Câu hỏi tự luận chương 1 - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
Theo Ăngghen, vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ của tư duy với tồn tại, của ý thức đốivới vật chất. Việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở và điểm xuất phát để giải quyết các vấn đềkhác của triết học. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác -Lênin (THML01)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
CÂU HỎI TỰ LUẬN CHƯƠNG 1
Câu 1. Triết học là gì ? Vấn đề cơ bản của triết học. Phương pháp nhận thức của thế giới triết học. 1.Khái niệm triết học
- Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, xét cho cùng, đều bị các quan hệ kinh tế của xã hội
quy định. Dù ở xã hội nào, triết học bao giờ cũng gồm hai yếu tố:
+ Yếu tố nhận thức – sự hiểu biết về thế giới xung quanh, trong đó có con người
+ Yếu tố nhận định – đánh giá về mặt đạo lý
2.Vấn đề cơ bản của triết học
Theo Ăngghen, vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ của tư duy với tồn tại, của ý thức đối
với vật chất. Việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở và điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học.
Vấn đề cơ bản của triết học gồm hai mặt:
- Mặt thứ nhất trả lời câu hỏi: giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái
nào? Nói cách khác, giữa vật chất và ý thức cái nào là tính thứ nhất, cái nào là tính thứ hai. Có hai cách trả
lời khác nhau dẫn đến hình thành hai khuynh hướng triết học đối lập nhau.
+ Những quan điểm triết học cho vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai hợp thành chủ nghĩa duy
vật. Trong lịch sử tư tưởng triết học có ba hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật:
1) Chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ thời cổ đại.
2) Chủ nghĩa duy vật máy móc, siêu hình thế kỷ XVII- XVIII.
3) Chủ nghĩa duy vật biện chứng.
+ Ngược lại, những quan điểm triết học cho ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai, hợp thành
chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy tâm lại được thể hiện qua hai trào lưu chính: Chủ nghĩa duy tâm
khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan .
- Mặt thứ hai trả lời cho câu hỏi con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
+ Các nhà triết học duy vật cho rằng, con người có khả năng nhận thức thế giới. Song, do mặt thứ nhất
quy định, nên sự nhận thức đó là sự phản ánh thế giới vật chất vào óc con người.
+ Một số nhà triết học duy tâm cũng thừa nhận con người có khả năng nhận thức thế giới nhưng sự
nhận thức đó là sự tự nhận thức của tinh thần, tư duy.
+ Một số nhà triết học duy tâm khác như Hium, Canto lại phủ nhận khả năng nhận thức thế giới của
con người. Đây là những người theo “bất khả tri luận’’ ( thuyết không thể biết). Khuynh hướng này
không thừa nhận vai trò của nhận thức khoa học trong đời sống xã hội.
3. Phương pháp nhận thức của thế giới triết học
Triết học nghiên cứu những quy luật chung nhất của tồn tại và tư duy, giúp cho việc nhận thức và hoạt
động cải tạo thế giới. Triết học Mác dựa vào những thành quả của các khoa học cụ thể, nhưng nó không lấy
phương pháp của các ngành khoa học cụ thể để làm phương pháp của mình. Phương pháp nhận thức chung
nhất, đúng đắn nhất của triết học là phương pháp biện chứng duy vật. Phương pháp biện chứng duy vật đối
lập với phương pháp siêu hình.
Phương pháp biện chứng và siêu hình xuất hiện từ rất sớm, từ thời cổ đại. Phương pháp biện chứng là
phương pháp nhận thức sự vật và hiện tượng trong sự liên hệ, tác động qua lại, vận động và phát triển.
Ngược lại phương pháp siêu hình xem xét sự vật, hiện tượng trong sự tách rời, không vận động và không
phát triển. Cuộc đấu tranh giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình cũng là một nội dung cơ
bản của lịch sử triết học.
Phương pháp biện chứng duy vật xuất phát từ thời kì cổ đại ( biện chứng duy vật thô sơ, mộc mạc, tự
phát). Chỉ đến khi triết học Mác ra đời, phương pháp này thực sự trở thành phương pháp triết học khoa học.
Phương pháp này giúp con người khả năng nhận thức một cách đúng đắn, khách quan về giới tự nhiên, xã
hội và tư duy và giúp con người đạt được hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.
Câu 2. Những điều kiện, tiền đề của sự ra đời chủ nghĩa Mác?
1. Điều kiện kinh tế-xã hội
Vào cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp xuất hiện và lan rộng ra các
nước tây Âu tiên tiến không những làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trở thành hệ thống kinh tế
thống trị, tính hơn hẳn của chế độ tư bản so với chế độ phong kiến thể hiện rõ nét, mà còn làm thay đổi sâu
sắc cục diện xã hội mà trước hết là sự hình thành và phát triển của giai cấp vô sản.
