lOMoARcPSD| 61526682
CHỦ ĐỀ 2: NHẬN THỨC VÀ HỌC TẬP
2.1 . Dạy học và sự phát triển nhận thức của học sinh
2.1.1. Khái niệm nhận thức
2.1.1.1. Định nghĩa nhận thức
Nhận thức một trong ba mặt hoạt động tâm bản của nhân: Nhận thức
Thái độ - Hành động. Trong quá trình hoạt động, con người phải phản ánh được
đối tượng và môi trường xung quanh, tức là phải nhận thức.
Nhận thức hoạt động tâm lí của nhân, tác động đến đối tượng, qua đó
hình thành trong đầu óc chủ thể các cảm giác, hình ảnh, biểu tượng hay khái niệm
về đối tượng. Nói ngắn gọn, nhận thức là hoạt động giúp chủ thể nhận ra và sáng tỏ
về bản chất, quan hệ và quy luật vận động của đối tượng để từ đó có thái độ và hành
động đúng đắn; quá trình chủ thể sử dụng các hành động, các giác quan, các thao
tác tóc để làm sáng tỏ đối tượng, tạo ra các cảm giác, hình ảnh, biểu tượng, khái
niệm về đối tượng đó.
Hoạt động nhận thức của nhân được xem xét theo hai góc độ: Các quá trình
nhận thức và sự phát triển các cấu trúc nhận thức.
2.1.1.2. Các quá trình nhận thức
Hoạt động nhận thức bao gồm nhiều qtrình phản ánh đối tượng với nhiều
mức độ khác nhau. Mức thấp là chủ thể sử dụng các giác quan (mắt - thị giác, mũi -
khứu giác, tai - thính giác, da - xúc giác, lưỡi - vị giác) tác động lên chủ thể và chuyển
vào hệ thần kinh để tạo ra các hình ảnh, các biểu tượng cảm tính về đối tượng - mức
nhận thức cảm tính. Mức độ cao là nhận thức tính, tức là sự tác động gián tiếp
của chủ thể lên đối tượng, thông qua các hình ảnh, các biểu tượng cảm tính đtạo ra
các khái niệm, phản ánh bản chất, các mối liên hệ phổ biến quy luật vận động của
đối tượng.Để có các khái niệm về đối tượng, chủ thể phải tiến hành các thao tác tư
duy, tưởng tượng. a) Nhận thức cảm tính
Nhận thức cảm tính mức thấp của hoạt động nhận thức, bao gồm hai hoạt
động rất khó tách bạch nhau trong thực tiễn: cảm giác và tri giác.
Cảm giác
lOMoARcPSD| 61526682
Cảm giác là mức khởi đầu của một hoạt động nhận thức của cá nhân, là sự
tiếp xúc ban đầu của từng giác quan đến đối tượng nhận thức. Kết quả là tạo ra các
cảm giác riêng về màu sắc, hình dáng, mùi vị, âm thanh v.v của đối tượng. Trong
nhận thức, mỗi giác quan chức năng đặc thù, không thay thế được bởi các giác
quan khác, giống như các cửa vào của một tòa nhà: Thị giác tiếp nhận ánh sáng, tạo
ra hình dáng của đối tượng,Thính giác tiếp nhận âm thanh, Khứu giác tiếp nhận mùi
của đối tượng, Xúc giác tiếp nhận lực tác động của đối tượng,Vgiác tiếp nhận vị
của đối tượng. Cảm giác tuy chưa tạo ra cho chủ thể một hình ảnh trọn vẹn về đối
tượng nhưng cung cấp cho chủ thể các “vật liệu” nhận thức về đối tượng, nên cảm
giác ý nghĩa quyết định đến toàn bộ quá trình và chất lượng nhận thức của chủ
thể.
Ở cá nhân nếu một giác quan nào đó bị khuyết hoặc bị kém thì kênh thông tin
ban đầu về đối tượng sẽ bị khiếm khuyết, việc nhận thức đối tượng sẽ không trọn
vẹn.Trong những trường hợp như vậy, chủ thể phải có sự đắp của các giác quan
khác. Ngược lại, nếu một giác quan nào đó phát triển tốt, sở để hình thành
phát triển năng khiếu, tài năng (tài năng âm nhạc – sự phát triển của thính giác, năng
khiếu hội hóa - thị giác; năng khiếu múa,vận động – các cơ quan vận động) v.v. Do
đó, trong dạy học, việc bảo vệ, duy trì, phát hiện, phát triển luyện tập cách sử
dụng các giác quan của học là rất quan trọng.
Tri giác
Tri giác là mức độ nhận thức cao hơn cảm giác, đó sự kết hợp các giác quan
trong hoạt động nhận thức, nhờ đó tạo ra phức hợp các cảm giác, hình thành chủ
thể hình ảnh trọn vẹn vdáng vẻ của đối tượng. Chẳng hạn, một em lần đầu
tiên được tiếp xúc với quả cam, nếu chỉ nhìn thoáng qua bằng mắt, em bé sẽ có cảm
giác về màu sắc của nó; nếu nhắm mắt và để quả cảm trên tay, em có cảm giác về độ
nặng của nó... nhưng kết hợp với nhìn, ăn, ngửi.. thì em bé sẽ có hình ảnh tri giác về
quả cam.
Trong nhận thức cảm tính, để được các cảm giác, chỉ cần sự tương tác
giữa các giác quan với đối tượng, nhưng để có hình ảnh trọn vẹn về đối tượng (hình
lOMoARcPSD| 61526682
ảnh tri giác) thì không chỉ các giác quan còn phải stham gia của kinh
nghiệm, ngôn ngữ và tư duy.
* Các quy luật của nhận thức cảm tính
Nhận thức cảm tính hoạt động theo một số quy luật nhất định:
- Quy luật của cảm giác:
+ Quy luật ngưỡng cảm giác
Muốn cảm giác thì phải kích thích tác động vào các giác quan kích
thích đó phải đạt tới một giới hạn nhất định. Giới hạn đó kích thích gây ra được
cảm giác gọi ngưỡng cảm giác. Cảm giác hai ngưỡng: ngưỡng cảm giác phía
dưới ngưỡng cảm giác phía trên. Ngưỡng cảm giác phía dưới một cường độ
kích thích tối thiểu đủ để gây ra cảm giác. Khả năng cảm nhận được kích thích này
gọi là độ nhạy cảm của cảm giác. Ngưỡng cảm giác phía trên là cường độ ch thích
tối đa mà đó vẫn còn y được cảm giác. Phạm vi giữa ngưỡng dưới ngưỡng
trên gọi vùng cảm giác được. Trong đó một vùng phản ánh tốt nhất. Chẳng hạn:
Cram giấc nghe với song âm thanh từ 16Hz - 2 vạn Hz thì nghe được, trong đó vùng
phản ánh tốt nhất 1000Hz. Cảm giác còn phản ánh sự khác nhau giữa các kích
thích, nhưng kích thích phải tỉ lệ chênh lệch tối thiểu về cường độ hay tính chất
thì ta mới cảm thấy có sự khác nhau giữa hai kích thích, Đó gọingưỡng sai biệt:
+ Quy luật thích ứng của cảm giác
Thích ứng là khả năng thay đổi độ nhạy cảm của cảm giác cho phù hợp với sự
thay đổi của cường độ kích thích. Sự thích ứng diễn ra theo quy luật sau: Cường độ
kích thích tăng thì độ nhạy cảm giảm; cường độ kích thích giảm thì độ nhạy cảm
tăng. Quy luật thích ứng ở tất cả các loại cảm giác, nhưng mức độ thích ứng khác
nhau. loại cảm giác thích ứng nhanh như cảm giác nhìn, cảm giác ngửi, nhưng
loại cảm giác chậm thích ứng như cảm giác nghe, cảm giác đau. Khả năng thích
ứng của cảm giác thể thay đổi phát triển do rèn luyện tính chất nghề nghiệp.
+ Quy luật về sự tác động qua lại giữa các cảm giác
Các cảm giác của con người không tồn tại một cách biệt lập, tách rời mà luôn
tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động ấy diễn ra theo quy luật: Sự kích thích yếu lên
lOMoARcPSD| 61526682
một cơ quan phân tích này sẽ làm tăng độ nhạy cảm của một cơ quan phân tích kia;
một kích thích mạnh lên một cơ quan phân tích này sẽ làm độ nhạy cảm của một cơ
quan phân tích kia. Sự tác động lẫn nhau giữa các cảm giác có thể diễn ra đồng thời
hay nối tiếp trên những cảm giác cùng loại hay khác loại. Sự thay đổi của một kích
thích cùng loại xảy ra trước đó hay đồng thời gọi sự tương phản trong cảm giác.
Có hai loại tương phản: tương phản nối tiếp và tương phản đồng thời.
- Quy luật của tri giác:
Hoạt động tri giác của nhân nhiều quy luật được ứng dụng rộng rãi trong
dạy học. Dưới đây là một số quy luật phổ biến:
+ Quy luật về tính đối tượng của tri giác
Tri giác bao giờ cũng phải có đối tượng để phản ánh. Hình ảnh trực quan mà
tri giác đem lại bao giờ cũng thuộc về một sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài.
Hình ảnh của tri giác phản ánh chính đặc điểm, tính chất của đối tượng con người
tri giác. Nhờ mang tính đối tượng hình ảnh của tri giác sở định hướng
điều chỉnh hành vi, hoạt động của con người cho phù hợp với thế giới khách quan.
