








Preview text:
TNU Journal of Science and Technology 229(09): 167 - 175
CHEMICAL COMPOSITION AND BIOLOGICAL ACTIVITY TESTING
OF Camellia chrysantha COLLECTED IN THAI NGUYEN PROVINCE
Nguyen Thi Thu Nga*, Vi Thi Thu Huong
TNU - University of Education ARTICLE INFO ABSTRACT Received: 25/3/2024
In this study, the chemical composition of the ethanol extract from the
leaves of the species Camellia chrysantha collected in Thai Nguyen Revised: 14/5/2024
was evaluated through qualitative reactions using chemical methods Published: 20/5/2024
(using acid, base, or salt). The results showed that the extract
contained polyphenols, flavonoids, coumarins, saponins, and no
alkaloid components. The ethanol extract was used to evaluate KEYWORDS
biological activity against 5 bacterial strains (S. aureus, P. Biological activity
aeruginosa, L. plantarum, E. coli, and C. reundii) and 2 experimental Antimicrobial
fungal strains (A. brasiliensis and A. flavus ATCC 204304). The
results determined the resistance activity observed in all 5 bacterial Antifungal
strains and 2 fungal strains tested. The antibacterial ability observing Thai Nguyen
in the C. reundii strain is better than the remaining strains. The
Camellia chrysantha
resistance in strain A. brasiliensis is higher than that in the strain A.
flavus ATCC 204304. The results of this study initially provide more
information related to the role of some groups of substances with
biopharmaceutical properties on Camellia chrysantha in Thai Nguyen province.
THÀNH PHẦN HÓA HỌC VÀ THỬ NGHIỆM HOẠT TÍNH SINH HỌC CỦA
CÂY TRÀ HOA VÀNG (Camellia chrysantha) THU THẬP TẠI THÁI NGUYÊN
Nguyễn Thị Thu Ngà*, Vi Thị Thu Hương
Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên THÔNG TIN BÀI BÁO TÓM TẮT
Ngày nhận bài: 25/3/2024
Trong nghiên cứu này, thành phần hóa học của dịch chiết ethanol từ
phần lá của loài Trà hoa vàng (Camellia chrysantha) thu tại Thái
Ngày hoàn thiện: 14/5/2024
Nguyên đã được đánh giá qua các phản ứng định tính bằng phương
Ngày đăng: 20/5/2024
pháp hóa học (sử dụng acid, base hoặc muối). Kết quả cho thấy,
trong dịch chiết có các thành phần polyphenol, flavonoid, coumarin,
saponin, không có thành phần alkaloid. Dịch chiết ethanol được sử TỪ KHÓA
dụng để đánh giá hoạt tính sinh học đối với 5 chủng vi khuẩn (S. Hoạt tính sinh học
aureus, P. aeruginosa, L. plantarum, E. coli và C. reundii) và 2 Kháng khuẩn
chủng nấm thí nghiệm (A. brasiliensis và A. flavus ATCC 204304).
Kết quả đã xác định được hoạt tính kháng quan sát thấy ở cả 5 chủng Kháng nấm
vi khuẩn và 2 chủng nấm kiểm định. Trong đó khả năng kháng khuẩn Thái Nguyên
quan sát thấy ở chủng C. reundii tốt hơn các chủng khuẩn còn lại. Trà hoa vàng
Tính kháng ở nấm A. brasiliensis cao hơn so với nấm A. flavus ATCC
204304. Kết quả nghiên cứu này bước đầu cung cấp thêm thông tin
liên quan đến vai trò của một số nhóm chất có tính chất sinh dược
học trên cây Trà hoa vàng tại Thái Nguyên.
DOI: https://doi.org/10.34238/tnu-jst.9963
* Corresponding author. Email: ngantt.bio@tnue.edu.vn
http://jst.tnu.edu.vn 167 Email: jst@tnu.edu.vn
TNU Journal of Science and Technology 229(09): 167 - 175
1. Giới thiệu
Theo ước tính, Việt Nam có khoảng 12.000 loài thực vật bậc cao có mạch, 800 loài rêu, 600
loài nấm và hơn 2000 loài tảo. Trong số đó, Camellia là chi lớn và có tầm quan trọng về mặt kinh
tế trong họ Theaceae. Camellia chrysantha còn được gọi là Trà hoa vàng, do hoa có màu vàng.
Nguồn gốc của loài cây này ở miền Nam Trung Quốc, được trồng làm cây cảnh trên toàn thế
giới. Ở một số nước, Trà hoa vàng thường được người dân địa phương sử dụng để pha trà vì
những đặc tính có lợi của loài cây này. Trà hoa vàng là loài cây có nhiều giá trị sử dụng như lấy
gỗ, cây trồng tầng dưới ở các đai rừng phòng hộ, làm đồ uống cao cấp và có tác dụng làm dược
liệu quý trong y học. Cây Trà hoa vàng có tác dụng hạ huyết áp, hạ đường huyết, giảm
cholesterol máu, tăng cường hệ miễn dịch,... [1].