Đồng thời với sự phát triển đó, mâu thuẫn vốn có, nội tại nằm trong phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa ngày càng thể hiện sâu sắc và gay gắt hơn. Mâu thuẫn giữa vô sản với tư sản, vốn mang tính đối kháng,
đã biểu hiện thành đấu tranh giai cấp. Giai cấp tư sản không còn đóng vai trò là giai cấp cách mạng trong xã hội.
Đến những năm 40 của thế kỷ XIX, giai cấp vô sản đã xuất hiện với tư cách là một lực lượng chính trị-
xã hội độc lập và đã ý thức được những lợi ích cơ bản của mình để tiến hành đấu tranh tự giác chống giai cấp tư sản. 2. Tiền đề lý luận:
C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa triết học cổ điển Đức, đặc biệt là phép biện chứng duy tâm và tư
tưởng duy vật về những vấn đề cơ bản của triết học để xây dựng nên phép biện chứng duy vật và mở rộng
nhận thức sang cả xã hội loài người, làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và triệt để.
Kinh tế chính trị học Anh mà đặc biệt là lý luận về kinh tế hàng hóa; học thuyết giá trị thặng dư là cơ sở
của hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa. Đó còn là việc thừa nhận các quy luật khách quan của đời sống kinh tế
xã hội, đặt quy luật giá trị làm cơ sở cho toàn bộ hệ thống kinh tế và rằng, do đó chủ nghĩa tư bản là vĩnh cửu.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những dự đoán thiên tài mà trước hết là lịch sử loài người là
một quá trình tiến hóa không ngừng, chế độ sau tiến bộ hơn chế độ trước; rằng sự xuất hiện các giai cấp đối
kháng trong xã hội là kết quả của sự chiếm đoạt; đồng thời phê phán chủ nghĩa tư bản là ở đó con người bị
bóc lột và lừa bịp, chính phủ không quan tâm tới dân nghèo. Khẳng định xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội
công nghiệp mà trong đó, công nông nghiệp đều được khuyến khích, đa số người lao động được bảo đảm
những điều kiện vật chất cho cuộc sống v.v là cơ sở để chủ nghĩa Mác phát triển thành lý luận cải tạo xã hội.
3. Tiền đề khoa học tự nhiên.
Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với nhiều phát minh quan trọng,
cung cấp cơ sở tri thức khoa học để tư duy biện chứng trở thành khoa học.
- Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lương đã dẫn đến kết luận triết học là sự phát triển của vật chất là
một quá trình vô tận của sự chuyển hoá những hình thức vận động của chúng.
- Thuyết tế bào xác định sự thống nhất về mặt nguồn gốc và hình thức giữa động vật và thực vật; giải thích
quá trình phát triển của chúng; đặt cơ sở cho sự phát triển của toàn bộ nền sinh học; bác bỏ quan niệm siêu
hình về nguồn gốc và hình thức giữa thực vật với động vật.
- Thuyết tiến hoá đã khắc phục được quan điểm cho rằng giữa thực vật và động vật không có sự liên hệ; là
bất biến; do Thượng Đế tạo ra và đem lại cho sinh học cơ sở khoa học, xác định tính biến dị và di truyền giữa các loài.
Chủ nghĩa Mác ra đời là một tất yếu lịch sử. Sự ra đời của nó không những do nhu cầu nhu cầu khách quan
của thực tiễn xã hội lúc bấy giờ, do sự kế thừa những thành tựu trong lý luận và được kiểm chứng bằng các
thành tựu của khoa học, mà còn do bản thân sự phát triển của lịch sử đã tạo ra những tiền đề khách quan cho
sự ra đời của nó. Bởi vậy, chủ nghĩa Mác “cung cấp cho loài người và nhất là cho giai cấp công nhân, những
công cụ nhận thức vĩ đại” và Đảng Cộng sản Việt Nam “kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng”.
Câu 3. Chủ nghĩa Mác – Lê nin là gì? Chủ nghĩa Mác – Lê nin được cấu thành từ những bộ phân lý
luận cơ bản nào? Chức năng và mối quan hệ cơ bản của mỗi bộ phân đó trong chủ nghĩa Mác – Lê nin?
1.Khái niệm “Chủ nghĩa Mác – Lênin”
Chủ nghĩa Mác - Lênin là:
+ Hệ thống quan điểm và học thuyết khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân
lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột, tiến tới thực hiện sự nghiệp giải phóng con người (xét từ góc độ đối tượng của nó).
+ Hệ thống quan điểm và học thuyết đó được sáng lập bởi c. Mác, Ph. Ăngghen và sự phát triển của V.I.
Lênin (xét từ góc độ chủ thể sáng tạo và phát triển nó).
+ Hệ thống quan điểm và học thuyết đó được hình thành và phát triển trên cơ sở kế thừa những giá trị tư
tưởng tiến bộ của nhân loại và tổng kết thực tiễn thời đại (xét từ góc độ mối quan hệ giữa chủ nghĩa Mác -
Lênin với lịch sử phát triển tư tưởng nhân loại và với thực tiễn).
