

















































Preview text:
  lOMoAR cPSD| 41487147           
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH   
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN    ----------   
MÔN HỌC: LỊCH SỬ NHẬT BẢN                                   
TIỂU LUẬN GIỮA KỲ    Đề tài:   
CHÍNH SÁCH ĐÓNG CỬA (SAKOKU) CỦA NHẬT BẢN   
TRONG THỜI KỲ MẠC PHỦ TOKUGAWA   
(SO SÁNH VỚI CHÍNH SÁCH ĐÓNG CỬA CỦA NHÀ NGUYỄN VIỆT NAM)      Khoa 
 : Nhật Bản học    Mã học phần  : 2310NBH007L01    Nhóm thực hiện  : Nhóm 7    GVHD 
: TS. Huỳnh Phương Anh    Thành viên nhóm  :            STT    Họ và tên  MSSV  1    Lê Minh Hạnh  2256190025  2   
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh  2256190027  3   
Phạm Xuân Như Nguyện  2256190063  4 
Ngô Ngọc Diệp  2256190014    5   
Phạm Thị Hồng Ngọc  2256190061  6 
Bùi Thị Huỳnh Như  2256190068    7  Phạm Phương Nhi  2256190065    8  Võ Duy Tuấn  2056190118           
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 10 năm 2023              lOMoAR cPSD| 41487147           
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC        STT  HỌ VÀ TÊN  MSSV  CÔNG VIỆC                   
- Xây dựng tiểu luận  1  Lê Minh Hạnh 
2256190025 - Tổng hợp nội dung Slide trình chiếu       
- Tìm tài liệu tham khảo                - Thuyết trình 
- Xây dựng tiểu luận  2 
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh  2256190027        - Thiết kế bìa       
- Tìm tài liệu tham khảo          - Thuyết trình  3 
Phạm Xuân Như Nguyện  2256190063       
- Tìm tài liệu tham khảo         
- Tổng hợp nội dung Slide trình chiếu  4  Ngô Ngọc Diệp  2256190014       
- Tìm tài liệu tham khảo         
- Thiết kế Slide trình chiếu  5 
Phạm Thị Hồng Ngọc  2256190061       
- Tìm tài liệu tham khảo         
- Thiết kế Slide trình chiếu  6 
Bùi Thị Huỳnh Như  2256190068       
- Tìm tài liệu tham khảo         
- Xây dựng tiểu luận  7  Phạm Phương Nhi  2256190065       
- Tìm tài liệu tham khảo         
- Xây dựng tiểu luận  8  Võ Duy Tuấn  2056190118       
- Tìm tài liệu tham khảo                        lOMoAR cPSD| 41487147            MỤC LỤC   
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1   
CHƯƠNG 1. CHÍNH SÁCH ĐÓNG CỬA – SAKOKU CỦA NHẬT BẢN   
TRONG THỜI KỲ MẠC PHỦ TOKUGAWA (1639 – 1853) ................................ 2   
1. Bối cảnh ................................................................................................................. 2   
2. Nguyên nhân dẫn đến chính sách “Tỏa quốc” - Sakoku .................................. 4   
3. Nội dung chính sách Sakoku ............................................................................... 9   
4. Tình hình đất nước trong thời kỳ đóng cửa .................................................... 16   
4.1. Kinh tế ........................................................................................................... 16   
4.2. Xã hội ............................................................................................................ 18   
5. Ýnghiã chính sách Sakoku ................................................................................ 19     
5.1. Ưu điểm ......................................................................................................... 19   
5.2. Nhược điểm ................................................................................................... 20   
6. Ảnh hưởng của chính sách Sakoku đến các thời kỳ sau ................................ 21   
CHƯƠNG 2. CHÍNH SÁCH “BÊ QUAN TỎA CẢNG” CỦA VIÊṬ NAM DƯỚI    ̃
THỜI NHÀNGUYÊN ............................................................................................... 25 
1. Nguyên nhân dẫn đến chính sách “Bếquan tỏa cảng” ................................... 25   
2. Nôịdung của chính sách “Bếquan tỏa cảng” ................................................... 27   
3. Tác đông ̣ của chính sách “Bếquan tỏa cảng” .................................................. 29   
4. Tình hình Việt Nam sau thời kỳ thi hành chính sách “Bế quan tỏa cảng” .. 31   
CHƯƠNG 3. SO SÁNH CHÍNH SÁCH ĐÓNG CỬA SAKOKU CỦA NHẬT   
BẢN TRONG THỜI KỲ MẠC PHỦ VỚI CHÍNH SÁCH “BẾ QUAN TỎA   
CẢNG” CỦA NHÀ NGUYỄN VIỆT NAM ............................................................ 33   
1. So sánh chính sách đóng cửa Sakoku thời kỳ Mạc phủ Tokugawa của Nhật 
 Bản với chính sách “Bế quan tỏa cảng” của Việt Nam thời nhà Nguyễn ......... 33   
1.1. Giống nhau .................................................................................................... 33                lOMoAR cPSD| 41487147             
1.2. Khác nhau: .................................................................................................... 34 
2. Nguyên nhân Nhật Bản có thể tiếp tục phát triển hậu chính sách Sakoku:. 35 
3. Liên hệ mở rộng với Thái Lan và Trung Quốc ............................................... 36   
3.1. Thái Lan ........................................................................................................ 36   
3.2. Trung Quốc (Thời kỳ cô lập) ...................................................................... 38 
4. Bài học kinh nghiệm ........................................................................................... 39 
TỔNG KẾT................................................................................................................ 42 
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 43                                                                                                                    lOMoAR cPSD| 41487147            MỞ ĐẦU   
Ngày 21 tháng 9 năm 1973, Việt Nam và Nhật Bản đã chính thức thiết lập mối 
quan hệ ngoại giao. Kể từ đó quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai nước đã và đang 
không ngừng phát triển trên nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa,... Năm 
2023 là cột mốc đánh dấu 50 năm cho mối quan hệ vô cùng tiềm năng này. Tuy nhiên, 
mối lương duyên giữa đất nước mặt trời mọc – Nhật Bản và dải đất hình chữ S – Việt 
Nam đã được hình thành từ trước đó vào cuối thế kỷ XVI khi các nhà buôn Nhật Bản 
đến Việt Nam buôn bán. Chính vì vậy, giữa Việt Nam và Nhật Bản luôn có một sợi dây 
liên kết ngoại giao cũng như có một số điểm tương đồng trong văn hóa, xã hội, lịch 
sử,... Bên cạnh đó, giai đoạn phát triển đất nước của cả hai quốc gia đều có những biến 
động qua các thời kỳ khác nhau. Vào thời kỳ Mạc phủ Tokugawa (1600 – 1868), đứng 
trước nguy cơ bị ảnh hưởng bởi các quốc gia phương Tây thông qua việc truyền bá 
Thiên Chúa giáo, chính sách “Tỏa quốc” – Sakoku chính là “nước đi” mà Nhật Bản lựa 
chọn nhằm bảo vệ đất nước. Việc thực thi chính sách này đã khiến Nhật Bản trở nên 
tách biệt với thế giới trong hơn hai thế kỷ (1639 – 1853). Suốt thời kỳ ấy, Nhật Bản gần 
như “nội bất xuất, ngoại bất nhập” với những quy định nghiêm ngặt về ngoại   
thương, ngoại giao. Về phía Việt
 dưới thời nhà Nguyễn (1802 - 1945), các vua   
đã sớm nhận thấy âm mưu xâm lược của các nước tư bản phương Tây mà cụ thể là Pháp. 
Chính vì vậy, chính sách “Bế quan tỏa cảng” đã được đặt ra nhằm bảo vệ độc lập dân tộc. 
Có thể thấy, cả hai chính sách của Việt Nam và Nhật Bản thời kỳ bấy giờ đều có những 
nét đặc sắc riêng và những mặt ưu điểm, nhược điểm khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung 
cả hai chính sách đều có xuất phát điểm từ ý thức bảo vệ chủ quyền quốc gia cũng như đề 
cao tinh thần dân tộc trước những mối đe dọa xâm lược bên ngoài.   
Việc tiến hành so sánh chính sách “Tỏa quốc” – Sakoku của Nhật Bản thời kỳ 
Mạc phủ Tokugawa và chính sách “Bế quan tỏa cảng” dưới thời nhà Nguyễn của Việt   
Nam góp phần nghiên cứu, tìm hiểu sâu hơn về bối cảnh lịch sử cũng như tư duy 
chiến lược ngoại giao của hai quốc gia trong thời kỳ bấy giờ. Từ đó đưa ra 
những nhận xét, đánh giá và những bài học có giá trị ý nghĩa về sau.        1            lOMoAR cPSD| 41487147           
CHƯƠNG 1. CHÍNH SÁCH ĐÓNG CỬA – SAKOKU CỦA NHẬT 
BẢN TRONG THỜI KỲ MẠC PHỦ TOKUGAWA (1639 – 1853)   1. Bối cảnh   
Vào cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, cùng với việc hoàn tất công cuộc thống nhất 
đất nước, chính quyền Toyotomi Hideyoshi chủ trương mở rộng quan hệ ngoại thương với 
bên ngoài, trong đó đặc biệt chú trọng đến khu vực Đông Nam Á. Đây là thời kỳ đất nước 
Nhật Bản dần đi vào ổn định, cuộc sống hưởng thụ và sức mua của người dân ngày càng 
gia tăng nên nhờ đó thương nghiệp ngày càng có điều kiện phát triển mạnh mẽ. Nhiều 
thành phố mọc lên, tầng lớp thương nhân và ngay cả các daimyo cũng rất hăng hái trong 
các hoạt động buôn bán với bên ngoài. Đồng thời, lúc bấy giờ Nhật Bản còn là nước sản 
xuất vàng, bạc, đồng lớn nhất khu vực Đông Á, có khi chiếm tới 30 - 40% lượng bạc sản 
xuất ra của toàn thế giới, ngoài Nhật Bản. Nhờ đó Nhật Bản có một lượng tiền lớn để mua 
bán hàng hóa từ các nước trong khu vực. Hơn nữa, thông qua tác động từ thời kỳ hoàng 
kim của hải thương châu Á (1450 - 1680) Nhật Bản đã tiếp nhận nhiều kỹ thuật mới từ 
phương Tây, đặc biệt là đóng tàu và vận dụng nó trong các chuyến buôn vượt biển. Trong 
quan hệ với Trung Quốc, mặc dù vào năm 1567, nhà Minh đã từ bỏ chủ trương “B quan 
tỏa cảng”, cho thuyền buôn giao thương trở lại với các quốc gia Đông Nam Á, nhưng vẫn 
cấm xuất khẩu một số nguyên liệu quan trọng (như tơ lụa, gốm sứ) sang Nhật Bản. Như 
vậy, Nhật Bản nhận thức rõ vai trò của hoạt động ngoại thương đối với sự phát triển kinh 
tế, đồng thời nhằm giải quyết những trở ngại trong buôn bán với Trung Hoa và phá vỡ 
thế độc quyền trong giao thương với Tây phương, từ cuối thế kỷ XVI, cùng với các hành 
động kiên quyết loại trừ hải tặc, chính quyền Toyotomi Hideyoshi đã cử nhiều đoàn 
thuyền buôn đến khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Trong hoàn cảnh đó, chính 
sách Châu Ấn Thuyền đã ra đời với sự kiện vào năm 1592, Tướng quân Toyotomi 
Hideyoshi cấp 9 giấy phép cho các thuyền buôn Nhật đi giao dịch ở Đông Nam Á, trong đó 
có một thuyền đến Đại Việt1. Kể từ đó cho đến năm 1600, sau khi Mạc phủ Edo được thiết 
lập, Tokugawa Ieyasu vẫn tiếp tục thi hành chính sách đối ngoại tích cực, duy trì và mở  rộng chế độ       
1 Hoàng Anh Tuấn. (2014). Góc nhìn khu vực về quan hệ Việt Nam - Nhật Bản thế kỷ XVII. Tạp chí Khoa học ĐHQG 
 Hà Nội, số 3/2014    2          lOMoAR cPSD| 41487147           
cấp giấy phép cho các thương nhân ra nước ngoài buôn bán. Mạc phủ không chỉ 
cấp dấu Châu Ấn cho các thương nhân Nhật Bản mà còn lưu hành cho cả một 
số thương gia ngoại quốc, trong đó có cả người phương Tây. Thông qua mối 
giao lưu kinh tế, văn hóa suốt nửa thế kỷ này, Nhật Bản đã để lại dấu ấn sâu 
đậm trong ký ức của nhiều dân tộc Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam2.                                             
Tranh vẽ một chiếc Châu Ấn Thuyền (朱印船 - Shuinsen).   
Nổi bật nhất vào giai đoạn cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX là sự hoàn thành các 
cuộc cách mạng tư sản ở phương Tây và chấm dứt nội chiến ở Mỹ (1865). Đây được 
coi là sự thắng lợi của chủ nghĩa tư bản, làm “rung chuyển” chế độ phong kiến ở châu 
Âu, và hơn hết, tạo tiền đề quan trọng cho sự phát triển kinh tế tư bản. Sau cách mạng 
là sự vươn lên mạnh mẽ của các nước “tư bản trẻ” như Anh, Pháp, Nga, Mỹ. Đây đều 
là các nước thành công trong cuộc cách mạng công nghiệp, trở thành những cường 
quốc về công nghiệp trên thế giới. Nếu như giai đoạn trước, các nước có ngành công 
nghiệp đóng tàu phát triển như Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha sẽ chiếm ưu thế 
trong việc buôn bán vượt đại dương, thì đến nay, khi khoa học kĩ thuật của sản xuất 
công nghiệp phát triển thì các nước Anh, Pháp, Nga, Mỹ nhanh chóng vươn lên khẳng 
định sức mạnh của mình. Bởi thế, việc các nước này tìm đến phương Đông là điều tất 
yếu nhằm hai mục đích chính: (1) khẳng định, chứng tỏ sức mạnh kinh tế, tiềm lực 
quân sự của mình; (2) tìm kiếm nguồn nguyên liệu, thị trường đáp ứng cho sự phát     
2 Trần Thị Tâm. (2018). Hoạt động buôn bán giữa Nhật Bản và Đàng Trong nửa cuối thế kỷ XVII. Tạp chí Khoa 
học và Công nghệ. Đại học Huế Trường Đại học Khoa học    3            lOMoAR cPSD| 41487147           
triển nhanh chóng của sản xuất trong nước. Mục đích “truyền đạo” hầu như 
không được chú trọng trong giai đoạn này, và mục đích “truyền bá văn minh” 
cũng chỉ là hệ quả của quá trình bành trướng mà thôi3.   