Chất có hoạt tính sinh học là những chất có tác dụng sinh lý được sử dụng vào nhiều mục đích
khác nhau để phục vụ cho cuộc sống con người như là thuốc chữa bệnh, chất bồi bổ sức khỏe…
Trong tự nhiên, chất có hoạt tính sinh học có thể được tổng hợp nhân tạo hoặc được tách ra từ các
loài động vật, thực vật khác nhau [2]. Các loài thuộc chi Camellia trong đó có loài Trà hoa vàng
(Camellia chrysantha) có hoạt tính dược học quý như tác dụng chống oxy hóa, tác dụng chống
ung thư, tác dụng kháng khuẩn, kháng nấm, kháng virus,… [3]-[5]. Với nhiều công dụng quý,
việc phát triển Trà hoa vàng chủ yếu tập trung vào đa dạng sinh học, thành phần hóa học và tác
dụng sinh học. Tuy nhiên, việc nghiên cứu Trà hoa vàng mới chỉ tập trung vào một số vùng như
Ba Chẽ (Quảng Ninh), Tam Đảo (Vĩnh Phúc) [6].
Ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu về các loài trong họ Theaceae và trong chi
Camellia, nhưng việc nghiên cứu mới chỉ tập trung vào một số loài cây lấy lá làm dược liệu, chế
biến nước giải khát, còn việc nghiên cứu chi Camellia với mục đích phân loại, thống kê, đánh giá
hoạt tính sinh học,. . ít được đề cập đến. Trong những năm gần đây chi Camellia đã thực sự được
các nhà thực vật học Việt Nam quan tâm, chú ý tìm hiểu và nghiên cứu [7]. Hiện nay, trên thế
giới đã có nhiều nghiên cứu về thành phần hóa học của chi Camellia. Các nhóm chất chính
thường gặp trong chi Camellia như polyphenol, flavonoid, tanin, saponin và các tinh dầu, ngoài
ra còn có alkaloid, acid hữu cơ, protein, acid amin, pectin và đường khử [4]. Trong nghiên cứu
của Trần Văn Ơn và cộng sự đã xác định lá của các loài Trà hoa vàng ở Ba Chẽ (Quảng Ninh)
đều có nhóm chất polyphenol, trong đó có loài Camellia chrysantha. Nghiên cứu đã xác định
được hàm lượng polyphenol toàn phần trong lá và hoa loài này lần lượt là 69,12 (mgGAE/g DW)
và 126,78 (mgGAE/g DW) (6,9 – 12,6% tính theo dược liệu khô theo acid gallic) [8]. Trong Trà
hoa vàng có các flavonoid như quercetin, kaempferol, vitexin… Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng
hàm lượng flavonoid ở Trà hoa vàng được tích lũy trong hoa nhiều hơn trong lá [4]. Cho đến nay,
chỉ có saponin triterpenoid pentacyclic được báo cáo phát hiện từ chi Camellia L. và hầu hết
chúng là các saponin triterpenoid loại oleanan. Các saponin là nhóm chất được tìm thấy từ tất cả
các bộ phận của cây, trong đó bộ phận phân lập được nhiều nhất là hạt. Một vài saponin có hoạt
tính sinh học trong lá trà đã được tìm thấy. Nghiên cứu từ các saponin này đã cho thấy nhiều tác
dụng sinh học đáng quan tâm như: kháng khuẩn, kháng viêm, kháng nấm [9].
Từ các nghiên cứu đã được thực hiện, có thể nhận thấy cây Trà hoa vàng có sự đa dạng thành
phần với sự hiện diện của nhiều hợp chất thuộc các nhóm flavonoid, saponin, polyphenol, acid
amine, vitamine và các nguyên tố khoáng, có thể mang lại cho Trà hoa vàng nhiều hoạt tính có
giá trị. Trong bài báo này, nghiên cứu định tính thành phần hóa học và thử nghiệm hoạt tính sinh
học của dịch chiết từ lá Trà hoa vàng thu tại Thái Nguyên sẽ cung cấp thêm dẫn liệu khoa học
ban đầu để có các bước nghiên cứu tiếp theo đối với loài cây có nhiều giá trị quý này.
http://jst.tnu.edu.vn 168 Email: jst@tnu.edu.vn
TNU Journal of Science and Technology 229(09): 167 - 175
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Vật liệu
Mẫu Trà hoa vàng thu hái tại xóm Hòa Bình, xã Quân Chu, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên
và lưu giữ mẫu tại phòng thí nghiệm Công nghệ tế bào thực vật – Khoa Sinh học – Trường Đâị
học sư phạm – Đại học Thái Nguyên.
Chủng khuẩn kiểm định: Staphylococcus aureus, Pseudomonas aeruginosa, Lactobacillus
plantarum, Escherichia coli và Citrobacter freundii; Chủng nấm kiểm định: Aspergillus
brasiliensis, Aspergillus flavus ATCC 204304 được cung cấp bởi bộ môn Vi sinh - Trường Đại
học Y Dược – Đại học Thái Nguyên.
Hóa chất: Các dung môi bao gồm EtOH, CHCl3, EtOAc, HCl, H2SO4, NaOH, FeCl3,
CH3COOH đều đạt tiêu chuẩn kỹ thuật trước khi sử dụng. Thuốc thử Dragendorff được cung cấp
bởi Sigma-Aldrich, Pháp; NaCl 0,5%, pepton 1%, cao nấm men 1%, agar 1,5%,
diphenyllpicryhydrazyl, acid triclo acetic,… Các hoá chất có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng từ Đức,
Trung Quốc… Kháng sinh amoxicillin.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp thu dịch chiết
Phương pháp chiết chất hòa tan có hỗ trợ sóng âm theo Nguyễn Đức Hùng và cộng sự (2019)
[10]. Ngâm 30g mẫu (lá khô đã nghiền thành bột) với 100 mL dung môi EtOH/H2O (75/35),
trong thời gian 30 phút có hỗ trợ của máy siêu âm Bandelin (Germany). Mẫu được chiết lặp lại 3
lần và để riêng dịch chiết.