+ Quy luật về tính ý nghĩa của tri giác
Khi tri giác, chúng ta không chỉ tạo ra được những hình ảnh trọn vẹn vsự
vật, hiện tượng mà còn có thể chỉ ra được ý nghĩa của sự vật, hiện tượng đó. Tức là
chủ thể tri giác có thể gọi tên, phân loại, biết được công dụng của sự vật, hiện tượng
khái quát nó trong một từ xác định. Tính ý nghĩa của tri giác gắn liền với tính trọn
vẹn. Tri giác càng đầy đủ các thuộc tính bản bề ngoài của đối tượng thì gọi tên
đối tượng càng chính xác.
+ Quy luật về tính lựa chọn của tri giác
Tri giác của con người không thể đồng thời phản ánh các sự vật, hiện tượng
đa dạng tác động mà chỉ lựa chọn một vài sự vật trong vô àn các sự vật, hiện tượng
đang tác động là đối tượng tri giác, còn các sự vật, hiện tượng khác được coi là bối
cảnh. Khả năng tách đối tượng ra khỏi bối cảnh xung quanh để phản ánh đối tượng
đó một cách hiệu quả hơn nói lên tính lựa chọn của tri giác. Tính lựa chọn của tri
giác phụ thuộc vào:
lOMoARcPSD| 61526682
Mục đích cá nhân. Do đó sự lựa chọn của tri giác không có tính cố định, vai
trò của đối tượng và bối cảnh thể thay đổi cho nahu tùy thuộc vào mục đích
nhân và điều kiện xung quanh khi tri giác. Một vật lúc này là đối tượng, lúc khác
thể là bối cảnh và ngược lại.
Đối ợng tri giác: Đối tượng càng nổi bật, sinh động, càng sự khác biệt lớn
với bối cảnh thì tri giác càng dễ dàng, đầy đủ. Ngược lại, đối tượng ít có skhác biệt
lớn với bối cảnh, thậm chí hòa lẫn với bối cảnh thì tri giác đối tượng sẽ khó khăn.
Điều kiện quan sát: khoảng cách, ánh sáng, ... Hứng thú, kinh nghiệm, kiến
thức.
+ Quy luật tính ổn định của tri giác
Điều kiện tri giác một sự vật, hiện tượng nào đó thể thay đổi (vị trí trong
không gian, khoảng cách, độ chiếu sáng, ...) song chúng ta vẫn tri giác được sự việc,
hiện tượng đó như sự vật, hiện tượng ổn định về hình dạng kích thước, màu sắc,
... Hiện tượng này nói lên tính ổn định của tri giác. Tính ổn định của tri giác, khả
năng phản ánh sự vật, hiện tượng không thay đổi khi điều kiện tri giác thay đổi. Tính
ổn định của tri giác phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
Do bản thân sự vật, hiện tượng có cấu trúc tương đối ổn định trong thời gian,
thời điểm nhất định.
Chủ yếu do chế tự điều chỉnh của hệ thần kinh cũng như vốn kinh nghiệm
của con người về đối tượng.
Tính ổn định của tri giác không phải là cái bẩm sinh mà nó được hình thành
trong đời sống thể, điều kiện cần thiết của hoạt động thực tiễn của con
người.
+ Quy luật tổng giác
Ngoài tính chất, đặc điểm của vật kích thích tác động vào các giác quan khi tri
giác, trong quá trình tri giác còn có sự tham gia của vốn kinh nghiệm, duy, nhu
cầu, hứng thú, động cơ, tình cảm, ... Nghĩa là sự tham gia của toàn bộ nhân cách. Sự
tham gia của toàn bộ nhân cách vào trong qtrình tri giác gọi hiện tượng tổng
giác.
lOMoARcPSD| 61526682
+ Quy luật ảo giác
Trong một số trường hợp, với điều kiện thực tế xác định, tri giác thể
khkoong cho ta hình ảnh đúng về sự vật, hiện tượng. Hiện tượng này gọi ảo thị
hay gọi tắt ảo giác. Ảo giác tri giác không đúng, bị sai lệch về sự vật, hiện tượng
được tri giác.
b) Nhận thức lí tính
Nhận thức cảm tính, mức tốt nhất cũng chỉ cung cấp cho nhân các hình ảnh trực
quan về các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan, chỉ mới cung cấp cho
nhân các vật liệu để nhận thức đối tượng nào đó; bản thân các hoạt động nhận thức
cảm tính chưa phản ánh được bản chất của đối tượng. Muốn nhận thức được đối
tượng, nhân phải tiến hành các thao tác nhận thức bậc cao để phân tích cấu trúc
lại các hình ảnh do nhận thức cảm tính mang lại, làm bộc lộ bản chất các mối
quan hệ phổ biến của đối tượng, tức phải tiến hành các hoạt động nhận thức tính.
Nhận thức tính mức cao của hoạt động nhận thức, bao gồm hai hoạt động:
duy và tưởng tượng.
* Tư duy
- duy là hoạt động tâm của chủ thể, quá trình chủ thể tiến hành
các thao tác tóc như phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát
hóa, ... để xử các hình ảnh, các biểu tượng, hay các khái niệm đã về đối
tượng, làm sáng tỏ bản chất, mối quan hệ phổ biến và quy luật vận động của đối
tượng. Sản phẩm của hoạt động tư duy là các khái niệm về đối tượng.
- Các thao tác tư duy
+ Phân tích: quá trình chủ thể duy dùng trí óc để phân chia đối tượng
nhận thức thành các bộ phận, các thuộc tính, các thành phần khác nhau để nhận thức
đối tượng sâu sắc hơn.
+ Tổng hợp: Là thao tác dùng trí óc để hợp nhất các thành phần đã được phân
tích thành một chỉnh thể để giúp ta nhận thức đối tượng khái quát hơn.
lOMoARcPSD| 61526682
Phân tích và tổng hợp là hai thao tác cơ bản của quá trình tư duy. Hai thao tác
này quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau trong một quá trình duy
thống nhất. Phân tích sở của tổng hợp; tổng hợp được thực hiện theo kết quả
của phân tích.
+ So sánh: Là quá trình chủ thể tư duy dùng trí óc để xác định sự giống nhau
hay khác nhau, sự đồng nhất hay không đồng nhất, sự bằng nhau hay không bằng
nhau giữa các đối tượng nhận thức.
So sánh có quan hệ chặt chẽ và dựa trên cơ sở phân tích, tổng hợp. Càng phân tích,
tổng hợp sâu sắc bao nhiêu thì so sánh càng đầy đủ, chính xác bấy nhiêu.
+ Trưu tượng hóa và khái quát hóa:
Trừu tượng hóa là quá trình chủ thể tư duy dùng trí óc để gạt bỏ những thuộc
tính, những bộ phận, những quan hệ thứ yếu, không cần thiết xét về một
phương diện nào đó, chỉ giữ lại những yếu tố cần thiết để tư duy.
Khái quát hóa là thao tác trí tuệ dùng để bao quát nhiều đối tượng khác nhau
thành một nhóm, một loại trên sở những thuộc tính chung, bản chất, những
mối quan hệ có tính quy luật. Kết quả của quá trình khái quát hóa cho ta một
cái chung nhất cho hàng loạt sự vật, hiện tượng cùng loại.
Trừu tượng hóa khái quát hóa hai thao tác bản, đặc trưng của con người.
Hai thao tác này có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung cho nhau. Khái quát hóa trên
sở trừu tượng hóa. Trừu tượng hóa càng cao thì khái quát hóa càng chính xác.
- Các loại tư duy:
+ Xét về phương diện hình thành và phát triển của tư duy, có tư duy trực quan
hành động: loại tư duy bằng các thao tác cụ thể chân tay, hướng vào việc giải quyết
một số tình huống cụ thể, trực quan; tư duy trực quan hình tượng: là loại tư duy dựa
vào các hình ảnh trong kinh nghiệm đã có để giải quyết nhiệm vụ mới.
Loại tư duy này ra đời muộn hơn tư duy trực quan hành động; tư duy trừu tượng (tư
duy ngôn ngữ, duy logic). Đây loại duy phát triển mức độ cao chỉ
người. duy trừu tượng dựa trên các khái niệm, các mối quan hệ lôgic. Loại tư duy
này gắn bó trực tiếp với hoạt động ngôn ngữ, lấy ngôn ngữ làm công cụ
lOMoARcPSD| 61526682
phương tiện để tư duy.
+ Dựa vào hình thức biểu hiện và phương thức giải quyết vấn đề, thể chia
tư duy thành ba loại: tư duy thực hành; tư duy hình ảnh; tư duy lí luận.
+ Xét về mức độ sáng tạo của tư duy, chia thành hai loại: tư duy angôrít hoặc
tư duy ơrixtic.
- Các quy luật của tư duy:
+ Quy luật nảy sinh tư duy: Tư duy chỉ nảy sinh trong hoành cảnh có vấn đề,
tức tư duy bao giờ cũng nhằm giải quyết một bài toán nhận thức trong đó cần phải
phát hiện ra cái chưa biết và cần biết ẩn chứa đằng sau các hình ảnh, biểu tượng, các
kinh nghiệm đã có, mà khi sử dụng các kinh nghiệm cũ không giải quyết được.
