-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Chọn ra 1 nội dung rồi liên hệ thực tiễn | Bài tập lớn môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam
Chọn ra 1 nội dung rồi liên hệ thực tiễn | Tiểu luận môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam(LLLSD1101)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45470709
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***------- BÀI TẬP LỚN MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG
ĐỀ BÀI: Chọn ra 1 nội dung rồi liên hệ thực tiễn
Họ và tên SV: Đào An Nguyên
Lớp tín chỉ: LLLSD1102 Mã SV: 11214438
GVHD: Nguyễn Thị Thắm HÀ NỘI, NĂM 2022 lOMoAR cPSD| 45470709 Lời mở đầu
Để có thể khẳng định chính mình trong xã hội, con người ai cũng cần có khả năng tự
đánh giá, phê bình chính mình. Đánh giá bản thân chính là sự nhìn nhận tông thể về giá trị bản
thân với tư cách là con người và chúng ta theo đó mà hành động. Sự đánh giá này không có sẵn
khi con người sinh ra mà được hình thành trong mối quan hệ, giao lưu với người khác, trong
sự phát triển và từ những trải nghiệm thành công hay thất bại của cá nhân trong cuộc sống...
Nếu chúng ta có sự tự đánh giá phủ hợp với năng lực thực tế của mình thì chúng ta thường hài
lòng về bản thân và điều đó tạo nên sức mạnh tỉnh thần giúp chúng ta vượt qua những khó
khăn, trở ngại của cuộc đời. Chúng ta sẽ là người thành công và hạnh phúc.
Một tập thể bao gôm những người biết tự đánh giá bản thân, hay tự đánh giá được chính
tập thể ấy, là một tập thể tiến bộ. Điều này được thể hiện xuyên suốt lịch sử của dân tộc Việt
Nam trên các phương diện chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế. Đại hội Đảng lần thứ VI là một
nhân chứng, được nêu ra trong thời kì đổi mới và đi lên Chủ nghĩa xã hội của Việt Nam sau khi
hoàn toàn giải phóng và Nam – Bắc về chung 1 nhà. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã
nghiêm khắc nêu ra rằng nguyên nhân chủ quan của tình hình khó khăn, khủng hoảng là do
những sai lầm, khuyết điểm trong sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước. Đại hội nhận
định việc nhìn nhận, đánh giá tình hình cụ thể về các mặt kinh tế, xã hội của đất nước đã có nhiều thiếu sót.
Qua đó, em mong muốn sẽ có thể liên hệ việc tự đánh giá, tự phê bình bản thân mình
với thời đại hiện nay, với học sinh – sinh viên hiện nay Nội dung
1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
Sau năm 1975, Việt Nam đã chính thức hòa bình, độc lập, thống nhất và cả đất nước đi
lên chủ nghĩa xã hội. Tuy vậy, không chỉ Việt Nam mà hệ thống xã hội chủ nghĩa ở các nước
đã bộc lộ những khó khăn về kinh tế, đặc biệt là với điểm xuất phát thấp của Việt Nam về kinh
tế - xã hội, trình độ.
Đại hội VI của Đảng diễn ra tại Hà Nội từ ngày 15 đến 18-12-1986, trong bối cảnh cuộc
cách mạng khoa học kỹ thuật đang phát triển mạnh, xu thế đối thoại trên thế giới đang dần thay
thế xu thế đối đầu. Đổi mới đã trở thành xu thế của thời đại. Liên Xô và các nước Xã hội chủ
nghĩa đều tiến hành cải tổ xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Trong khi đó, Việt Nam đang bị các
nước đế quốc và thế lực thù địch bao vây, cấm vận, khủng hoảng kinh tế xã hội diễn ra trầm
trọng. Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng khan hiếm, lạm phát tăng lên 774% năm 1986.
Các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật, vượt biên trái phép khá phổ biến. Đổi mới đã trở
thành đòi hỏi bức thiết của đất nước.
Dự Đại hội có 1.129 đại biểu thay mặt gần 1,9 triệu đảng viên trong toàn Đảng. Đến dự
Đại hội có 35 đoàn đại biểu quốc tế. Nguyễn Văn Linh, Uỷ viên Bộ Chính trị đọc Diễn văn
khai mạc. Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng đọc Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng. Võ Văn Kiệt đọc Báo cáo về phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển
kinh tế - xã hội trong năm năm (1986-1990)...