+ Hệ thống quan điểm và học thuyết đó đóng vai trò là thế giới quan, phương pháp luận phổ biến cho sự sáng
tạo trong nhận thức khoa học (nghiên cứu phát hiện và sáng tạo ra cái mới) và thực tiễn cách mạng (thực tiễn
cải biến cái cũ, sáng tạo cái mới).
(Xét từ góc độ mối quan hệ của chủ nghĩa Mác - Lênin với hoạt động nhận thức khoa học và thực tiễn cách
mạng nói chung: muốn thực hiện sự sáng tạo trong hoạt động nhận thức và thực tiễn thì nhất định cần phải
vận dụng thế giới quan, phương pháp luận đó).
2.Chủ nghĩa Mác - Lênin có ba bộ phận lý luận cơ bản hợp thành, đó là: + Triết học + Kinh tế chính trị học
+ Chủ nghĩa xã hội khoa học.
3.Chức năng và mối quan hệ cơ bản của mỗi bộ phận lý luận trong chủ nghĩa Mác - Lênin:
- Triết học là bộ phận lý luận nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội
và tư duy; xây dựng thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
- Trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận triết học, Kinh tế chính trị Mác- Lênin nghiên cứu những quy
luật kinh tế của xã hội, đặc biệt là những quy luật kinh tế của quá trình ra đời, phát triển, suy tàn của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự ra đời, phát triển của phương thức sản xuất mới - phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa xã hội khoa học là kết quả tất nhiên của sự vận dụng thế giới quan, phương pháp luận triết học
và kinh tế chính trị Mác - Lênin vào việc nghiên cứu làm sáng tỏ những quy luật khách quan của quá trình
cách mạng xã hội chủ nghĩa - bước chuyển biến lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và tiến tới chủ nghĩa cộng sản.
Ba bộ phận lý luận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lênin có đối tượng nghiên cứu cụ thể khác nhau nhưng đều
nằm trong một hệ thống lý luận khoa học thống nhất - đó là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô
sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng con người.
Câu 4. Tại sao chúng ta gọi chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa Mác-Lênin?
Sau khi C.Mác và Ph.Ăngghen qua đời, V.I.Lênin là người bảo vệ, bổ sung, phát triển và vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa Lênin hình thành và phát triển trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm,
xét lại và giáo điều; là sự tiếp tục và là giai đoạn mới trong lịch sử chủ nghĩa Mác để giải quyết những vấn đề
cách mạng vô sản trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội.
1. Nhu cầu bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác.
Những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã bước sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc.
Bản chất bóc lột và thống trị của chủ nghĩa tư bản ngày càng tinh vi, tàn bạo hơn; mâu thuẫn đặc thù vốn có
của chủ nghĩa tư bản ngày càng bộc lộ sâu sắc mà điển hình là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
Những năm cuối thế kỷ XIX, bước sang thế kỷ XX, có những phát minh vật lý mang tính vạch thời đại,
làm đảo lộn căn bản quan niệm ngàn đời về vật chất. Đây là cơ hội để chủ nghĩa duy tâm tấn công chủ nghĩa
Mác; một số nhà khoa học tự nhiên rơi vào tình trạng khủng hoảng về thế giới quan, gây ảnh hưởng trực tiếp
đến nhận thức và hành động của phong trào cách mạng.
Chủ nghĩa Mác đã được truyền bá vào nước Nga; nhưng những trào lưu như chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa xét lại v.v đã nhân danh đổi mới chủ nghĩa Mác để xuyên tạc và phủ nhận chủ nghĩa đó.
Trong bối cảnh như vậy, nhu cầu khách quan về việc khái quát những thành tựu khoa học tự nhiên để rút ra
những kết luận về thế giới quan và phương pháp luận triết học cho các khoa học chuyên ngành; đấu tranh
chống lại những trào lưu tư tưởng phản động và phát triển chủ nghĩa Mác đã được thực tiễn nước Nga đặt ra.
Hoạt động lý luận của V.I.Lênin nhằm đáp ứng nhu cầu lịch sử đó.
2.Quá trình V.I.Lênin bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác được chia thành ba thời kỳ, tương ứng
với ba nhu cầu khách quan của thực tiễn nước Nga.