+ Quy luật thao tác tư duy: duy chỉ được tiến hành khi chthể sdụng các
phương tiện nhận thức, qua đó gián tiếp phản ánh đối tượng. Các thao tác duy phổ
biến là: phân tích - tổng hợp; so sánh, trừu tượng hóa - khái quát hóa, cụ thể hóa.
Quy luật về các giai đoạn duy: (1) Tư duy bắt đầu từ khâu đầu tiên xác định
vấn đề biểu đạt vấn đề; (2) Huy động các tri thức, kinh nghiệm đã có; (3) Sàng
lọc các liên tưởng hình thành giả thuyết; (4) Kiểm tra giả thuyết. Kết quả việc
kiểm tra giả thuyết dẫn đến khẳng định hoặc phủ định hoặc chính xác hóa giả thuyết
đã nêu; (5) Giải quyết nhiệm vụ, tư duy khi giả thuyết được chứng minh.
* Tưởng tượng
- Tưởng tượng hoạt động tâm của chủ thể, là quá trình chủ thể tiến
hành các thao tác tri óc như chắp ghép, liên kết, nhấn mạnh, loại suy, mô phỏng,
... để xử lí các hình ảnh, các biểu tượng hay các khái niệm đã có về đối tượng để
làm sáng tỏ bản chất, mối quan hệ phổ biến và quy luật vận động của đối tượng.
Sản phẩm của tưởng tượng là các biểu tượng mới.
- Cách sáng tạo hình ảnh mới trong tưởng tượng:
+ Thay đổi kích thích, số lượng của vật hay thành phần của vật. Đây cách
sáng tạo hình ảnh mới bằng cách tăng thêm hay giảm đi kích thước, số lượng ca vật
thật hay thành phần của vật (người khổng lồ, người tí hon, phật nhìn mắt nghìn tay,
...)
lOMoARcPSD| 61526682
+ Nhấn mạnh một thuộc tính, một bộ phận nào đó của đối tượng. Đây là cách
sáng tạo ra hình ảnh mới bằng cách nhấn mạnh đặc biệt hoặc đưa lên hành đầu một
phẩm chất hay một quan hệ nào đó của sự vật, hiện tượng so với các sự vật, hiện
tượng khác. Một biến dạng của phương pháp này là sự cường điệu một sự vật, hiện
tượng nào đó (tranh biếm họa).
+ Chắp ghép (kết dính). Đây là phương pháp ghép các bộ phận của nhiều sự
vật, hiện tượng khác nhau thành một hình ảnh mới (Hình ảnh con rồng, nàng tiên
cá). Ở đây, các bộ phận hình thành hình ảnh mới không bị thay đổi, chế biến mà ch
được ghép lại với nhau theo quy luật xác định.
+ Liên hợp: Phương pháp này điểm giống với phương pháp chắp ghép
tạo ra hình ảnh mới bằng cách liên hợp nhiều sự vật, hiện tượng với nhau, nhưng
khác nhau chỗ khi tham gia vào hình ảnh mới thì các yếu tố ban đầu đều bị cải biên
đi và sắp xếp lại trong những mối tương quan mới. Cách tưởng tượng này sự tổng
hợp mang tính sáng tạo rõ rệt.
+ Điển hình hóa: Đây cách sáng tạo hình ảnh mới phức tạp nhất, trong đó
những thuộc tính điển hình, những đặc điểm điển hình của nhân cách như đại diện
của một giai cấp, một nhómhội được biểu hiện trong hình ảnh mới này (nhân vật
trong tác phẩm nghệ thuật). Phương pháp điển hình hóa sự tổng hợp sáng tạo mang
tính chất khái quát những thuộc tính và đặc điểm điển hình của nhân cách.
+ Loại suy (tương tự): Đây cách sáng tạo hình ảnh mới trên sở phỏng,
bắt chước những chi tiết, những bộ phận, những sự vật có thực.
* Tư duy và tưởng tượng có nhiều điểm giống và khác nhau.
+ Điểm giống nhau cả hai đều phản ánh gián tiếp đối tượng nhận thức thông
qua các khâu trung gian hình ảnh, biểu tượng hay khái niệm đã có về đối tượng;
đều xuất hiện khi hoàn cảnh vấn đề trong nhận thức; đều phản ánh bản chất,
mối liên hệ phổ biến và quy luật vận động của đối tượng.
+ Điểm khác nhau là tư duy thường diễn ra trong tình huống có vấn đề mang
tính chính xác cao, các yếu tố tạo thành tình huống vấn đề thường ng, còn
tưởng tượng diễn ra trong hoàn cảnh có vấn đề có tính xác định thấp, mang tính ước
lOMoARcPSD| 61526682
lệ. Mặt khác, để duy, chủ thể thường tiến hành các thao tác trí óc tính logic như
phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa, c thể hóa,
..., còn để tưởng tượng chủ thể sử dụng các thao tác có tính logic không tường minh
như chắp ghép, phóng đại, điển hình hóa, ...
2.2. Sự phát triển nhận thức của hc sinh
2.2.1. Sự phát triển các cấu trúc nhận thức.
Cấu trúc nhận thức (các sơ đồ nhận thức) là cấu trúc tâm lí của cá nhân, phản
ánh các mức độ nhận thức đối tượng và sự phát triển các thao tác trí óc để khám phá
đối tượng.
Theo J.Piaget, sphát triển nhận thức trẻ em sphát triển các sơ đồ nhận
thức: đồ tri giác, đồ trí nhớ và đồ trí tuệ. Cả ba nhóm đồ trên đều bắt
nguồn tsơ đđơn giản nhất: cấu giác- động. Trong đó, đáng chú ý nhất là sơ đồ
trí tuệ. Sự phát triển của sơ đồ trí tuệ trải qua 4 giai đoạn lớn, theo logic sau: Sơ đồ
giác động Các đồ tiền thao tác đồ thao tác cụ thể đồ thao tác
hình thức.
a) Giai đoạn cảm giác - vận động (0-2 tuổi). Giai đoạn này chia thành 6
thời kì nhỏ: Thời kì 1: (0 – 1 tháng): Các phản xạ có tính chất bẩm sinh, hình
thành sơ cấu cảm giác và cử động, hình thành phản ứng vòng tròn sơ cấp; Thời
kì 2: (1 – 4 tháng), hình thành tri giác và thói quen vận động;Thời kì 3: (4 – 8
tháng), phản ứng vòng tròn thứ cấp; Thời kì 4: (8 – 12 tháng), hình thành khả
năng phối hợp phương tiện – mục đích. Xuất hiện dấu hiệu của trí khôn, trên
sở sơ đồ mục đích – phương tiện; Thời kì 5: (12 – 18 tháng) phát hiện ra các
phương tiện mới, khả năng mục đích – phương tiện; Thời kì 6: (18 – 24 tháng),
phát sinh các "giải pháp sáng tạo" (hiện tượng bừng hiểu) trong ứng xử.
b) Giai đoạn tiền thao tác (2 – 6 hoặc 7 tuổi).
Trong giai đoạn này, các sơ đồ hành động dần được nhập tâm để tiến tới hình
thành biểu tượng.
lOMoARcPSD| 61526682
Trước hết là khả năng bắt chước hành động. Tiếp đến chuyển từ biểu tượng
trên hành động (bắt chước hành động) sang biểu tượng trong ý nghĩ. Từ đó ở trẻ em
xuất hiện hành động tượng trưng (các trò chơi tượng trưng: ru búp ngủ, cho
ăn) hành động vẽ hình. trình độ tiền thao tác, các hình ảnh tinh thần tính chất
tĩnh, thường khó tái hiện ra sự vận động hay biến đổi cũng nkết quả của chúng.
Chỉ khi đạt đến trình độ thao tác (7 8 tuổi), trẻ em mới khả năng hình dung ra
sự vận động, biến đổi và kết quả của chúng.
Trong gia đoạn này, xuất hiện của tiếng nói, nhờ đó ở trẻ hình thành chức
năng kí hiệu (biểu trưng).
Đặc trưng nổi bật trong trí tuệ ngôn ngữ của trẻ em giai đoạn này tính
duy kỉ, trực giác, tổng thể triển khai bằng cách xếp kề các hình ảnh. Hiện tượng
duy kỉ (lấy mình làm trung tâm), là thời kì quá độ của quá trình đứa trẻ tự tách mình
ra khỏi thế giới ý thức bản thân mình như một thực thể khách quan. Tính tự kỉ
trung tâm thời kì tiền thao tác (3 4 5 tuổi) là do trẻ chưa khả năng đi theo
quá trình biến đổi của sự vật và chưa có khả năng đảo ngược các sơ đồ.
c) Giai đoạn thao tác cụ thể (7 – 11 hoặc 12 tuổi)
Sự xuất hiện thao tác gắn liền với các đặc trưng đảo ngược bất biến. Điều
này liên quan đến khả năng bảo toàn.
Hình thành khả năng bảo toàn. Nếu trước 6 7 tuổi trẻ em chưa có khái niệm
bảo toàn (chưa thực hiện được các bài tập bảo toàn trong các thí nghiệm kinh điển
của Piaget), thì sang 7 – 8 trẻ đã có khả năng này. Trước hết là sự bảo toàn chất liệu
(trút nước từ một cốc sang hai cốc khác nhau), tiếp đến là bảo toàn trọng lượng (9 –
10 tuổi) và bảo toàn khối lượng (11 – 12 tuổi).