* Định tính thành phần hóa học từ dịch chiết
Sử dụng phương pháp hóa học để định tính sự hiện diện của các nhóm chất (polyphenol,
flavonoid, coumarin, alkaloid, saponin) có trong dịch chiết lá Trà hoa vàng. Dựa trên phản ứng
kết tủa và tạo màu, các phản ứng xác định thành phần hóa học của dịch chiết từ lá Trà hoa vàng
đã được thực hiện, trong đó định tính saponin được thực hiện theo mô tả của Traore và cộng sự
(2015) [11]. Các thành phần hóa học khác bao gồm polyphenol, alkaloid, flavonoid, coumarin
được thực hiện theo mô tả của Alqethami và cộng sự (2021) [12]. (i) Định tính polyphenol
Phản ứng với muối sắt (III): Thuốc thử: Dung dịch muối sắt (III); Tiến hành: Lấy vào ống
nghiệm 5 ml dịch chiết mẫu thí nghiệm, bổ sung 0,5 ml muối sắt (III). Quan sát, tùy theo số
lượng và vị trí nhóm hydroxyl trong phân tử polyphenol mà cho màu lục, xanh hoặc nâu.
Tác dụng với H2SO4 đặc: Thuốc thử: Dung dịch H2SO4 đặc; Tiến hành: Lấy vào ống nghiệm 2
ml dịch chiết mẫu thí nghiệm, cho thêm 1 - 2 giọt H2SO4 đặc. Quan sát, khi nhỏ H2SO4 lên các
dẫn xuất của flavon và flavonol thì cho màu vàng đậm, đối với chalcon và auron cho màu đỏ, đỏ
thẫm và đỏ tươi; flavanone cho màu đỏ da cam do sự chuyển thành chalcon.
(ii) Định tính flavonoid - Phản ứng cyanidin (phản ứng Shinoda).
Phản ứng do sự có mặt nhân γ-penzopyron trong đa số flavonoid. Thuốc thử là HCl đặc và bột
magie kim loại. Tiến hành: Trong 2 ống nghiệm, cho vào mỗi ống 1 - 2 ml dịch chiết mẫu thí
nghiệm. Ống 1: Làm đối chứng; Ống 2: Thêm 0,5 ml HCl đặc và bột magie. Quan sát trong 10
phút. Nếu màu từ vàng, đỏ đến xanh là có flavonoid. Có thể sơ bộ nhận định thêm: Vàng cam -
đỏ: flavone; Đỏ thẫm: flavonol, flavanone; Chalcon và auron cho màu đỏ ngay sau khi cho HCl. (iii) Định tính coumarin
Thuốc thử: Dung dịch NaOH 10%. Tiến hành: Lấy vào 2 ống nghiệm mỗi ống 2 ml dịch chiết
mẫu thí nghiệm. Ống 1: Làm đối chứng; Ống 2: Thêm 0,5 ml dung dịch NaOH 10%. Đun cả hai
ống trên bếp cách thủy đun sôi, lấy ra để nguội cho thêm 4 ml nước cất. Nếu chất lỏng trong ống
2 trong hơn ống 1 có thể xem là dương tính. Nếu đem acid hóa ống 2 bằng một vài giọt HC1 đậm
đặc mà làm cho dịch đang trong suốt xuất hiện vẩn đục và có thể tạo kết tủa là dương tính.
(iv) Định tính thành phần alkaloid bằng phản ứng Hager
http://jst.tnu.edu.vn 169 Email: jst@tnu.edu.vn
TNU Journal of Science and Technology 229(09): 167 - 175
Thuốc thử Dragendorff: hòa tan 8,0 gram bitmut nitrate kiềm (Bi(NO3)3) trong 20 ml HNO3.
Hòa tan 27,2 gram KI trong 50 ml H2O. Trộn 2 dung dịch lại, thêm nước vừa đủ 100 ml.
Tiến hành: Lấy vào 2 ống nghiệm mỗi 2 ml dịch chiết mẫu thí nghiệm, bổ sung 3 ml HCl và 1
ml nước cất khuấy đều. Ống 1: Làm đối chứng; Ống 2: Nhỏ 1- 2 giọt thuốc thử Dragendorff nếu
xuất hiện màu da cam là phản ứng dương tính (có alkaloid).
(v) Định tính saponin bằng phản ứng Foam
Chuẩn bị dịch chiết: Mẫu lá Trà hoa vàng rửa sạch, sấy khô và nghiền thành bột mịn đồng
nhất [11]. Chiết xuất bằng nước: 200 ml nước cất được trộn với 5 gam mẫu. Hỗn hợp này được
gia nhiệt trong 20 phút và khuấy liên tục ở 30 – 40oC. Dịch chiết nước được lọc bằng giấy lọc Whatman No.1.
Phân tích hóa học - Phát hiện saponin: 5 ml nước cất được trộn với 5 ml dịch lọc (dịch chiết
mẫu) và lắc mạnh. Sự tồn tại của saponin trong mẫu khi quan sát thấy bọt ổn định. Cho 1 ml
NaOH 0,1N vào ống nghiệm 1, 1 ml HCl 0,1N vào ống nghiệm 2. Hiện tượng nếu thấy có nhiều
bọt ở môi trường kiềm (ống 1) thì cho thấy sự có mặt của saponin steroid, môi trường acid (ống 2) là triterpene.
