Câu hỏi tự luận - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thếgiới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Triết học nghiêncứu về các câu hỏi chung và cơ bản về sự tồn tại, kiến thức, giá trị,lý trí, tâm trí và ngôn ngữ. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Câu 1:
Triết học là gì?
Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế
giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Triết học nghiên
cứu về các câu hỏi chung bản về sự tồn tại, kiến thức, giá trị,
trí, tâm trí ngôn ngữ. Những câu hỏi như vậy thường được đặt
ra vấn đề cần nghiên cứu hoặc giải quyết. Phương pháp triết học
bao gồm đặt câu hỏi, thảo luận phê bình, lập luận hợp trình
bày có hệ thống
sao nói triết học hạt nhân luận của thế giới
quan?
Để tồn tại, loài người phải thích nghi với môi trường sống của mình,
nhưng con người không thích nghi với thế giới bên ngoài một cách
thụ động, mà luôn luôn tìm cách biến đổi thế giới đó theo những yêu
cẩu cuộc sống của mình. Con người phải hiểu thế giới xung quanh
cũng như về chính bản thân con người. Đó là thế giới quan.
Theo quan điểm Mác Lê-nin đưa ra cách hiểu về thế giới quan như
sau: Thế giới quan toàn bộ những quan niệm của con người về
thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người
trong thế giới đó”. Thế giới quan đóng vai trò định hướng cho toàn
bộ cuộc sống của con người, từ thực tiễn đến hoạt động nhận thức
thế giới cũng như tự nhận thức bản thân để từ đó xác định tưởng,
hệ giá lối sống, nếp sống của mình. Trong thế giới quan sự hoà
nhập giữa tri thức và niềm tin. Tri thức sở trực tiếp cho sự hình
thành thế giới quan, song nó chỉ gia nhập thế giới quan khi nó đã trở
thành niềm tin định hướng cho hoạt động của con người.
Xét theo quá trình phát triển thì thể chia thế giới quan thành ba
loại hình cơ bản:
+Thế giới quan huyền thoại: Thế giới quan huyền thoại phương
thức cảm nhận thế giới của người nguyên thủy. thời kỳ này, các
yếu tố tri thức cảm xúc, trí tín ngưỡng, hiện thực tưởng
tượng, cái thật cái ảo, cái thần cái người, v.v. của con người
hoà quyện vào nhau thể hiện quan niệm về thế giới.
+ Thế giới quan tôn giáo: Trong thế giới quan tôn giáo, niềm tin tôn
giáo đóng vai trò chủ yếu; tín ngưỡng cao hơn lý trí, cái ảo lấn át cái
thực, cái thần vượt trội cái người.
+ Thế giới quan triết học: Triết học diễn tả quan niệm của con người
dưới dạng hệ thốngc phạm trù, quy luật đóng vai trò như những
bậc thang trong quá trình nhận thức thế giới. Triết học được coi như
trình độ tự giác trong quá trình hình thành phát triển của thế giới
quan. Nếu thế giới quan được hình thành từ toàn bộ tri thức kinh
nghiệm sống của con người trong đó tri thức của các khoa học cụ
thể sở trực tiếp cho sự hình thành những quan niệm nhất định
về từng mặt, từng bộ phận của thế giới, thì triết học, với phương
thức duy đặc thù đã tạo nên hệ thống luận bao gồm những
quan niệm chung nhất về thế giới với tư cách là một chỉnh thể.
Triết học nhận thức tính hạt nhân luận của thế giới quan,
hệ thống các quan điểm luận chung nhất về thế giới về vị trí
của con người trong thế giới đó. Triết học thế giới quan nhân
sinh quan của con người khi xem xét thế giới và loài người trong mối
quan hệ giữa ý thức vật chất, giữa con người với con người trong
tự nhiên và xã hội.
Như vậy, triết học ra đời với cách hạt nhân luận của thế giới
quan, làm cho thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa
trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn tri thức do các khoa học
đưa lại; triết học giữ vai trò định hướng cho quá trình củng cố
phát triển thế giới quan của mỗi nhân, mỗi cộng đồng trong lịch
sử.
Trên đây những chia sẻ của chúng tôi về vấn đề sao nói triết
học hạt nhân luận của thế giới quan đến bạn đọc. Trong
quá trình nghiên cứu tìm hiểu về vấn đề này nếu bất cứ thắc
mắc nào, Quý khách hàng đừng ngần ngại liên hệ với chúng tôi để
được đội ngũ chuyên viên tư vấn của chúng tôi hỗ trợ tốt nhất.
Câu 2: Vì sao nói sự ra đời của triết học Mác vào những năm 40 của
thế kỷ XIX là một một cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử triết học?
a) Điều kiện kinh tế – xã hội
+ Sự củng cố và phát triển mạnh mẽ của phương thức sản xuất TBCN
trong điều kiện cách mạng công nghiệp. Vào những năm 30 – 40 thế kỷ
XIX, dưới ảnh hưởng cuộc cách mạng công nghiệp, phương thức sản xuất
TBCN đã thực sự đi vào giai đoạn phát triển mới và trở thành lực lượng
kinh tế thống trị ở các nước châu Âu như Anh, Pháp, Đức. Phương thức sản
xuất TBCN phát triển thể hiện tính hơn hẳn của nó so với phương thức sản
xuất phong kiến trong việc thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, đồng
thời làm cho những mâu thuẫn xã hội càng ngày càng gay gắt hơn. Xung
đột giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ở các nước này đã trở thành
những cuộc đấu tranh giai cấp gay go, quyết liệt.