2. Nguyên nhân dẫn đến chính sách “Tỏa quốc” - Sakoku   
Vào thế kỷ XVI, các nước phương Tây bắt đầu thực hiện các chính sách thâm 
nhâp̣ vào nhiều nước châu Á. Quá trình thâm nhập đó đã gây ra nhiều biến chuyển lớn 
trong đời sống chính trị và quan hệ bang giao giữa các quốc gia trong khu vực nói 
chung vàNhâṭBản nói riêng. Người BồĐào Nha đươc̣ coi lànhững đaịdiêṇ đầu tiên của 
môṭ“phương Tây mới” đăṭchân tới NhâṭBản. Năm 1543, ba người Bồ Đào Nha Antonio 
da Mota, Antonio Peixoto và Francisco Zeimeto trên đường từ Ayuthaya thủ đô vương 
quốc Siam đến Trung Hoa thì gặp bão, bị thổi dạt vào đảo Tanegashima miền Nam 
Kyushu. Họ được người dân ở đây cứu giúp. Đến năm 1545, quan hệ Nhật Bản - 
 Bồ Đào Nha nhanh chóng được thiết lập trên lĩnh vực kinh tế và tôn giáo ở Kyushu. Các 
tàu buôn bắt đầu đến Nhật, chiếc đầu tiên đến cảng Kyushu một năm sau rất được người 
dân nơi đây hoan nghênh. Họ đặc biệt quan tâm tới hàng hóa mà người phương Tây 
mang tới, họ thấy có cơ hội phát triển việc buôn bán với nước ngoài để làm giàu và nhờ đó 
có được sức mạnh quân sự. Trong thời gian này, các hoạt động mua bán, trao đổi hàng 
hóa giữa Bồ Đào Nha và Nhật Bản diễn ra khá nhộn nhịp4. Khoảng năm 1580, thương 
nhân Tây Ban Nha đến đảo Tanegashima. Tiếp đó, vào những năm cuối cùng của thế kỷ 
XVI, người Tây Ban Nha và người Anh cũng đã phá vỡ thế độc tôn trong mối quan hệ 
buôn bán của người Bồ Đào Nha tại Nhật Bản, gây ra tác động không nhỏ đến chính sách 
ngoại thương của chính quyền Nhật Bản lúc bấy giờ. Khoảng năm 1600, thuyền buôn Hà 
Lan bị bão lớn thổi dạt vào bờ biển Bungo phía Đông Kyushu. Cuộc gặp mặt giữa William 
Adams với Tokugawa Ieyasu đã làm cho chính quyền Edo hài lòng. Từ khởi đầu đầy tốt 
đẹp này đã mở ra một thời kỳ mới trong lịch             
3 Nguyễn Thị Quế Hường. (2022). Nhật Bản đối ứng với sự xâm nhập của phương Tây giữa thế kỷ XIX. Tạp chí 
nghiên cứu nước ngoài, tập 38, số 2. Đại học FPT, Hà Nội   
4 Đinh Thanh Hoa. (2014). Nhật Bản trong mối quan hệ với Bồ Đào Nha và Hà Lan dưới thời Tokugawa - một 
vài đối sánh. Tạp chí Khoa học và Công nghệ, tập 2, số 2. Trường Đại học Khoa học Huế. Tr 63    4          lOMoAR cPSD| 41487147           
sử quan hệ giữa hai nước Nhật Bản và Hà Lan5. Năm 1609, thương điếm HàLan 
đươc̣ thiết lâp̣ ởHirado. Năm 1613, người Anh cũng đăṭthương điếm ởđây. Vấn 
đề thương mại và quan hệ với các nước phương Tây lúc này được đặt trong 
chiến lược phát triển kinh tế đất nước cũng như liên quan chặt chẽ đến các chủ 
trương với chính trị, an ninh của đất nước. Một mặt, viêc ̣phương Tây xâm nhâp̣ 
vào đời sống NhâṭBản giúp nước Nhật mở rộng giao thương và học tập đươc̣ 
nhiều kỹ thuật công nghê ̣tiên tiến nhưng mặt khác, ảnh hưởng đến vấn đề chủ 
quyền, an ninh quốc gia và địa vị thống trị của chinh́ quyền Mac̣ phủ.                                                     
Tranh vẽ William Adams và Tokugawa Ieyasu (1543 – 1616)   
Trong chiến lược phát triển, Mac̣ phủluôn chú trọng đến sự phát triển kinh tế 
và coi ngoại thương là ngành kinh tế cần thiết để tăng cường sức mạnh đất nước, lấy 
viêc̣ giao thương với nước ngoài làphương tiêṇtất yếu đểbổsung nguồn tài chính quốc 
gia. Do đó, những năm đầu, chinh́ quyền vẫn giữthái đô ̣tích cưc,̣ chủđông̣ vàkhoan 
dung với viêc ̣người châu Âu vào NhâṭBản buôn bán, thâṃ chíkhuyến khích viêc̣thông 
thương, bằng chứng làsúng hỏa mai do người BồĐào Nha mang tới đều đươc ̣ người 
Nhâṭnhanh chóng tiếp thu vàcải tiến, taọ nên “Cách mang̣ trong linh̃ vưc̣ quân sư”̣ ở           
5 Đinh Thanh Hoa. (2014). Nhật Bản trong mối quan hệ với Bồ Đào Nha và Hà Lan dưới thời Tokugawa - một 
vài đối sánh. Tạp chí Khoa học và Công nghệ, tập 2, số 2. Trường Đại học Khoa học Huế. Tr 67    5            lOMoAR cPSD| 41487147           
Nhâṭ. Thời gian đầu, NhâṭBản mởrông̣ cửa giao lưu vìmuốn hoc̣ tâp̣ nhiều điều tiên 
tiến của các nước đểáp dung ̣ cho nước mình, mởmang tầm nhiǹ ra thếgiới.   
Với Thiên Chúa giáo giai đoaṇ đầu, chính quyền cũng đón tiếp ho ̣vìđó làđaị diêṇ 
của môṭnền văn minh mới màngười Nhâṭcóthểhoc̣ hỏi tiếp thu tri thức, cũng giống như 
những tôn giáo từng phát triển trước đây ởNhâṭnhư Phâṭgiáo, Nho giáo…Sư ̣kiêṇ 
đánh dấu NhâṭBản du nhâp̣ môṭtôn giáo mới làkhi giám muc ̣ người Tây Ban Nha 
Francisco de Xavier – người tiên phong trong sự nghiệp truyền bá Phúc âm và văn 
minh phương Tây cùng hai giáo sĩ khác đã đặt chân đến Kagoshima ởcực Nam đảo 
Kyushu. Song song với việc truyền đạo các giáo sĩ còn truyền bákiến thức khoa hoc̣ 
ky ̃thuâṭtiên tiến của phương Tây, làm nhiều công viêc̣từthiên,̣ tôn trong̣ phong tuc̣ tâp̣ 
quán tín ngưỡng vàtôn giáo bản điạcủa Nhâṭ. Chính quyền Nhật Bản nhận thấy giữa 
tôn giáo và các thương nhân, lái buôn có quan hệ qua lại mật thiết với nhau. Các 
giáo sĩ là cầu nối cho hoạt động buôn bán giữa Nhật Bản với các thương nhân nước 
ngoài, những thuận lợi từ hoạt động buôn bán đã khiến Tokugawa có những 
nhượng bộ nhất định cho sự phát triển của Thiên Chúa giáo.                                             
Nhà thờ St Francisco de Xavier, tỉnh Nagasaki, Nhật Bản                            6          lOMoAR cPSD| 41487147                                             
Tượng Thánh St Francisco de Xavier (1506 - 1552)   
Tuy nhiên, thời gian “chung sống” hòa bình đókhông kéo dài được lâu. Quan 
hê ̣ giữa Mac̣phủvàcác giáo sĩ Thiên Chúa giáo ngày càng trở nên gay gắt và mối 
rạn nứt đó không những không thể hàn gắn được thậm chí nó còn tan vỡ ra mà 
đỉnh điểm là việc Mạc phủ trục xuất hoàn toàn các giáo sĩ ra khỏi đất nước, ban 
hành chính sách cấm đạo. Sở dĩ Mạc phủ thực hiện như thế là do các nguyên nhân  sau6:   
• Giáo điều tư ̣do - binh̀ đẳng của Thiên Chúa giáo hoàn toàn trái ngươc ̣ hẳn 
với chủtrương “thân phâṇ thống chế” của Mac̣ phủcũng như nghicḥ với tư 
tưởng vàhoc̣ thuyết Phâṭgiáo, Nho giáo. 
 • Người châu Âu chủtrương tiên phóng hâụ thu” nghĩa là “cho trước lấy sau” 
cụ thể là trước thì bỏ ra bố thí bằng hàng hóa vàkhắc phuc ̣ tư tưởng con 
người bằng giáo điều rồi sau đó dần dần chiếm đất lâñ người làm căn cứ 
thực dân. Vìthế ở NhâṭBản thời kỳđóxảy ra tình trạng ở điạphương nào mà 
Thiên Chúa giáo lớn manḥ thìchinh́ quyền Mac̣phủsuy yếu vìgiáo dân chỉnghe 
lời giáo sĩ vàkhông tuân theo lênḥ Mac̣ phủ. 
 • Mâu thuân,̃ thùnghicḥ giữa các giáo dân với các Phâṭtửngày càng tăng do 
chinh́ sách đối xửkhông binh̀ đẳng của môṭsốdaimyo. Chinh́ sách đối xửnày 
tỷ lệ với việc daimyo cai trị vùng đótheo tôn giáo nào. Ởđâu daimyo theo 
đaọ Thiên Chúa thìởđóPhâṭtửbi ḅac̣ đãi thậm chí phải bỏ làng ra đi.             
6 Lê Thi ̣Phương Khanh. (1998). Bước đầu tìm hiểu vềthời đaịTokugawa (1603 - 1868). Luâṇ văn tốt nghiêp̣. Khoa 
Đông Phương hoc̣ - chuyên ngành Nhật Bản học, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh Trường Đaịhoc̣ Khoa hoc̣   
xãhôị vàNhân văn. Tr 51-52   7      lOMoAR cPSD| 41487147           
• Hàng hóa châu Âu bán vào nước Nhâṭnhiều nhưng hàng của Nhâṭxuất đi rất 
ít nên tiền tệ trong nước cứchuyển dần ra nước ngoài làm ảnh hưởng đến 
nền tài chinh́ quốc gia. 
 • Giới thương nhân NhâṭBản thông qua quan hê ̣thương mai,̣ buôn bán với 
nước ngoài màtrởnên giàu có, cótiềm lưc̣ kinh tếnên đôi khi không tuân theo 
quy đinḥ của Mac̣phủkhiến uy lưc̣ chinh́ quyền khi đógiảm sút. Măṭkhác, sau 
trâṇ Sekigahara (1600), các thếlưc ̣ Tozama daimyo chưa khuất phuc;̣ ảnh 
hưởng to lớn của Tây Ban Nha vàBồĐào Nha ởTây Nam NhâṭBản làm 
Mac̣phủlo ngaị vìnơi đây tâp̣ trung hầu hết daimyo hùng manḥ. Các lanh̃ chúa 
lớn manḥ cókhả năng đe doạ nền thống tri.̣   
Bên canḥ đó, do mâu thuâñ nhau về quyền lơịmàgiới thương nhân vàgiáo sĩ 
phương Tây thường cáo buôc ̣ nhau có âm mưu xâm lược NhâṭBản7: Tây Ban Nha 
cáo buôc̣ BồĐào Nha cómưu đồxâm lươc̣ NhâṭBản; HàLan vìmuốn đôc̣ chiếm 
quyền buôn bán của Nhâṭnên luôn tuyên truyền vềhiểm hoạ của Tây Ban Nha 
vàBồĐào Nha. Chứng kiến những hành đông̣ của đaịdiêṇ phương Tây, chính 
quyền Tokugawa càng thêm lo ngaịvềnền đôc̣ lâp̣ vàan ninh đất nước bi đẹ doạ.   
Măc̣ dùviêc̣mởrông̣ ngoai thương vàtiếp nhâṇ Thiên Chúa giáo đem đến cho 
NhâṭBản nhiều tri thức vàcông nghê ̣tiên tiến,...tuy nhiên, để bảo vệ sự thống nhất 
đất nước, giữ vững sư ̣ổn định về chính trị, Mạc phủ đã đặt vấn đề chủ quyền 
dân tộc lên trên hết. Nhâṇ thấy viêc̣ sốlương ̣ người theo đaọ Thiên Chúa gia tăng 
(năm 1600 khoảng 30.000 người vàsau 10 năm tăng lên đến 70.000 người, trong 
đócónhiều daimyo) thìuy quyền Mac̣ phủsuy giảm, ngoaịthương tuy phát triển 
nhưng ngươc̣ lại tài chinh́ quốc gia hao mòn. Không những thế, dần dần các thếlưc̣ 
thưc ̣ dân phương Tây sửdung ̣ thương nhân vàgiáo sĩ đểtiếp tay thưc̣ hiêṇ 
chủtrương bành trướng thuôc̣ đia,̣ đe doạ nền đôc̣ lâp̣ NhâṭBản. Từđóchính quyền 
Mac̣phủchuyển sang lâp̣ trường tiêu cưc̣ trong quan hê ̣với phương Tây.   
Vìvâỵ năm 1614, chinh́ quyền ban hành lênḥ đàn áp vàxóa bỏThiên Chúa giáo. 
Từđó, nhiều nhàthờThiên Chúa giáo bi ̣đóng cửa vàpháhủy. Đến lươṭTokugawa     
7 PTS. Lê Văn Quang. (1998). Licḥ sửNhâṭBản. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh Trường Đại học Khoa học xã 
hội và Nhân văn. Tr 119    8          lOMoAR cPSD| 41487147           
Hidetada - con trai Tokugawa Ieyasu đã đưa ra lênḥ giới haṇ moịhoaṭđông ̣ giao 
thương taịcảng Nagasaki vàHirado đểdê ̃dàng kiểm soát người nước ngoài đến Nhâṭ.   
Cuôc ̣ đàn áp tôn giáo khốc liêṭvươṭquá sức chiụđưng̣ của người theo đaọ. Người dân 
khi đócũng phải trảnhiều loaịthuế: Densho (Thuếđất), Komononara (Thuếphu ̣ thu), Koyaku 
(Thuếcông ích). Đến năm 1637, cuộc khởi nghĩa của nông dân ở khu vực Shimabara đã 
đặt dấu chấm quyết định trong chính sách “đóng cửa” của chính quyền Mạc phủ. Đặc 
điểm của cuộc khởi nghĩa là ở chỗ có rất đông đảo nông dân là tín đồ Thiên Chúa giáo 
tham gia, và tính chất tổ chức cao với việc sử dụng vũ khí của phương Tây. Mạc phủ đã 
huy động hơn 100.000 quân đàn áp cuộc khởi nghĩa. Nhưng 30.000 quân khởi nghĩa đã 
cố thủ trong thành Hara chiến đấu vô cùng anh dũng. Cuộc vây hãm pháo đài kéo dài 
suốt ba tháng ròng. Chỉ với sự giúp đỡ phối hợp của chiến thuyền Hà Lan, quân đội của 
Mạc phủ mới hạ được thành Hara sau những trận đánh đẫm máu8. Nhâṇ thấy sốlương̣ 
lớn tín đồThiên Chúa giáo tham gia khởi nghia,̃ Mac̣ phủquyết định truc̣ xuất hết các 
thương nhân vàgiáo sĩ ra khỏi NhâṭBản, chỉtrừngười HàLan vì cócông giúp đỡđàn áp khởi 
nghiã nên đươc̣ giữlaịbuôn bán ởNagasaki. Từsau cuộc khởi nghĩa Shimabara, chính 
quyền Mac̣phủđa ̃thi hành chinh́ sách “Tỏa quốc” – Sakoku triêṭđểhơn. Có nói taịNhâṭBản, 
tầm ảnh hưởng lớn của tôn giáo chính là nguyên nhân cốt lõi dẫn đến việc thực thi chính 
sách “Tỏa quốc” – Sakoku.     
3. Nội dung chính sách Sakoku   
Chính sách Sakoku “phong tỏa Nhật Bản” được Mạc phủ Tokugawa ban hành 
vào năm 1633 dưới đời Tokugawa Iemitsu (1603 – 1651) – người lên kế vị Tokugawa  Ieyasu.   
Chính sách bao gồm các sắc lệnh:   
Sắc lệnh Sakoku I (1633): Cấm đoán ra vào.   
Người Nhật không được rời khỏi đất nước và người nước ngoài không được phép 
vào Nhật Bản, trừ khi có sự cho phép đặc biệt từ chính phủ. Nhật kiều đã sống ở hải 
ngoại được từ 5 năm trở lên không được phép hồi hương, nếu không sẽ phải chịu án tử       
8 PTS. Lê Văn Quang. (1998). Licḥ sửNhâṭBản. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh Trường Đại học Khoa học xã 
hội và Nhân văn. Tr 121    9            lOMoAR cPSD| 41487147           
hình9. Tuy sắc lệnh này đã làm cho rất nhiều người Nhật Bản bị mắc kẹt lại ở Nhật Bản 
nhưng đã giúp ngăn chặn sự du nhập của các Kito từ nước ngoài một cách triệt để.   
Sắc lệnh Sakoku II (1634): Kiểm soát thương mại.   