* Xác định khả năng kháng khuẩn của dịch chiết
Sử dụng mẫu dịch chiết đã chuẩn bị ở trên. Nguyên tắc: Hoạt chất có trong dịch chiết mẫu thí
nghiệm khuếch tán vào môi trường dinh dưỡng có vi sinh vật (VSV) chỉ thị tại các vùng ức chế
tỷ lệ thuận với logarid nồng độ. Mẫu thử được cho vào các giếng thạch đã được đục sẵn trong đĩa
môi trường nuôi cấy. Sau thời gian nuôi cấy thích hợp (18h), đo đường kính vùng ức chế để đánh
giá khả năng ức chế VSV của mẫu nghiên cứu.
Hoạt tính kháng khuẩn của dịch chiết cây Trà hoa vàng được xác định bằng phương pháp đục
lỗ thạch theo Mahesh và Satish (2008) [13]. Các chủng vi khuẩn kiểm định được hoạt hóa từ 4 - 8
giờ trong môi trường LB lỏng ở 28°C, lắc 200 vòng/phút trước khi tiến hành thử nghiệm. Hút 70
µl dịch nuôi mỗi loài vi khuẩn kiểm định đã được hoạt hóa lên đĩa môi trường LB đặc và dùng
que chang trải đều dịch khuẩn trên mặt thạch cho đến khi khô. Tạo 05 giếng có đường kính 1 cm
trên đĩa thạch và hút 100 µl mẫu nghiên cứu (dịch chiết 100%, pha loãng 50%, 25%) vào các
giếng thạch, nước cất khử trùng (đối chứng âm), kháng sinh (đối chứng dương). Đặt các đĩa petri
đã bổ sung mẫu nghiên cứu vào tủ lạnh 4°C khoảng 1-2 giờ rồi đặt vào tủ ấm nuôi ở 28°C từ 18 -
24h. Đo đường kính vòng kháng khuẩn, chụp hình và ghi lại kết quả. Mỗi thí nghiệm được lặp lại
3 lần. Khả năng kháng khuẩn của dịch chiết được đánh giá thông qua xác định đường kính vòng
ức chế của dịch chiết. Mỗi thí nghiệm được lặp lại 3 lần. Đường kính vòng ức chế của dịch chiết
(H) được xác định theo công thức: H = D - d (mm). Trong đó: D là đường kính vòng kháng
khuẩn (mm); d là đường kính giếng thạch (mm). Quy ước: H ≥ 25 mm: Có hoạt tính kháng khuẩn
rất mạnh. H ≥ 20 mm: Có hoạt tính kháng khuẩn mạnh. H ≥ 15 mm: Có hoạt tính kháng khuẩn
trung bình H ≤ 15 mm: Có hoạt tính kháng khuẩn yếu [13].
* Xác định khả năng kháng nấm của dịch chiết
Nguyên tắc: Hoạt chất có trong dịch chiết mẫu thí nghiệm khuếch tán vào môi trường dinh
dưỡng có nấm chỉ thị tại các vùng ức chế tỷ lệ thuận với logarid nồng độ. Mẫu thử được cho vào
các giếng thạch đã được đục lỗ sẵn trong đĩa môi trường nuôi cấy. Sau thời gian nuôi cấy thích
hợp, đo đường kính vùng ức chế để đánh giá khả năng ức chế nấm của mẫu nghiên cứu.
Hoạt tính kháng nấm của dịch chiết cây Trà hoa vàng được xác định bằng phương pháp đục lỗ
thạch theo Mahesh và Satish (2008) [13]. Các loài nấm kiểm định được nuôi trên môi trường
SDA đặc (glucose 40g, pepton 10g, agar 18g), nuôi vi nấm trên đĩa thạch có đường kính 10 cm,
có chứa môi trường SDA đặc. Bổ sung 70 µl mẫu dịch chiết Trà hoa vàng vào các giếng thạch.
Đánh giá khả năng kháng nấm sau thời gian để ngăn mát tủ lạnh 1 - 2 giờ và để ở 28oC trong 24
giờ. Khả năng kháng nấm của dịch chiết được đánh giá thông qua xác định đường kính vòng ức
chế của dịch chiết. Đường kính vòng ức chế của dịch chiết (H) được xác định theo công thức: H
= D - d (mm). Trong đó: D là đường kính vòng kháng nấm (mm); d là đường kính giếng thạch (mm).
http://jst.tnu.edu.vn 170 Email: jst@tnu.edu.vn
TNU Journal of Science and Technology 229(09): 167 - 175
3. Kết quả và bàn luận
3.1. Thành phần hóa học của dịch chiết ethanol từ lá của loài Trà hoa vàng thu tại Thái Nguyên
Thành phần hóa học của dịch chiết ethanol từ lá của loài Trà hoa vàng thu tại Thái Nguyên
được thể hiện trong Bảng 1.
Bảng 1. Thành phần hóa học trong dịch chiết của mẫu nghiên cứu Nhóm chất
Thuốc thử Hiện tượng
Kết luận Polyphenol H2SO4 đặc Đỏ Có Flavonoid HCl + Mg Đỏ thẫm Có Coumarin NaOH Kết tủa Có Alkaloid HCl + Dragendorff Không rõ Không có Saponin H2O Bọt bền Có
Kết quả định tính bằng phương pháp hóa học cho thấy sự có mặt của thành phần polyphenol
trong dịch chiết từ lá mẫu thí nghiệm. Kết quả này cũng tương đồng với công bố của các tác giả
trong và ngoài nước khi nghiên cứu thành phần hóa học có trong cây Trà hoa vàng [8], [14]-[16].