Đại hội nhận định: "Năm năm qua là một đoạn đường đầy thử thách đối với Đảng và
nhân dân ta. Cách mạng nước ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những thuận
lợi cơ bản, nhưng cũng có nhiều khó khăn phức tạp. Thực hiện những nhiệm vụ và mục tiêu do
Đại hội lần thứ V của Đảng đề ra, nhân dân ta anh dũng phấn đấu, khắc phục khó khăn, vượt
qua trở ngại, đã đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã lOMoAR cPSD| 45470709
hội, giành những thắng lợi to lớn trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc
tế". Bên cạnh khẳng định thành tích đã đạt được, Đại hội cũng nhận rõ: "Tình hình kinh tế - xã
hội đang có những khó khăn gay gắt: Sản xuất tăng chậm; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp;
phân phối, lưu thông có nhiều rối ren; những mất cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu
hẹp, có mặt gay gắt hơn; quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố; đời sống nhân
dân lao động còn nhiều khó khăn; hiện tượng tiêu cực xảy ra ở nhiều nơi, và có nơi nghiêm
trọng. Nhìn chung, chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu tổng quát do Đại hội lần thứ V đề
ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân". (1)
Đường lối đổi mới của Đảng trong Đại hội VI đã được thể hiện qua nguyên nhân của
những khó khăn gay gắt trong tình hình kinh tế - xã hội. Đại hội đã thẳng thắng nhìn nhận sự
thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá thành tựu, nghiêm túc kiểm điểm, chỉ rõ
những sai lầm, khuyết điểm của Đảng trong thời kỳ 1975 – 1986. Trong những năm 19761980,
trên thực tế ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá trong khi chưa có đủ các tiền đề cần
thiết; vừa nóng vội, vừa buông lỏng trong công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa; chậm đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế không còn phù hợp. Trong những năm 1981-1985, Đảng chưa cụ thể hoá
đường lối kinh tế trong chặng đường đầu tiên, chưa kiên quyết khắc phục chủ quan, nóng vội
và bảo thủ trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế, lại
phạm sai lầm mới, nghiêm trọng trong lĩnh vực phân phối, lưu thông, đã buông bỏng chuyên
chính vô sản trong quản lý kinh tế, xã hội, trong đấu tranh tư tưởng, văn hoá, trong việc chống
lại những âm mưu, thủ đoạn phá hoại thâm độc của kẻ thù. (1) Do vậy đã dẫn đến nhiều sai
lầm “trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo xã
hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế”. Đại hội thẳng thắn cho rằng: “Những sai lầm nói trên là
những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến
lược và tổ chức thực hiện”, đặc biệt là bệnh chủ quan duy ý chí, lạc hậu về nhận thức lý luận.
(2) Nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và
công tác cán bộ của Đảng.
Từ Đại hội này, Đảng đá dũng cảm bẻ lái con tàu đi lên của đất nước với việc đề ra
đường lối đổi mới: Trước hết là đổi mới tư duy và trọng tâm là đổi mới tư duy kinh tế.
Từ đó Đảng đã rút ra được 4 bài học quý báu
• Thứ nhất, tư tưởng “lấy dân làm gốc” phải được quán triệt trong toàn Đảng.
• Thứ hai, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôntrọng và hành động theo quy luật khách quan
• Thứ ba, cần kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới
• Thứ tư, cần phải chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh đạo
nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Về đường lối đổi mới của Đảng, trước hết là đổi mới cơ cấu kinh tế (cơ cấu công – nông
nghiệp; cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp; ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp;
công nghiệp nặng và kết cấu hạ tầng; cơ cấu kinh tế huyện). Nước ta cũng sẽ thực hiện ba
chương trình kinh tế bao gồm chương trình lương thực, thực phẩm; chương trình hàng tiêu
dùng; chương trình hàng xuất khẩu đồng thời xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế.
Đường lối đổi mới của đất nước đi lên Chủ nghĩa xã hội do đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ 6 của Đảng đề ra đã đi vào cuộc sống và đạt được những thành tựu bước đầu rất quan
trọng. Trong lĩnh vực kinh tế-xã hội, trong việc thực hiện những mục tiêu của 3 chương trình
kinh tế, từ một nước phải nhập khẩu gạo năm 1988, đến năm 1990 nước ta đã đáp ứng được
nhu cầu trong nước, dự trữ vào xuất khẩu, góp phần quan trong vào ổn định đời sống nhân lOMoAR cPSD| 45470709
dân. Kinh tế đối ngoại phát triển mạnh, từ năm 1986 đến năm 1990 hàng xuất khẩu của ta
tăng mạnh, sản xuất tăng thêm các mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn.