+ Trong cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản
trong các nước tư bản này, biểu hiện ở phong trào cộng sản những năm
30 – 40 thế kỷ XIX ngày càng phát triển và trở nên chín mùi. Giai cấp vô
sản châu Âu dần dần trưởng thành và trở thành một lực lượng chính trị –
xã hội độc lập trên vũ đài lịch sử.
+ Sự ra đời giai cấp vô sản cách mạng và sự phát triển mạnh mẽ phong
trào công nhân đã tạo cơ sở xã hội cho sự ra đời lý luận tiến bộ và cách
mạng của C.Mác và Ph.Angghen, trong đó, triết học Mác là hạt nhân, lý
luận chung của nó. Chính sự ra đời của lý luận này đã lý giải một cách
khoa học về sự xung đột không thể điều hòa giữa tư bản và lao động, về
sứ mệnh lịch sử vĩ đại của giai cấp vô sản cách mạng đối với sự phát triển
và tiến bộ xã hội.
Có thể nói, sự ra đời triết học Mác chính là sự phản ánh, đồng thời đáp ứng
nhu cầu, đòi hỏi về mặt lý luận của thực tiễn xã hội nói chung, nhất là
thực tiễn cách mạng của vô sản ở giai đoạn 30-40 thế kỷ XIX nói riêng.
b) Tiền đề lý luận
Sự ra đời triết học Mác không chỉ là sản phẩm tất yếu của những điều
kiện kinh tế – xã hội của xã hội TBCN giữa thế kỷ XIX mà còn là sản phẩm
tất yếu của sự phát triển hợp qui luật của lịch sử tư tưởng nhân loại. Triết
học Mác ra đời là một sự kế thừa biện chứng những học thuyết, lý luận
trước kia mà trực tiếp và rõ nét nhất là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính
trị học Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp hồi thế kỷ XIX.
+ Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học của Hêghen và của Phoiơbắc,
là nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác. Đối với triết học của
Hêghen, một mặt C.Mác và Ph.Ănghgen phê phán tính chất duy tâm thần
bí trong triết học này, mặt khác hai ông đánh giá rất cao tư tưởng biện
chứng của nó. C.Mác coi tư tưởng biện chứng trong hệ thống triết học duy
tâm của Hêghen là “hạt nhân hợp lý” cần phải được kế thừa, cải tạo. Trong
khi phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, C.Mác không chỉ dựa vào
truyền thống của chủ nghĩa duy vật mà còn trực tiếp cải tạo chủ nghĩa
duy vật cũ, khắc phục tính siêu hình và những hạn chế lịch sử của nó. T
đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên triết học mới, trong đó, chủ
nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất hữu cơ với nhau.
+ Sự ra đời triết học Mác cũng diễn ra trong sự tác động qua lại với quá
trình C.Mác kế thừa, cải tạo các lý luận về kinh tế và về CNXH. Việc kế
thừa và cải tạo kinh tế chính trị học Anh với những đại biểu xuất sắc là
A.Xmít và Đ.Ricácđô đã tạo điều kiện cho C.Mác hoàn thành quan niệm
duy vật lịch sử cũng như xây dựng nên học thuyết về kinh tế của mình.
+ Việc kế thừa và cải tạo lý luận về chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp
với những đại biểu nổi tiếng như Xanh Ximông, Sáclơ Phuriê đã giúp C.Mác
và Ph.Ăngghen xây dựng lý luận khoa học của mình về CNXH. Trên thực
tế, sự hình thành và phát triển triết học Mác không tách rời với sự phát
triển lý luận về CNXH của Mác, tức CNXH khoa học.
c) Tiền đề khoa học tự nhiên
Cùng với những nguồn gốc lý luận trên, sự ra đời triết học Mác còn dựa
vào những tiền đề khoa học tự nhiên. Những thành tựu về khoa học tự
nhiên làm bộc lộ rõ tính hạn chế, bất lực của phương pháp tư duy siêu
hình trong việc nhận thức thế giới, đồng thời cung cấp cơ sở tri thức khoa
học cho sự phát triển tư duy biện chứng, hình thành phép biện chứng duy
vật.
Trong số những thành tựu KHTN thời đó, Ph.Ăngghen nêu bật ý nghĩa của
3 phát minh lớn đối với sự hình thành triết học duy vật biện chứng: định
luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, thuyết tế bào và thuyết tiến hóa
Đácuyn.Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng vạch ra mối liên hệ
thống nhất giữa các hình thức vận động của vật chất. Thuyết tế bào chứng
minh về sự thống nhất và sự phát triển của sự sống từ thấp lên cao, từ
đơn giản tới phức tạp. Thuyết tiến hóa Đácuyn đã lý giải về tính biện
chứng của sự phát triển phong phú, đa dạng của các giống loài.
2. Sự ra đời của triết học Mác là một cuộc cách mạng trên lĩnh
vực triết học
– Triết học Mác đã khắc phục được sự tách rời giữa thế giới quan duy vật
và phép biện chứng trong lịch sử phát triển của triết học trước đó. Trên cơ
sở cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ mang tính siêu hình cũng như phép biện
chứng duy tâm. Triết học C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên một nền
triết học mới – triết học duy vật biện chứng.