Nhóm polyphenol được coi là nhóm chất quan trọng nhất trong Trà hoa vàng do có các tác dụng
sinh dược học nổi bật [17].
Flavonoid trong dịch chiết ethanol được xác định bằng phản ứng Shinoda và cho kết quả xuất
hiện màu đỏ thẫm trong ống nghiệm. Kết quả này đồng nhất với nghiên cứu trước đó của Peng và
cộng sự (2011) [18], Wei và cộng sự (2013) [4], Lin và cộng sự (2010) [16] đã xác định được sự
có mặt của nhóm chất flavonoid trong lá Trà hoa vàng. Như vậy, flavonoid là một nhóm chất có
nhiều tác dụng sinh học quý, các kết quả nghiên cứu cho thấy chúng có trong lá và hoa Trà hoa vàng [18].
Dịch chiết không có alkaloid do phản ứng Hager cho kết quả không rõ rệt với thuốc thử
dragendorff. Tiến hành định tính thành phần coumarin cho kết quả xuất hiện kết tủa trong ống
nghiệm, do đó kết luận về sự có mặt của hợp chất này trong dịch chiết mẫu nghiên cứu. Tiếp tục
xác định thành phần saponin có trong cao chiết bằng phản ứng Foam cho kết quả xuất hiện bọt ở
cả 2 ống nghiệm, tuy nhiên ở ống nghiệm chứa NaOH 0,1N cho bọt bền vững hơn so với ống
nghiệm chứa HCl 0,1N, do đó kết luận về sự có mặt của thành phần saponin steroid và saponin
triterpene trong dịch chiết. Kết quả này đồng nhất với nghiên cứu trước đó về thành phần saponin
triterpene trong một số loài của chi Camellia [16].
3.2. Thử nghiệm và đánh giá tính kháng của dịch chiết từ mẫu Trà hoa vàng đối v i
ớ một số
chủng vi khuẩn
Hoạt tính kháng khuẩn của dịch chiết ethanol thu được bằng phương pháp hỗ trợ sóng siêu âm
từ Trà hoa vàng được đánh giá cùng với khả năng kháng khuẩn của amoxicillin ở nồng độ 50
µg/mL (đối chứng dương) và nước cất (đối chứng âm). Kết quả nghiên cứu được trình bày ở bảng 2 và hình 1.
Bảng 2. Khả năng kháng vi khuẩn của dịch chiết lá cây Trà hoa vàng (mm/24 giờ/ 28oC) Chất kiểm tra
Chủng vi khuẩn kiểm định S. aureus
P. aeruginosa L. plantarum E. coli C. freundii Amoxicillin (50µg/ml) +++ +++ +++ +++ +++ Dịch chiết lần 1 + ++ ++ ++ ++ Dịch chiết lần 2 + + ++ + + Dịch chiết lần 3 + + ++ + + H2O - - - - -
Chú thích: Kích thước vùng ức chế H (mm). H = D-d. Trong đó: D: Đường kính vòng kháng khuẩn, d:
Đường kính lỗ đục thạch.(-) Không ức chế (không có vòng kháng khuẩn); (+) Ức chế yếu (H từ 1- 15 mm);
(++) Ức chế trung bình (H từ 16-19 mm); (+++) Khả năng ức chế mạnh (H từ 21-24 mm); (++++) ức
chế rất mạnh (H = ≥ 25 mm).
http://jst.tnu.edu.vn 171 Email: jst@tnu.edu.vn
TNU Journal of Science and Technology 229(09): 167 - 175
Theo kết quả kháng khuẩn của dịch chiết từ lá cây Trà hoa vàng thể hiện ở bảng 2 và hình 1,
có thể đánh giá sơ bộ dịch chiết có khả năng kháng 5 chủng vi khuẩn kiểm định (S. aureus, P.
aeruginosa, L. plantarum, E. coli và C. freundii). Hoạt tính kháng quan sát thấy ở tất cả các nồng
độ dịch chiết 100%, 50% và 25% và có sự giảm dần khi pha loãng từ 100% - 25%.
Dịch chiết ethanol thu được từ lần thứ nhất ở mẫu nghiên cứu có khả năng kháng cả 5 chủng
vi khuẩn thí nghiệm. Khả năng kháng của dịch chiết lần đầu tiên thể hiện rõ nhất với chủng vi
khuẩn C. freundii. Khi giảm nồng độ dịch chiết xuống 50% và 25%, khả năng kháng vi khuẩn
cũng giảm theo. Chỉ còn chủng C. freundii vẫn thể hiện được tính kháng tốt hơn so với các chủng
còn lại. Dịch chiết ethanol lần hai và lần ba vẫn thể hiện tính kháng các chủng vi khuẩn kiểm
nghiệm kể cả khi pha loãng dịch chiết. Chủng C. freundii vẫn thể hiện khả năng kháng rõ nhất.
Khi giảm nồng độ dịch chiết xuống 50%, 25% khả năng kháng vi khuẩn của dịch chiết lần ba có
tỉ lệ giảm dần và giảm đáng kể so với lần chiết đầu tiên.