Trong thời kỳ 1893-1907, V.I.Lênin tập trung phê phán tính duy tâm của phái “dân túy” về những vấn đề lịch
sử-xã hội và chỉ ra rằng, qua việc xóa nhòa ranh giới giữa phép biện chứng duy vật với phép biện chứng duy
tâm của Hêghen, phái dân túy đã xuyên tạc chủ nghĩa Mác. V.I.Lênin cũng phát triển quan điểm của chủ nghĩa
Mác về các hình thức đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản trước khi giành được chính quyền; trong đó các vấn
đề về đấu tranh kinh tế, chính trị, tư tưởng được đề cập rõ nét; ông cũng phát triển chủ nghĩa Mác về những vấn
đề như phương pháp cách mạng; nhân tố chủ quan và yếu tố khách quan; vai trò của quần chúng nhân dân; của
các đảng chính trị trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
Trong thời kỳ 1907-1917, V.I.Lênin viết tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán
(1909)- tác phẩm khái quát từ góc độ triết học những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên để bảo vệ và
tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác; phê phán triết học duy tâm chủ quan đang chống lại chủ nghĩa duy vật nói
chung và chủ nghĩa duy vật biện chứng nói riêng. Trong tác phẩm, vấn đề cơ bản của triết học và phạm trù
vật chất có ý nghĩa hệ tư tưởng và phương pháp luận hết sức to lớn. Bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác về
nhận thức, V.I.Lênin cũng chỉ ra sự thống nhất bên trong, không tách rời của chủ nghĩa duy vật biện chứng
với chủ nghĩa duy vật lịch sử; sự thống nhất của những luận giải duy vật về tự nhiên, về xã hội, về con người
và tư duy của nó. Trong tác phẩm Bút ký triết học (1914-1916), V.I.Lênin tiếp tục khai thác hạt nhân hợp lý
của triết học Hêghen để làm phong phú thêm phép biện chứng duy vật, đặc biệt là lý luận về sự thống nhất
giữa các mặt đối lập. Năm 1917, V.I.Lênin viết tác phẩm Nhà nước và cách mạng bàn về vấn đề nhà nước
chuyên chính vô sản, bạo lực cách mạng và vai trò của đảng công nhân và con đường xây dựng chủ nghĩa xã
hội; đưa ra tư tưởng về nhà nước Xôviết, coi đó là hình thức của chuyên chính vô sản; vạch ra những nhiệm
vụ chính trị và kinh tế mà nhà nước đó phải thực hiện và chỉ ra những nguồn gốc vật chất của chủ nghĩa xã
hội được tạo ra do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Thời kỳ 1917-1924. Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười (Nga) năm 1917 mở ra thời
đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Sự kiện này làm nẩy sinh những nhu cầu mới về lý luận
mà sinh thời C.Mác và Ph.Ăngghen chưa thể hiện; V.I.Lênin tiếp tục tổng kết thực tiễn để đáp ứng nhu cầu
đó bằng các tác phẩm mà các nội dung chính của chúng cho rằng việc thực hiện kiểm tra, kiểm soát toàn dân;
tổ chức thi đua xã hội chủ nghĩa là những điều kiện cần thiết để chuyển sang xây dựng "chủ nghĩa xã hội kế
hoạch". V.I.Lênin cũng chỉ ra rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ là cơ sở của công cuộc xây dựng kinh tế;
xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa. Ông nhấn mạnh tính lâu dài của thời kỳ quá độ, không tránh khỏi phải
đi qua những nấc thang trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin khẳng định vai trò kinh tế hàng hóa
trong điều kiện nền sản xuất hàng hoá nhỏ đang chiếm ưu thế trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhận thấy sự quan liêu đã bắt đầu xuất hiện trong nhà nước công nông non trẻ, ông đề nghị những người
cộng sản cần thường xuyên chống ba kẻ thù chính là sự kiêu ngạo, ít học và tham nhũng. V.I.Lênin cũng chú
ý đến việc chống chủ nghĩa giáo điều khi vận dụng chủ nghĩa Mác nếu không muốn lạc hậu so với cuộc sống.
Di sản kinh điển của V.I.Lênin trở thành cơ sở cho việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của các
đảng cộng sản. Thiên tài về lý luận và thực tiễn của V.I. Lênin trong việc kế thừa, bảo vệ và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác được những người cộng sản đánh giá cao. Họ đặt tên cho chủ nghĩa của mình là chủ nghĩa Mác-Lênin
Câu 5. Thực chất của cuộc cách mạng trong lịch sử triết học do C.Mác thực hiện và ý nghĩa của nó đối
với việc phát triển triết học Mác - Lênin ở thời đại ngày nay là gì?