Tuy nhiên, hạn chế của Đại hội VI là chưa tìm ra những giải pháp hiệu quả tháo gỡ tình
trạng rối ren trong phân phối, lưu thông.
2. Liên hệ khả năng tự phê bình, đánh giá tới Đảng và Nhà nước sau này
Với nhãn quan chính trị nhạy bén, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhìn thấy nguy cơ của
một đảng cầm quyền là dễ vấp phải những sai lầm, khuyết điểm. Người chỉ ra cụ thể và "bốc"
trúng thang thuốc trị bệnh có hiệu quả là thường xuyên tự phê bình và phê bình trong Ðảng.
Theo Người, phê bình cho đúng là để giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, là vì tình yêu thương
và sự tiến bộ của đồng chí mình.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phải tự phê bình và phê bình vì: làm người khó ai tránh
khỏi lỗi lầm, thiếu sót. Ðảng ta là một tổ chức chính trị tiên phong của giai cấp công nhân, tập
hợp những chiến sĩ trung kiên, thông minh, dũng cảm..., nhưng Ðảng cũng từ trong xã hội mà
ra, không phải "trên trời rơi xuống" nên không tránh khỏi khuyết điểm, thiếu sót. Người chỉ ra
nhiều lý do khách quan, chủ quan dẫn tới thiếu sót, khuyết điểm của cán bộ, đảng viên. Quan
trọng nhất là thái độ trước những lỗi lầm mắc phải. Nếu "sợ mất uy tín và thể diện", không
quyết tâm sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, đó là điều bất bình thường. Người khẳng định: "Một
Ðảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Ðảng hỏng. Một Ðảng có gan thừa nhận
khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh
sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một
Ðảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính".
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, có thái độ đúng với những khuyết điểm, thiếu sót và tìm
ra phương pháp phê bình thích hợp là điểm có ý nghĩa mấu chốt trong nâng cao hiệu quả tự
phê bình và phê bình trong Ðảng. Người cũng nghiêm khắc lên án thái độ, cách xử lý không
đúng đắn trước những khuyết điểm, thiếu sót của tổ chức đảng hay cán bộ, đảng viên. Khi có
người mắc sai lầm, khuyết điểm, thái độ đúng của cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng là không
"đao to búa lớn", vội vàng chụp mũ cho họ là "cơ hội chủ nghĩa" rồi đi đến cảnh cáo, khai trừ
một cách áp đặt. Muốn cho họ thành tâm sửa chữa, phải tiến hành giải thích rõ ràng, làm cho
họ tự nhận thấy sai sót của mình để vui lòng sửa chữa. Ðể làm được điều đó, "phải biết cách
phê bình sáng suốt, khôn khéo, như chiếu tấm gương cho mọi người soi thấu những khuyết
điểm của mình, để tự mình sửa chữa".
Muốn sửa chữa sai lầm khuyết điểm để tiến bộ thì phải dựa vào lòng tự giác của đảng
viên, cán bộ và dùng biện pháp giải thích, thuyết phục. Ðiều đó là hết sức cần thiết nhưng như
thế không có nghĩa là không giải quyết bằng con đường tổ chức. Người chỉ ra lỗi lầm cũng có
"việc nhỏ, việc to", nếu không dùng biện pháp xử phạt thì kỷ luật của Ðảng cũng trở nên lỏng
lẻo, và điều đó cũng là sự mở đường cho bọn cố ý dễ dàng phá hoại Ðảng. Do vậy, để tự phê
bình và phê bình tăng thêm tính hiệu quả, cần kết hợp chặt chẽ với biện pháp tổ chức, soi xét
kỹ lưỡng từng trường hợp để có hình thức xử lý thích hợp.
Tại Hội nghị Trung ương 4, khóa XII, Đảng đã nghiêm túc nhìn nhận sau nhiều năm
thực hiện các nghị quyết về chỉnh đốn Đảng, cùng với những kết quả đạt được, tình trạng suy
thoái trong Đảng chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, thậm chí có dấu hiệu cho thấy còn phức tạp
hơn. Một phần quan trọng là do nhiều tổ chức, cá nhân thực hiện không nghiêm nguyên tắc tự
phê bình và phê bình. Nói như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, thì đây là khâu mấu chốt nhất
nhưng cũng có nhiều khó khăn nhất.
Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII chỉ rõ: “Tự phê bình và phê bình nhiều nơi mang
tính hình thức; vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm; một số cán bộ, đảng viên lOMoAR cPSD| 45470709
thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao”. Nhận diện
những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, nghị quyết cũng nêu: “Trong tự phê bình còn
giấu giếm, không dám nhận khuyết điểm; khi có khuyết điểm thì thiếu thành khẩn, không tự
giác nhận kỷ luật. Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ,
thấy sai không đấu tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ,
chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng”.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh cần tiếp tục đổi mới phương thức lãnh
đạo, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thông suốt, kịp thời, đúng đắn của cấp ủy, tổ chức đảng các
cấp, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức, cơ quan trong hệ thống chính
trị. Để thực hiện quan điểm chỉ đạo này, mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng cần tiếp tục
thực hiện nghiêm nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng. Chủ tịch Hồ Chí
Minh căn dặn: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê
bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng” (3).
Tuy nhiên, công tác tự phê bình và phê bình ở các tổ chức cơ sở đảng trên thực tế hiện
nay còn nhiều bất cập, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đánh giá:
“Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức đảng còn thấp”(4)… “Tự phê bình và
phê bình ở không ít nơi còn hình thức; tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm còn diễn ra ở
nhiều nơi; một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của
mình đối với nhiệm vụ được giao”(5). Thực trạng đó có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là
do một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác,
giảm sút ý chí, thoái hóa phẩm chất, đạo đức, lối sống; nhiều cấp ủy đảng và cán bộ, đảng viên
chưa nhận thức đúng đắn và đầy đủ về tự phê bình và phê bình; tính chiến đấu kém, còn biểu
hiện ngại va chạm, né tránh, cơ hội hữu khuynh trong tự phê bình và phê bình.
Cá biệt một số cán bộ, đảng viên lợi dụng quyền lực, địa vị, dẫn đến tiêu cực, tham
nhũng, lãng phí, gây mất đoàn kết nội bộ, làm suy giảm và ảnh hưởng nghiêm trọng tới năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu ở các tổ chức đảng. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII của Đảng khẳng định: “Công tác rèn luyện, quản lý đảng viên ở một số nơi chưa được
quan tâm đúng mức, còn thiếu chặt chẽ; có nơi còn buông lỏng sinh hoạt đảng, chất lượng sinh
hoạt chưa cao, sinh hoạt chi bộ ở nhiều nơi vẫn còn hình thức; tính chiến đấu trong tự phê bình
và phê bình còn yếu. Một số tổ chức cơ sở đảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức chưa gương mẫu”(6).
Vì vậy, để nâng cao chất lượng công tác tự phê bình và phê bình, cần thực hiện tốt một số nội dung sau:
Một là, tiếp tục giáo dục nâng cao kiến thức toàn diện cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Tự phê bình và phê bình là hoạt động mang tính trí tuệ, nội dung phê bình toàn diện, tính chất
khó khăn và phức tạp. Do đó, cần thường xuyên giáo dục nâng cao nhận thức để cán bộ, đảng
viên hiểu rõ mục đích, nội dung, phương pháp, vai trò, tác dụng to lớn và những yêu cầu cơ
bản trong tự phê bình và phê bình… Tăng cường giáo dục, bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho
cán bộ, đảng viên về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, nhiệm vụ chính trị trung tâm của các tổ chức đảng. Qua đó,
giúp cho mọi người có thế giới quan, nhân sinh quan cộng sản để xem xét, phân tích tình hình,
nhạy bén về chính trị, xử lý đúng các tình huống đặt ra.
Hai là, mở rộng dân chủ, thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt của
các tổ chức đảng. Thường xuyên mở rộng dân chủ trong sinh hoạt đảng là biện pháp quan trọng
nhằm đảm bảo mọi đảng viên phát huy trí tuệ và thực hiện đầy đủ quyền, trách nhiệm trong
bày tỏ chính kiến, quan điểm của mình đối với hoạt động lãnh đạo của Đảng. Mặt khác, tạo ra
được môi trường, bầu không khí cởi mở, bình đẳng để mọi đảng viên nói rõ tâm tư, nhận thức, lOMoAR cPSD| 45470709
quan điểm trong tự đánh giá, nhận xét về bản thân; đánh giá, nhận xét, phê bình tổ chức đảng
và đồng chí mình mà không bị bất kỳ áp lực nào cản trở. Vì vậy, mở rộng dân chủ trong sinh
hoạt đảng là động lực thúc đẩy và nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình trong nội bộ
đảng nói chung và các tổ chức đảng nói riêng.