Hình 1. Khả năng kháng vi khuẩn của dịch chiết từ lá cây Trà hoa vàng
A: Chiết lần 1, B: Chiết lần 2, C: Chiết lần 3; D1 – 100 % dịch chiết, D2 – 50 % dịch chiết, D3 – 25 %
dịch chiết; KS: kháng sinh (đối chứng dương), -: H2O (đối chứng âm)
SA: Staphylococcus aureus, PA: Pseudomonas aeruginosa, LP: Lactobacillus plantarum, E: Escherichia
coli, Citro: Citrobacter freundii
Từ kết quả thí nghiệm có thể nhận thấy, trong thành phần hóa học của dịch chiết từ mẫu lá Trà
hoa vàng có nhóm chất có khả năng kháng khuẩn tốt. Nhận định này cũng đã được nhiều công bố
đưa ra khi nghiên cứu đối tượng thực vật này [3], [19]. Tác dụng sinh dược học của một số hoạt
chất quan trọng từ các loài Trà hoa vàng, trong đó có nhóm flavonoid đã được bàn luận.
Quercetin là một flavonoid có tính oxy hóa mạnh, có nhiều trong thực vật với các tác dụng sinh
học quan trọng như tác dụng chống viêm, phòng ngừa các bệnh tim mạch, hỗ trợ điều trị các triệu
chứng rối loạn thần kinh như: Alzheimer’s hay Parkinson, kháng ung thư, viêm loét dạ dày, tá
tràng, kháng khuẩn, kháng nấm, điều trị dị ứng và cảm sốt [19]. Năm 2011, Peng và cộng sự đã
phân lập được các thành phần flavonoid từ hoa của Camellia chrysantha bằng sắc kí cột bao gồm
quercetin, quercetin-7-O-β-D-glucopyranoside, quercetin-3-O- β -D-glucopyranoside, rutin,
vitexin, kaempíerol, kaempferol-3-0- β -D-glucopyranoside [18]. Năm 2014, Wei và cộng sự đã
xác định được sự có mặt của nhóm chất flavonoid trong lá Trà hoa vàng, bao gồm: vitexin,
isovitexin, quercetin-7-O- β -D-glucopyranoside và kaempferol [4].
3.3. Thử nghiệm và đánh giá tính kháng của dịch chiết từ mẫu Trà hoa vàng đối v i
ớ một số
chủng nấm
Kết quả thử nghiệm tính kháng của dịch chiết từ mẫu Trà hoa vàng đối với hai chủng nấm
kiểm định A. brasiliensis và A. flavus ATCC 204304 được thể hiện ở bảng 3 và hình 2. Bước đầu
có thể đánh giá sơ bộ dịch chiết mẫu có khả năng kháng 2 chủng nấm kiểm định.
http://jst.tnu.edu.vn 172 Email: jst@tnu.edu.vn
TNU Journal of Science and Technology 229(09): 167 - 175
Hiện tượng kháng chỉ quan sát thấy ở dịch chiết chưa pha loãng (lần 1 - 100%) và dịch chiết
pha loãng lần 2 (50%), đối với dịch chiết pha loãng lần 3 (25%) không còn xuất hiện hiện tượng
kháng nấm. Quan sát kích thước vùng ức chế trên ảnh thí nghiệm có thể nhận thấy tính kháng đối
với chủng nấm A. brasiliensis tốt hơn so với chủng A. flavus ATCC 204304 trong nghiên cứu này
(vùng ức chế có đường kính lớn hơn). Kích thước vùng ức chế ở các ngưỡng thí nghiệm đối với
chủng A. brasiliensis đều nhỏ hơn so với đối chứng kháng sinh. Đối với chủng A. flavus ATCC
204304, có thể nhận thấy ở dịch chiết chưa pha loãng (100%), đường kính vòng kháng nấm lớn
hơn so với kháng sinh. Khả năng kháng 2 chủng nấm trên có sự khác nhau, thể hiện tính kháng ở
nấm A. brasiliensis cao hơn so với nấm A. flavus ATCC 204304.
Bảng 3. Khả năng kháng nấm của dịch chiết lá cây Trà hoa vàng (mm/24 giờ/28oC)
Chủng nấm kiểm định
Chất kiểm tra A. brasiliensis A. flavus ATCC 204304 Amoxicillin (50µg/ml) ++ ++ Dịch chiết lần 1 ++ + Dịch chiết lần 2 + + Dịch chiết lần 3 - - H2O - -
Chú thích: Kích thước vùng ức chế H (mm). H = D-d. Trong đó: D: Đường kính vòng kháng nấm, d:
Đường kính lỗ đục thạch.(-) Không ức chế (không có vòng kháng nấm); (+) Ức chế yếu (H từ 1- 15 mm);
(++) Ức chế trung bình (H từ 16-19 mm); (+++) Khả năng ức chế mạnh (H từ 21-24 mm); (++++) ức
chế rất mạnh (H = ≥ 25 mm).
Hình 2. Khả năng kháng nấm của dịch chiết từ lá cây Trà hoa vàng đối với nấm
A. brasiliensis và A. flavus ATCC 204304
A: Chiết lần 1, B: Chiết lần 2, C: Chiết lần 3; D1 – 100 % dịch chiết, D2 – 50 % dịch chiết, D3 – 25 %
dịch chiết; KS: kháng sinh (đối chứng dương), -: H2O (đối chứng âm)
Các nhóm chất có khả năng kháng nấm cũng đã được báo cáo khi nghiên cứu thành phần hóa
học từ cây Trà hoa vàng [3], [5], [19]. Nhiều nghiên cứu có thể được tìm thấy trong tài liệu báo
cáo về lợi ích sức khỏe của một số loài Camellia, cụ thể là C. sinensis, C. oleifera, C. chysantha,
C. japonica… Những loài này đã được nhấn mạnh là có hoạt tính sinh học tốt (kháng khuẩn,
kháng nấm, kháng virus) và chống ung thư, đồng thời là nguồn cung cấp polyphenol khổng lồ
như catechin. Trong đó, epicatechin (EC), epigallocatechin (EGC), epicatechin-3-gallate (ECG)
và đặc biệt là epigallocatechin-3-gallate (EGCG), là các polyphenol chính của chi Camelia [5].