1. Sự ra đời của triết học Mác vào những năm 40 của thế kỷ XIX đã được thừa nhận là một cuộc cách mạng
trong lịch sử triết học. Cuộc cách mạng này đã đưa triết học nhân loại từ thời kỳ chủ yếu là “giải thích thế
giới” sang thời kỳ không chỉ “giải thích thế giới”, mà còn “cải tạo thế giới”. Rõ ràng là, với sự ra đời của triết
học Mác, lịch sử triết học của nhân loại đã chuyển sang một thời kỳ mới về chất. Thực chất của cuộc cách
mạng này được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng trong lịch sử triết
học trước đó, C.Mác đã tạo nên sự thống nhất hữu cơ không thể tách rời giữa chủ nghĩa duy vật và phương
pháp biện chứng - đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Trong triết học của C.Mác, chủ nghĩa duy vật gắn kết, thống nhất hữu cơ với phương pháp biện chứng. Chủ
nghĩa duy vật được C.Mác làm giàu bằng phương pháp biện chứng, còn phương pháp biện chứng được ông
đặt trên nền chủ nghĩa duy vật. Đồng thời, cả chủ nghĩa duy vật lẫn phương pháp biện chứng đều được
C.Mác phát triển lên một trình độ mới về chất. Do vậy, sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật và
phương pháp biện chứng trong triết học Mác hơn hẳn về chất so với sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và
phương pháp biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại. Vì vậy, đây chính là bước phát triển cách mạng trong
triết học do C.Mác thực hiện.
Thứ hai, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện vĩ đại nhất của cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện.
Về bản chất, chủ nghĩa duy vật lịch sử của C.Mác - quan niệm duy vật về lịch sử - cũng là chủ nghĩa duy vật
biện chứng, nhưng thể hiện được tính đặc thù của lĩnh vực lịch sử – lĩnh vực hoạt động của con người. Chính
chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng đã trở thành cơ sở thế giới quan và phương pháp
luận cho C.Mác nghiên cứu kinh tế, phát hiện ra học thuyết giá trị thặng dư, hiểu được sự phát sinh, phát
triển, diệt vong tất yếu của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Do vậy, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật
lịch sử là biểu hiện vĩ đại nhất của cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện.
Thứ ba, với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác đã khắc phục
được sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn của con người. Trên cơ sở đó, triết học của ông đã trở
thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của nhân loại tiến bộ.
Trước khi triết học Mác ra đời, các nhà triết học thường tập trung chủ yếu vào giải thích thế giới, mà ít chú ý
tới cải tạo thế giới. Cũng đã có một số nhà triết học muốn cải tạo thế giới nhưng lại bằng con đường không
tưởng - dựa vào các lực lượng siêu nhiên, bằng “khai sáng”, mở mang dân trí, bằng con đường giáo dục đạo
đức,v.v.. Có thể nói, không một nhà triết học nào trước C.Mác hiểu được thực tiễn và vai trò của nó đối với cải tạo thế giới.
Trung tâm chú ý của triết học Mác không chỉ là giải thích thế giới, mà quan trọng hơn là cải tạo thế giới.
Khác với các nhà triết học trước đó, C.Mác đã chỉ ra rằng, chỉ có thể cải tạo được thế giới thông qua hoạt
động thực tiễn của con người. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận nhận thức nói riêng, vào triết học
nói chung, C.Mác đã làm cho triết học của ông hơn hẳn về chất so với toàn bộ triết học trước đó. Trong triết
học Mác, hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản được soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, định hướng bởi chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngược lại, hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản lại là cơ
sở, động lực cho sự phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Giữa triết học
Mác với hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản có sự thống nhất hữu cơ với nhau. Do vậy, triết học Mác đã
trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của giai cấp vô sản và của toàn thể nhân loại tiến bộ.
Thứ tư, với việc sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác đã khắc
phục được sự đối lập giữa triết học với các khoa học cụ thể.
Trước khi triết học Mác ra đời, triết học hoặc là hòa tan, ẩn giấu đằng sau các khoa học khác, hoặc đối lập
với chúng. Quan hệ giữa triết học Mác với các khoa học cụ thể là quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn
nhau. Các khoa học cụ thể cung cấp cho triết học Mác các tư liệu, dữ kiện, thông số khoa học để triết học
Mác khái quát. Ngay sự ra đời của triết học Mác cũng không thể thiếu những tiền đề khoa học tự nhiên.
Chính những thành tựu của khoa học tự nhiên nửa đầu thế kỷ XIX đã làm bộc lộ những hạn chế, sự bất lực
của phương pháp siêu hình trong nhận thức thế giới; đồng thời cung cấp cơ sở khoa học cho sự ra đời của
phương pháp biện chứng. Trong quan hệ với các khoa học cụ thể, triết học Mác đóng vai trò thế giới quan,
phương pháp luận chung nhất. Thực tiễn phát triển mạnh mẽ của các khoa học cụ thể càng làm tăng vai trò
thế giới quan, phương pháp luận của triết học Mác. Như vậy, sự ra đời của triết học Mác đã chấm dứt mâu
thuẫn giữa triết học với các khoa học cụ thể.
Cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng to lớn đối với
thời đại. Chính cuộc cách mạng này đã làm cho chủ nghĩa xã hội không tưởng có cơ sở để trở thành khoa
học. Cuộc cách mạng này cũng làm cho triết học thay đổi cả về vai trò, chức năng và nhiệm vụ. Triết học
Mác đã trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của nhân loại tiến bộ.