Hình thành những thao tác cụ thể. Sự xuất hiện các hành động ngược, dẫn đến
khả năng đảo ngược bảo toàn đã giúp cho trẻ em giai đoạn này hình thành các
thao tác cụ thể (các thao tác liên quan trực tiếp với đồ vật). Các thao tác này kết hợp
với nhau tạo thành những cấu trúc tổng thể, nng vẫn chưa có khả năng khái quát
(do thao tác trên vật): cấu trúc phân loại, phân hạng, cấu trúc số, cấu trúc không gian,
thời gian và tốc độ.
lOMoARcPSD| 61526682
d) Giai đoạn thao tác hình thức (13 – 18 tuổi)
Điểm đặc trưng trong sự phát triển cấu trúc trí tuệ của trẻ em từ 13 15 tuổi
các cấu trúc trí tuệ được giải phóng khỏi vật cthể chuyển vào các mệnh đề.
Tất cả sự biến đổi ấy đều do duy của trẻ sử dụng những giả thuyết, những suy luận
bằng những mệnh đề được trừu xuất khỏi những nhận biết cụ thể và thực tế của giai
đoạn trước. Thành tựu trí tuệ y được biểu hiện qua hình thành nhiều cấu trúc
duy trí tuệ mới: duy hình thức tổ hợp: trẻ em đã phân tách ra được nội
dung hình thức của vật, nhờ đó chủ thể có thể suy luận, phán đoán đúng đắn bằng
những mệnh đề có tính giả định đơn thuần (giả định 1 con vịt có 4 chân, thì hai con
sẽ 8 chân). Chính điều này đã tạo ra sự khởi đầu của duy giả định diễn dịch hay
tư duy hình thức; các thao tác hình thức và các nhóm thuận nghịch: ở lứa tuổi 11
12 xuất hiện hàng loạt cấu trúc thao tác mới. Các nhóm đã tính thuận nghịch,
nhờ các thao tác trên mệnh đề, như đã thấy ở phần trên
Sự phát triển các cấu trúc nhận thức trí tuệ của trẻ em qua các giai đoạn nêu
trên là cơ sở tâm lí quan trọng để các giáo viên thiết kế các hoạt động dạy
(mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học) phù hợp.
2.2.2. Sự phát triển các chức năng nhận thức
a) Sự phát triển cảm giác và tri giác
Cảm giác của trẻ em xuất hiện ngay từ khi còn là bào thai. Khi sinh, ở trẻ em
bình thường, các giác quan đều hoạt động bình thường khả năng thu nhận được
các tín hiệu đặc trưng. Trẻ càng lớn, các giác quan càng hoàn thiện về giải phẫu
chức năng.Qua hoạt động, đặc biệt hoạt động học tập hoạt động nghề nghiệp,
độ nhạy cảm của các giác quan ngày càng nâng cao (cảm giác da của các bác sỹ, cảm
giác thị giác của bác thợ tiện, thợ quan trắc v.v).
Trên cơ sở phát triển của các giác quan, tri giác của trẻ em xuất hiện từ tháng
thứ 2 sau khi sinh.Sự phát triển tri giác tạo ra các hình ảnh tri giác của trẻ nhỏ phụ
thuộc nhiều vào sự vận động của trẻ; vào môi trường sống (tự nhiên và hội)
vào văn hóa của cộng đồng.Trong suốt quá trình phát triển từ sơ sinh đến trước tuổi
học phổ thông, sự phát triển tri giác đóng vai trò chủ đạo và chi phối các chức năng
lOMoARcPSD| 61526682
nhận thức khác như trí nhớ, tư duy, tưởng tượng. Giai đoạn đầu, tri giác của trẻ quy
định duy, tạo nên hiện tượng “tự kỉ trung tâm” ở trẻ, trong những giai đoạn sau,
tri giác dần phụ thuộc vào các chức năng khác như ý thức, tư duy, ý chí, trí nhớ v.v.
lứa tuổi học sinh, đặc biệt học sinh THCS và THPT, tri giác đã thực s
phát triển và trở lên tinh tế (chẳng hạn các quan sát của nhà thơ Trần Đăng Khoa khi
8 tuổi), ổn định, trở thành năng lực (năng lực quan sát). Tuy nhiên, tri giác của trẻ
em thực sự phát triển trở thành năng lực quan sát hay không không chỉ do sự nhạy
cảm của các giác quan chủ yếu do được học tập rèn luyện trong môi
trường thuận lợi hay không. vậy, dạy học trong nhà trường, một mặt khai thác các
hình ảnh tri giác của học sinh, mặt khác, quan trọng hơn hình thành phát triển
năng lực quan sát cho các em, cả học sinh có năng khiếu và bình thường.
b) Phát triển tư duy và tưởng tượng
Sự phát triển tư duy và tưởng tượng của trẻ em diễn ra qua ba giai đoạn:
- Tư duy và tưởng tượng tiền thao tác
Về phương diện nhận thức, trẻ em gần hai tuổi đã hình thành được các hình
ảnh tinh thần nhờ u giữ xử các hình ảnh tri giác.Nhờ đó trẻ thể tạo ra
các hành động bắt chước không đối tượng trước mắt (giả vờ trên sở nhớ
lại). ớc tiếp theo trem hình thành các biểu tượng về không gian, thời gian, số
lượng, hiệu v.v (nêu được phải trái, trên dưới, to nhỏ, nói được đồ tnhà đến
lớp mẫu giáo v.v). Tuy nhiên, để các hình ảnh tinh thần cao hơn các biểu
tượng, trẻ em chưa chưa sdụng các thao tác duy hoặc thao thác tưởng
tượng theo phương pháp “xếp kề” các hình ảnh, giống hành động ghép tranh của
trẻ. Trong giai đoạn này, các hành động thực tiễn của trẻ em như hành động biểu
trưng, xếp hình, vẽ tranh các trò chơi khác tác nhân quan trọng để phát triển
khả năng tư duy và tưởng tượng của các em.
- Tư duy và tưởng tượng dựa trên thao tác cụ thể.
giai đoạn cuối mầm non đầu lớp 1, vốn biểu tượng của học sinh phát
triển mạnh, kết hợp với các hành động thực thực tiễn theo kiểu xuôi ngược, nhờ
lOMoARcPSD| 61526682
đó tạo sở đtrẻ hình thành các thao tác duy. Những thao tác duy bản
phân tích- tổng hợp; so sánh, trừu tượng hóa- khái quát hóa, cụ thể hóa.
Các thao tác tưởng tượng như chắp ghép, loại suy, điển hình hóa v.v……
Sự phát triển các thao tác tư duy và tưởng tượng trong giai đoạn đầu (các lớp
đầu tiểu học) gắn liền với các hành động thực tiễn vật chất, cụ thể vẫn còn chịu
ảnh hưởng mạnh bởi các yếu tố không chủ định.Vì vậy, trong dạy học tiểu học, cần
đặc biệt quan tâm tchức cho học sinh tiến hành các hành động thực (hành động
bằng tay với đồ vật) để qua đó hình thành và phát triển các thao tác tư duy và tưởng
tượng của các em.
- Tư duy và tưởng tượng dựa trên thao tác mệnh đề, lí luận
giai đoạn cuối tiểu học, đầu THCS, duy và tưởng tượng của học sinh dần
dần đạt mức trưởng thành, tức học sinh tiến hành các thao tác duy tưởng
tượng dựa trên các mệnh đngôn ngữ, hiệu (toán, lí, hóa v.v) mang tính hình
thức.Những năm cuối THCS các thao tác tư duy của học sinh đạt mức tư duy trưởng
thành, tư duy của học sinh đạt tới tư duy lý luận.
Sau nhiều năm học trong nhà trường tiểu học, THCS THPT, học sinh dần
hình thành phát tùy triển các kiểu duy khác nhau, theo đặc điểm tâm
nhân, theo nội dung kiểu học tập chiếm ưu thế của học sinh (tư duy hành động,
tư duy lý luận, tư duy khoa học, tư duy hình tượng v.v.).
Nhờ phát triển duy luận, sự phản ánh của chủ thể hoàn toàn phản ánh
được bản chất của đối tượng, các mối quan hệ phổ biến quy luật vận động của
nó.Quá trình nhận thức của học sinh đã chuyển từ nhận thức cảm tính lên lí tính, từ
hình ảnh, biểu tượng cảm tính lên khái niêm lý tính.
Trong quá trình chuyển từ thao tác tư duy cụ thể (tương ứng lớp 3- lớp 4) lên
thao tác tư duy lí luận (lớp 5- 6), học sinh thường gặp khó khăn, giữa hai loại tư duy
“hố ngăn cách”. Để giúp học sinh khắc phục được hngăn đó, các thầy giáo
có kinh nghiệm, hiệu quả thường sử dụng các mô hình (sơ đồ, biểu đồ, kí hiệu, hình
vẽ …) để vừa đảm bảo tính trực quan vừa tạo ra strừu tượng của đối tượng nhận
thức.
lOMoARcPSD| 61526682

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61526682
CHỦ ĐỀ 2: NHẬN THỨC VÀ HỌC TẬP
2.1 . Dạy học và sự phát triển nhận thức của học sinh
2.1.1. Khái niệm nhận thức
2.1.1.1. Định nghĩa nhận thức
Nhận thức là một trong ba mặt hoạt động tâm lí cơ bản của cá nhân: Nhận thức
– Thái độ - Hành động. Trong quá trình hoạt động, con người phải phản ánh được
đối tượng và môi trường xung quanh, tức là phải nhận thức.