Chính phủ Tokugawa thiết lập một hệ thống thương mại kiểm soát, trong đó chỉ 
tiếp nhận giao thương với nước ngoài thông qua cảng Dejima ở Nagasaki và người 
nước ngoài bị cấm sống ở đó. Người Nhật Bản không được phép qua lại với Đông Nam  Á.   
Tuy nhiên, giáo sư Arano Yasunori đã đưa ra khái niệm "Bốn cửa khẩu" 
(四つの口) để chứng minh rằng, trong thời Sakoku, Nhật Bản vẫn thiết lập mối 
quan hệ với quốc tế, với bên ngoài theo con đường thương mại và giao lưu văn  hóa10.                                 
Bản “Bốn cửa khẩu” ( 四つの口 )   
Cửa khẩu đầu tiên: Nagasaki   
Cửa khẩu này là một trong những han (lãnh địa) đặc biệt trực thuộc 
Bakufu. Ở đây không có han chủ (daimyo) như các han bình thường khác mà cao 
nhất ở đây là quan phụng hành (Nagasaki Bugyo) được Shogun phái đến.   
Bưu điện thương mại Hà Lan, một cơ sở thương mại do công ty Đông Ấn Hà Lan 
thành lập, được đặt tại đó và hoạt động thương mại được tiến hành dưới thẩm quyền 
của Thẩm phán Nagasaki. Ngoài ra, nhiều tàu buôn tư nhân đến từ Trung Quốc nên 
Mạc phủ đã áp dụng các biện pháp như xây dựng các dinh thự của người Hoa trên 
khắp thành phố. Bằng cách này, Mạc phủ đã có thể độc quyền lợi ích từ thương mại11.      9   
Madalena Ribeiro. (2001). The Japanese diaspora in the Seventeenth Century.  
10 https://prezi.com/p/9vpywkladbly/sakoku-chinh-sach-toa-quoc-cua-nhat-ban/   
11 https://toyokeizai.net/articles/-/129161?page=2    10      lOMoAR cPSD| 41487147           
Nhân tiện, về mặt thương mại, trên thực tế chỉ có giao thương với Trung Quốc và   
Hà Lan. Thương nhân Hà Lan được phép lập thương quán trên đảo Dejima12(thuộc   
Nagasaki) và thương nhân Trung Quốc được buôn bán qua cảng Nagasaki và sinh sống   
ở khu vực riêng cho họ gọi là Tojin Yashiki (屠人屋敷). Khu vực này cũng được gọi là 
đường quán (屠館) có diện tích khoảng 8.000 tsubo (sau mở rộng lên 9.370 tsubo) có 
khả năng thu dụng được 17.000 người sinh sống, buôn bán. Đường quán có 19 dãy nhà 
2 tầng, có 50 gian nhà buôn bán, cùng lúc có thể tiếp nhận khoảng 2000 người đến giao 
 dịch13. Đặc biệt lý do để người Hà Lan có thể giao thương với Nhật Bản là vì HàLan 
cócông giúp đỡđàn áp khởi nghiã nên đươc̣ giữlaịbuôn bán ởNagasaki, họ hứa không 
truyền đạo Cơ đốc giáo và chỉ tham gia vào thương mại. Bên cạnh đó, vào thời điểm 
này Hà Lan là nước tư bản phát triển, có tiềm lực kinh tế lớn nhất Châu Âu; người Hà 
Lan có khả năng giao tiếp giỏi, sự năng động, tính kiên nhẫn và biết lắng nghe ý kiến 
của người khác. Đặc biệt, Hà Lan luôn sẵn sàng sử dụng bạo lực nhằm loại bỏ các đối 
thủ cạnh tranh ra khỏi vùng biển Nhật. "Khả năng bành trướng của Hà Lan không chỉ 
dựa vào khát vọng thương mại và sức mạnh hải quân mà còn nhờ vào bản chất xã hội 
của nước này" (C.R Boxer). Các tàu Hà Lan cập cảng Nagasaki, và người Hà Lan ở lại 
Dejima, nơi được nối với đất liền bằng một cây cầu duy nhất và được giám sát chặt 
chẽ. Ngoài ra còn có các quy định nghiêm ngặt khi khởi hành từ cảng và họ chấp nhận 
các hạn chế như thời gian và tần suất khởi hành, tuyến đường và quản lý thuyền viên. 
Hà Lan xuất khẩu một số sản phẩm sang Nhật Bản, chẳng hạn như lụa thô và lụa, và 
chỉ nhập khẩu một số sản phẩm, chẳng hạn như bạc từ Nhật Bản14.                               
12 Đảo nhân tạo, có diện tích nhỏ chỉ 3.969 tsubo (tương đương 15.000m2)   
13 丹野 『日本のアジア交易の歴史序説』 神奈川大学国際経営論, 48 集, 2014 年 TR. 144-145   
14 http://www.watv.ne.jp/anne/nl/isolationtrade.html    11            lOMoAR cPSD| 41487147                                                   
“Bản đồ Nagasaki'' mô tả Dejima và các tàu Hà Lan15   
Lợi ích của Nhật Bản khi tiến hành hoạt động thương mại với Hà Lan:   
Nhiều sản phẩm và công nghệ được giới thiệu như tơ thô, vải, kính thiên 
văn,...tác động lớn đến văn hóa và công nghiệp Nhật Bản. Từ đó khuyến khích 
sự phát triển của các sản phẩm và công nghệ mới.                               
Ống nhòm thiên văn Kenko Sky Walker SW - 0   
Các học giả Nhật Bản bắt đầu học tiếng Hà Lan để tìm hiểu nền khoa học 
phương Tây. Và cùng với các hoạt động trao đổi buôn bán, một phong trào học 
thuật sôi nổi đã hình thành – Phong trào Hà Lan học – Rangaku.                                 
15 https://www.ndl.go.jp/nichiran/s1/s1_2.html    12          lOMoAR cPSD| 41487147                                                 
Ghi chép và hình ảnh về các nước phương Tây, Nishikawa Joken (1708)                                           
“Giải phẫu Tân thư” với kiến thức đương đại từ phương Tây, xuất bản năm 1774   
Nhật Bản thu được một lượng thông tin và nguồn lực bên ngoài nhất định. Thông 
qua trao đổi với các thương gia Hà Lan, Nhật Bản một lần nữa có kinh nghiệm tiếp xúc 
với nước ngoài, đặt nền móng cho quá trình hiện đại hóa dẫn đến cuộc Minh Trị Duy  Tân.   
Cửa khẩu thứ hai: Tsushima   
Sau khi xác lập quyền lực của mình, Tướng quân Tokugawa Ieyasu mong muốn 
khôi phục quan hệ với bán đảo Triều Tiên đã bị thương tổn do hai lần xâm lược của   
Toyotomi Hideyoshi. Năm 1609, Tokugawa đã ký với nhà Yi (Lý) Triều Tiên Hòa ước 
Kỷ Dậu (己酉条約). Theo đó, Triều Tiên cho phép Nhật Bản mở Wakan (Thương quán   
Nhật Bản) ở Busan (Phủ Sơn) để lo việc buôn bán giữa hai nước. Tokugawa cho 
phép dòng họ So (宗) lãnh chúa đảo Tsushima được độc quyền buôn bán với người 
Triều Tiên và làm liên lạc cho các mối quan hệ giữa Nhật Bản và Triều Tiên.    13            lOMoAR cPSD| 41487147           
Cửa khẩu thứ ba: Satsuma   
Sau một thời gian dài thiết lập quan hệ với Lưu Cầu (Ryukyu), năm 1609 (Keichou   
14), vương quốc Lưu Cầu đã bị lãnh chúa Satsuma là Shimazu lehisa (島津 家久, 1576   
-1638) chinh phục và đặt nó dưới sự kiểm soát của mình. Satsuma tiến hành chính sách 
đo đạc đất đai (kenchi), thu hồi binh khí (katanagatari) và tách rời khỏi binh nông 
(heino bunri) trên quần đảo như Hideyoshi đã làm ở Nhật Bản trước đây. Với những 
chính sách này, Satsuma đã kiểm soát Lưu Cầu đến tận từng thôn xã. Satsuma đã tổ 
chức và kiểm soát giao thương giữa han và Lưu Cầu. Lưu Cầu trở thành trung gian 
buôn bán giữa Nhật Bản với Trung Quốc và những nước khác qua Satsuma.   
Cửa khẩu thứ tư: Matsumae   
Đây là một han ở Ezogashima – tên cũ của Hokkaido (Bắc Hải Đạo). Ở đảo này, 
có một vùng đất mà người Nhật di cư đến sinh sống, lập nghiệp được gọi với cái tên là 
Donanbu (道南部). Trong những dòng họ người Nhật sống ở đây, dòng họ Kakizaki có 
thế lực nhất. Về sau, dòng họ Kakizuki đổi thành dòng họ Matsumae (松前). Tướng 
quân Ieyasu bảo đảm cho dòng họ này được độc quyền buôn bán với người Ainu và 
xem họ như một han chủ. Vào năm 1669, sau cái chết của tù trưởng người Ainu là 
Shakushain, một cuộc chiến tranh giữa người Nhật và người Ainu đã diễn ra nhằm 
tranh giành quyền kiểm soát các khu vực giao dịch. Matsumae với sự giúp đỡ của han 
Tsugaru (nay là Aomori, cực Bắc đảo Honshu) đã trấn áp được người Ainu. Từ đó, 
người Ainu buộc phải phục tùng han Matsumae. Về sau, từ giữa thế kỷ XVIII trở đi, 
quyền kiểm soát các khu vực giao dịch dần dần rơi vào tay các thương nhân người 
Nhật. Ngoài ra, tại Ezogashima có nhiều loại hải sản phong phú như iriko, cá awabi 
khô, cá fukahire, rong biển đã được thương nhân Matsumae mua đem về Nhật và bán 
cho nước ngoài thông qua cửa khẩu Nagasaki và Satsuma – Lưu Cầu. Song, thương 
nhân Nhật Bản còn tiến hành các hoạt động giao thương thông qua cửa khẩu 
Matsumae để có được những sản phẩm như lông vũ, da thú,... đến từ quần đảo 
Chishima, Karafuto. Điều này góp phần thúc đẩy thương nghiệp và là nguồn động lực 
cho sự phát triển của kinh tế Nhật Bản trong thời Edo.   
Sắc lệnh Sakoku III (1635): Giống với sắc lệnh năm 1633 nhưng bổ sung thêm        14          lOMoAR cPSD| 41487147           
điều luật rằng: giao thương buôn bán tơ lụa của Trung Quốc từ nay về sau sẽ 
trở thành độc quyền của chính phủ; tất cả những người châu Âu cư trú ở Nhật 
Bản sẽ di cư đến hòn đảo nhân tạo Dejima, và hoạt động của họ từ đó sẽ bị kiểm 
soát và hạn chế nghiêm ngặt16.   
Sắc lệnh Sakoku IV (1636): Người Bồ Đào Nha được chỉ định tập trung tại 
Dejima và thi hành lệnh trục xuất người Bồ Đào Nha và những đứa con lại 
không mang lại lợi ích thương mại17.   
Tuy nhiên từ năm 1637 đến năm 1638, cuộc nổi loạn Shimabara đã diễn ra và trở 
thành một trong những lý do trực tiếp dẫn đến việc áp đặt chính sách “Tỏa quốc”. Đây 
là cuộc nổi dậy của hơn 40.000 nông dân, phần lớn theo Thiên Chúa giáo. Sau việc này, 
 Mạc phủ buộc tội các nhà truyền giáo đã xúi giục cuộc nổi loạn, trục xuất họ ra khỏi 
đất nước, và nghiêm cấm tôn giáo này bằng án tử hình. Những người Công giáo Nhật 
Bản còn lại, phần lớn ở Nagasaki, tập hợp lại thành một cộng đồng ngầm và được gọi 
là Kakure Kirishitan (là thuật ngữ để chỉ nhóm người Công giáo Nhật Bản phải sống ẩn 
dật sau cuộc khởi nghĩa Shimabara hồi thập niên 1630, dưới thời kỳ Edo)18.   
Sắc lệnh Sakoku V (1639): Năm 1639, Mạc phủ cấm tàu thuyền Bồ Đào Nha 
ghé thăm bờ biển do chính sách cô lập quốc gia19. Từ sau khởi nghĩa Shimabara 
của nông dân (1637 – 1638), do trao đổi ngoại thương của Nhật Bản đã thu hẹp lại 
chỉ còn trường hợp Hà Lan và Trung Quốc xung quanh cảng Hirado và Nagasaki 
nên một bộ phận người Bồ Đào Nha buộc phải rời khỏi Nhật Bản về Macao. Những 
trường hợp có vợ Nhật được mang theo con trai và phải để lại con gái và vợ tại 
Nhật Bản. Sau đó, từ năm 1640, người Bồ Đào Nha chính thức rút khỏi thị trường 
Nhật Bản và lui về buôn bán tại các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.         
16 Chính sách đóng cửa của Nhật Bản trong thời kỳ Mạc phủ Tokugawa (So sánh với chính sách đóng cửa của 
nhà Nguyễn Việt Nam). Tiểu luận. N1 - K21 (Năm 2022), Khoa Nhật Bản học, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí 
Minh Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn   
17 日本史年表 IV. 江戸時代. Truy xuất từ http://www9.plala.or.jp/kinomuku/5nenpyou4.html   
18 https://vi.wikipedia.org/wiki/Sakoku   
19 【近世(安土桃山時代〜江戸時代)】 なぜ日本は鎖国をすることになったのか .Truy xuấ t 
từ https://chu.benesse.co.jp/qat/1021_s.html      15          lOMoAR cPSD| 41487147           
4. Tình hình đất nước trong thời kỳ đóng cửa    4.1. Kinh tế   
Trong bối cảnh đất nước đóng cửa, kinh tế Nhật Bản đã phát triển theo kiểu 
hướng nội. Là một xã hội nông nghiệp nhưng cuối thế kỷ XVII kinh tế Nhật Bản 
đã phát triển đa dạng với nhiều ngành sản xuất, kinh doanh mới đặc biệt trong 
các lĩnh vực: thủ công nghiệp, thương nghiệp và tài chính.    Nông nghiệp:   
Nhật Bản vào thời kỳ này đã có sự tăng trưởng vượt bậc trên các phương 
diện: diện tích canh tác, sản lượng và loại hình sản phẩm. Nếu so sánh có thể thấy 
vào năm 1600 diện tích đất canh tác ở Nhật Bản chỉ khoảng 1.640.000 ha, đến năm 
1720 đã có 2.970.000 ha và năm 1874 là 3.050.000 ha. Bên cạnh đó nhiều khu 
chuyên canh, chuyên chế biến những đặc sản địa phương đã được hình thành. Đây 
có thể gọi là sự chuyển biến về chất trong nền kinh tế nông nghiệp Nhật Bản. Nhờ 
đó, từ một ngành sản xuất chủ yếu để đảm bảo nguồn lương thực, thực phẩm cho 
xã hội, nông nghiệp thời kỳ này còn cung cấp nguyên liệu cho nhiều ngành sản xuất 
thủ công đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.   
Những biến chuyển trên cùng với quá trình tư hữu hóa về ruộng đất, đã 
làm thay đổi địa vị kinh tế và đẩy nhanh quá trình phân hóa trong nông thôn. 
Hiện tượng mua bán, bao chiếm gán nợ ruộng đất ngày càng phổ biến dẫn đến 
tình trạng hàng loạt nông dân bị mất ruộng đất phải bỏ làng đi xiêu tán hoặc 
phải tham gia vào những ngành sản xuất phi nông nghiệp (Mạc phủ, quý tộc 
chia lại ruộng đất nhưng không đồng đều. Diện tích ruộng được chia ít mà tô 
thuế lại cao nên nông dân phải làm thuê cho quý tộc).   
Công - Thương nghiệp:   
Thành thị vừa là trung tâm kinh tế vừa là trung tâm đầu não chính trị. Chính sách 
Sakoku không phải là chủ trương cô lập mà là sự điều chỉnh trong chính sách đối ngoại. 