2. Kể từ khi triết học Mác ra đời cho đến nay, thực tiễn đã có nhiều đổi thay, nhưng triết học Mác vẫn giữ
nguyên ý nghĩa lý luận cũng như giá trị thực tiễn trong thời đại ngày nay. Có thể nói, cuộc cách mạng trong
triết học do C.Mác thực hiện vào những năm 40 của thế kỷ XIX vẫn giữ nguyên ý nghĩa to lớn trong việc phát
triển triết học Mác - Lênin ở thời đại ngày nay. Điều này thể hiện ở chỗ:
Một là, triết học Mác - Lênin là một hệ thống mở chứ không phải là hệ thống khép kín; nó đòi hỏi luôn phải
được bổ sung, hoàn thiện, phát triển. Đối với phương pháp biện chứng duy vật, không có gì là bất biến. Tinh
thần duy vật biện chứng đòi hỏi chúng ta phải xuất phát từ điều kiện thực tiễn khách quan để bổ sung, hoàn
thiện, phát triển triết học Mác - Lênin, nhưng phải biết tổng kết thực tiễn một cách khách quan, biện chứng,
có chắt lọc, có lý luận. Đồng thời, phải tránh siêu hình, rơi vào chủ nghĩa duy vật tầm thường, thô thiển, chỉ
biết căn cứ từ thực tiễn vụn vặt, cục bộ để bổ sung, hoàn thiện, phát triển triết học Mác - Lênin. Không chỉ
thế, còn phải luôn bảo đảm sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng, tránh
mắc phải sai lầm của các nhà triết học trước Mác. Trên tinh thần duy vật biện chứng, để bổ sung, hoàn thiện,
phát triển triết học Mác - Lênin có hiệu quả, cần tiếp tục tinh thần duy vật triệt để. Nghĩa là phải giải quyết
tốt những vấn đề của xã hội, của lịch sử trên tinh thần duy vật và biện chứng.
Hai là, sự ra đời của triết học Mác gắn bó chặt chẽ với thực tiễn phong trào công nhân những năm 30 - 40
của thế kỷ XIX. Bản thân triết học Mác cũng gắn bó hữu cơ với thực tiễn cách mạng của quần chúng nhân
dân. Chính C.Mác, trong quá trình sáng tạo triết học, đã khắc phục sự đối lập giữa triết học với hoạt động
thực tiễn của con người. Bởi vậy, bổ sung, hoàn thiện, phát triển triết học Mác - Lênin phải theo hướng gắn
bó với thực tiễn, bảo đảm sự thống nhất giữa triết học với thực tiễn. Thực tiễn luôn vận động, biến đổi và
phát triển, do vậy, nhận thức của con người cũng luôn cần được bổ sung, hoàn thiện và phát triển cho phù
hợp với thực tiễn đó. Triết học Mác - Lênin cũng không nằm ngoài quy luật này. Sự thống nhất giữa triết học
Mác - Lênin với thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải tìm lời giải đáp cho những vấn đề của ngày hôm nay từ chính
thực tiễn ngày hôm nay chứ không thể chỉ tìm trong lịch sử. Tuy nhiên, trong quá trình bổ sung, hoàn thiện
và phát triển triết học Mác - Lênin cần tránh hai thái cực sai lầm: hoặc là không thấy được những đổi thay
của thực tiễn, bảo thủ không muốn bổ sung, hoàn thiện và phát triển những nguyên lý của triết học Mác -
Lênin; hoặc là quá nhấn mạnh, tuyệt đối hóa sự đổi thay của thực tiễn dẫn đến đòi xét lại triết học Mác - Lênin.
Ba là, ngay từ khi mới ra đời, triết học Mác đã gắn bó hữu cơ với các khoa học cụ thể. Do vậy, ngày nay, với sự
phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, triết học Mác - Lênin không thể không được bổ sung, hoàn
thiện, phát triển lý luận của mình. Nếu triết học Mác - Lênin không được bổ sung, hoàn thiện và phát triển trên cơ
sở khái quát những thành tựu mới của các khoa học cụ thể thì sẽ trở nên lạc hậu, nghèo nàn, khô cứng, không
thể đáp ứng được vai trò thế giới quan, phương pháp luận chung nhất cho các khoa học cụ thể, cũng như cho
quần chúng nhân dân trong hoạt động cải tạo thế giới. Đương nhiên, nếu không đứng vững trên lập trường của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng duy vật thì trước những phát minh mới của khoa học,
người ta dễ mất phương hướng, dễ mắc phải sai lầm trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn .Tuy nhiên, điều
này không có nghĩa là chỉ cần nắm được triết học Mác - Lênin thì con người sẽ giải quyết được mọi vấn đề cụ thể do thực
tiễn đặt ra. Triết học Mác - Lênin không phải bảo bối chứa sẵn mọi cách giải quyết những vấn đề do cuộc sống cũng như
nhận thức đặt ra. Để tìm được lời giải đáp cho những vấn đề nảy sinh, bên cạnh những tri thức triết học Mác - Lênin, còn
phải cần đến những tri thức của các khoa học cụ thể, kinh nghiệm sống và hoạt động thực tiễn của mỗi người. Thiếu những
điều đó, chúng ta không thể hiểu và vận dụng đúng những nguyên lý của triết học Mác - Lênin. Do vậy, trong việc bổ sung,
hoàn thiện và phát triển triết học Mác - Lênin, cần phải chống cả hai thái cực sai lầm: hoặc coi thường triết học Mác - Lênin,
tuyệt đối hóa các khoa học cụ thể; hoặc chỉ thấy có triết học Mác - Lênin, không thấy vai trò của các khoa học cụ thể. Đồng
thời, cũng cần phải nhận thức đúng rằng, bản thân triết học Mác - Lênin cũng cần được đổi mới, bổ sung, hoàn thiện và phát triển.