Để mở rộng dân chủ trong sinh hoạt đảng đạt hiệu quả cao, cần gắn với việc thực hiện nghiêm
túc nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách và tự chịu
trách nhiệm. Mở rộng dân chủ trong tự phê bình và phê bình còn liên quan trực tiếp đến chất
lượng sinh hoạt của các tổ chức cơ sở đảng. Bởi vì, nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng là tạo
điều kiện thuận lợi nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình. Do đó, phải nâng cao vai trò
lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu bảo đảm cho tổ chức đảng và đảng viên sau mỗi lần sinh
hoạt đảng trưởng thành hơn về năng lực lãnh đạo, về nhận thức tư tưởng, tinh thần đoàn kết
thống nhất ý chí và hành động, ý thức đấu tranh phê phán những sai trái và biểu hiện tiêu cực
trong mỗi cơ quan, đơn vị.
Ba là, phát huy vai trò trách nhiệm của cấp ủy nhằm nâng cao chất lượng tự phê bình
và phê bình. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy có vai trò quan trọng đến chất lượng tự phê bình
và phê bình. Việc kiểm điểm, đánh giá ưu điểm, khuyết điểm chỉ ra nguyên nhân và phát huy
ưu điểm, khắc phục hạn chế trong công tác lãnh đạo có ý nghĩa rất quan trọng đến chất lượng
hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị. Sự nghiêm túc tự phê bình và phê bình của cấp ủy
là động lực cho cán bộ, đảng viên, quần chúng trong đơn vị có niềm tin và tự giác thực hiện.
Các cấp ủy cần lãnh đạo, chỉ đạo công tác tự phê bình và phê bình một cách chặt chẽ, quán triệt
và tổ chức thực hiện trong tự phê bình phải có động cơ trong sáng, tình thương yêu đồng chí,
đồng đội. Tự phê bình và phê bình đều phải xuất phát từ cái tâm, cái lý, cái tình trong sáng,
tuyệt đối không lợi dụng phê bình để đả kích, nói xấu nhằm loại bỏ, hạ bệ lẫn nhau. Trong phê
bình phải có thái độ trung thực, tôn trọng sự thật, lẽ phải
Bốn là, phát huy tốt vai trò của quần chúng trong đơn vị tham gia phê bình tổ chức đảng
và cán bộ, đảng viên; đồng thời phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Là nơi
trực tiếp lãnh đạo, quan hệ gắn bó với quần chúng, mọi hoạt động của tổ chức đảng đều được
quần chúng nắm bắt, giám sát. Vì vậy, thực hiện tự phê bình và phê bình ở tổ chức cơ sở đảng
vừa phải mở rộng dân chủ, vừa phải phát huy dân chủ trong quần chúng; cán bộ, đảng viên và
tổ chức cơ sở đảng cần lắng nghe ý kiến của quần chúng và xem đây là kênh phản biện quan
trọng để tổ chức cơ sở đảng và cán bộ, đảng viên đẩy mạnh thực hiện nguyên tắc tự phê bình
và phê bình. Để phát huy vai trò của quần chúng, các cấp ủy đảng cần quan tâm xây dựng và
tạo điều kiện thuận lợi để phát huy trách nhiệm trong tham gia phê bình, tham gia xây dựng
Đảng, coi đó vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ của mình. Đồng thời, để tự phê bình và phê bình
tốt phải có sự chuẩn bị chu đáo, có tổ chức lãnh đạo chặt chẽ và cán bộ chủ trì phải xung phong,
gương mẫu, đi đầu trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Năm là, tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Hội
nghị Trung ương lần thứ tư khóa XII.