Nhật Bản muốn đi đến lựa chọn một bạn đồng minh chiến lược và một chính sách ngoại 
thương có kiểm soát. Do vậy, trong thời gian “Tỏa quốc” Nhật Bản vẫn duy trì quan hệ 
với thương nhân Hà Lan, Trung Quốc, Triều Tiên và một số nước Đông Nam Á. Trong 
điều kiện đó, tổng giá trị buôn bán giữa Hà Lan và Nhật Bản đã tăng lên so với  16          lOMoAR cPSD| 41487147           
trước khi chính sách Sakoku được thực hiện.   
Lợi nhuận mà thương nhân Hà Lan đạt được tại Nhật Bản hàng năm 
thường chiếm trên 50% tổng giá trị buôn bán ở phương Đông.   
Từ năm 1641 – 1649 là 49%   
Từ năm 1650 – 1659 là 68%   
Từ năm 1660 – 1669 là 71%   
Từ năm 1670 – 1679 là 75%   
Từ năm 1680 – 1689 là 65% và mức độ buôn bản này vẫn được duy trì cho 
đến đầu thế kỷ XVIII.   
Năm 1641, theo yêu cầu của Mạc phủ, Hà Lan phải chuyển thương điếm từ 
Hirado đến Dejima thuộc Nagasaki. Từ đó Nagasaki trở thành cửa ngõ chính 
yếu của Nhật Bản giao lưu với các nước bên ngoài.   
Cùng với thương nhân Hà Lan, trong bối cảnh Nhật Bản thực hiện chính sách 
Sakoku, thương nhân Trung Hoa cũng tìm mọi cách để thâm nhập Nhật Bản. Đến 
năm 1685, chính quyền Edo lại đặt ra quy định hàng năm các thuyền buôn Trung 
Quốc được phép đem ra khỏi Nhật Bản khối lượng bạc trị giá 6.000 kwan còn tàu 
Hà Lan là 3.000 kwan. Từ năm 1715, Mạc phủ lại đặt ra quy định hàng năm 
thuyền buôn của Trung Quốc không được quá 30 chiếc còn Hà Lan không được cử 
trên một tàu có số lượng kim loại không được vượt quá 50% so với Trung Quốc.   
Đến năm 1813, Mạc phủ lại quy định hàng năm thuyền buôn của Trung Quốc 
chỉ được đến 10 chuyến và đem đi 3.500 kwan bạc còn Hà Lan mặc dù được cửa 2 
chuyến tàu đến Nhật Bản nhưng lượng bạc đem đi không được quá 1.700 kwan.   
Do nắm nhiều huyết mạch kinh tế của đất nước mà đội ngũ doanh thương 
ở đây đã tích được nhiều của cải lớn. Hoạt động của nhiều thành thị thực tế là 
do bộ phận này điều hành.   
Điều đáng lưu ý là, giới công – thương Nhật Bản luôn có xu hướng mở rộng quy 
mô kinh doanh, sản xuất những lĩnh vực kinh tế mới. Do đó nguồn của cải tập trung 
vào tay các dòng học đồng thời là các tập đoàn kinh tế như: Mitsui, Yamanaga,... là rất 
lớn. Năm 1705, khi tài sản của Yodoya Sabureomon, một thương nhân chuyên kinh 
doanh lúa gạo Osaka bị chính quyền Edo tịch thu, hầu hết các lãnh chúa ở miền Tây    17            lOMoAR cPSD| 41487147           
Nhật Bản đều là con nợ của Yodoya. Tổng số nợ của các lãnh chúa đối với ông ta 
lên đến 121.867.610 ryo, tương đương với thu nhập của Mạc phủ trong hai thế kỷ.   
Việc phát triển mạnh mẽ công – thương nghiệp cũng như thị thường hàng 
hóa là điều kiện thuận lợi thúc đẩy thị trường tiền tệ ra đời. Từ những cơ sở 
trao đổi tiền nhỏ, từ giữa thế kỷ XVII nhiều ngân hàng đã đi vào hoạt động. 
Năm 1670, hệ thống ngân hàng Osaka với ban điều hành là 10 người có sự tham 
gia của quan chức chính quyền trung ương đã được thành lập. Hệ thống ngân 
hàng này với những chính sách thanh toán tiện lợi đã thâu tóm toàn bộ thị 
trường tiền tệ ở Osaka, (Edo và nhiều lãnh địa khác đồng thời giúp giữ cân bằng 
thị trường tiền tệ, ổn định sản xuất, lưu thông kinh tế ở Nhật Bản).    4.2. Xã hội   
Từ cuối thế kỷ XVI, trước những chuyển biến của đất nước, thời kỳ Momoyama 
Hideyoshi đã có chủ trương chia xã hội ra thành bốn đẳng cấp: sĩ, nông, công, thương.   
Đến thời Edo, địa vị của các đẳng cấp đã được chính thức xác định. Hai đẳng cấp 
dưới được gọi là Chonin, có địa vị xã hội khác biệt so với các đẳng cấp trên, đặc biệt 
là võ sĩ, những người có nguồn gốc cao quý, nắm giữ vai trò thống trị xã hội.   
Trong điều kiện kinh tế Nhật 
 có nhiều biến đổi, sự biến đổi đó đã từng 
bước làm rung chuyển trật tự của xã hội truyền thống dựa trên nền tảng của 
kinh tế nông nghiệp. Do đó, địa vị của các đẳng cấp dường như được quy định 
chặt chẽ cũng không tránh khỏi những xáo trộn nhất định. Sự biến chuyển 
thang bậc giữa các đẳng cấp là một hiện thực xã hội đáng chú ý thời này.   
Việc phân chia xã hội làm bốn đẳng cấp nhằm ổn định chính trị và khẳng định 
địa vị của từng giai cấp, song với sự chuyển biến mạnh mẽ của nền kinh tế đã dẫn 
đến sự phân hóa tự nhiên giữa các đẳng cấp và cả tầng lớp trong cùng một đẳng 
cấp. Trong thời kỳ này, xã hội Nhật Bản vẫn là xã hội phong kiến nhưng len lỏi 
trong nó đã có sự tồn tại của yếu tố tư bản chủ nghĩa (do tác động của quá trình tư 
hữu hóa tài sản, ruộng đất và sự phân hóa mạnh mẽ giữa các đẳng cấp).   
Mặc dù giới công – thương chỉ được xem là lớp người hạ đẳng trong xã hội nhưng 
nhờ có khả năng kinh tế mà thế lực của họ đã có ảnh hưởng trở lại đối với chính quyền    18          lOMoAR cPSD| 41487147           
phong kiến và nhiều đẳng cấp xã hội khác. Sự liên kết giữa giới chính trị và kinh tế 
là một trong những đặc trưng tiêu biểu của lịch sử Nhật Bản. Trong khi đó, hầu hết 
các tầng lớp võ sĩ, nông dân vốn là lực lượng cơ bản, chỗ dựa của chính quyền 
phong kiến, ngày càng lâm vào tình trạng bần cùng hóa. Cùng với các yếu tố khác 
của xã hội các đẳng cấp này trở nên bất mãn với xã hội và chính thể hiện thời.   
5. Ýnghiã chính sách Sakoku    5.1. Ưu điểm   
Chính sách Sakoku kéo dài hơn 2 thế kỷ đã góp phần tạo nên môṭnền hòa binh̀ 
lâu dài trong lịch sử Nhật Bản (kể từ sau cuộc nổi loạn Shimabara, trong suốt 
khoảng thời gian thi hành chính sách Sakoku, Nhật Bản hầu như không có chiến 
tranh). Chính sách giải quyết đươc̣ vấn đềvềtôn giáo vàan ninh đất nước bi đẹ doạ 
bởi những người truyền giáo vàcác nước cóýđinḥ lăm le xâm lươc̣ NhâṭBản, góp 
phần bảo vệ chủ quyền dân tộc. Nền hòa bình này tạo điều kiện cho chính quyền 
củng cố quyền lực, duy trì địa vị thống trị của dòng họ Tokugawa.   
Sự ổn định này tạo nền tảng cho sản xuất trong nước phát triển. Các nguồn tích   
lũy tư bản không cóđiều kiêṇ đ ra bên ngoài qua quan hê ̣kinh tếđối ngoai,̣ môṭ măṭkhông 
khuếch trương đươc̣ nền kinh tế, nhưng măṭkhác laịcókhuynh hướng tâp̣ trung vào 
thi ̣trường trong nước20. Vì hạn chế tiếp cận nước ngoài nên Nhật Bản phát triển các 
ngành công nghiệp trong nước, khuyến khích sự phát triển của nền kinh tế hướng nội, 
dần dần hình thành xã hội tự cung tự cấp. Chính sách biệt lập lâu dài cũng có mặt tích 
cực là góp phần giúp Nhật Bản tiếp tục xây dựng và duy trì tính đồng nhất về văn hóa 
như tiêu chuẩn hóa ngôn ngữ, áp dụng rộng sâu các quy tắc ứng xử và tập quán kinh tế 
– xã hội kiểu Nhật, hướng nhận thức mọi người vào việc chấp nhận những phương thức 
chung trong tư duy và hành động vì cả tập thể, xã hội, quốc gia; đề cao tinh thần cao 
thượng, trung tín, danh dự của samurai trong đạo đức người Nhật21. Việc       
20 PTS. Lê Văn Quang. (1998). Lịch sử Nhật Bản. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh Trường Đại học Khoa học 
xã hội và Nhân văn. Tr 122   
21 Lê Thanh Bình. (2007). Văn hóa Nhật Bản: Sức mạnh của truyền thống và thách thức trong thời kỳ hội nhập. 
Bài phát biểu trong buổi hội thảo: Văn hóa phương Đông: Truyền thống và hội nhập. Đại học Quốc gia TP. 
Hồ Chí Minh Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn    19            lOMoAR cPSD| 41487147           
đóng cửa giữ vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và nuôi dưỡng văn hóa truyền thống 
Nhật Bản. Nhờvây,̣ cho dùsau này cósự tiếp xúc với văn hóa phương Tây, người Nhâṭ 
cósẵn nền tảng vững chắc đểgiữđươc̣ bản sắc văn hóa riêng khi hôịnhâp̣ vào văn   
minh thếgiới.   
Chính sách Sakoku là cách kiểm soát thương mại với các quốc gia khác, bảo 
vê ̣ nguồn tài nguyên quýgiácủa Nhâṭkhỏi naṇ cạn kiệt “chảy máu” ra bên ngoài, điển 
hinh̀ làbac̣vàđồng,... trước kia bị các lãnh chúa địa phương xuất khẩu khá nhiều 
nhằm nuôi dưỡng chiến tranh.   
Vì chính sách Sakoku không có nghĩa là đóng cửa hoàn toàn, chính quyền vẫn khá 
khôn ngoan và thận trọng khi vẫn để lại cảng Nagasaki như là một cửa sổ để ngó ra thế 
giới bên ngoài chứ không hoàn toàn cắt đứt hẳn mọi liên lạc với các dân tộc khác. Chính 
quyền vẫn cho phép thương nhân Hà Lan - thương nhân phương Tây duy nhất hay Trung 
Quốc vào buôn bán, nhờ vậy mà nước Nhật vẫn nắm bắt được phần nào kỹ thuật công 
nghệ phương Tây thông qua nghiên cứu y học và các tài liệu khác bằng tiếng Hà Lan có 
được từ Dejima. Người Hà Lan mở các trường Rangaku (Hà Lan học) dạy tiếng Hà Lan, 
y học và kỹ thuật hàng hải phương Tây. Những kiến thức này góp   
phần giúp cho người Nhật nhận được tình hình thế giới và tìm ra đối sách thích 
hợp trước áp lực của các nước phương Tây, giúp Nhật Bản siết chặt sợi dây 
đoàn kết dân tộc khi làn sóng văn minh Âu hóa ập đến.    5.2. Nhược điểm   
Trong khi các nước phương Tây đang dần tiến đến Cách mang̣ công nghiêp̣ cùng với 
các phát triển khoa hoc̣ ky ̃thuâṭvàkinh tếdồn dâp̣ thì chính quyền Mạc phủ lại quyết đinḥ 
thi hành chính sách đóng cửa Sakoku. Sau khi Mạc phủ Tokugawa được thành lập, vào 
đầu thếkỷXVII, về trình độ phát triển, Nhâṭhầu như không mấy cách biệt các nước 
phương Tây. Tuy nhiên, sau khi có lệnh Sakoku triệt để, NhâṭBản đã không tham gia 
khám phákhoa hoc̣ lớn ởthếkỷXVII của châu Âu vànhững giai đoaṇ đầu công nghiêp,̣ bị 
kìm hãm trao đổi trí tuệ và văn hóa, hạn chế tiếp cận những ý tưởng và tiến bộ 
mới,...chỉ trong khoảng hơn 2 thếkỷthi hành, trong khi phương Tây triển khai thắng 
lơịcuôc̣ cách mang̣ công nghiêp̣ thìngười Nhâṭhầu như chưa biết gìmấy    20          lOMoAR cPSD| 41487147           
vềmôṭnước Anh “công xưởng” của toàn thếgiới22, NhâṭBản đã dần trở nên lac̣ hâụ 
vềkhoa hoc̣ ky ̃thuâṭso với các nước phương Tây dẫn đến khoảng cách giữa Nhật 
Bản và phương Tây ngày càng xa, cùng với đó là hệ quả suy giảm quốc lực.   
Bên cạnh đó, kinh tếđối ngoai,̣ hoạt động ngoại thương vốn là bô ̣phâṇ nhaỵ 
cảm không thểthiếu của nền kinh tế, hầu như bi ̣“triêṭtiêu”. Các thương thuyền của 
Nhật trước đây cạnh tranh được cả với tàu Bồ Đào Nha thì nay cũng trở nên vắng 
bóng. Các khu phố Nhật mà trước kia Nhật Bản dùng để xác lập vị trí thương mại 
ở nhiều thương cảng Đông Nam Á như Siam, Hội An,... cũng dần suy vong.   
Nông nghiệp tuy phát triển nhưng đi kèm với nó là thuế khóa ngày một 
nặng nề đè lên đôi vai của người nông dân; tình trạng mua bán, bao chiếm, tước 
đoạt ruộng đất ngày càng trầm trọng dẫn đến nhiều cuộc nổi dậy của nông dân. 
Sau khi thực hiện chính sách Sakoku, nhiều thủy thủ và thương nhân Nhật Bản 
đã không trở về nước mà sống hòa nhập với cư dân bản địa. Vì sự “chảy máu” 
bạc ngày càng nhiều, chính quyền Edo đã đề ra quy định kiểm soát chặt chẽ đối 
với thuyền buôn của Trung Quốc, Hà Lan, Triều Tiên và Ryukyu. Điều này đã 
ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa Nhật Bản với các nước và kéo dài mãi cho đến 
khi Nhật Bản phải mở cửa đất nước vào giữa thế kỷ XIX.   
 6. Ảnh hưởng của chính sách Sakoku đến các thời kỳ sau   
Thời kỳ Sakoku kéo dài trên 200 năm (1639 – 1854) đã đem đến cho Nhật Bản một 
thời kỳ hòa bình lâu dài mà chưa một dân tộc nào có được, tập trung vào sự nghiệp xây 
dựng và phát triển đất nước, mở ra một thời kỳ thuận lợi cho nền văn hóa dân tộc phát 
triển, làm đậm đà bản sắc dân tộc Nhật Bản. Chính nhờ vậy mà sau này khi tiếp xúc, tiếp 
thu văn hóa phương Tây, người Nhật có nền tảng vững chắc để giữ được bản sắc riêng 
của mình khi hội nhập vào văn minh thế giới. Thêm vào đó, kể từ khi cuộc nổi loạn 
Shimabara chấm dứt (1638) cho đến khi chiến thuyền của Matthew C. Perry đến Nhật 
(1853), trên khắp nước Nhật hầu như không có chiến tranh và thay đổi chính trị nào đáng 
kể. Trong khoảng thời gian lâu này, người Nhật đã tạo nên một nền văn       
22 PTS. Lê Văn Quang. (1998). Lịch sử Nhật Bản. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh Trường Đại học Khoa 
học xã hội và Nhân văn. Tr 123    21            lOMoAR cPSD| 41487147           
hóa cố hữu, độc đáo. Những khía cạnh văn hóa truyền thống của Nhật Bản mà chúng ta 
nói đến ngày nay thực chất đã được phát huy toàn diện và bắt rễ trong thời kỳ này23.   