– Sự ra đời chủ nghĩa duy vật lịch sử, một bộ phận của triết học Mác chính
là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Với việc xây dựng chủ
nghĩa duy vật lịch sử của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã làm cho chủ
nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và triệt để, biểu hiện sự mở rộng học thuyết
này từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người.
– Với sự ra đời triết học Mác, vai trò xã hội của triết học cũng như vị trí của
triết học trong hệ thống tri thức khoa học đã có sự biến đổi. Nếu như đối
với triết học trước kia chủ yếu đóng vai trò giải thích thế giới thì triết học
Mác ra đời không chỉ giải thích thế giới mà chủ yếu là công cụ cải tạo thế
giới. Triết học Mác trở thành công cụ nhận thức thế giới và cải tạo thế giới
bằng thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao
động. Triết học Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, là
vũ khí lý luận” của giai cấp này trong công cuộc cải tạo xã hội, giải phóng
bản thân và giải phóng loài người nói chung. Tương tự, giai cấp công nhân
chính là vũ khí vật chất, là lực lượng vật chất quan trọng của triết học
mác, để nhờ đó, triết học Mác thể hiện được vai trò cải tạo thế giới của
mình.
Ngoài ra, triết học Mác cũng trở thành thế giới quan và phương pháp luận
chung cần thiết cho sự phát triển của các khoa học cụ thể. Đồng thời, sự
ra đời triết học Mác cũng chấm dứt quan niệm của triết học cũ coi triết
học là “khoa học của các khoa học”, đứng trên mọi khoa học. Trái lại, triết
học Mác khẳng định về vai trò của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội
đối với sự phát triển của bản thân triết học; trong đó, tùy vào sự phát triển
của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, đòi hỏi triết học cũng phải biến
đổi theo, phải thay đổi hình thức cho phù hợp.
Câu 3: Phân tích vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống
xã hội và trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay
Triết học Mác – Lênin đã kế thừa và phát triển những thành tựu quan
trọng nhất trong tư duy triết học của nhân loại. Nó được C.Mác và
Ph.Ăngghen sáng tạo và phát triển rực rỡ. Đó chính là chủ nghĩa duy
vật biện chứng trong việc xem xét giới tự nhiên cũng như xem xét
đời sống xã hội và tư duy con người
Chức năng của thế giới quan:
Để nhận thức đúng về chức năng, về Vai trò của thế giới quanĐầu
tiên, chúng ta phải hiểu khái niệm, hiểu định nghĩa của nó. Mác-
Lênin đã từng nói: “Thế giới quan tổng thể những quan niệm của
con người về thế giới, về bản thân mỗi người, về cuộc sống về vị
trí của con người trong thế giới đó”.
Chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng, trong quá trình tồn tại phát
triển, con người luôn mối quan hệ sâu sắc với thế giới xung
quanh. Nhưng khác với động vật chỉ biết thích nghi một cách thụ
động chậm chạp, con người vẫn không ngừng tìm cách thay đổi
về thế giới sống để thể phù hợp với yêu cầu mục đích. riêng.
Trong suốt quá trình hình thành, biến đổi hay nhận thức tiến hóa,
con người luôn truy tìm, trăn trở những câu hỏi như: Nguồn gốc của
con người từ đâu? Thế giới xung quanh gì? Cái chi phối sự tồn
tại và biến đổi của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới xung quanh?
Mối quan hệ giữa con người với thế giới là gì?… Quá trình đặt ra câu
hỏi về con người và về thế giới khách quan tồn tại xung quanh và đi
tìm câu trả lời cho từng câu hỏi đã hình thành nên những quan niệm
nhất định về thế giới, trong đó có yếu tố tình cảm và trí tuệ, tri thức.
niềm tin đã hòa quyện vào nhau tạo thành một thể thống nhất.
Và đó được hiểu là thế giới quan
Thế giới quan có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống con người
trong hội loài người. Hoạt động của con người sẽ luôn b chi
phối bởi một thế giới quan nhất định. Và dù muốn hay không, con
người luôn phải nhìn ra thế giới và nhận thức về chính mình. Các yếu
tố hình thành thế giới quan như tri thức, niềm tin, trí, tình cảm
luôn có sự thống nhất với nhau và sự thống nhất trong hoạt động
của con người, cả trong hoạt động của con người. cả hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Vai trò của thế giới quan trong đời sống hội sẽ được thể hiện
các mặt sau:
Thứ nhất, chỉ ra đúng đắn những mối quan hệ tổng quát giữa thế
giới và vị trí của con người trong thế giới sẽ giúp con người xác định
chính xác mục tiêu hoạt động của mình. Nói cách khác, thế giới
quan công cụ giúp con người định hướng cuộc sống của mình
bằng cách tự đặt ra cho mình những mục tiêu và hoạt động.
+ Thứ hai, dựa trên những tri thức khái quát về thế giới về bản
thân con người cùng với những niềm tin, tình cảm được củng cố
hoàn thiện về thế giới quan, sẽ khả năng chi phối hoạt động
nhận thức. chi phối hoạt động thực tiễn của con người những
mức độ khá sâu sắc. thể thấy rằng, nếu hiểu đúng về ý nghĩa
cuộc sống, con người sẽ ý chí quyết tâm tích cực để làm việc
sự tiến bộ của hội của chính mình. Trong thời đại ngày nay,
khi các mối quan hệ hội ngày càng phức tạp, sáng kiến của con
người được tôn trọng tự do phát triển, đồng nghĩa vai trò của thế
giới quan cũng được tôn trọng. ngày càng được khẳng định và mạnh
mẽ hơn.