3. Liên hệ tới sự tự phê bình, đánh giá của bản thân sinh viên
Giới trẻ, sinh viên là những cá nhân luôn mong muốn được thể hiện mình trên con
đường sống và phát triển, điều này được thể hiện qua cách họ tự đánh giá bản thân. Tuy vậy
không phải ai cũng có thể đánh giá công tâm chính xác. Nhiều người coi mình là “trung tâm”
của mọi chuyện, thành ra rất cảm tính khi đánh giá về mình mà thiếu tương tác với những đối
tượng khác xung quanh. Có người thì khoe khoang, chỉ có chút ít khả năng mà đã đem đi khoe
đây khoe đó, cho rằng minh hơn người, không ngại thể hiện bằng bất cứ hành động, lời nói, cử
chỉ nào. Có người thì tị ti, mặc cảm về bản thân, do đó thường thể hiện thái quá để chứng tỏ lOMoAR cPSD| 45470709
mình không thua kém mọi người. Ấy là nguyên nhân mà một bộ phận giới trẻ thể hiện sai những gì mình có.
Việc tự đánh giá, phê bình bản thân có vai trò thiết yếu đến quá trình phát triển nhân
cách của con người, đặc biệt là những bạn đang có mong muốn làm Đảng viên, những người
mang trách nhiệm chèo lái con tàu đất nước trong tương lai. Kết quả học tập của học sinh sinh
viên bị ảnh hưởng nhiều bởi việc tự đánh giá bản thân, bởi, họ chỉ có thể đạt kết quả cao khi
hiểu biết rõ về mình, tự đánh giá được năng lực của bản thân, từ đó đặt ra khoảng cách tới “hình
mẫu lý tưởng” để mà phấn đấu và học hỏi.
Việc tự đánh giá bản thân bị ảnh hưởng một phần từ môi trường xung quanh. Con người
nhận biết được bản thân mình thông qua người khác, đó là qua quá trình giao tiếp và nhìn nhận
thái độ người khác. Ngoài ra, sự chăm sóc, quan tâm từ người thân trong gia đình cũng ít nhiều
ảnh hưởng đến cách nhìn nhận giá trị của bản thân. Hay là chính tình trạng sức khỏe cũng một
phần gây ảnh hưởng, nếu mà cảm thấy bất an, lo sợ hay ốm yếu thì khó có thể đánh giá tích
cực về bản thân. Còn nếu ta luôn cảm thấy lạc quan, tràn đầy sức sống thì khả năng cao sẽ nhìn
nhận bản thân tích cực hơn.
Sau đây là một vài biện pháp giúp giới trẻ nâng cao khả năng đánh giá phê bình bản thân
Thứ nhất, cần phải điều chỉnh bản thân trong mối quan hệ với gia đình. Con người là
sinh vật sống theo hình thái xã hội, và mối quan hệ máu mủ ruột thịt là mối quan hệ quan trọng
bậc nhất, được gắn kết với nhau bởi huyết thống và tính trách nhiệm giữa họ được đặt lên hàng đầu.
Thứ hai, tích cực xây dựng các mối quan hệ xã hội. Con người vốn thích được hưởng
cuộc sống an toàn, yên ồn, tiện nghỉ, đồng thời luôn tìm cách lảng tránh những điều phiền toái
khiến họ không thoải mái. hài lòng. Nhiều kết quả nghiên cứu đã chứng minh rằng có nhiều
người rất sợ phát biểu trước đám đông, từ đó có thể suy ra rằng một trong những việc khó khăn
nhất mà họ phải làm là gặp gỡ và làm quen với những người hoàn toàn xa lạ. Trong quá trình
xây dựng các mối quan hệ, đặc biệt là trong môi trường học đường, bước đầu tiên các bạn phải
tìm được cho mình “nhóm hỗ trợ”. Trong quá trình học tập ở trường, các bạn nên xây đắp các
mối quan hệ với bạn bẻ trong lớp học, những bạn bè sống xung quanh mình, mối quan hệ với
thầy cô giáo... và dựa vào sức mạnh tập thể. Hãy tìm ra những người cởi mở, thân thiện nhất
để làm quen và khéo léo hòa nhập vào nhóm bạn.
Thứ ba, cảm nhận tích cực về bản thân. Ngoại hình của chúng ta do nhiều yếu tổ quyết
định, trong đó có gien, dình dưỡng, luyện tập và nhiều yếu tố khác... Chính vì thế,các bạn nên
tham gia tập thể dục, chơi thể thao để giúp nâng cao sức khỏe và vẻ đẹp của bản thân. Điều
quan trọng nhất là tập đúng cách và lựa chọn hình thức tập thể dục, lựa chọn môn thể thao yêu
thích để các bạn có thể duy trì lâu dài việc luyện tập và luyện tập có hiệu quả. Điều đó sẽ giúp
các bạn cải thiện sự tự tin của mình. Các bạn cũng nên có những nhận xét tích cực và tránh
những nhận xét tiêu cực về cơ thể mình, tập trung vào những điều mà bạn thấy thích về bản
thân mình, lập mục tiêu để cải thiện những điều mà bạn kiểm soát được (nhưng không chú
trọng vào những thiếu sót của bạn đến nỗi ám ảnh về nó). Đồng thời, hãy lắng nghe cơ thể bạn.