Chính sách Sakoku còn đưa Nhật Bản, từ một thị trường tiêu thụ hàng hoá 
ngoại quốc thành một nước tự chủ về sản xuất. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, 
chính sách “Tỏa quốc” – Sakoku của Nhật Bản không phải chỉ hoàn toàn mang ý 
nghĩa tiêu cực, tự tách biệt Nhật Bản ra khỏi những biến đổi chung của thế giới. 
Trên thực tế, Sakoku đã góp phần để bảo vệ chủ quyền dân tộc, duy trì địa vị thống 
trị của dòng họ Tokugawa đồng thời khuyến khích sự phát triển của một nền kinh 
tế hướng nội, chủ yếu là sản xuất và tiêu thụ trong nước. Về ý nghĩa của chính sách 
“Tỏa quốc”, học giả người Anh, chuyên gia lịch sử văn hoá nổi tiếng thế giới 
Arnold Toynbee viết: “Chế độ Tokugawa đã tách Nhật Bản khỏi phần còn lại của thế 
giới và đã giữ được “điều phi thường” chính trị này trong gần hai thế kỷ. Nhưng chế 
độ này đã bất lực trong việc ngăn chặn tiến trình thay đổi xã hội trong một đế chế 
Nhật Bản bị cô lập, mặc dù nó đã cố gắng làm cho hệ thống phong kiến được thừa 
hưởng từ thời biến loạn trước đó, thành một tổ chức vĩnh viễn24”.   
Hơn nữa, sau khi lệnh “Tỏa quốc” được ban hành, ảnh hưởng của đạo Thiên 
Chúa đã căn bản bị loại trừ ra khỏi Nhật . Vai trò của Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha do 
vậy cũng bị suy giảm nhanh chóng. Nhật Bản đã giành được thể chủ động về đối 
ngoại và phạm vi hoạt động thương mại chỉ còn tập trung với 4 nước: Hà Lan, 
Trung Quốc, Triều Tiên và Ryukyu. Qua đó, Nhật Bản không chỉ tiếp tục duy trì 
được quan hệ đối ngoại, xây dựng một nền kinh tế tự chủ mà còn ngăn chặn được 
khuynh hướng cát cứ, bảo vệ được sự thống nhất dân tộc và chủ quyền quốc gia25.   
Chính sách đã tạo ra những tác động, những ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống xã 
hội cũng như sự chuyển biến kinh tế trong thời kỳ Mạc phủ Tokugawa và nhận được rất 
nhiều sự quan tâm, nghiên cứu, đánh giá ở cả trong nước và trên thế giới. Trước hết       
23 Trần Thế Nhựt. (2011). Vai trò của Fukuzawa Yukichi đối với lịch sử Nhật Bản cận đại. Luận văn Thạc sĩ 
Lịch sử. Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh   
24 Arnold Toynbee. (2002). Nghiên cứu về lịch sử – Một cách thức diễn giải. NXB Thế Giới, Hà Nội, tr .256   
25 Nguyễn Văn Kim. (1999). Chính sách đóng cửa của NhâṭBản thời kỳTokugawa: Nguyên nhân vàhê ̣quả. Luận án 
Tiến sĩ Lịch sử. Đại học Quốc gia Hà Nội Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn    22          lOMoAR cPSD| 41487147           
là những ngôn thuyết về chính sách “Tỏa quốc” tại châu Âu với hai quan điểm tiêu biểu 
của Engelbert Kaempfer và Christian Wilhelm Dohm. Xuất phát từ nhiều yếu tố mà quan 
điểm của cả hai gần như trái ngược nhau, khi E. Kaempfer cho rằng chính sách “Tỏa 
quốc” là hợp lý và có thể hiểu được nguyên nhân mà Nhật Bản thực thi chính sách này thì 
C. Dohm lại lên tiếng chỉ trích mạnh mẽ, cho rằng đây là một chính sách tai hại và điều 
này nhận được sự đồng tình khá tích cực tại châu Âu. Tại Nhật Bản, thuật ngữ "Tỏa 
quốc" lần đầu tiên xuất hiện cùng với tác phẩm "Tỏa quốc luận" của Shizuki Tadao. Và 
cùng với quá trình chấp nhận khái niệm "Tỏa quốc" là quá trình 
 "Tỏa quốc luận" được chấp nhận tại Nhật Bản bởi các học giả cận đại. Còn tại 
Việt Nam, chính sách “Tỏa quốc” cũng như thời kỳ Tokugawa luôn được nhắc 
đến khá nhiều trong các công trình nghiên cứu về lịch sử Nhật Bản kể từ đầu thế 
kỷ XX đến nay. Nếu trước những năm 90 của thế kỷ XX, các bài viết chủ yếu 
trình bày một cách sơ lược và khái quát về chính sách “Tỏa quốc” thì từ những 
năm 90 của thế kỷ XX đến nay, đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu đồ sộ 
về lịch sử Nhật Bản, trong đó chính sách “Tỏa quốc” được miêu tả, phân tích và 
đánh giá chi tiết hơn, sâu hơn với những lý giải hết sức mới mẻ.   
Có thể nói, những ngôn thuyết xoay quanh chính sách “Tỏa quốc” của Nhật Bản 
dưới thời kỳ Mạc phủ Tokugawa rất đa dạng và phong phú. Việc tổng hợp và phân 
tích những ngôn thuyết này sẽ góp phần vào việc hướng tới xây dựng một nhận thức 
đầy đủ, khách quan, một cái nhìn tổng quát hơn về vai trò và ý nghĩa chính sách “Tỏa 
quốc” trong suốt tiến trình nghiên cứu lịch sử Nhật Bản từ trước đến nay26.   
“Tokugawa là thời kỳ chuẩn bị những điều kiện tiên quyết để thực hiện quá trình công 
nghiệp hóa hiện đại hóa trong Duy Tân Minh Trị” (Kenichi Ohno). Chính sách đã chuyển 
biến kinh tế tạo ra các tiền đề căn bản cho Duy Tân Minh Trị: có một nền nông nghiệp 
phát triển cả về diện tích và sản lượng; hình thành một thị trường quốc gia thống nhất; có 
sự phát triển mạnh mẽ của thương mại, tài chính và đẳng cấp thương nhân giàu có; sự gia 
tăng của nền sản xuất tiền hiện đại trong các ngành chế biến, sản xuất hàng tiêu dùng, 
hàng thủ công mỹ nghệ… nhờ sự khuyến khích phát triển các       
26 Nguyễn Thị Huyền Chang. Công trình nghiên cứu khoa học sinh viên đạt giải Ba cấp trường năm học 2021-2022. 
 Khoa Đông phương học, Đại học Quốc gia Hà Nội Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn    23            lOMoAR cPSD| 41487147           
ngành thủ công nghiệp và công nghiệp của chính quyền các han và Mạc phủ. 
Tóm lại, chính sách Sakoku đã góp phần xây dựng nền tảng thúc đẩy quá trình 
công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước vào thời kỳ Minh Trị (1868 - 1912).                                     
Tàu hơi nước đi từ Tokyo đến Yokohama, thời kỳ Minh Trị (1868 - 1912)                                                                                                  24          lOMoAR cPSD| 41487147            ́
CHƯƠNG 2. CHÍNH SÁCH “BÊQUAN TỎA CẢNG” CỦA VIÊṬ NAM DƯỚI  ̃ THỜI NHÀNGUYÊN 
Chinh́ sách “Bếquan tỏa cảng” thưc̣ chất chinh́ làchinh́ sách đóng cửa vềngoaị 
thương của nhàNguyên,̃ thểhiêṇ tư duy biêṭlâp̣ vàquyết tâm tách biêṭvới thế giới. 
Chinh́ sách đa ̃cómầm mống từthời Gia Long, bắt đầu hinh̀ thành từthời Minh Mang,̣ 
trải qua thời Thiêụ Tri ̣vàđươc̣ thi hành bổsung dưới thời Tư ̣Đức.   
1. Nguyên nhân dẫn đến chính sách “Bếquan tỏa cảng”   
Sang thếkỷXIX, các nước tư bản phương Tây hình thành sau cuôc̣ cách mang ̣ tư sản 
(Anh, HàLan, Pháp,...) chuyển sang giai đoaṇ chủnghiã đếquốc – bước phát triển cao của 
chủnghiã tư bản, gắn liền với các cuộc đấu tranh gay gắt giữa các nước tư bản nhằm mở 
rộng thị trường và phân chia hệ thống thuộc địa. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần 
thứ nhất đã làm cho năng suất lao động tăng lên không ngờ. Nguyên vật liệu và thị 
trường cần có rất nhiều để đáp ứng sự phát triển của sản xuất. Các nước châu Âu thiếu 
một cách trầm trọng vì thế đã tiến hành những cuộc xâm chiếm các châu lục khác, đặc 
biệt là phương Đông – châu Á nơi có rất nhiều tiềm năng27. Sởdi ̃lưạ choṇ phương Đông 
làm đối tương̣ xâm chiếm vìkhi ấy phương Đông vâñ ởtrong chếđô ̣   
phong kiến quân chủchuyên ch hâu,̣ lỗi thời. Quá trinh̀ bành trướng của phương 
Tây luôn gắn liền với sư ̣xâm nhâp̣ của Thiên Chúa giáo, vốn đươc̣ coi làcông 
cu ̣hữu ích giúp cho viêc ̣xâm lươc̣ thuôc ̣ điạdê ̃dàng hơn.   
Thay vìmởcửa đón nhâṇ chủnghiã tư bản phương Tây thìphương Đông laịđóng 
cửa laị(Trung Quốc đi đầu làm các quốc gia chiụảnh hưởng làm theo). ViêṭNam do 
chiụảnh hưởng lớn từTrung Quốc nên cũng tiến hành chinh́ sách “đóng cửa” dùcho 
các nước phương Tây, kểcảMy ̃muốn thông thương buôn bán. Dưới triều Gia Long, 
ViêṭNam haṇ chếhết mức các cuôc̣ ngoaịgiao với nước ngoài. Vìkhông thông thương 
đươc̣ nên Pháp cókếhoacḥ đưa thương nhân vàgiáo sĩ vào ViêṭNam trước rồi sau đó 
mới chính thức đưa quân đôịvào xâm chiếm. Đểduy trìmối quan hê ̣hòa bình với Pháp 
sau khi được Pháp hỗ trợ trong việc lâṭđổtriều Tây Sơn, vua Nguyễn cốgắng đứng 
ngoài viêc̣chống đao,̣ thưc̣ hiêṇ chủtrương dung hòa với Thiên Chúa giáo, không thể     
27 Sư ̣hình thành vàtác đông̣ của chính sách “Bếquan tỏa cảng” dưới triều Minh Mang̣. Báo cáo khoa hoc̣ khoa Lịch 
sử. Đại học Quốc gia Hà Nội Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn. Tr 5    25            lOMoAR cPSD| 41487147           
chống đạo công khai, không xóa bỏnhưng cũng không phát triển thêm. Tuy nhiên, 
đến thời Minh Mang,̣ trước tinh̀ hình ngày càng bành trướng của phương Tây, ông 
buôc̣ phải thưc̣ thi “Bếquan tỏa cảng” và“Cấm đaọ”.   
Nguyên nhân hàng đầu khiến nhà Nguyễn thi hành “Bế quan tỏa cảng” là do lo sợ   
ý đồ thăm dò, chiếm đất của tư bản phương Tây, trước hết là thực dân Pháp. Sau khi 
Gia Long lên ngôi một thời gian thì đến tháng 6 năm 1817, một chiến tàu binh của 
Pháp do Bá tước Kergarien chỉ huy được vua Pháp Louis XVIII cử sang xin thi hành 
những điều ước của ông Bá Đa Lộc ký năm 1787 về việc nhường cảng Đà Nẵng và đảo 
Côn Lôn. Chính phủ Pháp đã không thi hành bất cứ điều khoản nào trong Hòa ước 
Versailles mà họ lại đến Việt Nam để yêu cầu Việt Nam giao nộp cả đảo Côn Lôn 
và cảng Đà Nẵng (Theo Hòa ước Versailles, vua Louis XVI hứa giúp đỡ Nguyễn 
Ánh lấy lại ngôi vị bằng cách cung cấp 1650 quân và 4 chiến hạm; đổi lại Nguyễn 
Ánh sẽ nhường đảo Côn Lôn và cho Pháp thuê cảng Đà Nẵng kèm độc quyền kinh 
doanh. Tuy nhiên hiệp ước Versailles không được thực thi do Cách mạng Pháp lật 
đổ Hoàng gia nổ ra trong tháng đó, vua Louis XVI bị lật đổ, chính quyền mới của 
Pháp cũng không gửi quân đội giúp sức). Chính điều đó đã làm cho vua Gia Long 
phải xem xét và suy nghĩ đến mưu đồ đen tối của Pháp                                   
Phần chữ ký trên Hòa ước Versailles, 1787   
Bên cạnh đó, các vua triều Nguyêñ do tư tưởng “trong̣ nông ức thương” chỉban 
hành chinh́ sách phát triển nông nghiêp̣ còn thương nghiêp̣ bi ḥaṇ chế, nhàNguyêñ chỉ 
muốn duy trìnền tảng nông nghiêp̣ vừa đủcho dân, lo ngaịsư ̣tiếp xúc với phương Tây 
se ̃hinh̀ thành nền thương maịmới ảnh hưởng đến viêc̣sản xuất nông nghiêp,̣ từđóđe 
doạ đến viêc̣quản lýđất nước. NhàNguyêñ còn chiụảnh hưởng của “chủnghiã dân    26          lOMoAR cPSD| 41487147           
tôc̣” coi mình làdân tôc̣ trung tâm không cần thiết quan hê ̣với các nước khác. Ngoài 
ra, do những khác biêṭvềvăn hóa tôn giáo, nếu như Thiên Chúa giáo chỉthờChúa, 
không thờtổtiên, không sùng bái thần thánh,...thìtrong khi đótín tưỡng quan trong̣ 
nhất của người Viêṭlaịlàthờcúng tổtiên vàsùng bái thần thánh.   
Chinh́ vìvây,̣ nhàNguyêñ đa ̃không mởcửa phát triển đất nước màban hành “Bế 
quan tỏa cảng” ngăn chăṇ thương nhân và“Cấm đaọ sát đaọ” ngăn chăṇ giáo sĩ 
nhằm bảo vê ̣tài nguyên vàđảm bảo sư ̣ổn đinḥ xa ̃hôi,̣ nền an ninh quốc gia.   
2. Nôịdung của chính sách “Bếquan tỏa cảng”   
Sau khi thi hành chính sách “Bế quan tỏa cảng”, nhà Nguyễn vẫn cho phép 
mở cửa ở cảng Đà Nẵng để tiếp đón về ngoại giao đối với Pháp cũng như tiến 
hành buôn bán một số hàng hóa mà triều đình cần với thuyền buôn phương Tây 
và thuyền nước Thanh với điều kiêṇ “tuân thủpháp luâṭ”. Tuy nhiên, việc mở cửa 
này chỉ là hình thức và không thực sự mang tính chất giao thương, buôn bán 
thực sự. Chính vì vậy, chính sách “Bếquan tỏa cảng” của nhàNguyêñ mang tinh́ 
chất “đóng cửa hoàn toàn”. Chính sách “Bếquan tỏa cảng” cómầm mống từthời Gia 
Long đươc̣ thểhiêṇqua “ức thương” chinh́ sách thuếkhóa vàsư ̣kiểm soát phức tap ̣. 
Sau đó, Minh Mang ̣ đa ̃phát triển thành “đóng cửa” và“tuyêṭgiao”.   
Minh Mang ̣ cho đăṭcác cơ quan quản lý, tiến hành thu thuếvàquy đinḥ ngoaị giao. 