Triết học ra đời với cách hạt nhân luận chủ yếu của thế giới
quan, làm cho thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác
trên sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn trên những tri thức do
khoa học đã tạo ra. Đó là chức năng thế giới quan của triết học.
Chức năng phương pháp luận:
Trong hoạt động của con người có rất nhiều phương pháp đã được áp
dụng nên quá trình lựa chọn sử dụng phương pháp có thể đúng hoặc
sai. Nếu đúng sẽ giúp ta thành công, nếu sai sẽ dẫn đến thất bại.
Đứng trước những vấn đề đó, nhu cầu nhận thức khoa học, nhận
thức đúng về phương pháp đã hình thành đã xuất hiện hay sự
ra đời của phương pháp luận. Phương pháp luận hệ thống các
nguyên tắc, quan điểm làm sở cho việc xây dựng, lựa chọn, tìm
tòi và vận dụng các phương pháp trong nhận thức và thực tiễn nhằm
đạt được mục đích đã định. thể hiểu rằng, phương pháp luận
vai trò định hướng, gợi mở cho hoạt động nhận thức hoạt động
thực tiễn, còn phương pháp cách thức, thao tác của hoạt động cụ
thể chủ thể s thực hiện. phải được tuân theo thực hiện để
đạt được mục tiêu. Phương pháp luận có ba cấp độ, cụ thể như sau:
+ Phương pháp luận ngành: phương pháp luận cho các ngành
khoa học cụ thể.
+ Phương pháp luận chung: là những ý kiến, nguyên tắc có tính chất
chung hơn mức ngành, dùng để xác định các phương pháp hay
phương pháp luận của một nhóm ngành chung đối tượng nghiên
cứu.
+ Phương pháp luận chung nhất (còn gọi phương pháp triết học):
khái quát những quan điểm, nguyên tắc chung nhất. Làm sở để
xác định phương pháp luận chung, phương pháp hoạt động cụ thể
của nhận thức và thực tiễn.
Đối với nhận thức và thực tiễn của con người, phương pháp luận có ý
nghĩa hết sức quan trọng, nó là cơ sở, nền tảng, định hướng cho việc
xây dựng, tìm tòi, vận dụng các phương pháp nhằm tác động vào đối
tượng nhằm đạt được mục đích. Tầm quan trọng của phương pháp là
rất lớn trên con đường dẫn đến thành công phương pháp phải
đúng, như Becon đã từng phương pháp như ngọn đuốc soi đường
cho những ai đi trong bóng tối. ; còn Hegel phương pháp linh
hồn của vật thể hay các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đặc
biệt chú ý đến Vai trò của phương phápnhất là trong hoạt động cách
mạng nếu coi trọng phương pháp luận sẽ tránh được những tình
huống sai lầm do tính chủ quan duy ý chí phương pháp duy
siêu hình gây ra. Tóm lại, để đạt được mục tiêu đề ra, phương pháp
luận vai trò hết sức quan trọng trong việc định hướng, xây dựng
và vận dụng phương pháp cho con người cả trong nhận thức và thực
tiễn.
hệ thống tri thức chủ yếu tổng hợp của cả loài người về thế giới
về vai trò của con người trong thế giới đó, cùng với việc nghiên
cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, hội duy. triết
học, bên cạnh chức năng thế giới quan, nó còn thực hiện chức năng
phương pháp luận chung nhất.
Triết học với vai trò chủ đạo thế giới quan phương pháp luận
chung nhất, nhưng không phải cái quá xa vời, q hão
huyền ngược lại, gắn rất mật thiết với đời sống, với thực
tiễn. hành, đồng thời định hướng, phương hướng cho con người
trong hành động. ý thức hay không thì sự phát triển của khoa
học hiện đại vẫn phải dựa trên thế giới quan phương pháp luận.
thể nói, triết học một vai trò cùng quan trọng trong đời
sống xã hội và ngày càng được đổi mới, phát triển và nâng cao.
Triết học ra đời cả phương Đông phương Tây gần như đồng thời
(khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VII TCN).
một số trung tâm văn minh cổ đại của nhân loại như Trung Quốc,
Ấn Độ, Hy Lạp.
Theo người Trung Quốc, thuật ngữ triết học nguồn gốc ngôn ngữ
học là từ triết học, và khoa học này được hiểu theo nghĩa là tìm hiểu
bản chất của đối tượng, triết học trí tuệ, sự hiểu biết sâu sắc.
màu người.
Theo người Ấn Độ, triết học được coi là Danshana, có nghĩachiêm
nghiệm nhưng bao hàm trí tuệ dựa trên trí, con đường chiêm
nghiệm dẫn con người đến lẽ phải.
Ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện Hy Lạp, theo tiếng Hy
Lạp, triết học là Philosophia, nghĩa là yêu sự thông thái, và nó là một
khoa học vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh sự khát khao.
hành trình tìm kiếm chân lý của con người.