Hoạt tính kháng của các loài Camellia khác nhau cũng được báo cáo rộng rãi [20]-[22]. Choi và
cộng sự cũng nghiên cứu hoạt tính kháng nấm của hạt trà xanh bằng cách sử dụng chiết xuất tự
chế. Nghiên cứu đã đánh giá ba phần khác nhau: F1—phần không hấp phụ; F2 - rửa giải bằng
40% metanol và F3 - rửa giải 100% metanol chống lại Candida albicans, Cryptococcus
neoformans, Alternaria alternative và Rhizoctonia solani. Kết quả cho thấy mối tương quan
thuận giữa nồng độ và hoạt tính ức chế là phân đoạn F2 và F3 có hoạt tính mạnh nhất [23]. Các
nghiên cứu trước đây báo cáo hoạt tính kháng nấm được thực hiện bằng cách sử dụng các hợp
chất được tinh chế bằng cách nào đó; tuy nhiên, các công trình khác cũng báo cáo hoạt động
http://jst.tnu.edu.vn 173 Email: jst@tnu.edu.vn
TNU Journal of Science and Technology 229(09): 167 - 175
kháng nấm bằng cách sử dụng chiết xuất thô. Archana và Abraham vào năm 2011 đã thực hiện
một phân tích so sánh về hoạt tính kháng nấm của chiết xuất lá từ trà xanh tươi, trà xanh thương
mại và trà đen trên Fusarium, A. fumigatus, A. niger và C. albicans. Chiết xuất metanol trà xanh
tươi được phát hiện có hoạt tính cao hơn [24]. Sau đó, Orak và cộng sự cũng nghiên cứu hoạt
động kháng nấm của chiết xuất trà (trắng, xanh và đen). Tất cả các dịch chiết đều thể hiện hoạt
tính kháng nấm chống lại hai loại nấm mốc aflatoxin A. parasiticus với mối tương quan thuận với
nồng độ dịch chiết [25]. Kết quả mà Orak và cộng sự thu được phù hợp với kết quả mà Archana
và Abraham thu được vào năm 2011 là chiết xuất trà xanh có tỷ lệ ức chế cao hơn [24], [26].
4. Kết luận
Nghiên cứu đã thu được dịch chiết ethanol từ loài Trà hoa vàng thu tại Thái Nguyên bằng
phương pháp hỗ trợ vi sóng và bước đầu khảo sát được thành phần hóa học của một số hợp chất
có trong dịch chiết này. Kết quả cho thấy, trong dịch chiết có các thành phần polyphenol,
flavonoid, coumarin, saponin. Bước đầu đã khẳng định được dịch chiết mẫu nghiên cứu có tác
dụng với cả 5 chủng khuẩn kiểm định (S. aureus, P. aeruginosa, L. plantarum, E. coli và C.
Freundii). Trong đó, dịch chiết mẫu nghiên cứu thể hiện khả năng kháng tốt hơn đối với chủng
C. freundii so với 4 chủng khuẩn còn lại. Dịch chiết thể hiện hoạt tính kháng với 2 chủng nấm thí
nghiệm (A. brasiliensis và A. flavus ATCC 204304), trong đó tính kháng ở nấm A. brasiliensis
cao hơn so với nấm A. flavus ATCC 204304.
TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES
[1] K. Vijayan, W. J. Zhang, and C. H. Tsou, “Molecular taxonomy of Camellia (Theaceae) inferred from
nrITS sequences,” American Journal of Botany, vol. 96, pp. 138-160, 2009.
[2] Q. K. Phan, Textbook of biologically active natural compounds. Vietnam Education Publishing House, 2011.
[3] T. H. V. Nguyen, C. B. Pham, T. I. Cam, L. P. Doan, T. T. Le, Q. T. Tran, and Q. L Pham, “Flavonoids
isolated from the flowers of Camellia chrysantha,” Vietnam Journal of Science and Technology, vol.
57, no. 3, pp. 287-293, 2019.
[4] J. B. Wei, X. Li, and H. Song, "Characterization and determination of antioxidant components in the
leaves of Camellia chrysantha (Hu) Tuyama based on composition activity relationship approach,"
Journal of Food and Drug Analysis, vol. 23, vol. 1, pp. 40-48, 2014.
[5] M. T. Ana and S. Clara, “A Review on the Biological Activity of Camellia Species,” Molecules, vol.
26, no. 8, 2021, Art. no. 2178, doi: 10.3390/molecules26082178.
[6] N. Tran and N. H. N. Linh, “A new yellow Camellia species from North Vietnam,” International
Camellia Journal, vol. 47, pp. 36-45, 2015.
[7] T. V. A. Le, P. M. N. Tran, P. N. Nguyen, and T. K. O. Nguyen, “Genotypic and Phenotypic Diversity
of Endemic Golden Camellia collected from the North of Vietnam,” Chem Biodivers., vol. 20, no. 1,
2023, doi: 10.1002 /cbdv.202200843.
[8] V. O. Tran, T. T. Ngo, T. H. L. Nguyen, T. L. G. Pham, and Q. H. Hoang, “Research on plant
characteristics, chemical composition, biological effects of yellow Camellia culture collected in the
district Ba Che, Quang Ninh province,” Proceedings of the 18th Youth Science and Technology
Conference of Vietnam - College of Physicians, 2016, pp. 608-612.
