật trong mối liên hệ giữa các yếu tố, các mặt của
chính sự vật và trong sự tác động của chính sự vật đó với các sự vật khác.
- Biết phân loại từng mối liên hệ, xem xét có trọng tâm, trọng điểm, làm
nổi bật cái cơ bản nhất của sự vật, hiện tượng.
- Từ việc rút ra mối liên hệ bản chất của sự vật, ta lại đặt mối liên hệ bản
chất đó trong tổng thể các mối liên hệ của sự vật xem xét cụ thể trong từng giai
đoạn lịch sử cụ thể.
- Cần tránh phiến diện siêu hình và chiết trung, ngụy biện.
3. Mặt không gian, cấu tạo, thời gian của quan điểm toàn diện
3.1. Xét về mặt không gian
Mỗi sự vật hiện tượng là một chỉnh thể riêng biệt, song chúng tồn tại
không phải trong trạng thái biệt lập tách rời tuyệt đối với các sự vật hiện tượng
khác. Ngược lại, trong sự tồn tại của mình thì chúng tác động lẫn nhau và nhận
sự tác động của các sự vật, hiện tượng khác. Chúng vừa phụ thuộc nhau, chế
ước nhau làm tiền đề cho nhau tồn tại và phát triển, đó chính là hai mặt của quá
trình tồn tại và phát triển của sự vật hiện tượng.
Ăngghen đã khẳng định: “Tất cả thế giới mà chúng ta có thể nghiên
cứu được là một hệ thống, một tập hợp gồm các vật thể khăng khít với nhau
và các vật thể ấy có mối liên hệ qua lại với nhau đã có nghĩa là các vật thể
này tác động qua lại lẫn nhau và sự tác động qua lại ấy chính là sự vận động”.
Trong đời sống xã hội ngày nay không có một quốc gia dân tộc nào mà
không có mối quan hệ, liên hệ với quốc gia phải dân tộc khác về mọi mặt của
đời sống xã hội. Đây chính là sự tồn tại, phát triển cho mỗi quốc gia, dân tộc.
trên thế giới đã và đang xuất hiện xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa mọi mặt
của đời sống xã hội. Các quốc gia dân tộc ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, tác
động lẫn nhau trên con đường phát triển của mình.
3.2. Xét về mặt cấu tạo
Cấu trúc bên trong sự vật hiện tượng thì mỗi sự vật hiện tượng đều được
tạo thành bởi nhiều nhân tố, nhiều bộ phận khác nhau và các nhân tố, bộ phận đó
không tồn tại riêng lẻ mà chúng được tổ chức sắp xếp theo một logic nhất định,
trật tự nhất định để tạo thành chỉnh thể.
Mỗi biện pháp, yếu tố trong đó vừa có vai trò vị trí riêng của mình,
lại vừa tạo điều kiện cho các bộ phận, yếu tố khác. Nghĩa là giữa chúng có sự
ảnh hưởng, ràng buộc tác động lẫn nhau. Sự biến đổi bộ phận nào đó trong cấu
trúc của sự vật hiện tượng sẽ ảnh hưởng đến bộ phận khác và cả chỉnh thể sự vật, hiện tượng.
3.3. Xét về mặt thời gian
Mỗi một sự vật hiện tượng nói riêng và cả thế giới nói chung trong sự tồn
tại, phát triển của mình đều phải trải qua các giai đoạn, các thời kỳ khác nhau và
các giai đoạn đó không tách rời nhau, có liên hệ làm tiền đề cho nhau, sự kết
thúc của giai đoạn này là mở đầu cho giai đoạn khác tiếp theo. Quan điểm
duy vật biện chứng không chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến vốn có
của sự liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, các quá trình mà nó còn nêu rõ tính
phong phú, đa dạng và phức tạp của mối liên hệ qua lại đó. Khi nghiên cứu hiện
thực khách quan có thể phân chia mối liên hệ thành từng loại khác nhau tùy tính
chất phức tạp hay đơn giản, phạm vi rộng hay hẹp, trình độ nông hay sâu, vai trò
trực tiếp hay gián tiếp… khái quát lại có những mối quan hệ sau đây: mối liên
hệ bên trong-bên ngoài, chủ yếu-thứ yếu, chung-riêng, trực tiếp-gián tiếp, bản
chất-không bản chất, ngẫu nhiên-tất nhiên. Trong đó có những mối liên hệ bên
trong, trực tiếp, chủ yếu, bản chất và tất nhiên bao giờ cũng giữ vai trò quan
trọng, quyết định cho sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng.
2.2. Áp dụng trong học tập
Một ví dụ cho quan điểm toàn diện nữa chính là trong học tập. Một cá
nhân để đạt được kết quả tốt trong học tập cần đến nhiều yếu tố khách quan và
chủ quan tác động. Bạn không những cần đến nỗ lực và trí tuệ của bản thân mà
còn cần học thêm các kiến thức từ sách vở và cuộc sống. Kiến thức cần
bồi đắp ừ cả lý thuyết và thực tiễn thì mới có thể hoàn thiện được. Một cá nhân không
thể toàn diện nếu chỉ có học mà không có hành.
Học tập là việc vô cùng quan trọng đối với sinh viên để có thể phát triển
và hoàn thiện bản thân. Nhưng học như thế nào để có thể đạt được kết quả như
mong đợi thì không phải chuyện dễ dàng. Việc áp dụng quan điểm toàn diện