Như vậy, thể hiểu phương Đông hay phương Tây, ngay từ
thuở khai, triết học đã một hoạt động tinh thần biểu hiện khả
năng nhận thức, đánh g của con người, tồn tại với cách
một hình thái ý thức xã hội.
| 1/8

Preview text:

Câu 1: Triết học là gì?
Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế
giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Triết học nghiên
cứu về các câu hỏi chung và cơ bản về sự tồn tại, kiến thức, giá trị,
lý trí, tâm trí và ngôn ngữ. Những câu hỏi như vậy thường được đặt
ra là vấn đề cần nghiên cứu hoặc giải quyết. Phương pháp triết học
bao gồm đặt câu hỏi, thảo luận phê bình, lập luận hợp lý và trình bày có hệ thống
Vì sao nói triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan?
Để tồn tại, loài người phải thích nghi với môi trường sống của mình,
nhưng con người không thích nghi với thế giới bên ngoài một cách
thụ động, mà luôn luôn tìm cách biến đổi thế giới đó theo những yêu
cẩu cuộc sống của mình. Con người phải hiểu thế giới xung quanh
cũng như về chính bản thân con người. Đó là thế giới quan.
Theo quan điểm Mác Lê-nin đưa ra cách hiểu về thế giới quan như
sau: “Thế giới quan là toàn bộ những quan niệm của con người về
thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người
trong thế giới đó”. Thế giới quan đóng vai trò định hướng cho toàn
bộ cuộc sống của con người, từ thực tiễn đến hoạt động nhận thức
thế giới cũng như tự nhận thức bản thân để từ đó xác định lý tưởng,
hệ giá lối sống, nếp sống của mình. Trong thế giới quan có sự hoà
nhập giữa tri thức và niềm tin. Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình
thành thế giới quan, song nó chỉ gia nhập thế giới quan khi nó đã trở
thành niềm tin định hướng cho hoạt động của con người.
Xét theo quá trình phát triển thì có thể chia thế giới quan thành ba loại hình cơ bản:
+Thế giới quan huyền thoại: Thế giới quan huyền thoại là phương
thức cảm nhận thế giới của người nguyên thủy. Ở thời kỳ này, các
yếu tố tri thức và cảm xúc, lý trí và tín ngưỡng, hiện thực và tưởng
tượng, cái thật và cái ảo, cái thần và cái người, v.v. của con người
hoà quyện vào nhau thể hiện quan niệm về thế giới.
+ Thế giới quan tôn giáo: Trong thế giới quan tôn giáo, niềm tin tôn
giáo đóng vai trò chủ yếu; tín ngưỡng cao hơn lý trí, cái ảo lấn át cái
thực, cái thần vượt trội cái người.
+ Thế giới quan triết học: Triết học diễn tả quan niệm của con người
dưới dạng hệ thống các phạm trù, quy luật đóng vai trò như những
bậc thang trong quá trình nhận thức thế giới. Triết học được coi như
trình độ tự giác trong quá trình hình thành và phát triển của thế giới
quan. Nếu thế giới quan được hình thành từ toàn bộ tri thức và kinh
nghiệm sống của con người trong đó tri thức của các khoa học cụ
thể là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành những quan niệm nhất định
về từng mặt, từng bộ phận của thế giới, thì triết học, với phương
thức tư duy đặc thù đã tạo nên hệ thống lý luận bao gồm những
quan niệm chung nhất về thế giới với tư cách là một chỉnh thể.
Triết học là nhận thức có tính hạt nhân lý luận của thế giới quan, là
hệ thống các quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và về vị trí
của con người trong thế giới đó. Triết học là thế giới quan và nhân
sinh quan của con người khi xem xét thế giới và loài người trong mối
quan hệ giữa ý thức và vật chất, giữa con người với con người trong tự nhiên và xã hội.
Như vậy, triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới
quan, làm cho thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa
trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học
đưa lại; triết học giữ vai trò định hướng cho quá trình củng cố và
phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử.
Trên đây là những chia sẻ của chúng tôi về vấn đề Vì sao nói triết
học là hạt nhân lý luận của thế giới quan đến bạn đọc. Trong
quá trình nghiên cứu và tìm hiểu về vấn đề này nếu có bất cứ thắc
mắc nào, Quý khách hàng đừng ngần ngại liên hệ với chúng tôi để
được đội ngũ chuyên viên tư vấn của chúng tôi hỗ trợ tốt nhất.
Câu 2: Vì sao nói sự ra đời của triết học Mác vào những năm 40 của
thế kỷ XIX là một một cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử triết học?
a) Điều kiện kinh tế – xã hội
+ Sự củng cố và phát triển mạnh mẽ của phương thức sản xuất TBCN
trong điều kiện cách mạng công nghiệp. Vào những năm 30 – 40 thế kỷ
XIX, dưới ảnh hưởng cuộc cách mạng công nghiệp, phương thức sản xuất
TBCN đã thực sự đi vào giai đoạn phát triển mới và trở thành lực lượng
kinh tế thống trị ở các nước châu Âu như Anh, Pháp, Đức. Phương thức sản
xuất TBCN phát triển thể hiện tính hơn hẳn của nó so với phương thức sản
xuất phong kiến trong việc thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, đồng
thời làm cho những mâu thuẫn xã hội càng ngày càng gay gắt hơn. Xung
đột giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ở các nước này đã trở thành
những cuộc đấu tranh giai cấp gay go, quyết liệt.