Như vậy, có thể khẳng định lại rằng, hơn một thế kỷ rưỡi đã trôi qua, kể từ khi cuộc cách mạng trong
triết học được C.Mác thực hiện, ý nghĩa của cuộc cách mạng này vẫn giữ nguyên tính thời sự và tính thực
tiễn cho việc phát triển triết học Mác - Lênin trong thời đại hiện nay.
Câu 6. Triết học – hạt nhân lí luận của thế giới quan có nghĩa là gì?
· Thế giới quan là toàn bộ những quan niệm về thế giới, về vai trò của con người trong thế giới đó, về chính
bản thân cuộc sống của con người và loài người. Nó được hình thành ở một con người và ở một cộng đồng người.
· Triết học là hạt nhân của thế giới quan nghĩa là triết học cung cấp cho con người những tri thức về bản chất
chung nhất của thế giới, về vai trò của con người trong thế giới đó nên triết học là cơ sở lí luận chung cho
thế giới quan, làm cho thế giới quan phát triển một cách tự giác trên một lập trường triết học nhất định.
Ví dụ: trên cơ sở lập trường triết học duy tâm về bản chất con người, những quan niệm về lẽ sống, về nghĩa
vụ, hạnh phúc cũng đối lập với quan niệm về những vấn đề này trên lập trường của chủ nghĩa duy vật.
Câu 7. Hãy nêu đối tượng nghiên cứu của triết học qua các thời kì trong lịch sử?
· Thời cổ đại: Với nguồn gốc nhận thức của triết học, triết học được quan niệm là một hình thái cao nhất
của tri thức, biện luận về những vấn đề bản chất chung nhất của vạn vật, do vậy triết học được coi là
“khoa học của mọi khoa học” bao gồm toàn bộ tri thức lí luận của nhân loại. Nó thể hiện dưới hình thức
“nền triết học tự nhiên” thời cổ đại.
· Thời Trung cổ: Triết học chỉ được xem là một bộ phận của thần học nhằm biện minh, lý giải cho sự tồn tại
của thần quyền và chính quyền phong kiến thế tục.
· Thời phục hưng đến nay: Nhận thức của con người ngày càng phát triển, song song với những kiến thức
về bản chất của thế giới nói chung, con người cần đi sâu khám phá thế giới ở các lĩnh vực khác nhau. Nhu
cầu này thúc đẩy quá trình phát triển của các khoa học chuyên nghành, chúng dần dần tách khỏi triết học,
trở thành các môn khoa học độc lập. Trước tình hình đó, đối tượng của triết học cũng dần thu hẹp lại và
xác định lĩnh vực nghiên cứu của mình.
Ngày nay, triết học là một khoa học, nhưng triết học khác với các khoa học khác ở chỗ: Triết học nghiên cứu
thế giới trong một chỉnh thể và vạch ra những quy luật chung nhất của thế giới, còn các khoa học khác
nghiên cứu từng lĩnh vực riêng biệt của thế giới.
Câu 8. Phân tích nguồn gốc của triết học theo hai khía cạnh nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội?
Triết học là một hình thái ý thức xã hội có nguồn gốc từ tồn tại xã hội và sự phát triển của văn hoá, khoa
học. Có thể nói triết học có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
· Nguồn gốc nhận thức: Nhu cầu nhận thức thế giới là một nhu cầu khách quan của con người. Trong quá
trình sống và cải biến thế giới, từng bước con người có kinh nghiệm và biết lý giải về tự nhiên, xã hội với
những kiến thức cụ thể,riêng lẻ về những lĩnh vực khác nhau, dần dần những triết lý - tức là những quan
niệm chung về thế giới và nhân sinh cũng xuất hiện. Khi nhận thức của con người phát triển đến trình độ
cao, nghĩa là khi con người có khả năng tư duy trừu tượng, khái quát các tri thức riêng lẻ thành hệ thống
các quan điểm, quan niệm chung nhất về thế giới và về vai trò của con người trong thế giới thì lúc đó triết
học xuất hiện với tư cách là một khoa học. Trong lịch sử, triết học ra đời từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
· Nguồn gốc xã hội: Triết học ra đời khi kinh tế - xã hội đã có sự phân công lao động và đã xuất hiện giai
cấp. Khi con người chế tạo được công cụ bằng đồng, bằng sắt thì nền sản xuất xã hội đạt năng suất cao
hơn. Dần dần, có sự phân công giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Nền kinh tế tương đối phát triển
với trình độ chuyên môn hoá trong lao động đã tạo điều kiện cho những tiến bộ về văn hoá, khoa học.