Nhận thức là hoạt động tâm lí của cá nhân, tác động đến đối tượng, qua đó
hình thành trong đầu óc chủ thể các cảm giác, hình ảnh, biểu tượng hay khái niệm
về đối tượng.
Nói ngắn gọn, nhận thức là hoạt động giúp chủ thể nhận ra và sáng tỏ
về bản chất, quan hệ và quy luật vận động của đối tượng để từ đó có thái độ và hành
động đúng đắn; là quá trình chủ thể sử dụng các hành động, các giác quan, các thao
tác trí óc để làm sáng tỏ đối tượng, tạo ra các cảm giác, hình ảnh, biểu tượng, khái
niệm về đối tượng đó.
Hoạt động nhận thức của cá nhân được xem xét theo hai góc độ: Các quá trình
nhận thức và sự phát triển các cấu trúc nhận thức.
2.1.1.2. Các quá trình nhận thức
Hoạt động nhận thức bao gồm nhiều quá trình phản ánh đối tượng với nhiều
mức độ khác nhau. Mức thấp là chủ thể sử dụng các giác quan (mắt - thị giác, mũi -
khứu giác, tai - thính giác, da - xúc giác, lưỡi - vị giác) tác động lên chủ thể và chuyển
vào hệ thần kinh để tạo ra các hình ảnh, các biểu tượng cảm tính về đối tượng - mức
nhận thức cảm tính. Mức độ cao là nhận thức lí tính, tức là sự tác động gián tiếp
của chủ thể lên đối tượng, thông qua các hình ảnh, các biểu tượng cảm tính để tạo ra
các khái niệm, phản ánh bản chất, các mối liên hệ phổ biến và quy luật vận động của
đối tượng.Để có các khái niệm về đối tượng, chủ thể phải tiến hành các thao tác tư
duy, tưởng tượng.
a) Nhận thức cảm tính
Nhận thức cảm tính là mức thấp của hoạt động nhận thức, bao gồm hai hoạt
động rất khó tách bạch nhau trong thực tiễn: cảm giác và tri giác. ❖ Cảm giác lOMoAR cPSD| 61526682
Cảm giác là mức khởi đầu của một hoạt động nhận thức của cá nhân, là sự
tiếp xúc ban đầu của từng giác quan đến đối tượng nhận thức. Kết quả là tạo ra các
cảm giác riêng về màu sắc, hình dáng, mùi vị, âm thanh v.v của đối tượng. Trong
nhận thức, mỗi giác quan có chức năng đặc thù, không thay thế được bởi các giác
quan khác, giống như các cửa vào của một tòa nhà: Thị giác tiếp nhận ánh sáng, tạo
ra hình dáng của đối tượng,Thính giác tiếp nhận âm thanh, Khứu giác tiếp nhận mùi
của đối tượng, Xúc giác tiếp nhận lực tác động của đối tượng,Vị giác tiếp nhận vị
của đối tượng. Cảm giác tuy chưa tạo ra cho chủ thể một hình ảnh trọn vẹn về đối
tượng nhưng nó cung cấp cho chủ thể các “vật liệu” nhận thức về đối tượng, nên cảm
giác có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ quá trình và chất lượng nhận thức của chủ thể.
Ở cá nhân nếu một giác quan nào đó bị khuyết hoặc bị kém thì kênh thông tin
ban đầu về đối tượng sẽ bị khiếm khuyết, việc nhận thức đối tượng sẽ không trọn
vẹn.Trong những trường hợp như vậy, chủ thể phải có sự bù đắp của các giác quan
khác. Ngược lại, nếu một giác quan nào đó phát triển tốt, là cơ sở để hình thành và
phát triển năng khiếu, tài năng (tài năng âm nhạc – sự phát triển của thính giác, năng
khiếu hội hóa - thị giác; năng khiếu múa,vận động – các cơ quan vận động) v.v. Do
đó, trong dạy học, việc bảo vệ, duy trì, phát hiện, phát triển và luyện tập cách sử
dụng các giác quan của học là rất quan trọng. ❖ Tri giác
Tri giác là mức độ nhận thức cao hơn cảm giác, đó là sự kết hợp các giác quan
trong hoạt động nhận thức, nhờ đó tạo ra phức hợp các cảm giác, hình thành ở chủ
thể hình ảnh trọn vẹn về dáng vẻ của đối tượng. Chẳng hạn, một em bé lần đầu
tiên được tiếp xúc với quả cam, nếu chỉ nhìn thoáng qua bằng mắt, em bé sẽ có cảm
giác về màu sắc của nó; nếu nhắm mắt và để quả cảm trên tay, em có cảm giác về độ
nặng của nó... nhưng kết hợp với nhìn, ăn, ngửi.. thì em bé sẽ có hình ảnh tri giác về quả cam.
Trong nhận thức cảm tính, để có được các cảm giác, chỉ cần có sự tương tác
giữa các giác quan với đối tượng, nhưng để có hình ảnh trọn vẹn về đối tượng (hình lOMoAR cPSD| 61526682
ảnh tri giác) thì không chỉ có các giác quan mà còn phải có sự tham gia của kinh
nghiệm, ngôn ngữ và tư duy.
* Các quy luật của nhận thức cảm tính
Nhận thức cảm tính hoạt động theo một số quy luật nhất định:
- Quy luật của cảm giác:
+ Quy luật ngưỡng cảm giác
Muốn có cảm giác thì phải có kích thích tác động vào các giác quan và kích
thích đó phải đạt tới một giới hạn nhất định. Giới hạn mà ở đó kích thích gây ra được
cảm giác gọi là ngưỡng cảm giác. Cảm giác có hai ngưỡng: ngưỡng cảm giác phía
dưới và ngưỡng cảm giác phía trên. Ngưỡng cảm giác phía dưới là một cường độ
kích thích tối thiểu đủ để gây ra cảm giác. Khả năng cảm nhận được kích thích này
gọi là độ nhạy cảm của cảm giác. Ngưỡng cảm giác phía trên là cường độ kích thích
tối đa mà ở đó vẫn còn gây được cảm giác. Phạm vi giữa ngưỡng dưới và ngưỡng
trên gọi là vùng cảm giác được. Trong đó có một vùng phản ánh tốt nhất. Chẳng hạn:
Cram giấc nghe với song âm thanh từ 16Hz - 2 vạn Hz thì nghe được, trong đó vùng
phản ánh tốt nhất là 1000Hz. Cảm giác còn phản ánh sự khác nhau giữa các kích
thích, nhưng kích thích phải có tỉ lệ chênh lệch tối thiểu về cường độ hay tính chất
thì ta mới cảm thấy có sự khác nhau giữa hai kích thích, Đó gọi là ngưỡng sai biệt:
+ Quy luật thích ứng của cảm giác
Thích ứng là khả năng thay đổi độ nhạy cảm của cảm giác cho phù hợp với sự
thay đổi của cường độ kích thích. Sự thích ứng diễn ra theo quy luật sau: Cường độ
kích thích tăng thì độ nhạy cảm giảm; cường độ kích thích giảm thì độ nhạy cảm
tăng. Quy luật thích ứng có ở tất cả các loại cảm giác, nhưng mức độ thích ứng khác
nhau. Có loại cảm giác thích ứng nhanh như cảm giác nhìn, cảm giác ngửi, nhưng
có loại cảm giác chậm thích ứng như cảm giác nghe, cảm giác đau. Khả năng thích
ứng của cảm giác có thể thay đổi và phát triển do rèn luyện và tính chất nghề nghiệp.
+ Quy luật về sự tác động qua lại giữa các cảm giác
Các cảm giác của con người không tồn tại một cách biệt lập, tách rời mà luôn
tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động ấy diễn ra theo quy luật: Sự kích thích yếu lên lOMoAR cPSD| 61526682
một cơ quan phân tích này sẽ làm tăng độ nhạy cảm của một cơ quan phân tích kia;
một kích thích mạnh lên một cơ quan phân tích này sẽ làm độ nhạy cảm của một cơ
quan phân tích kia. Sự tác động lẫn nhau giữa các cảm giác có thể diễn ra đồng thời
hay nối tiếp trên những cảm giác cùng loại hay khác loại. Sự thay đổi của một kích
thích cùng loại xảy ra trước đó hay đồng thời gọi là sự tương phản trong cảm giác.
Có hai loại tương phản: tương phản nối tiếp và tương phản đồng thời. - Quy luật của tri giác:
Hoạt động tri giác của cá nhân có nhiều quy luật được ứng dụng rộng rãi trong
dạy học. Dưới đây là một số quy luật phổ biến:
+ Quy luật về tính đối tượng của tri giác
Tri giác bao giờ cũng phải có đối tượng để phản ánh. Hình ảnh trực quan mà
tri giác đem lại bao giờ cũng thuộc về một sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài.
Hình ảnh của tri giác phản ánh chính đặc điểm, tính chất của đối tượng mà con người
tri giác. Nhờ mang tính đối tượng mà hình ảnh của tri giác là cơ sở định hướng và
điều chỉnh hành vi, hoạt động của con người cho phù hợp với thế giới khách quan.