+ Trong cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản
trong các nước tư bản này, biểu hiện ở phong trào cộng sản những năm
30 – 40 thế kỷ XIX ngày càng phát triển và trở nên chín mùi. Giai cấp vô
sản châu Âu dần dần trưởng thành và trở thành một lực lượng chính trị –
xã hội độc lập trên vũ đài lịch sử.
+ Sự ra đời giai cấp vô sản cách mạng và sự phát triển mạnh mẽ phong
trào công nhân đã tạo cơ sở xã hội cho sự ra đời lý luận tiến bộ và cách
mạng của C.Mác và Ph.Angghen, trong đó, triết học Mác là hạt nhân, lý
luận chung của nó. Chính sự ra đời của lý luận này đã lý giải một cách
khoa học về sự xung đột không thể điều hòa giữa tư bản và lao động, về
sứ mệnh lịch sử vĩ đại của giai cấp vô sản cách mạng đối với sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Có thể nói, sự ra đời triết học Mác chính là sự phản ánh, đồng thời đáp ứng
nhu cầu, đòi hỏi về mặt lý luận của thực tiễn xã hội nói chung, nhất là
thực tiễn cách mạng của vô sản ở giai đoạn 30-40 thế kỷ XIX nói riêng.
b) Tiền đề lý luận
Sự ra đời triết học Mác không chỉ là sản phẩm tất yếu của những điều
kiện kinh tế – xã hội của xã hội TBCN giữa thế kỷ XIX mà còn là sản phẩm
tất yếu của sự phát triển hợp qui luật của lịch sử tư tưởng nhân loại. Triết
học Mác ra đời là một sự kế thừa biện chứng những học thuyết, lý luận
trước kia mà trực tiếp và rõ nét nhất là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính
trị học Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp hồi thế kỷ XIX.
+ Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học của Hêghen và của Phoiơbắc,
là nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác. Đối với triết học của
Hêghen, một mặt C.Mác và Ph.Ănghgen phê phán tính chất duy tâm thần
bí trong triết học này, mặt khác hai ông đánh giá rất cao tư tưởng biện
chứng của nó. C.Mác coi tư tưởng biện chứng trong hệ thống triết học duy
tâm của Hêghen là “hạt nhân hợp lý” cần phải được kế thừa, cải tạo. Trong
khi phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, C.Mác không chỉ dựa vào
truyền thống của chủ nghĩa duy vật mà còn trực tiếp cải tạo chủ nghĩa
duy vật cũ, khắc phục tính siêu hình và những hạn chế lịch sử của nó. Từ
đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên triết học mới, trong đó, chủ
nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất hữu cơ với nhau.
+ Sự ra đời triết học Mác cũng diễn ra trong sự tác động qua lại với quá
trình C.Mác kế thừa, cải tạo các lý luận về kinh tế và về CNXH. Việc kế
thừa và cải tạo kinh tế chính trị học Anh với những đại biểu xuất sắc là
A.Xmít và Đ.Ricácđô đã tạo điều kiện cho C.Mác hoàn thành quan niệm
duy vật lịch sử cũng như xây dựng nên học thuyết về kinh tế của mình.
+ Việc kế thừa và cải tạo lý luận về chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp
với những đại biểu nổi tiếng như Xanh Ximông, Sáclơ Phuriê đã giúp C.Mác
và Ph.Ăngghen xây dựng lý luận khoa học của mình về CNXH. Trên thực
tế, sự hình thành và phát triển triết học Mác không tách rời với sự phát
triển lý luận về CNXH của Mác, tức CNXH khoa học.
c) Tiền đề khoa học tự nhiên
Cùng với những nguồn gốc lý luận trên, sự ra đời triết học Mác còn dựa
vào những tiền đề khoa học tự nhiên. Những thành tựu về khoa học tự
nhiên làm bộc lộ rõ tính hạn chế, bất lực của phương pháp tư duy siêu
hình trong việc nhận thức thế giới, đồng thời cung cấp cơ sở tri thức khoa
học cho sự phát triển tư duy biện chứng, hình thành phép biện chứng duy vật.
Trong số những thành tựu KHTN thời đó, Ph.Ăngghen nêu bật ý nghĩa của
3 phát minh lớn đối với sự hình thành triết học duy vật biện chứng: định
luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, thuyết tế bào và thuyết tiến hóa
Đácuyn.Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng vạch ra mối liên hệ
thống nhất giữa các hình thức vận động của vật chất. Thuyết tế bào chứng
minh về sự thống nhất và sự phát triển của sự sống từ thấp lên cao, từ
đơn giản tới phức tạp. Thuyết tiến hóa Đácuyn đã lý giải về tính biện
chứng của sự phát triển phong phú, đa dạng của các giống loài.
2. Sự ra đời của triết học Mác là một cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học
– Triết học Mác đã khắc phục được sự tách rời giữa thế giới quan duy vật
và phép biện chứng trong lịch sử phát triển của triết học trước đó. Trên cơ
sở cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ mang tính siêu hình cũng như phép biện
chứng duy tâm. Triết học C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên một nền
triết học mới – triết học duy vật biện chứng.
– Sự ra đời chủ nghĩa duy vật lịch sử, một bộ phận của triết học Mác chính
là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Với việc xây dựng chủ
nghĩa duy vật lịch sử của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã làm cho chủ
nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và triệt để, biểu hiện sự mở rộng học thuyết
này từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người.