Cơ quan quản lýngoaịthương gồm Ty hành nhân (kiểm tra hàng xuất nhâp̣ khẩu) vàTy 
hành chinh́ (kiểm tra thời haṇ hành trinh̀ vâṇ tải đường thủy) đồng thời đăṭNha thương 
bac̣ ởĐàNẵng đểthu thuế. NhàNguyêñ cũng ban hành quy đinḥ rõràng về các loaịhàng 
đươc̣ phép nhâp̣ khẩu vàxuất khẩu: chỉđươc̣ phép nhâp ̣ khẩu vải lua,̣ chè, giấy, quảkhô 
vàmứt, binh̀ hoa, đồchơi trẻem; nghiêm cấm nhâp ̣ khẩu sách vởphương Tây, thuốc 
phiên;̣ ngược lại, đươc̣ quyền xuất khẩu quế, hồtiêu, cau khô, tơ sồng, bông thô, tơ 
sơi,̣ cákhô, ngàvoi, da voi, xương trâu, vải chăm - pa; cấm xuất khẩu vàng bac,̣ tiền 
đồng, kim loai,̣ gao,̣ trầm hương, kìnam, chỉtơ; tùy theo mặt hàng mà mức đánh thuế 
khác nhau. Đồng thời quy định nghiêm ngặt vềcác khoản thu thuế, mỗi tàu thuyền 
buôn nước ngoài phải nôp̣ các loaịthuếnhư thuếnhâp̣ cảng, thuếlê,̃thuếhàng hóa, quan 
trong̣ nhất làthuếtàu thuyền,... tàu thuyền nước ngoài chỉđươc ̣ đâụ ởcác cảng    27            lOMoAR cPSD| 41487147           
đươc ̣ quy đinh,̣ chinh́ những quy đinḥ luâṭlê ̣phức tap̣ gây khódê ̃khiến cho thương 
nhân nước ngoài không thểgiao thương với nước ta.                                 
Cảng Đà Nẵng thời kỳ “Bế quan tỏa cảng” nhà Nguyễn   
NhàNguyêñ thi hành chinh́ sách “Cấm đaọ sát đaọ” khắt khe đối với Thiên Chúa   
giáo, nghiêm cấm các hoaṭđông̣ truyền giáo: “Các tôn giáo sai trái của người Tây 
Dương làm hư hỏng lòng người. Đãtừlâu nhiều tàu Tây Dương đến đây buôn bán 
và đãđểlaịcác đaọ trưởng trong vương quốc này. Các đaọ trưởng đãlôi kéo vàlảm 
hỏng nhân tâm, làm suy thoái thuần phong mỹtuc ̣. Đóchẳng phải tai hoạ lớn cho đất 
nước. Vâỵ phải chống laịsư ̣laṃ dung̣ này đểđưa dân chúng trởlaịcon đường 
chính…phải canh phòng cẩn thâṇ măṭhải cảng, miền núi, tất cảmoịngảđường thủy 
bô ̣đểngăn không cho các đaọ trưởng Tây Dương xâm nhâp̣ lén lút, tràtrôṇ vào dân 
chúng để gieo rắc bóng đen trên vương quốc28”.   
Quan hê ̣với các nước Ai Lao, Campuchia, Thanh vâñ đươc̣ duy trìvàcónhiều   
chinh́ sách ưu đaĩ. Nhưng với phương Tây thìnhàNguyêñ môṭmưc̣ thi hành chinh́   
sách “đóng cửa”. Riêng đối với Pháp cónhiều ân huê ̣(Pháp giúp Nguyêñ Ánh lâṭđổ   
triều Tây Sơn) nên chinh́ sách mềm dẻo hơn, cho phép trao đổi nếu “tôn trong̣ pháp   
luâṭViêṭNam” nhưng pháp luâṭViêṭNam khi đóquácứng nhắc nên năm 1830, quan   
hê ̣ngoaịgiao với Pháp chấm dứt, lanh̃ sư ̣quán Pháp taịViêṭNam bi ̣đóng cửa. Nhà   
Nguyêñ luôn cư ̣tuyêṭmỗi khi Pháp cửcác phái đoàn dâng quốc thư vàphẩm vâṭ. My ̃   
cũng hai lần cửmôṭđăc̣phái viên đi nhưng đều bi vuạ Nguyêñ từchối. Đến năm 1832,   
Minh Mang̣ chỉcho thuyền buôn phương Tây đỗởcửa biển ĐàNẵng. Đến năm 1838,           
28 ĐỗBang. (2010). Chính sách của triều Nguyêñ đối với Thiên Chúa giáo. Kỷyếu Hôịthảo quốc tếViêṭNam hoc̣ lần   
III, tiểu ban Licḥ sửViêṭNam truyền thống   28          lOMoAR cPSD| 41487147           
Minh Mang̣ gửi thông du ̣tất cảquan điạphương cóphâṇ biển, cóthuyền nước ngoài 
thìđến tâṇ nơi xét hỏi, cóngười phương Tây thìlâp̣ tức bắt giải.   
Đường lối “Bếquan tỏa cảng” với phương Tây qua thời Thiêụ Tri ̣không cósư ̣ 
thay đổi, tiếp tuc̣ lanh̃ đaọ môṭđất nước khép kín. Tư ̣Đức kếvi ̣khi đất nước đang 
trong hoàn cảnh kinh tếkhókhăn, dân chúng đói kém nhưng cũng không cósư ̣đổi 
mới nào trong chinh́ sách đối ngoaị. Việc ban hành những luật lệ hà khắc của 
chính quyền nhà Nguyễn thể hiện sự dè chừng với các nước tư bản phương Tây, 
nhưng cốt lõi cũng nhằm mục đích bảo vệ chủ quyền quốc gia trước những mưu 
tính xâm lược bằng nhiều con đường của các nước tư bản phương Tây.   
3. Tác đông ̣ của chính sách “Bếquan tỏa cảng”   
Chinh́ sách “Bếquan tỏa cảng” đươc ̣ đưa ra thâṇ trong̣ với muc ̣ đích đảm bảo 
an ninh quốc gia. Dưạ theo bối cảnh thếgiới lúc này, khi các quốc gia phương Tây 
đang trên đàphát triển muốn mởrông̣ thi trượ̀ng thìviêc̣các quốc gia phương Đông 
lưạ choṇ cách đóng cửa bảo vê ̣đất nước làđiều dê ̃hiểu. ViêṭNam, môṭquốc gia 
cóvi ̣tríđiạlý đăc̣ biêt,̣ nơi giao lưu của các nền kinh tếvăn hóa cùng tài nguyên thiên 
nhiên phong phú, nên luôn bi ̣các thếlưc̣ dòm ngó. Vìvâỵ màvua Nguyêñ đa ̃đưa ra 
chinh́ sách đóng cửa, nhằm ngăn chăṇ thương nhân vàgiáo sĩ phương Tây, đưa ra 
hàng loaṭthứ thuếphức tap,̣...   
Một mặt, chính sách “Bế quan tỏa cảng” góp phần duy trì chủ quyền an 
ninh quốc gia, củng cố quyền thống trị của nhà Nguyễn, làm vững mạnh tính 
chuyên chế vốn có. Chính quyền bảo vệ hệ tư tưởng Nho giáo, bài xích hệ tư 
tưởng từ phương Tây. Nền kinh tế nông nghiệp trong nước được chú trọng phát 
triển, nước ta giai đoạn này có thể tự chủ sản xuất, ngoài ra còn xuất khẩu một 
vài mặt hàng. Việc các tàu thuyền nước ngoài muốn cập bến Việt Nam phải nộp 
nhiều loại thuế giúp nước ta có thêm lượng lớn của cải.   
Tuy nhiên, trong khi các quốc gia ở phương Tây áp dụng những thành tựu của các 
cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật vào mọi mặt để góp phần chạy đua phát triển đất nước 
thì với chính sách “Bế quan tỏa cảng” của nhà Nguyễn dành cho văn minh phương Tây đã 
làm đất nước bỏ lỡ nhiều cơ hội canh tân, đổi mới, không theo kịp những tinh    29            lOMoAR cPSD| 41487147           
hoa, đổi mới của thời đại, nguy cơ tụt hậu hiện hữu29. Dê ̃dàng nhâṇ thấy chinh́ 
sách đa ̃kìm hãm sư ̣phát triển kinh tếquốc gia. Trong bối cảnh quốc gia còn lạc hậu 
thìviêc̣ giao lưu hoc̣ hỏi vô cùng quan trong̣ nhằm thúc đẩy sản xuất, nâng cao kinh 
tế. Nhưng viêc̣duy trì“Bếquan tỏa cảng” đa ̃gây nên sư ̣lac̣ hâụ của nền công nghiêp̣ 
bản đia,̣ trưc̣ tiếp làm suy thoái công thương nghiêp,̣ ngăn cản sư ̣phát triển sâu 
rông̣ vàtư ̣do. Kinh tếnước ta mang năng̣ tinh́ chất tư ̣cung tư ̣cấp yêu cầu chuyển 
sang kinh tếhàng hóa nhưng bi ̣kìm ham̃ vàngăn chăṇ. Vìthế, kinh tếnói chung 
vànông nghiêp̣ nói riêng không thoát khỏi sư ̣lac̣hâụ.   
Bên canḥ đó, mâu thuâñ xa ̃hôịgiữa các giai cấp, tầng lớp càng thêm gay gắt, 
tầng lớp thương nhân không cócơ hôịbuôn bán nước ngoài nên không phát triển 
đươc̣. Vì vâỵ mànaṇ “buôn lâụ” cũng dần trởnên phổbiến trong giới thương nhân 
ViêṭNam kể từkhi đất nước đóng cửa. Thương nhân nước ngoài luồn lách, thương 
nhân nhàThanh tiếp tay cho phương Tây tìm cách đưa hàng cấm vào vàtrốn 
thuếlàm thi ̣trường rối loan,̣ nhànước thất thu thuế.   
Măṭkhác, chính sách cũng gây nên bô ̣măṭu ám của ngoaịthương ViêṭNam, làm 
cho ngoaịthương chưa đóng vai tròthúc đẩy kinh tếphát triển. Viêc ̣đưa ra hàng loaṭ 
quy đinḥ vềviêc̣buôn bán đa ̃khi các thương nhân nước ngoài không còn quan tâm, 
ưa chuông ̣ nước ta. Các đô thi ̣ven biển do lương̣ tàu thuyền qua laịít nên cũng dần 
xuống cấp, luịtàn. Dùnhiều lần đươc̣ các nước phái sứđoàn đến thểhiêṇ sư ̣quan tâm 
nhưng nhàNguyêñ đều từchối, bỏlỡnhiều cơ hôịphát triển đất nước.   
Tóm lai,̣ cóthểkhẳng đinḥ “Bếquan tỏa cảng” làmôṭchinh́ sách sai lầm dưạ trên 
nhiều ảnh hưởng tiêu cưc̣ từchính sách đến moịkhía canḥ của đời sống. Chinh́ sư ̣cô lâp̣ 
với thếgiới bên ngoài đa ̃gây nên những tác đông̣ tiêu cưc,̣ làm nôịlưc̣ suy yếu, mâu 
thuâñ xa ̃hôịtăng cao, dâñ đến an ninh quốc gia vàđôc̣ lâp̣ dân tôc̣ bi đẹ dọa. Viêc̣ 
 đóng cửa cóthểgiúp bảo vê ̣đất nước taṃ thời nhưng vềlâu dài se ̃làm cho đất nước 
ngày càng yếu kém vàtuṭhâụ.             
29 Chính sách đóng cửa của Nhật Bản trong thời kỳ Mạc phủ Tokugawa (So sánh với chính sách đóng cửa của 
nhà Nguyễn Việt Nam). Tiểu luận. N1 - K21 (Năm 2022), Khoa Nhật Bản học, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí 
Minh Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn    30          lOMoAR cPSD| 41487147           
4. Tình hình Việt Nam sau thời kỳ thi hành chính sách “Bế quan tỏa cảng” Được 
đánh giá là một vùng đất “béo bở” hạng nhất ở khu vực Đông Nam Á, là   
cửa ngõ để tiến vào Trung Quốc và Đông Dương, Việt Nam nhanh chóng nằm trong sự 
thôn tính của chủ nghĩa thực dân. Năm 1858, thực dân Pháp chính thức đổ bộ vào bán 
đảo Sơn Trà, Đà Nẵng. Trước thái độ hung hãn của thực dân Pháp, triều đình Huế đã tổ 
chức phản công ngay sau đó. Thế nhưng sau đó triều đình nhà Nguyễn lại đi sâu vào con 
đường thỏa hiệp, dần biến Việt Nam nằm trong quyền bảo hộ của thực dân Pháp. Việc Tự 
Đức băng hà năm 1883 khiến tình hình đất nước thêm rối loạn, các Hiệp ước Harmand 
(1883) và Patenôtre (1884) đã chấm dứt tư cách một quốc gia độc lập của Việt Nam, thay 
vào đó là chế độ thuộc địa nửa phong kiến kéo dài đến cách mạng tháng Tám năm 1945. 
Trong nội bộ chính quyền nhà Nguyễn cũng chia làm hai phái là chủ chiến và chủ hòa. 
Vẫn có những người đứng đầu yêu nước như Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân. Chúng ta 
vẫn có những phong trào yêu nước như phong trào Cần Vương, khởi nghĩa nông dân Yên 
Thế,… Tuy nhiên, chính sự không nhất quán trong cách đối phó với Pháp ngay trong bản 
thân nội bộ chính quyền trở thành một nguyên nhân khiến Việt Nam không thể đưa ra 
được những chính sách phù hợp. Mặt khác, triều đình nhà Nguyễn vốn không phải là một 
triều đình được lòng dân, triều Nguyễn càng không phải triều đình chú trọng vào việc 
phát triển văn hóa, giáo dục, kinh tế trong nước,bởi thế, hàng trăm cuộc nổi dậy từ Bắc 
chí Nam, từ miền xuôi đến miền ngược đã bùng lên suốt hơn nửa thế kỷ thống trị của nhà 
Nguyễn. Nổi bật hơn cả là các cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành, Nông Văn Vân, Lê Văn 
Khôi, Cao Bá Quát,… Nội bộ đất nước bất ổn, cộng với trình độ phát triển trong nước 
nhiều hạn chế, khiến Việt   
Nam vừa không đủ sức mạnh kinh tế, quân sự để chiến đấu lại với quân Pháp, vừa không 
đủ trình độ về dân trí để tiếp thu những tiến bộ của văn minh phương Tây. Muốn học hỏi 
được phương Tây, ít nhất người Việt cũng cần có nền tảng về kiến thức khoa học kĩ thuật 
nhất định, hơn nữa chính quyền cũng cần có chính sách định hướng đất nước. Điều này 
Việt Nam không thể có ở thời nhà Nguyễn. Tóm lại, dù cả Nhật Bản và Việt Nam đều có 
sự nhượng bộ với phương Tây thông qua các bản hiệp ước bất bình đẳng, nhưng sau đó, 
trái với Nhật Bản dần “tận dụng” yếu tố bất lợi đó để học tập cách tân đất nước, thì Việt 
Nam lại ngày càng lấn sâu vào con đường “khuất phục”, về    31            lOMoAR cPSD| 41487147           
sau hoàn toàn mất chủ quyền vào tay chủ nghĩa thực dân30.                                       
Tàu Liên quân tấn công Đà Nẵng, 1858                                                                                                     
30 Nguyễn Thị Quế Hường. (2022). Nhật Bản đối ứng với sự xâm nhập của phương Tây giữa thế kỷ XIX. 
Tạp chí nghiên cứu nước ngoài, tập 38, số 2. Đại học FPT, Hà Nội    32          lOMoAR cPSD| 41487147           
CHƯƠNG 3. SO SÁNH CHÍNH SÁCH ĐÓNG CỬA SAKOKU CỦA 
NHẬT BẢN TRONG THỜI KỲ MẠC PHỦ VỚI CHÍNH SÁCH “BẾ 
QUAN TỎA CẢNG” CỦA NHÀ NGUYỄN VIỆT NAM   
1. So sánh chính sách đóng cửa Sakoku thời kỳ Mạc phủ Tokugawa của 
Nhật Bản với chính sách “Bế quan tỏa cảng” của Việt Nam thời nhà Nguyễn    1.1. Giống nhau   
Về nguyên nhân của cả 2 chính sách Sakoku của Mạc phủ Tokugawa và chính 
sách “Bế quan tỏa cảng” của nhà Nguyễn đều nhằm giữ cho nền kinh tế, xã hội và 
chính trị ổn định, bảo vệ nền văn hóa truyền thống đất nước. Đồng thời ngăn chặn 
sự ảnh hưởng của làn sóng phương Tây thông qua quá trình giao thương và du 
nhập tôn giáo, văn hóa. Tuy nhiên, cả 2 nước vẫn giữ mối quan hệ ngoại giao với 
một nước phương Tây duy nhất (Nhật Bản – Hà Lan; Việt Nam – Pháp).     