+ Quy luật về tính ý nghĩa của tri giác
Khi tri giác, chúng ta không chỉ tạo ra được những hình ảnh trọn vẹn về sự
vật, hiện tượng mà còn có thể chỉ ra được ý nghĩa của sự vật, hiện tượng đó. Tức là
chủ thể tri giác có thể gọi tên, phân loại, biết được công dụng của sự vật, hiện tượng
và khái quát nó trong một từ xác định. Tính ý nghĩa của tri giác gắn liền với tính trọn
vẹn. Tri giác càng đầy đủ các thuộc tính cơ bản bề ngoài của đối tượng thì gọi tên
đối tượng càng chính xác.
+ Quy luật về tính lựa chọn của tri giác
Tri giác của con người không thể đồng thời phản ánh các sự vật, hiện tượng
đa dạng tác động mà chỉ lựa chọn một vài sự vật trong vô àn các sự vật, hiện tượng
đang tác động là đối tượng tri giác, còn các sự vật, hiện tượng khác được coi là bối
cảnh. Khả năng tách đối tượng ra khỏi bối cảnh xung quanh để phản ánh đối tượng
đó một cách hiệu quả hơn nói lên tính lựa chọn của tri giác. Tính lựa chọn của tri giác phụ thuộc vào: lOMoAR cPSD| 61526682
Mục đích cá nhân. Do đó sự lựa chọn của tri giác không có tính cố định, vai
trò của đối tượng và bối cảnh có thể thay đổi cho nahu tùy thuộc vào mục đích cá
nhân và điều kiện xung quanh khi tri giác. Một vật lúc này là đối tượng, lúc khác có
thể là bối cảnh và ngược lại.
Đối tượng tri giác: Đối tượng càng nổi bật, sinh động, càng có sự khác biệt lớn
với bối cảnh thì tri giác càng dễ dàng, đầy đủ. Ngược lại, đối tượng ít có sự khác biệt
lớn với bối cảnh, thậm chí hòa lẫn với bối cảnh thì tri giác đối tượng sẽ khó khăn.
• Điều kiện quan sát: khoảng cách, ánh sáng, ...  Hứng thú, kinh nghiệm, kiến thức.
+ Quy luật tính ổn định của tri giác
Điều kiện tri giác một sự vật, hiện tượng nào đó có thể thay đổi (vị trí trong
không gian, khoảng cách, độ chiếu sáng, ...) song chúng ta vẫn tri giác được sự việc,
hiện tượng đó như là sự vật, hiện tượng ổn định về hình dạng kích thước, màu sắc,
... Hiện tượng này nói lên tính ổn định của tri giác. Tính ổn định của tri giác, khả
năng phản ánh sự vật, hiện tượng không thay đổi khi điều kiện tri giác thay đổi. Tính
ổn định của tri giác phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
• Do bản thân sự vật, hiện tượng có cấu trúc tương đối ổn định trong thời gian,
thời điểm nhất định.
• Chủ yếu là do cơ chế tự điều chỉnh của hệ thần kinh cũng như vốn kinh nghiệm
của con người về đối tượng.
• Tính ổn định của tri giác không phải là cái bẩm sinh mà nó được hình thành
trong đời sống cá thể, là điều kiện cần thiết của hoạt động thực tiễn của con người. + Quy luật tổng giác
Ngoài tính chất, đặc điểm của vật kích thích tác động vào các giác quan khi tri
giác, trong quá trình tri giác còn có sự tham gia của vốn kinh nghiệm, tư duy, nhu
cầu, hứng thú, động cơ, tình cảm, ... Nghĩa là sự tham gia của toàn bộ nhân cách. Sự
tham gia của toàn bộ nhân cách vào trong quá trình tri giác gọi là hiện tượng tổng giác. lOMoAR cPSD| 61526682 + Quy luật ảo giác
Trong một số trường hợp, với điều kiện thực tế xác định, tri giác có thể
khkoong cho ta hình ảnh đúng về sự vật, hiện tượng. Hiện tượng này gọi là ảo thị
hay gọi tắt là ảo giác. Ảo giác là tri giác không đúng, bị sai lệch về sự vật, hiện tượng được tri giác. b) Nhận thức lí tính
Nhận thức cảm tính, ở mức tốt nhất cũng chỉ cung cấp cho cá nhân các hình ảnh trực
quan về các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan, chỉ mới cung cấp cho cá
nhân các vật liệu để nhận thức đối tượng nào đó; bản thân các hoạt động nhận thức
cảm tính chưa phản ánh được bản chất của đối tượng. Muốn nhận thức được đối
tượng, cá nhân phải tiến hành các thao tác nhận thức bậc cao để phân tích và cấu trúc
lại các hình ảnh do nhận thức cảm tính mang lại, làm bộc lộ bản chất và các mối
quan hệ phổ biến của đối tượng, tức là phải tiến hành các hoạt động nhận thức lí tính.
Nhận thức lí tính là mức cao của hoạt động nhận thức, bao gồm hai hoạt động: tư duy và tưởng tượng. * Tư duy
- Tư duy là hoạt động tâm lí của chủ thể, là quá trình chủ thể tiến hành
các thao tác trí óc như phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát
hóa, ... để xử lí các hình ảnh, các biểu tượng, hay các khái niệm đã có về đối
tượng, làm sáng tỏ bản chất, mối quan hệ phổ biến và quy luật vận động của đối
tượng. Sản phẩm của hoạt động tư duy là các khái niệm về đối tượng. - Các thao tác tư duy
+ Phân tích: Là quá trình chủ thể tư duy dùng trí óc để phân chia đối tượng
nhận thức thành các bộ phận, các thuộc tính, các thành phần khác nhau để nhận thức
đối tượng sâu sắc hơn.
+ Tổng hợp: Là thao tác dùng trí óc để hợp nhất các thành phần đã được phân
tích thành một chỉnh thể để giúp ta nhận thức đối tượng khái quát hơn. lOMoAR cPSD| 61526682
Phân tích và tổng hợp là hai thao tác cơ bản của quá trình tư duy. Hai thao tác
này có quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau trong một quá trình tư duy
thống nhất. Phân tích là cơ sở của tổng hợp; tổng hợp được thực hiện theo kết quả của phân tích.
+ So sánh: Là quá trình chủ thể tư duy dùng trí óc để xác định sự giống nhau
hay khác nhau, sự đồng nhất hay không đồng nhất, sự bằng nhau hay không bằng
nhau giữa các đối tượng nhận thức.
So sánh có quan hệ chặt chẽ và dựa trên cơ sở phân tích, tổng hợp. Càng phân tích,
tổng hợp sâu sắc bao nhiêu thì so sánh càng đầy đủ, chính xác bấy nhiêu.
+ Trưu tượng hóa và khái quát hóa:
• Trừu tượng hóa là quá trình chủ thể tư duy dùng trí óc để gạt bỏ những thuộc
tính, những bộ phận, những quan hệ thứ yếu, không cần thiết xét về một
phương diện nào đó, chỉ giữ lại những yếu tố cần thiết để tư duy.
• Khái quát hóa là thao tác trí tuệ dùng để bao quát nhiều đối tượng khác nhau
thành một nhóm, một loại trên cơ sở những thuộc tính chung, bản chất, những
mối quan hệ có tính quy luật. Kết quả của quá trình khái quát hóa cho ta một
cái chung nhất cho hàng loạt sự vật, hiện tượng cùng loại.
Trừu tượng hóa và khái quát hóa là hai thao tác cơ bản, đặc trưng của con người.
Hai thao tác này có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung cho nhau. Khái quát hóa trên cơ
sở trừu tượng hóa. Trừu tượng hóa càng cao thì khái quát hóa càng chính xác. - Các loại tư duy:
+ Xét về phương diện hình thành và phát triển của tư duy, có tư duy trực quan
hành động: là loại tư duy bằng các thao tác cụ thể chân tay, hướng vào việc giải quyết
một số tình huống cụ thể, trực quan; tư duy trực quan hình tượng: là loại tư duy dựa
vào các hình ảnh trong kinh nghiệm đã có để giải quyết nhiệm vụ mới.
Loại tư duy này ra đời muộn hơn tư duy trực quan hành động; tư duy trừu tượng (tư
duy ngôn ngữ, tư duy logic). Đây là loại tư duy phát triển ở mức độ cao chỉ có ở
người. Tư duy trừu tượng dựa trên các khái niệm, các mối quan hệ lôgic. Loại tư duy
này gắn bó trực tiếp với hoạt động ngôn ngữ, lấy ngôn ngữ làm công cụ lOMoAR cPSD| 61526682
phương tiện để tư duy.
+ Dựa vào hình thức biểu hiện và phương thức giải quyết vấn đề, có thể chia
tư duy thành ba loại: tư duy thực hành; tư duy hình ảnh; tư duy lí luận.
+ Xét về mức độ sáng tạo của tư duy, chia thành hai loại: tư duy angôrít hoặc tư duy ơrixtic.
- Các quy luật của tư duy:
+ Quy luật nảy sinh tư duy: Tư duy chỉ nảy sinh trong hoành cảnh có vấn đề,
tức là tư duy bao giờ cũng nhằm giải quyết một bài toán nhận thức trong đó cần phải
phát hiện ra cái chưa biết và cần biết ẩn chứa đằng sau các hình ảnh, biểu tượng, các
kinh nghiệm đã có, mà khi sử dụng các kinh nghiệm cũ không giải quyết được.
+ Quy luật thao tác tư duy: Tư duy chỉ được tiến hành khi chủ thể sử dụng các
phương tiện nhận thức, qua đó gián tiếp phản ánh đối tượng. Các thao tác tư duy phổ
biến là: phân tích - tổng hợp; so sánh, trừu tượng hóa - khái quát hóa, cụ thể hóa.