Đồng thời trong lịch sử, nền kinh tế dựa trên công cụ lao động bằng sắt cũng dẫn tới sự phân hoá giai cấp,
xã hội chiếm hữu nô lệ ra đời. Mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp với vai trò và lợi ích khác nhau đã phản ánh về
bản chất thế giới và luận về vai trò của con người trong thế giới một cách khác nhau dẫn đến sự ra đời của
nhiều trường phái triết học. Từ nguồn gốc trên cho thấy triết học xuất hiện từ bản thân lịch sử của con
người, từ yêu cầu thực tiễn của cuộc sống. Như vậy, triết học là một hình thái ý thức xã hội, nó phản ánh
các quan hệ kinh tế - xã hội và biến đổi cùng với sự biến đổi của kinh tế - xã hội.
Câu 9. Tại sao triết học Mác – Lê nin là cơ sở lý luận khoa học của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội trên thế giới và sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam?
Sự nghiệp đổi mới toàn diện ở Việt Nam tất yếu phải dựa trên cơ sở lý luận khoa học, trong đó hạt nhân
là phép biện chứng duy vật. Công cuộc đổi mới toàn diện xã hội theo định hướng XHCN được mở đường
bằng đổi mới tư duy lý luận, trong đó có vai trò của triết học Mác – Lê nin.
Vai trò thế giới quan, phương pháp luận của triết học Mác – Lê nin thể hiện đặc biệt rõ đối với sự nghiệp
đổi mới ở Việt Nam đó là đổi mới tư duy. Một trong những điểm nhấn của thế giới quan, phương pháp luận
triết học Mác – Lê nin chính là vấn đề thực tiễn, đó là phương pháp biện chứng, đó là sự vận động biến đổi
không ngừng của thế giới. Đó chính là những yếu tố đã góp phần xây dựng lý luận về đổi mới, về con đường
đi lên xã hội chủ nghĩa, về thời kì quá độ, về xây dựng kinh tế thị trường, định hướng XHCN, về mô hình
chủ nghĩa xã hội, về các bước, cách thức đi lên CNXH,… đó chính là thế giới quan mới của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.
Bên cạnh đó thế giới quan triết học Mác – Lê nin đã giúp chúng ta nhìn nhận đánh giá bối cảnh mới, đánh
giá cục diện thế giới, các mối quan hệ quốc tế, xu hướng thời đại, thực trạng tình hình đất nước và con đường
phát triển trong tương lai.
Nếu như thế giới quan triết học Mác – Lê nin giúp chúng ta xác định con đường, bước đi thì phương pháp
luận giúp chúng ta giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tiễn xây dựng CNXH, thực tiễn đổi mới hơn 30
năm qua. Dựa trên cơ sở phương pháp luận triết học Mác – Lê Nin, chúng ta đã giải quyết tốt các mối quan
hệ cơ bản của quá trình đổi mới như mối quan hệ kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội; mối quan hệ giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, đây là mối quan hệ cốt lõi, mang tính nền tảng cho việc giải quyết các mối quan hệ khác.
Như vậy, bước vào thế kỉ XXI, những điều kiện lịch sử mới đã quy định vai trò của triết học Mác – Lê
nin ngày càng tăng. Điều đó đòi hỏi phải bảo vệ, phát triển triết học Mác – Lê nin để phát huy tác dụng và
sức sống của nó đối với thời đại và đất nước.
Câu 10. Mục đích và yêu cầu của việc học tập, nghiên cứu môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin?
Học tập, nghiên cứu môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin cần phải theo phương
pháp gắn những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn đất nước và thời đại;
Học tập, nghiên cứu môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin cần phải hiểu đúng tinh
thần, thực chất của nó; tránh bệnh kinh viện, giáo điều trong học tập, nghiên cứu và vận dụng các nguyên lý đó trong thực tiễn;
Học tập, nghiên cứu môn học mỗi nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong mối quan hệ với các
nguyên lý khác; mỗi bộ phận lý luận cấu thành này phải gắn kết với các bộ phận lý luận cấu thành còn lại để
thấy sự thống nhất của các bộ phận đó trong chủ nghĩa Mác-Lênin; đồng thời cũng nên nhận thức các nguyên
lý đó trong tiến trình phát triển của lịch sử tư tưởng nhân loại.