Thời điểm Nhật Bản thực hiện đóng cửa là vào thế kỷ XVII và kéo dài đến thế kỷ 
XIX, khi làn sóng phương Tây đang bắt đầu tạo ảnh hưởng mạnh mẽ đến khu vực các 
nước châu Á. Và bước đầu là sự giao thương và ảnh hưởng từ Thiên Chúa giáo được 
truyền bá từ các nước phương Tây đã gây ra một số tác động lên tình hình trong nước. 
Do đó Nhật Bản đã gấp rút ban hành và thực hiện chính sách đóng cửa. Còn ở Việt 
Nam, thời điểm nhà Nguyễn thực hiện chính sách đóng cửa là vào khoảng nửa đầu thế 
kỷ XIX, khi sự ảnh hưởng từ các nước phương Tây đến các vùng lân cận là quá lớn, 
đồng thời lo sợ những nét văn hóa của phương Tây sẽ gây ảnh hưởng đến tình hình 
trong nước, do đó nhà Nguyễn đã ban hành lệnh “Bế quan tỏa cảng”.   
Về việc giao thương và hạn chế lưu thông với bên ngoài: cả 2 chính sách đều 
đặt ra các điều luật nhằm hạn chế giao thương với bên ngoài. Tại Nhật Bản, theo 
chính sách Sakoku, ngoại thương bị hạn chế rất nhiều. Chỉ có một số cảng được chỉ 
định, chẳng hạn như Nagasaki, được phép tham gia buôn bán hạn chế với các 
thương gia Hà Lan và Trung Quốc. Công dân Nhật Bản cũng bị hạn chế rời khỏi 
đất nước và người nước ngoài không được phép vào Nhật Bản mà không có sự cho 
phép đặc biệt. Tất cả các liên hệ và giao dịch nước ngoài khác đều bị nghiêm cấm.      33            lOMoAR cPSD| 41487147           
Tại Việt Nam, vua Minh Mạng đưa ra nhiều khoản thuế đối với các thương 
nhân từ nước ngoài và khiến cho việc thu thuế phí phức tạp để việc giao thương 
không thể thực hiện được. Chính sách của nhà Nguyễn đã hạn chế các hoạt động 
ngoại thương và cấm tàu nước ngoài vào các cảng trong khu vực Đàng Trong, 
đặc biệt là các cảng dọc bờ biển miền Trung. Trong thời kỳ thuộc địa, khi áp lực 
từ các nước phương Tây gia tăng, triều đình áp dụng các biện pháp hạn chế 
ngoại giao và di cư. Việc ra khỏi đất nước trong thời gian này đòi hỏi sự cho 
phép đặc biệt từ phía chính quyền và có thể bị hạn chế.     1.2. Khác nhau:                   
Nhật Bản triều đại Tokugawa  
Việt Nam triều đại nhà Nguyễn       (1600 – 1868)     (1802 – 1945)                                 
Chính sách đóng cửa Sakoku  
“Bế quan tỏa cảng” là chính sách   
 của Nhật Bản triều đại Tokugawa  
đóng cửa hoàn toàn, không giao   
 toàn diện hơn, áp dụng trên toàn  thương với các nước bên ngoài. Chỉ     
lãnh thổ. Chính sách Sakoku tuy dần bắt đầu chịu ảnh hưởng từ Pháp   
Tính  hạn chế nhưng vẫn 
phép giao  vào nửa sau thế kỷ XIX     
chất  thương với bên ngoài (đóng cửa              
 không hoàn toàn) qua 4 cửa ngõ:      
 Matsumae, Satsuma, Tsushima và       Nagasaki.31                                 
Tuy đóng cửa nhưng không lạc  Chính sách đóng cửa đã kìm hãm sự    Tình      
 hình đất  hậu. Nhật Bản thương thảo với các  
phát triển kinh tế quốc gia. Nông   
nước  đại diện người Hà Lan và Triều  
nghiệp và các ngành kinh tế khác    trong      
 thời kỳ  Tiên để đảm bảo kim ngạch thương  không thoát khỏi sự lạc hậu. Đặc biệt   đóng cửa      
 mại nói chung không bị ảnh hưởng.  nông nghiệp là thế mạnh của Việt Nam                     
31 Nguyễn Nam Trân. (2013). Giáo trình lịch sử Nhật Bản. Quyển Thượng, Phần hai, Chương II, Mục 6, tr 414    34          lOMoAR cPSD| 41487147         
Nhật Bản đóng cửa nhưng vẫn nhưng cũng không vượt qua được biên   
nắm được tình hình thế giới thông giới quốc gia.   
qua đối tác giao thương duy nhất là 
Khác với Nhật Bản, Việt Nam từ   
Hà Lan, họ vẫn tiếp cận được với chối tiếp thu sự phát triển văn minh từ   
hàng hóa và các tiến bộ khoa học phương Tây. Giao lưu văn hóa dần bị   
kỹ thuật từ phương Tây. Ở Nhật hạn chế dẫn đến lạc hậu32.   
thời điểm này có bộ môn “Hà Lan   
học” (Rangaku), nghiên cứu về   
những tri thức mới được truyền từ   
bên ngoài vào thông qua Hà Lan.   
Nhật chỉ giữ mối quan hệ đối 
Ở Việt Nam, tuy gọi là “Bế quan   
tác thương mại và nguồn cung tỏa cảng” để ổn định tình hình trong   
thông tin về thế giới phương Tây nước, nhưng trên thực tế, nội bộ đất   
với Hà Lan. Nhật không bị lệ thuộc nước bị chia rẽ nặng nề. Đến khoảng 
Kết quả bởi Hà Lan mà lợi dụng việc giao thời gian giữa và cuối của chính sách   
thương với nước này 
làm nền đóng cửa (từ sau 1887), Việt Nam dần   
tảng phát triển đất nước. 
chịu ảnh hưởng nặng nề bởi Pháp và       
trở thành một phần thuộc địa của Pháp        ở Đông Dương. 
2. Nguyên nhân Nhật Bản có thể tiếp tục phát triển hậu chính sách Sakoku:     
Trước hết, Nhật Bản tuy đã tiến hành đóng cửa toàn diện, hạn chế ngoại thương 
với các nước phương Tây nhưng là đóng cửa không hoàn toàn. Chính vì vậy, họ vẫn có 
thể biết được thông tin về sự phát triển của thế giới bên ngoài từ đối tác ngoại giao 
phương Tây duy nhất là Hà Lan. Họ vẫn biết đến sự phát triển của công nghệ kỹ thuật       
32 Chính sách đóng cửa của Nhật Bản trong thời kỳ Mạc phủ Tokugawa (So sánh với chính sách đóng cửa của 
nhà Nguyễn Việt Nam). Tiểu luận. N1 - K20 (Năm 2021), Khoa Nhật Bản học, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí 
Minh Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn    35            lOMoAR cPSD| 41487147           
từ y học giải phẫu cơ thể người của người phương Tây có sự chi tiết và chính xác 
hơn so với Trung Quốc, cho đến những thành tựu kỹ thuật khác. Ngoài ra chính 
sách đóng cửa giúp tình hình trong nước Nhật Bản ổn định. Nhờ có có nền tảng 
ổn định nên từ sau chính sách đóng cửa - khi thực hiện mở cửa (Kaikoku) trở 
lại, Nhật Bản đã có thể trực tiếp bước vào giai đoạn cải cách, chạy đua công 
nghiệp hóa để bắt kịp với các nước phương Tây.   
Còn ở Việt Nam, với chính sách đóng cửa hoàn toàn, không có sự giao thương với 
nước ngoài và chính quyền không chấp nhận tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật 
của các nước phương Tây mà vẫn giữ lối suy nghĩ lạc hậu. Ngoài ra do sự ảnh hưởng 
nặng nề từ nước Pháp, nội bộ quốc gia không ổn định, về sau bị chia rẽ thành 
 Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Do đó, Việt Nam không thể theo kịp với làn sóng 
chạy đua công nghiệp hóa mà phải tập trung thống nhất lại tình hình trong 
nước, từ đó Việt Nam rơi vào trạng thái lạc hậu, không phát triển.     
3. Liên hệ mở rộng với Thái Lan và Trung Quốc      3.1. Thái Lan   
Thực tế, Thái Lan không áp dụng chính sách đóng cửa hoàn toàn nào tương 
tự chính sách Sakoku của Nhật Bản. Tuy nhiên, trong quá khứ, Thái Lan đã thực 
hiện một số biện pháp hạn chế và kiểm soát sự tương tác với thế giới bên ngoài.   
Thời kỳ Vương quốc Ayutthaya (1351-1767): Thái Lan đã thiết lập một chính sách 
hạn chế thương mại và quy định rất nghiêm ngặt về việc nhập khẩu và xuất khẩu33.   
Hạn chế thương mại: Vương quốc Ayutthaya áp đặt các quy định nghiêm 
ngặt về xuất nhập khẩu, bao gồm độc quyền đối với một số hàng hóa và hạn chế 
đối với hoạt động của thương nhân nước ngoài.                  33   
Wyatt, D. K. (2003). Thailand: A short history. Yale University Press.   36          lOMoAR cPSD| 41487147           
Quan hệ ngoại giao: Ayutthaya duy trì quan hệ ngoại giao với các nước láng giềng và 
tham gia thương mại với Trung Quốc, Ấn Độ và các quốc gia Đông Nam Á khác.   
Ảnh hưởng tích cực: Chính sách đóng cửa một phần của Thái Lan đã giúp 
bảo vệ sự ổn định nội bộ và tạo điều kiện cho phát triển các ngành công nghiệp 
trong nước. Nó đã cung cấp một giai đoạn để xây dựng cơ sở hạ tầng và phát 
triển các ngành công nghiệp cơ bản.   
Ảnh hưởng tiêu cực: Chính sách đóng cửa đã hạn chế sự tiếp xúc và trao 
đổi với thế giới bên ngoài, có thể đã làm giảm khả năng tham gia vào thương 
mại quốc tế và tiếp cận với các công nghệ và kiến thức mới.   
Nhìn chung, mặc dù có chính sách hạn chế nghiêm ngặt đối với thế giới bên 
ngoài, Thái Lan trong thời kỳ Vương triều Ayutthaya vẫn phát triển vượt bậc 
nhờ vị trí địa lý thuận lợi, quan hệ ngoại giao và văn hóa, quản lý nội bộ và 
chính trị ổn định, sự đa dạng văn hóa và kiến thức, cũng như sự hưởng ứng và 
học hỏi từ các nền văn minh khác trong khu vực.     
Tiếp đó, vào giữa thế kỷ XIX, cũng như các quốc gia ở Đông Nam Á, Thái lan bấy 
giờ là vương quốc Xiêm đã phải đứng trước sự đe dọa xâm lược của thực dân phương 
Tây, đặc biệt là Anh và Pháp. Chính vì vậy, triều đại Ra – ma (1752) đã thi hành chính 
sách đóng cửa, ngăn cản thương nhân và giáo sĩ phương Tây vào Xiêm. Tuy nhiên, đến 
thời vua Mông – kut (1851 – 1868) đã thực hiện chủ trương mở cửa buôn bán với bên 
ngoài đồng thời lợi dụng sự kiềm chế lẫn nhau giữa các nước tư bản để bảo vệ nền độc 
lập dân tộc của đất nước. Năm 1868, Chu – la – long – con lên ngôi (Ra – ma V, trị vì từ 
năm 1868 – 1910) đã tiếp nối chính sách cải cách của vua cha.   
Các cải cách này đã lấy phương Tây làm khuôn mẫu, từ đó Xiêm đã gặt hái được nhiều 
thay đổi về các mặt hành chính, tài chính, quân sự, giáo dục,... Nhờ vậy, Xiêm dần phát 
triển theo hướng tư bản chủ nghĩa. Đặc biệt, vua Ra – ma V luôn quan tâm đến các hoạt 
động ngoại giao bằng cách tiến hành thực hiện các chính sách ngoại giao mềm dẻo. Có thể 
thấy, Xiêm vừa lợi dụng vị trí nước "đệm" giữa hai thế lực đế quốc Anh - Pháp, vừa chấp 
nhận cắt nhượng một số vùng đất phụ (vốn là lãnh thổ của Campuchia,    37            lOMoAR cPSD| 41487147           
Lào, Mã Lai) để nhằm mục đích giữ gìn chủ quyền đất nước. Nhờ vậy, Xiêm 
không bị biến thành thuộc địa như các nước trong khu vực, mà vẫn giữ được 
độc lập, mặc dù chịu nhiều lệ thuộc về chính trị, kinh tế vào Anh và Pháp. Tóm 
lại, sau thời gian đóng cửa, Xiêm đã nhanh chóng tiến hành cải cách một cách 
toàn diện và đặc biệt thi hành chính sách ngoại giao vô cùng khôn khéo. Đó 
chính là một trong những nguyên nhân giúp Xiêm trở thành quốc gia độc lập 
duy nhất ở Đông Nam Á không trở thành thuộc địa vào thời điểm đó. Tuy nhiên 
cuộc cải cách này được xem là một cuộc cách mạng tư sản không triệt để vì 
không xóa bỏ phong kiến, không giải quyết ruộng đất và dân chủ cho nông dân.   
Đây là những yếu tố cần thiết mang tính quyết định để làm nền tảng cho sự 
phát triển của cả Nhật Bản và Thái Lan. Song, đó cũng chính là nguyên nhân 
tạo nên sự khác biệt giữa Nhật Bản và Thái Lan so với các nước phương Đông 
khác trong xu thế đóng cửa bấy giờ.     
3.2. Trung Quốc (Thời kỳ cô lập)   
Chính sách cô lập của Trung Quốc được thực hiện chủ yếu trong thời kỳ từ đầu   
thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XIX34 không áp dụng cho toàn bộ Trung Quốc mà tập 
trung chủ yếu ở phạm vi biển và các cảng hàng hải.   
Mục đích: Chính sách cô lập của Trung Quốc có mục tiêu bảo vệ chủ quyền, 
tránh sự xâm lược và sự can thiệp của các nước ngoại quốc. Nó xoay quanh việc 
kiểm soát thương mại và giới hạn sự tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Trong giai 
đoạn này, Trung Quốc thực hiện các biện pháp như cấm đánh buôn, hạn chế 
nhập khẩu và xây dựng hệ thống cảng có sự kiểm soát nghiêm ngặt.   
Ảnh hưởng tiêu cực: Chính sách cô lập của Trung Quốc trong thời kỳ lịch sử đã 
ảnh hưởng đến khả năng tham gia vào thương mại quốc tế và tiếp cận các công nghệ,              34   
Spence, J. D. (1990). THE SEARCH FOR MODERN CHINA. WW Norton & Company.   38          lOMoAR cPSD| 41487147           
kiến thức và tài nguyên từ bên ngoài. Điều này đã có tác động tiêu cực đến sự 
phát triển kinh tế của Trung Quốc trong giai đoạn đó.   
Ảnh hưởng tích cực: Tuy nhiên, chính sách cô lập cũng đã giúp bảo vệ sự 
ổn định nội bộ và tăng cường sự độc lập kinh tế của Trung Quốc. Trong giai 
đoạn này, Trung Quốc phát triển các ngành nông nghiệp, chế biến sơ cấp và sản 
xuất nội địa, tạo nền tảng cho sự phát triển về sau.   
Tuy so với Nhật Bản, hai chính sách này đều có mục tiêu giữ cho quốc gia 
trong sự ổn định và độc lập, nhưng chúng có sự khác biệt về thời gian áp dụng, 
phạm vi và cách thức thực hiện. Chính sách Sakoku của Nhật Bản rộng rãi hơn 
và kéo dài lâu hơn so với chính sách đóng cửa của Trung Quốc. Cả hai chính 
sách đều ảnh hưởng đáng kể đến sự giao thương quốc tế và tương tác với thế 
giới bên ngoài trong các thời kỳ tương ứng.     