– Với sự ra đời triết học Mác, vai trò xã hội của triết học cũng như vị trí của
triết học trong hệ thống tri thức khoa học đã có sự biến đổi. Nếu như đối
với triết học trước kia chủ yếu đóng vai trò giải thích thế giới thì triết học
Mác ra đời không chỉ giải thích thế giới mà chủ yếu là công cụ cải tạo thế
giới. Triết học Mác trở thành công cụ nhận thức thế giới và cải tạo thế giới
bằng thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao
động. Triết học Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, là
“vũ khí lý luận” của giai cấp này trong công cuộc cải tạo xã hội, giải phóng
bản thân và giải phóng loài người nói chung. Tương tự, giai cấp công nhân
chính là vũ khí vật chất, là lực lượng vật chất quan trọng của triết học
mác, để nhờ đó, triết học Mác thể hiện được vai trò cải tạo thế giới của mình.
Ngoài ra, triết học Mác cũng trở thành thế giới quan và phương pháp luận
chung cần thiết cho sự phát triển của các khoa học cụ thể. Đồng thời, sự
ra đời triết học Mác cũng chấm dứt quan niệm của triết học cũ coi triết
học là “khoa học của các khoa học”, đứng trên mọi khoa học. Trái lại, triết
học Mác khẳng định về vai trò của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội
đối với sự phát triển của bản thân triết học; trong đó, tùy vào sự phát triển
của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, đòi hỏi triết học cũng phải biến
đổi theo, phải thay đổi hình thức cho phù hợp.
Câu 3: Phân tích vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống
xã hội và trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay
Triết học Mác – Lênin đã kế thừa và phát triển những thành tựu quan
trọng nhất trong tư duy triết học của nhân loại. Nó được C.Mác và
Ph.Ăngghen sáng tạo và phát triển rực rỡ. Đó chính là chủ nghĩa duy
vật biện chứng trong việc xem xét giới tự nhiên cũng như xem xét
đời sống xã hội và tư duy con người
Chức năng của thế giới quan:
Để nhận thức đúng về chức năng, về Vai trò của thế giới quanĐầu
tiên, chúng ta phải hiểu khái niệm, hiểu định nghĩa của nó. Mác-
Lênin đã từng nói: “Thế giới quan là tổng thể những quan niệm của
con người về thế giới, về bản thân mỗi người, về cuộc sống và về vị
trí của con người trong thế giới đó”.
Chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng, trong quá trình tồn tại và phát
triển, con người luôn có mối quan hệ sâu sắc với thế giới xung
quanh. Nhưng khác với động vật chỉ biết thích nghi một cách thụ
động và chậm chạp, con người vẫn không ngừng tìm cách thay đổi
về thế giới sống để có thể phù hợp với yêu cầu và mục đích. riêng.
Trong suốt quá trình hình thành, biến đổi hay nhận thức và tiến hóa,
con người luôn truy tìm, trăn trở những câu hỏi như: Nguồn gốc của
con người từ đâu? Thế giới xung quanh là gì? Cái gì chi phối sự tồn
tại và biến đổi của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới xung quanh?
Mối quan hệ giữa con người với thế giới là gì?… Quá trình đặt ra câu
hỏi về con người và về thế giới khách quan tồn tại xung quanh và đi
tìm câu trả lời cho từng câu hỏi đã hình thành nên những quan niệm
nhất định về thế giới, trong đó có yếu tố tình cảm và trí tuệ, tri thức.
và niềm tin đã hòa quyện vào nhau tạo thành một thể thống nhất.
Và đó được hiểu là thế giới quan
Thế giới quan có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống con người
và trong xã hội loài người. Hoạt động của con người sẽ luôn bị chi
phối bởi một thế giới quan nhất định. Và dù muốn hay không, con
người luôn phải nhìn ra thế giới và nhận thức về chính mình. Các yếu
tố hình thành thế giới quan như tri thức, niềm tin, lý trí, tình cảm
luôn có sự thống nhất với nhau và có sự thống nhất trong hoạt động
của con người, và cả trong hoạt động của con người. cả hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Vai trò của thế giới quan trong đời sống xã hội sẽ được thể hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất, chỉ ra đúng đắn những mối quan hệ tổng quát giữa thế
giới và vị trí của con người trong thế giới sẽ giúp con người xác định
chính xác mục tiêu và hoạt động của mình. Nói cách khác, thế giới
quan là công cụ giúp con người định hướng cuộc sống của mình
bằng cách tự đặt ra cho mình những mục tiêu và hoạt động.
+ Thứ hai, dựa trên những tri thức khái quát về thế giới và về bản
thân con người cùng với những niềm tin, tình cảm được củng cố và
hoàn thiện về thế giới quan, nó sẽ có khả năng chi phối hoạt động
nhận thức. và chi phối hoạt động thực tiễn của con người ở những
mức độ khá sâu sắc. Có thể thấy rõ rằng, nếu hiểu đúng về ý nghĩa
cuộc sống, con người sẽ có ý chí và quyết tâm tích cực để làm việc
vì sự tiến bộ của xã hội và của chính mình. Trong thời đại ngày nay,
khi các mối quan hệ xã hội ngày càng phức tạp, sáng kiến của con
người được tôn trọng và tự do phát triển, đồng nghĩa vai trò của thế
giới quan cũng được tôn trọng. ngày càng được khẳng định và mạnh mẽ hơn.
Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận chủ yếu của thế giới
quan, làm cho thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác
trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và trên những tri thức do
khoa học đã tạo ra. Đó là chức năng thế giới quan của triết học.
Chức năng phương pháp luận:
Trong hoạt động của con người có rất nhiều phương pháp đã được áp
dụng nên quá trình lựa chọn sử dụng phương pháp có thể đúng hoặc
sai. Nếu đúng sẽ giúp ta thành công, nếu sai sẽ dẫn đến thất bại.
Đứng trước những vấn đề đó, nhu cầu nhận thức khoa học, nhận
thức đúng về phương pháp đã hình thành và đã xuất hiện hay là sự
ra đời của phương pháp luận. Phương pháp luận là hệ thống các
nguyên tắc, quan điểm làm cơ sở cho việc xây dựng, lựa chọn, tìm
tòi và vận dụng các phương pháp trong nhận thức và thực tiễn nhằm
đạt được mục đích đã định. Có thể hiểu rằng, phương pháp luận có
vai trò định hướng, gợi mở cho hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn, còn phương pháp là cách thức, thao tác của hoạt động cụ
thể mà chủ thể sẽ thực hiện. phải được tuân theo và thực hiện để
đạt được mục tiêu. Phương pháp luận có ba cấp độ, cụ thể như sau:
+ Phương pháp luận ngành: là phương pháp luận cho các ngành khoa học cụ thể.
+ Phương pháp luận chung: là những ý kiến, nguyên tắc có tính chất
chung hơn mức ngành, dùng để xác định các phương pháp hay
phương pháp luận của một nhóm ngành có chung đối tượng nghiên cứu.
+ Phương pháp luận chung nhất (còn gọi là phương pháp triết học):
khái quát những quan điểm, nguyên tắc chung nhất. Làm cơ sở để
xác định phương pháp luận chung, phương pháp hoạt động cụ thể
của nhận thức và thực tiễn.
Đối với nhận thức và thực tiễn của con người, phương pháp luận có ý
nghĩa hết sức quan trọng, nó là cơ sở, nền tảng, định hướng cho việc
xây dựng, tìm tòi, vận dụng các phương pháp nhằm tác động vào đối
tượng nhằm đạt được mục đích. Tầm quan trọng của phương pháp là
rất lớn trên con đường dẫn đến thành công và phương pháp phải
đúng, như Becon đã từng ví phương pháp như ngọn đuốc soi đường
cho những ai đi trong bóng tối. ; còn Hegel ví phương pháp là linh
hồn của vật thể hay các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đặc
biệt chú ý đến Vai trò của phương phápnhất là trong hoạt động cách
mạng vì nếu coi trọng phương pháp luận sẽ tránh được những tình
huống sai lầm do tính chủ quan duy ý chí và phương pháp tư duy
siêu hình gây ra. Tóm lại, để đạt được mục tiêu đề ra, phương pháp
luận có vai trò hết sức quan trọng trong việc định hướng, xây dựng
và vận dụng phương pháp cho con người cả trong nhận thức và thực tiễn.
Là hệ thống tri thức chủ yếu tổng hợp của cả loài người về thế giới
và về vai trò của con người trong thế giới đó, cùng với việc nghiên
cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. triết
học, bên cạnh chức năng thế giới quan, nó còn thực hiện chức năng
phương pháp luận chung nhất.
Triết học với vai trò chủ đạo là thế giới quan và phương pháp luận
chung nhất, nhưng nó không phải là cái gì quá xa vời, quá hão
huyền mà ngược lại, nó gắn bó rất mật thiết với đời sống, với thực
tiễn. hành, đồng thời là định hướng, phương hướng cho con người
trong hành động. Dù có ý thức hay không thì sự phát triển của khoa
học hiện đại vẫn phải dựa trên thế giới quan và phương pháp luận.
Có thể nói, triết học có một vai trò vô cùng quan trọng trong đời
sống xã hội và ngày càng được đổi mới, phát triển và nâng cao.
Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như đồng thời
(khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VII TCN).
Ở một số trung tâm văn minh cổ đại của nhân loại như Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp.
Theo người Trung Quốc, thuật ngữ triết học có nguồn gốc ngôn ngữ
học là từ triết học, và khoa học này được hiểu theo nghĩa là tìm hiểu
bản chất của đối tượng, triết học là trí tuệ, là sự hiểu biết sâu sắc. màu người.
Theo người Ấn Độ, triết học được coi là Danshana, có nghĩa là chiêm
nghiệm nhưng bao hàm trí tuệ dựa trên lý trí, là con đường chiêm
nghiệm dẫn con người đến lẽ phải.
Ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy Lạp, theo tiếng Hy
Lạp, triết học là Philosophia, nghĩa là yêu sự thông thái, và nó là một
khoa học vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh sự khát khao.
hành trình tìm kiếm chân lý của con người.
Như vậy, có thể hiểu dù ở phương Đông hay phương Tây, ngay từ
thuở sơ khai, triết học đã là một hoạt động tinh thần biểu hiện khả
năng nhận thức, đánh giá của con người, nó tồn tại với tư cách là
một hình thái ý thức xã hội.