Quy luật về các giai đoạn tư duy: (1) Tư duy bắt đầu từ khâu đầu tiên là xác định
vấn đề và biểu đạt vấn đề; (2) Huy động các tri thức, kinh nghiệm đã có; (3) Sàng
lọc các liên tưởng và hình thành giả thuyết; (4) Kiểm tra giả thuyết. Kết quả việc
kiểm tra giả thuyết dẫn đến khẳng định hoặc phủ định hoặc chính xác hóa giả thuyết
đã nêu; (5) Giải quyết nhiệm vụ, tư duy khi giả thuyết được chứng minh. * Tưởng tượng
- Tưởng tượng là hoạt động tâm lí của chủ thể, là quá trình chủ thể tiến
hành các thao tác tri óc như chắp ghép, liên kết, nhấn mạnh, loại suy, mô phỏng,
... để xử lí các hình ảnh, các biểu tượng hay các khái niệm đã có về đối tượng để
làm sáng tỏ bản chất, mối quan hệ phổ biến và quy luật vận động của đối tượng.
Sản phẩm của tưởng tượng là các biểu tượng mới.
- Cách sáng tạo hình ảnh mới trong tưởng tượng:
+ Thay đổi kích thích, số lượng của vật hay thành phần của vật. Đây là cách
sáng tạo hình ảnh mới bằng cách tăng thêm hay giảm đi kích thước, số lượng của vật
thật hay thành phần của vật (người khổng lồ, người tí hon, phật nhìn mắt nghìn tay, ...) lOMoAR cPSD| 61526682
+ Nhấn mạnh một thuộc tính, một bộ phận nào đó của đối tượng. Đây là cách
sáng tạo ra hình ảnh mới bằng cách nhấn mạnh đặc biệt hoặc đưa lên hành đầu một
phẩm chất hay một quan hệ nào đó của sự vật, hiện tượng so với các sự vật, hiện
tượng khác. Một biến dạng của phương pháp này là sự cường điệu một sự vật, hiện
tượng nào đó (tranh biếm họa).
+ Chắp ghép (kết dính). Đây là phương pháp ghép các bộ phận của nhiều sự
vật, hiện tượng khác nhau thành một hình ảnh mới (Hình ảnh con rồng, nàng tiên
cá). Ở đây, các bộ phận hình thành hình ảnh mới không bị thay đổi, chế biến mà chỉ
được ghép lại với nhau theo quy luật xác định.
+ Liên hợp: Phương pháp này có điểm giống với phương pháp chắp ghép là
tạo ra hình ảnh mới bằng cách liên hợp nhiều sự vật, hiện tượng với nhau, nhưng
khác nhau ở chỗ khi tham gia vào hình ảnh mới thì các yếu tố ban đầu đều bị cải biên
đi và sắp xếp lại trong những mối tương quan mới. Cách tưởng tượng này là sự tổng
hợp mang tính sáng tạo rõ rệt.
+ Điển hình hóa: Đây là cách sáng tạo hình ảnh mới phức tạp nhất, trong đó
những thuộc tính điển hình, những đặc điểm điển hình của nhân cách như là đại diện
của một giai cấp, một nhóm xã hội được biểu hiện trong hình ảnh mới này (nhân vật
trong tác phẩm nghệ thuật). Phương pháp điển hình hóa là sự tổng hợp sáng tạo mang
tính chất khái quát những thuộc tính và đặc điểm điển hình của nhân cách.
+ Loại suy (tương tự): Đây là cách sáng tạo hình ảnh mới trên cơ sở mô phỏng,
bắt chước những chi tiết, những bộ phận, những sự vật có thực.
* Tư duy và tưởng tượng có nhiều điểm giống và khác nhau.
+ Điểm giống nhau là cả hai đều phản ánh gián tiếp đối tượng nhận thức thông
qua các khâu trung gian là hình ảnh, biểu tượng hay khái niệm đã có về đối tượng;
đều xuất hiện khi có hoàn cảnh có vấn đề trong nhận thức; đều phản ánh bản chất,
mối liên hệ phổ biến và quy luật vận động của đối tượng.
+ Điểm khác nhau là tư duy thường diễn ra trong tình huống có vấn đề mang
tính chính xác cao, các yếu tố tạo thành tình huống có vấn đề thường rõ ràng, còn
tưởng tượng diễn ra trong hoàn cảnh có vấn đề có tính xác định thấp, mang tính ước lOMoAR cPSD| 61526682
lệ. Mặt khác, để tư duy, chủ thể thường tiến hành các thao tác trí óc có tính logic như
phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa, cụ thể hóa,
..., còn để tưởng tượng chủ thể sử dụng các thao tác có tính logic không tường minh
như chắp ghép, phóng đại, điển hình hóa, ...
2.2. Sự phát triển nhận thức của học sinh
2.2.1. Sự phát triển các cấu trúc nhận thức.
Cấu trúc nhận thức (các sơ đồ nhận thức) là cấu trúc tâm lí của cá nhân, phản
ánh các mức độ nhận thức đối tượng và sự phát triển các thao tác trí óc để khám phá đối tượng.
Theo J.Piaget, sự phát triển nhận thức ở trẻ em là sự phát triển các sơ đồ nhận
thức: sơ đồ tri giác, sơ đồ trí nhớ và sơ đồ trí tuệ. Cả ba nhóm sơ đồ trên đều bắt
nguồn từ sơ đồ đơn giản nhất: sơ cấu giác- động. Trong đó, đáng chú ý nhất là sơ đồ
trí tuệ. Sự phát triển của sơ đồ trí tuệ trải qua 4 giai đoạn lớn, theo logic sau: Sơ đồ
giác – động Các sơ đồ tiền thao tác Sơ đồ thao tác cụ thể Sơ đồ thao tác hình thức.
a) Giai đoạn cảm giác - vận động (0-2 tuổi). Giai đoạn này chia thành 6
thời kì nhỏ: Thời kì 1: (0 – 1 tháng): Các phản xạ có tính chất bẩm sinh, hình
thành sơ cấu cảm giác và cử động, hình thành phản ứng vòng tròn sơ cấp; Thời
kì 2: (1 – 4 tháng), hình thành tri giác và thói quen vận động;Thời kì 3: (4 – 8
tháng), phản ứng vòng tròn thứ cấp; Thời kì 4: (8 – 12 tháng), hình thành khả
năng phối hợp phương tiện – mục đích. Xuất hiện dấu hiệu của trí khôn, trên cơ
sở sơ đồ mục đích – phương tiện; Thời kì 5: (12 – 18 tháng) phát hiện ra các
phương tiện mới, khả năng mục đích – phương tiện; Thời kì 6: (18 – 24 tháng),
phát sinh các "giải pháp sáng tạo" (hiện tượng bừng hiểu) trong ứng xử.
b) Giai đoạn tiền thao tác (2 – 6 hoặc 7 tuổi).
Trong giai đoạn này, các sơ đồ hành động dần được nhập tâm để tiến tới hình thành biểu tượng. lOMoAR cPSD| 61526682
Trước hết là khả năng bắt chước hành động. Tiếp đến chuyển từ biểu tượng
trên hành động (bắt chước hành động) sang biểu tượng trong ý nghĩ. Từ đó ở trẻ em
xuất hiện hành động tượng trưng (các trò chơi tượng trưng: ru búp bê ngủ, cho bé
ăn) và hành động vẽ hình. Ở trình độ tiền thao tác, các hình ảnh tinh thần có tính chất
tĩnh, thường khó tái hiện ra sự vận động hay biến đổi cũng như kết quả của chúng.
Chỉ khi đạt đến trình độ thao tác (7 – 8 tuổi), trẻ em mới có khả năng hình dung ra
sự vận động, biến đổi và kết quả của chúng.
Trong gia đoạn này, xuất hiện của tiếng nói, nhờ đó ở trẻ hình thành chức
năng kí hiệu (biểu trưng).
Đặc trưng nổi bật trong trí tuệ và ngôn ngữ của trẻ em giai đoạn này là tính
duy kỉ, trực giác, tổng thể và triển khai bằng cách xếp kề các hình ảnh. Hiện tượng
duy kỉ (lấy mình làm trung tâm), là thời kì quá độ của quá trình đứa trẻ tự tách mình
ra khỏi thế giới và ý thức bản thân mình như một thực thể khách quan. Tính tự kỉ
trung tâm ở thời kì tiền thao tác (3 – 4 – 5 tuổi) là do trẻ chưa có khả năng đi theo
quá trình biến đổi của sự vật và chưa có khả năng đảo ngược các sơ đồ.
c) Giai đoạn thao tác cụ thể (7 – 11 hoặc 12 tuổi)
Sự xuất hiện thao tác gắn liền với các đặc trưng đảo ngược và bất biến. Điều
này liên quan đến khả năng bảo toàn.
Hình thành khả năng bảo toàn. Nếu trước 6 – 7 tuổi trẻ em chưa có khái niệm
bảo toàn (chưa thực hiện được các bài tập bảo toàn trong các thí nghiệm kinh điển
của Piaget), thì sang 7 – 8 trẻ đã có khả năng này. Trước hết là sự bảo toàn chất liệu
(trút nước từ một cốc sang hai cốc khác nhau), tiếp đến là bảo toàn trọng lượng (9 –
10 tuổi) và bảo toàn khối lượng (11 – 12 tuổi).