Lý do Trung Quốc không thể phát triển được như Nhật Bản sau đóng cửa: Bất ổn 
chính trị và xung đột trong lịch sử, cùng với chính sách kinh tế và cải cách chậm. Trung 
Quốc đã thực hiện các chính sách kinh tế và cải cách chậm và không hiệu quả sau thời 
kỳ cô lập. Mặc dù đã có những 
 để đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại 
hóa, nhưng việc thực hiện chính sách và cải cách vẫn gặp phải nhiều khó khăn 
và chậm trễ. Ngoài ra dưới sự chi phối của các quốc gia bên ngoài, Trung Quốc 
đã gặp phải nhiều sự cạnh tranh và áp lực kinh tế, chính trị và văn hóa, ảnh 
hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển của nước này.   
4. Bài học kinh nghiệm   
Chính sách “Tỏa quốc” – Sakoku của Nhật Bản thời kỳ Mạc phủ Tokugawa và 
chính sách “Bế quan tỏa cảng” thời nhà Nguyễn của Việt Nam tuy có những nét tương 
đồng về mục đích nhưng cả hai lại có những hướng đi rất khác nhau, từ đó để lại những 
bài học giá trị cho những thời kỳ phát triển về sau. Tuy có rất nhiều mặt hạn chế nhưng 
không thể phủ nhận được giá trị và những mặt đặc sắc trong phương thức xây dựng, phát 
triển đất nước thời kỳ “Tỏa quốc” của Nhật Bản. Thứ nhất, xét về bối cảnh lịch    39            lOMoAR cPSD| 41487147           
sử, đứng trước sự du nhập của những học thuyết, tôn giáo, văn hóa,... nước ngoài, Nhật 
Bản không “cự tuyệt” lặp tức mà lại chọn cách ôn hòa tiếp thu và sau đó tiến hành bước 
chọn lọc tiếp theo. Tiêu biểu là việc tiếp nhận Thiên Chúa giáo của phương Tây thời kỳ 
bấy giờ. Như vậy, ngoài việc duy trì những tôn giáo nguyên thủy của dân tộc, Nhật Bản 
dần được tiếp thu những tư tưởng tôn giáo mới, góp phần tạo nên sự đa dạng trong văn 
hóa tín ngưỡng của đất nước trong bối cảnh lịch sử và đến ngày nay. Song, việc chọn lọc 
mặt tốt của những giá trị mới đã giúp đất nước có thể học hỏi từ bên ngoài mà vẫn giữ 
được bản sắc dân tộc bên trong. Thứ hai, đứng trước làn sóng phát triển mạnh mẽ của 
Thiên Chúa giáo và nguy cơ bị đồng hóa bởi những quốc gia bên ngoài, Nhật 
 Bản đã nhanh chóng đưa ra chính sách đóng cửa nhằm bảo vệ an ninh quốc gia cũng như 
hạn chế sự ảnh hưởng của tôn giáo phương Tây. Nhận thấy đây cũng là một trong những 
điểm đáng học hỏi của Nhật Bản khi chủ động xây dựng phương pháp “phòng thủ” trước 
những mối đe dọa xâm lược, đồng hóa từ bên ngoài dành cho đất nước, dân tộc. Cuối 
cùng, việc xây dựng chính sách đóng cửa nhưng không khép kín cùng với việc vẫn duy trì 
quan hệ với một số quốc gia như Trung Quốc, Hà Lan chính là một lựa chọn vô cùng sáng 
suốt của chính quyền Tokugawa lúc bấy giờ. Việc giữ quan hệ đối ngoại một cách tương 
đối đã phần nào giúp cho quá trình “thức tỉnh” của Nhật Bản dần được hình thành. Có 
thể thấy, dù tham gia vào xu thế chung của các nước phương Đông qua việc thực thi chính 
sách đóng cửa nhưng Nhật Bản với chính sách Sakoku đã tạo nên những nét riêng biệt so 
với các nước láng giềng. Trong khi đó, ở Việt Nam thời kỳ bấy giờ, chủ trương “Bế quan 
tỏa cảng” của nhà Nguyễn khi được thi hành đã tạo nên một “bức tường” khép kín giữa 
Việt Nam và thế giới bên ngoài. Điều đó đã tạo nên những hạn chế to lớn trong việc tiếp 
thu, học tập những giá trị tiên tiến của nhân loại. Chính vì vậy, suốt thời kỳ khép mình ấy, 
kinh tế, xã hội Việt Nam đã có những biểu hiện của sự lạc hậu, tuột dốc. Ngược lại, Nhật 
Bản lại lựa chọn việc hình thành bốn lỗ thông hơi35 góp phần giúp đất nước vẫn có thể 
giao thương với bên ngoài dù hạn chế. 
 Từ đó, Nhật Bản dần tiếp thu được những giá trị mới từ Hà Lan – quốc gia phương Tây 
duy nhất được phép giao thương với Nhật Bản trong thời kỳ đóng cửa. Việc Quốc học     
35 Nguyễn Nam Trân. (2013). Giáo trình lịch sử Nhật Bản. Quyển Thượng, Phần hai, Chương II, Mục 6, tr 414 - 429. 
 Truy xuất từ http://sugia.vn//assets/file/news/LichsuNhatBan1.pdf    40          lOMoAR cPSD| 41487147           
(Kokugaku) được chú trọng thì ngành “Hà Lan học” (Rangaku) cũng ra đời và 
phát triển đi đôi với tư tưởng Khai quốc (Kaikoku).   
Tóm lại, việc nhìn nhận những mặt hạn chế và chọn lọc những mặt ưu điểm 
của chính sách Sakoku cũng đã để lại cho Việt Nam những bài học kinh nghiệm 
sâu sắc trong việc xây dựng và phát triển đất nước ở những giai đoạn sau.                                                                                                                          41            lOMoAR cPSD| 41487147            TỔNG KẾT   
Nhìn chung, chính sách “Tỏa quốc” – Sakoku đã mang đến nhiều hệ quả tiêu cực 
ảnh hưởng đến nhiều phương diện khác nhau của toàn bộ đất nước. Quá trình tự cô lập 
ấy khiến Nhật Bản bước vào giai đoạn tụt hậu so với các quốc gia phương Tây. Nền kinh 
tế đối ngoại dần thể hiện rõ mặt thụ động, bảo thủ và hầu như bị “xói mòn” nghiêm trọng. 
Tuy nhiên xuyên suốt thời kỳ này, chính quyền Tokugawa đã góp phần xây dựng nên một 
nền hòa bình lâu dài trong lịch sử nước Nhật. Chính sách “Bế quan tỏa cảng” của nhà 
Nguyễn ở Việt Nam cũng có những nét tương tự. Cả hai đều xuất phát từ mục đích ngăn 
chặn sự truyền bá của Kito giáo và hạn chế trong giao thương với nước ngoài. Song, chính 
sách đóng cửa của Việt Nam thời điểm ấy vẫn còn rất nhiều mặt thiếu sót so với Nhật Bản. 
Đối với Nhật Bản, nền hòa bình được xây dựng trong thời kỳ thi hành Sakoku chính là 
bước đệm to lớn để đẩy mạnh phát triển bộ mặt sản xuất trong nước. Từ đó bức tranh về 
quan hệ kinh tế phong kiến trong lòng xã hội Nhật dần có những bước chuyển mình rõ 
rệt, thúc đẩy những nhân tố tư bản chủ nghĩa phát triển và chuẩn bị những điều kiện cần 
thiết cho công cuộc Minh Trị Duy Tân (1868 – 1945). Trải qua hơn 200 năm đóng cửa, đất 
nước đã duy trì nền kinh tế tự cung tự cấp nhưng lại có tính hiệu quả cũng như xây dựng 
được những giá trị văn hóa, xã hội rất riêng biệt, đậm đà bản sắc dân tộc. Tóm lại, chính 
sách đóng cửa Sakoku trong thời kỳ Mạc phủ Tokugawa chính là một trong những sự 
kiện vô cùng quan trọng và có dấu ấn, tác động mạnh mẽ đến tiến trình lịch sử phát triển 
của đất nước mặt trời mọc. Những hệ quả mà chính sách mang lại chính là những viên 
gạch đầu tiên đặt nền tảng cho sự chuyển mình và phát triển vượt bậc của Nhật Bản trong 
những thời kỳ tiếp theo.                                          42          lOMoAR cPSD| 41487147           
TÀI LIỆU THAM KHẢO   
1. Tài liệu trong nước   
[1] ĐỗBang. (2010). Chính sách của triều Nguyêñ đối với Thiên Chúa giáo. Kỷyếu 
Hôịthảo quốc tếViêṭNam hoc̣ lần III, tiểu ban Licḥ sửViêṭNam truyền thống   
[2] Lê Thanh Bình. (2007). Văn hóa Nhật Bản: Sức mạnh của truyền thống và 
thách thức trong thời kỳ hội nhập. Bài phát biểu trong buổi hội thảo: Văn hóa 
phương Đông: Truyền thống và hội nhập. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh 
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn     
[3] Chính sách đóng cửa của Nhật Bản trong thời kỳ Mạc phủ Tokugawa (So sánh với 
chính sách đóng cửa của nhà Nguyễn Việt Nam). Tiểu luận. N1 - K20, Khoa Nhật Bản 
học, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn   
[4] Chính sách đóng cửa của Nhật Bản trong thời kỳ Mạc phủ Tokugawa (So sánh với 
chính sách đóng cửa của nhà Nguyễn Việt Nam). Tiểu luận. N1 - K21, Khoa Nhật Bản 
học, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn   
[5] Đinh Thanh Hoa. (2014). Nhật Bản trong mối quan hệ với Bồ Đào Nha và Hà Lan 
dưới thời Tokugawa - một vài đối sánh. Tạp chí Khoa học và Công nghệ, tập 2, số 2. 
 Trường Đại học Khoa học Huế       
[6] Nguyễn Thị Quế Hường. (2022). Nhật Bản đối ứng với sự xâm nhập của 
phương Tây giữa thế kỷ XIX. Tạp chí nghiên cứu nước ngoài, tập 38, số 2. Đại 
học FPT, Hà Nội     
[7] Lê Thi ̣Phương Khanh. (1998). Bước đầu tìm hiểu vềthời đaịTokugawa (1603 - 
1868). Luâṇ văn tốt nghiêp ̣. Khoa Đông Phương hoc̣ - chuyên ngành Nhật Bản học, 
Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh Trường Đaịhoc̣ Khoa hoc̣ xa ̃hôịvàNhân văn        43            lOMoAR cPSD| 41487147           
[8] Nguyễn Văn Kim. (1997). Vài nét về tầng lớp thương nhân và hoạt động 
thương mại ở Nhật Bản thời kỳ Tokugawa. Khoa Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà 
Nội Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn   
[9] Nguyễn Văn Kim. (1999). Chính sách đóng cửa của NhâṭBản thời kỳTokugawa: 
Nguyên nhân vàhê ̣quả. Luận án Tiến sĩ Lịch sử. Đại học Quốc gia Hà Nội 
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn   
[10] Nguyễn Văn Kim. (2004). Nhật Bản: Ba lần mở cửa - Ba sự lựa chọn. Tạp chí 
 Nghiên cứu Lịch sử, số 5. Khoa Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội Trường Đại 
học Khoa học xã hội và Nhân văn   
[11] Nguyễn Thị Cẩm Lý. (2004). Tìm hiểu vai trò của Tokugawa Ieyasu trong việc 
xây dựng Edo Bakufu. Luận văn tốt nghiệp. Khoa Đông Phương học - chuyên ngành 
 Nhật Bản học, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh Trường Đại học Khoa học xã  hội và Nhân văn   
[12] R.H.P Mason & J.G.Caiger. (2003). Lịch sử Nhật Bản. Người dịch Nguyễn Văn 
 Sỹ. NXB Lao động, Hà Nội     
[13] Trần Thế Nhựt. (2011). Vai trò của Fukuzawa Yukichi đối với lịch sử Nhật Bản 
cận đại. Luận văn Thạc sĩ Lịch sử Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh   
[14] Lê Văn Quang. (1998). Licḥ sửNhâṭBản. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh 
 Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn     
[15] Sư ̣hình thành vàtác đông̣ của chính sách “Bếquan tỏa cảng” dưới triều Minh 
Mang̣. Báo cáo khoa hoc̣ khoa Licḥ sử. Đại học Quốc gia Hà Nội Trường Đại học 
Khoa học xã hội và Nhân văn   
[16] Nguyễn Thị Diệu Sương. (2003). Tìm hiểu về giai đoạn hình thành củng cố 
nhà nước phong kiến trung ương tập quyền thời kỳ Tokugawa (1603 - 1651). Luận 
văn tốt nghiệp. Khoa Đông Phương học - chuyên ngành Nhật Bản học, Đại học 
Quốc gia TP. Hồ Chí Minh Trường Đaịhoc̣ Khoa hoc̣ xa ̃hôịvàNhân văn   
[17] Sakoku Chính sách tỏa quốc của Nhật Bản (giữa thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX). 
 Truy xuất từ https://prezi.com/p/9vpywkladbly/sakoku-chinh-sach-toa- quoc-cua-nhat-ban/        44          lOMoAR cPSD| 41487147           
[18] Trần Thị Tâm. (2018). Chuyển biến kinh tế Nhật Bản thời kỳ Tokugawa 
(1600 - 1868). Luận án Tiến sĩ Lịch sử. Đại học Huế Trường Đại học Khoa học   
[19] Trần Thị Tâm. (2018). Hoạt động buôn bán giữa Nhật Bản và Đàng Trong 
nửa cuối thế kỷ XVII. Tạp chí Khoa học và Công nghệ. Đại học Huế Trường Đại 
học Khoa học   
[20] Trần Thị Tâm. (2019). Tích lũy tư bản nguyên thủy ở Nhật Bản dưới thời 
Tokugawa và vai trò của nó đối với Minh Trị duy tân. Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 11    (225)   
[21] Arnold Toynbee. (2002). Nghiên cứu về lịch sử – Một cách thức diễn giải. NXB 
 Thế Giới, Hà Nội, tr .256     
[22] Nguyễn Nam Trân. (2013). Giáo trình lịch sử Nhật Bản. Quyển Thượng, Phần hai,   Chương II, Mục 6   
[23] Hoàng Anh Tuấn. (2014). Góc nhìn khu vực về quan hệ Việt Nam - Nhật Bản 
thế kỷ XVII. Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, số 3/2014   
2. Tài liệu nước ngoài     
[24] Spence, J. D. (1990). The search for modern China. WW Norton & Company     
[25] The Cambridge History of Japan series early modern Japan volume 4     
[26] Wyatt, D. K. (2003). Thailand: A short history. Yale University Press     
[27] Madalena Ribeiro. (2001). The Japanese diaspora in the Seventeenth Century.   
丹野. (2014).『日本のアジア交易の歴史序説』 神奈川大学国際経営論、 48 集、 tr  144-145   
[28] 精選版日本国語大辞典「鎖国」の意味・読み・例文・類語. Truy xuất từ: 
https://kotobank.jp/word/鎖国-68867   
[29] 江戸幕府が「鎖国」していたという大きなウン. Truy xuất 
từ: https://toyokeizai.net/articles/-/129161?page=2   
[30] なぜオランダは鎖国でも貿易できたのか. Truy xuất từ:    45            lOMoAR cPSD| 41487147           
http://www.watv.ne.jp/anne/nl/isolationtrade.html   
[31] 第 1 部 歴史をたどる出島の商館. Truy xuất 
từ: https://www.ndl.go.jp/nichiran/s1/s1_2.html   
[32] 日本史年表 IV. 江戸時代. Truy xuất từ: 
http://www9.plala.or.jp/kinomuku/5nenpyou4.html   
[33]【近世(安土桃山時代〜江戸時代)】なぜ日本は鎖国になったのか.Truy xuất từ:   
https://chu.benesse.co.jp/qat/1021_s.html                                                                                                                46