Tôn trọng bản thân mình cũng có nghĩa các bạn nên tôn trọng những người khác xung quanh mình
Thứ tư, cải thiện khả năng tập trung của bản thân. Sự thiếu tập trung có thể tác động lớn
đến sự thành công và kết quả học tập, cũng như là kết quá tốt nghiệp của các bạn SV. Bên cạnh
đó, nó còn ảnh hưởng tới các hoạt động giao tiếp xã hội; cũng như sự thiếu tập trung có thể gây
khó khăn khi các bạn thể hiện bản thân và sẽ ngăn cán bạn phát huy tiềm lực cũng như đạt được
những,thành công trong tương lai. lOMoAR cPSD| 45470709
Hầu hết các bạn SV trong trường còn thiếu phương pháp, kỹ năng học tập, do đó, họ cần được
trang bị những kỹ thuật giúp bản thân điều khiển bộ não hoạt động hiệu quả hơn, giúp bản thân
tập trung tốt hơn khi bắt đầu có hiện tượng phân tán tư tưởng. Đó là những giải pháp lâu dài
cần phải được rèn luyện qua thời gian như: Rèn luyện trí não và Trang bị kỹ năng học tập.
Các bạn sinh viên có thể rèn luyện trí não bằng các hoạt động như tập thể dục và có chế độ ăn
uống đẩy đủ, Ngoài tập thẻ dục, chơi thể thao để có một cơ thể khỏe mạnh, một tỉnh thần minh
mẫn thì dinh dưỡng cũng là yếu tố rất quan trọng để nuôi một cơ thể cũng như bộ não khỏe mạnh
Thứ năm, rèn luyện kỹ năng nhận thức cảm xúc bản thân. Các bạn nên quan sát cách
bản thân mình phản ứng với mọi người, tự đánh giá về những ưu khuyết điểm của bản thân.
Hãy xem cách bạn phản ứng với các tình huồng cẳng thắng và hãy chịu trách nhiệm về hành động của bản thân
Thứ sáu, định hướng ước mơ cho bản thân. Việc thực hiện ước mơ là một quá trình dài, không
thể nóng vội. Tuy vậy cần định hướng được ươc mơ là đúng hay sai, đánh giá quỹ thời gian của
mình, phải có con đường hoạch định sẵn và luôn sẵn sàng đứng dậy sau khi vấp ngã. Kết luận
Đất nước Việt Nam đã tồn tại và phát triển qua hàng ngàn năm lịch sử, phần lớn trong
đó là do ông cha ta đã có những nhận định đúng đắn về bản thân, từ đó có những chiến lược,
quốc sách đúng đắn để dẫn dắt đất nước. Đảng ta đã có những bước thành công trên con đường
tự phê bình theo lời chỉ dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt là ở Đại hội VI khi đất nước
còn đang trong qua trình đổi mới và phát triển. Nhờ đó mà Việt Nam mới đứng vững và hưng
thịnh trong thời gian ngắn hơn nhiều so với các quốc gia khác hậu chiến tranh, tất cả là nhờ
vào những chính sách đúng đắn và sự nhận thức kịp thời của Đảng. Trong thời đại mới với bao
cam go mới, những sinh viên trẻ cần trang bị bộ tri thức đủ nhiều để đánh giá được vị trí của
bản thân, từ đó hoạch định được con đường tương lai phía trước, đưa nước ta sánh vai với cương quốc năm châu.
Tài liệu tham khảo (1)
https://daihoi13.dangcongsan.vn/cac-ky-dai-hoi/tu-dai-hoi-den-dai-hoi/dai-hoi-dai- bieutoan-quoc-lan-thu-vi-250 (2)
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản VIệt Nam (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị) (3)
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.622.
(4),(6) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb
CTQG-ST, H.2021, tr.91, tr.91-92.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb
CTQG-ST, H.2021, tr.179, tr.187-188.