[9] C. Cui, J. Zong, Y. Sun, L. Zhang, C. T. Ho, X. Wan, and R. Hou, “Triterpenoid Saponins from the
Genus Camellia: structures, biological activities, molecular simulation for structure activity
relationship,” Food & Function, vol. 9, no. 6, pp. 3069-30919, 2018.
[10] D. H. Nguyen, A. C. Mitaine-Offer, S. Maroso, A. M. Papini, T. Paululat, P. S. Bellaye, B. Collin, O.
Chambin, and M. acaille-Dubois, “Cytotoxic glycosides from the roots of Weigela x “Bristol Ruby,”
Fitoterapia, vol. 137, 2019, Art. no. 104242.
[11] L. Traore, Y. Bekro, J. Pirat, and J. A. Mamyrbeva-bekro, “Study of crude extracts from Cassia
sieberiana root bark and Khaya grandifoliola trunk bark: Phytochemical screening, quantitative
analysis and radical scavenging activity,” International Journal of Current Pharmaceutical Research,
vol. 7, no. 3 SE-Original Article(s), pp. 22-26, 2015.
http://jst.tnu.edu.vn 174 Email: jst@tnu.edu.vn
TNU Journal of Science and Technology 229(09): 167 - 175
[12] A. Alqethami and A. Y. Aldhebiani, “Medicinal plants used in Jeddah, Saudi Arabia: Phytochemical
screening,” Saudi Journal of Biological Sciences, vol. 28, no. 1, pp. 805-812, doi:
10.1016/j.sjbs.2020.11.013, 2021.
[13] B. Mahesh and S. Satish, “Antimicrobial activity of some important medicinal plant against plant and
human pathogens,” World Journal of Agricultural Sciences, vol. 4, pp. 839-843, 2008.
[14] B. Wang, L. Ge, J. Mo, L. Su, Y. Li, and K. Yang, “Essential oils and ethanol extract from Camellia
nitidissima and evaluation of their biological activity,” Journal of Food Science and Technology, vol.
55, no. 12, pp. 5075-5081, 2018.
[15] V. M. K. Nguyen, V. T. Phung, M. H. Hoang, T. N. L Nguyen, and T. K. L Giang, “A study of
chemical constituents of the Camellia quephongnensis Hakoda et Ninh flowers with high-resolution
mass spectrometry,” Journal of Science and Technology of Danang University, vol. 7, no. 116, pp. 121-125, 2017.
[16] H. J. Lin, X. M. Qin, Q. W. Zeng, and J. M. Zhong, “Analysis on chemical and bioactive components
in flower of Camellia chrysantha (Hu) Tuyama,” Food Science and Technology, vol. 35, pp. 88-91, 2010.
[17] T. K. B. Nguyen and T. Nguyen, "Initial survey of the chemical composition of some species of
Camellia sp. in Vietnam," Proceedings of the International Workshop on Camellia sp., Tam Dao - Vinh Phuc, 2010.
[18] X. Peng, X. YU, D. Y. Feng, B. M. Tang, L. Wang, and Y. Q. Shi, "Chemical constituents from the
flowers of Camellia chrysantha," Guihaia, vol. 31, no. 4, pp. 550-553, 2011.
[19] A. V. A. David, R. Arulmoli, and S. Parasuraman, "Overviews of the biological importance of
quercetin: A bioactive flavonoid," Pharmacognosy reviews, vol. 10, no. 20, p. 84, 2016.
[20] J. Steinmann, J. Buer, T. Pietschmann, and E. Steinmann, “Anti-infective properties of
epigallocatechin-3-gallate (EGCG), a component of green tea,” British Journal of Pharmacology, vol. 168, pp. 1059-1073, 2013.
[21] D. Furushima, K. Ide, and H. Yamada, “Effect of tea catechins on influenza infection and the common
cold with a focus on epidemiological/clinical studies,” Molecules, vol. 23, p. 1795, 2018.
[22] X. Meng, J. Li, F. Bi, L. Zhu, and Z. Ma, “Antifungal activities of crude extractum from Camellia
semiserrata Chi (Nanshancha) seed cake against Colletotrichum musae, Colletotrichum
gloeosporioides and Penicillium italicum in vitro and in vivo fruit test,” Journal of Plant Pathology, vol. 31, pp. 414-420, 2015.
[23] J. H. Choi, J. O. Nam, J. Y. Kim, J. M. Kim, H. D. Paik, and C. H. Kim, “Antioxidant, antimicrobial,
and antitumor activities of partially purified substance(s) from green tea seed,” Food Science and
Biotechnology, vol. 15, pp. 672-676, 2006.
[24] S. Archana and J. Abraham, “Comparative analysis of antimicrobial activity of leaf extracts from fresh
green tea, commercial green tea and black tea on pathogens,” Journal of Applied Pharmaceutical
Science, vol. 1, pp. 149-152, 2011.
[25] H. Orak, H. Yagar, S. Isbilir, A. Demirci, and T. Gumus, “Antioxidant and antimicrobial activities of
white, green and black tea extracts,” Acta Alimentaria, vol. 42, pp. 379-389, 2013.
[26] Y. Li, Y. Du, and C. Zou, “Effects of pH on antioxidant and antimicrobial properties of tea saponins,”
European Food Research and Technology, vol. 228, pp. 1023-1028, 2009.
http://jst.tnu.edu.vn 175 Email: jst@tnu.edu.vn