Hình thành những thao tác cụ thể. Sự xuất hiện các hành động ngược, dẫn đến
khả năng đảo ngược và bảo toàn đã giúp cho trẻ em giai đoạn này hình thành các
thao tác cụ thể (các thao tác liên quan trực tiếp với đồ vật). Các thao tác này kết hợp
với nhau tạo thành những cấu trúc tổng thể, nhưng vẫn chưa có khả năng khái quát
(do thao tác trên vật): cấu trúc phân loại, phân hạng, cấu trúc số, cấu trúc không gian, thời gian và tốc độ. lOMoAR cPSD| 61526682
d) Giai đoạn thao tác hình thức (13 – 18 tuổi)
Điểm đặc trưng trong sự phát triển cấu trúc trí tuệ của trẻ em từ 13 – 15 tuổi
là các cấu trúc trí tuệ được giải phóng khỏi vật cụ thể và chuyển vào các mệnh đề.
Tất cả sự biến đổi ấy đều do tư duy của trẻ sử dụng những giả thuyết, những suy luận
bằng những mệnh đề được trừu xuất khỏi những nhận biết cụ thể và thực tế của giai
đoạn trước. Thành tựu trí tuệ này được biểu hiện qua hình thành nhiều cấu trúc tư
duy và trí tuệ mới: Tư duy hình thức và tổ hợp: trẻ em đã phân tách ra được nội
dung và hình thức của vật, nhờ đó chủ thể có thể suy luận, phán đoán đúng đắn bằng
những mệnh đề có tính giả định đơn thuần (giả định 1 con vịt có 4 chân, thì hai con
sẽ có 8 chân). Chính điều này đã tạo ra sự khởi đầu của tư duy giả định diễn dịch hay
tư duy hình thức; các thao tác hình thức và các nhóm thuận nghịch: ở lứa tuổi 11
– 12 xuất hiện hàng loạt cấu trúc thao tác mới. Các nhóm đã có tính thuận nghịch,
nhờ các thao tác trên mệnh đề, như đã thấy ở phần trên
Sự phát triển các cấu trúc nhận thức và trí tuệ của trẻ em qua các giai đoạn nêu
trên là cơ sở tâm lí quan trọng để các giáo viên thiết kế các hoạt động dạy
(mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học) phù hợp.
2.2.2. Sự phát triển các chức năng nhận thức
a) Sự phát triển cảm giác và tri giác
Cảm giác của trẻ em xuất hiện ngay từ khi còn là bào thai. Khi sinh, ở trẻ em
bình thường, các giác quan đều hoạt động bình thường và có khả năng thu nhận được
các tín hiệu đặc trưng. Trẻ càng lớn, các giác quan càng hoàn thiện về giải phẫu và
chức năng.Qua hoạt động, đặc biệt là hoạt động học tập và hoạt động nghề nghiệp,
độ nhạy cảm của các giác quan ngày càng nâng cao (cảm giác da của các bác sỹ, cảm
giác thị giác của bác thợ tiện, thợ quan trắc v.v).
Trên cơ sở phát triển của các giác quan, tri giác của trẻ em xuất hiện từ tháng
thứ 2 sau khi sinh.Sự phát triển tri giác và tạo ra các hình ảnh tri giác của trẻ nhỏ phụ
thuộc nhiều vào sự vận động của trẻ; vào môi trường sống (tự nhiên và xã hội) và
vào văn hóa của cộng đồng.Trong suốt quá trình phát triển từ sơ sinh đến trước tuổi
học phổ thông, sự phát triển tri giác đóng vai trò chủ đạo và chi phối các chức năng lOMoAR cPSD| 61526682
nhận thức khác như trí nhớ, tư duy, tưởng tượng. Giai đoạn đầu, tri giác của trẻ quy
định tư duy, tạo nên hiện tượng “tự kỉ trung tâm” ở trẻ, trong những giai đoạn sau,
tri giác dần phụ thuộc vào các chức năng khác như ý thức, tư duy, ý chí, trí nhớ v.v.
Ở lứa tuổi học sinh, đặc biệt là học sinh THCS và THPT, tri giác đã thực sự
phát triển và trở lên tinh tế (chẳng hạn các quan sát của nhà thơ Trần Đăng Khoa khi
8 tuổi), ổn định, trở thành năng lực (năng lực quan sát). Tuy nhiên, tri giác của trẻ
em có thực sự phát triển trở thành năng lực quan sát hay không không chỉ do sự nhạy
cảm của các giác quan mà chủ yếu là do có được học tập và rèn luyện trong môi
trường thuận lợi hay không. Vì vậy, dạy học trong nhà trường, một mặt khai thác các
hình ảnh tri giác của học sinh, mặt khác, quan trọng hơn hình thành và phát triển
năng lực quan sát cho các em, cả học sinh có năng khiếu và bình thường.
b) Phát triển tư duy và tưởng tượng
Sự phát triển tư duy và tưởng tượng của trẻ em diễn ra qua ba giai đoạn:
- Tư duy và tưởng tượng tiền thao tác
Về phương diện nhận thức, trẻ em gần hai tuổi đã hình thành được các hình
ảnh tinh thần nhờ lưu giữ và xử lí các hình ảnh tri giác.Nhờ đó trẻ có thể tạo ra
các hành động bắt chước mà không có đối tượng trước mắt (giả vờ trên cơ sở nhớ
lại). Bước tiếp theo trẻ em hình thành các biểu tượng về không gian, thời gian, số
lượng, kí hiệu v.v (nêu được phải trái, trên dưới, to nhỏ, nói được sơ đồ từ nhà đến
lớp mẫu giáo v.v). Tuy nhiên, để có các hình ảnh tinh thần và cao hơn là các biểu
tượng, trẻ em chưa có và chưa sử dụng các thao tác tư duy hoặc thao thác tưởng
tượng mà theo phương pháp “xếp kề” các hình ảnh, giống hành động ghép tranh của
trẻ. Trong giai đoạn này, các hành động thực tiễn của trẻ em như hành động biểu
trưng, xếp hình, vẽ tranh và các trò chơi khác là tác nhân quan trọng để phát triển
khả năng tư duy và tưởng tượng của các em.
- Tư duy và tưởng tượng dựa trên thao tác cụ thể.
Ở giai đoạn cuối mầm non và đầu lớp 1, vốn biểu tượng của học sinh phát
triển mạnh, kết hợp với các hành động thực thực tiễn theo kiểu xuôi và ngược, nhờ lOMoAR cPSD| 61526682
đó tạo cơ sở để trẻ hình thành các thao tác tư duy. Những thao tác tư duy cơ bản là
phân tích- tổng hợp; so sánh, trừu tượng hóa- khái quát hóa, cụ thể hóa.
Các thao tác tưởng tượng như chắp ghép, loại suy, điển hình hóa v.v……
Sự phát triển các thao tác tư duy và tưởng tượng trong giai đoạn đầu (các lớp
đầu tiểu học) gắn liền với các hành động thực tiễn vật chất, cụ thể và vẫn còn chịu
ảnh hưởng mạnh bởi các yếu tố không chủ định.Vì vậy, trong dạy học tiểu học, cần
đặc biệt quan tâm tổ chức cho học sinh tiến hành các hành động thực (hành động
bằng tay với đồ vật) để qua đó hình thành và phát triển các thao tác tư duy và tưởng tượng của các em.
- Tư duy và tưởng tượng dựa trên thao tác mệnh đề, lí luận
Ở giai đoạn cuối tiểu học, đầu THCS, tư duy và tưởng tượng của học sinh dần
dần đạt mức trưởng thành, tức là học sinh tiến hành các thao tác tư duy và tưởng
tượng dựa trên các mệnh đề ngôn ngữ, kí hiệu (toán, lí, hóa v.v) mang tính hình
thức.Những năm cuối THCS các thao tác tư duy của học sinh đạt mức tư duy trưởng
thành, tư duy của học sinh đạt tới tư duy lý luận.
Sau nhiều năm học trong nhà trường tiểu học, THCS và THPT, học sinh dần
hình thành và phát tùy triển các kiểu tư duy khác nhau, theo đặc điểm tâm lí cá
nhân, theo nội dung và kiểu học tập chiếm ưu thế của học sinh (tư duy hành động,
tư duy lý luận, tư duy khoa học, tư duy hình tượng v.v.).
Nhờ phát triển tư duy lý luận, sự phản ánh của chủ thể hoàn toàn phản ánh
được bản chất của đối tượng, các mối quan hệ phổ biến và quy luật vận động của
nó.Quá trình nhận thức của học sinh đã chuyển từ nhận thức cảm tính lên lí tính, từ
hình ảnh, biểu tượng cảm tính lên khái niêm lý tính.
Trong quá trình chuyển từ thao tác tư duy cụ thể (tương ứng lớp 3- lớp 4) lên
thao tác tư duy lí luận (lớp 5- 6), học sinh thường gặp khó khăn, giữa hai loại tư duy
có “hố ngăn cách”. Để giúp học sinh khắc phục được hố ngăn đó, các thầy cô giáo
có kinh nghiệm, hiệu quả thường sử dụng các mô hình (sơ đồ, biểu đồ, kí hiệu, hình
vẽ …) để vừa đảm bảo tính trực quan vừa tạo ra sự trừu tượng của đối tượng nhận thức. lOMoAR cPSD| 61526682