CHỨC NĂNG BẢN CỦA GIA ĐÌNH THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI
CÁC CHỨC NĂNG DƯỚI SỰ TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC CÁCH MẠNG
CÔNG NGHIỆP 4.0
Khái niệm gia đình: Gia đình 1 cộng đồng đặc biệt, vai trò quyết định đến sự
tồn tại của hội. C.Mác PH.Ăngghen cho rằng: “Quan hệ thứ 3 tham dự ngay
từ đầu vào q trình lịch sử: hàng ngày tái sinh ra đời sống cả bản than mình, con
người tạo ra những người khác, sinh sôi nảy nở - đó quan hệ giữa vợ chồng, cha
mẹ, con cái, đó là gia đình”. Như vậy, gia đình một hình thức cộng đồng hội
đặc biệt, được hình thành, duy t củng cố chủ yếu dựa trên cơ sở hôn nhân,
quan hệ huyết thống quan hệ nuôi dưỡng, cùng với những quy định về quyền
nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình.
Các chức năng cơ bản của gia đình: (liệt 4 chức năng) Chức năng bản của gia
đình là vai trò bản của gia đình vai t đó làm s cho toàn bộ hoạt động
phát triển của gia đình
1. Chức năng sinh sản, tái sản xuất con người
Gia đình nơi tái sản sinh con người, cung cấp thành viên, nguồn nhân lực cho
gia đình hội đảm bảo sự phát triển liên tục trường tồn của hội loài
người.
Chức năng này không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm, sinh tự nhiên của con người,
đáp ứng nhu cầu duy trì nòi giống của gia đình, dòng họ còn đáp ứng nhu cầu
về sức lao động duy trì sự trường tồn của hội.
Ngày nay, khoa học sinh sản phát triển cao nhưng sinh sản t nhiên trong gia đình
vẫn ưu thế bởi đó điều kiện bản đ bảo vệ nòi giống người, sở, nền
tảng cho mỗi người tham gia vào đời sống hội sự phát triển.
Khi thực hiện chức năng này cần phải dựa vào trình độ phát triển kinh tế- hội
của mỗi quốc gia sự gia tăng dân số để chính sách phát triển nhân lực cho
phù hợp.
VD: Các nước phát triển n Đan Mạch, Canada, Nhật Bản,.. đưa ra nhiều
biện pháp khuyến khích người dân sinh con như miễn thuế, gia hạn các
khoản vay, thậm trí hộ trợ hàng nghìn USD.( người dân k muốn sinh đẻ)
Còn các nước đang phát triển việc gia tăng dân số trẻ đang còn cao trong đó
Việt Nam thì h thực hiện chính sách hạn chế sinh đẻ, chính sách kế
hoạch hóa gia đình.
=>> Không thể mang giá trị 1 nước phát triển dập vào nước đang phát triển
Như vậy đây là chức năng đặc thù của gia đình, không một cộng đồng nào
thể thay quyết định sự tồn tại duy trì của hội loài người.
2. Chức năng giáo dục nuôi dưỡng, giáo dục:
Bên cạnh chức năng tái sản xuất ra con người, gia đình còn trách nhiệm nuôi
dưỡng, dạy dỗ con cái trở thành người ích cho gia đình, cộng đồng và hội.
Chức năng này thể hiện tình cảm thiêng liêng, trách nhiệm của cha mẹ với con cái,
đồng thời thiện trách nhiệm của gia đình với hội.
Nội dung của giáo dục gia đình bao gồm cả tri thức kinh nghiệm, đạo đức, lối
sống, nhân cách, thẩm mỹ,... Phương pháp giáo dục của gia đình của đa dạng song
chủ yếu bằng phương pháp nêu gương, thuyết phục về lối sống, gia phong của gia
đình truyền thống.
Chủ thế giáo dục chủ yếu cha mẹ, ông đối với con cháu.
Song phương pháp nêu gương cách giáo dục tốt nhất trong gia đình ( Cha mẹ
thương yêu chân thành, tôn trọng, giúp đ nhau; cha mẹ, ông vừa yêu q vừa
nghiêm khắc bao dung với con cháu ), giữa gia đình với họ hàng, với láng
giềng, với cộng đồng ( trọng nhân nghĩa, làm điều thiện, sống chan hòa, ghét thói
gian tham, điều giả dối ), qua đó giúp con cháu tiếp thu một cách tự nhiên, nhẹ
nhàng những bài học cuộc đời nhưng lại tác động mạnh mẽ đến quá trình hình
thành phát triển nhân cách.
VD: Để phát triển thành một con người trưởng thành, đứa trẻ đó phải trải qua
những m tháng phát triển nhất định theo quy luật tự nhiên như từ lúc trẻ sinh
đến khi 14-15 tuổi giai đoạn quyết định sự hình thành về tố chất phẩm chất
nhân, 16-17 tuổi giai đoạn tiếp tục hoàn thành các phẩm chất đã hình thành
định hướng nghề nghiệp. Trong các quá trình này, vai trò của những thành viên
khác trong gia đình đặc biệt cha mẹ, cần phải sự quan tâm về mặt tâm lý, tình
cảm, lối sống...
Giáo dục gia đình một bộ phận sự quan hệ hỗ trợ, bổ sung cho giáo dục nhà
hội. Trong đó giáo dục gia đình đóng vai trò quan trọng được coi thành tố
của nền giáo dục hội nói chung. giáo dục hội đóng vai trò ngày càng quan
trọng nhưng những nội dung phương pháp giáo dục gia đình mang lại hiệu
quả lớn không thể thay thế được.
Thực hiện chức năng này, gia đình ý nghĩa rất quan trọng đối với sự hình thành
nhân cách, đạo đức, lối sống của mỗi người. Bởi vì, ngay khi sinh ra, trước tiên
mỗi người đều chịu sự giáo dục trực tiếp của cha mẹ người thân trong gia đình.
Những hiểu biết đầu tiên gia đình đem lại thường đ lại dấu ấn sâu đậm bền
vững trong cuộc đời mỗi người.
VD: thay những trận đòn roi thì những bậc cha mẹ nên dạy dỗ, chỉ bảo
con cái một cách nhẹ nhàng, phân tích đúng sai để trẻ thể hiểu. Người lớn
cũng là những tấm gương để lớp trẻ noi theo nên các thành viên trong gia đình phi
sống một cách hòa thuận, vui vẻ, cùng nhau chia sẻ những k khan trong cuộc
sống,… Nhưng lại nhiều gia đình mải kiếm tiền không biết hài hòa giữa
vật chất tinh thần nên ít dành thời gian cho con cái khiến chúng trở nên sống
buông thả, bị cảm dỗ vào những tệ nạn hội, những hành vi sai trái,..
Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục ảnh hưởng lâu dài toàn diện đên cuộc đời
của mỗi thành viên, từ lúc lọt lòng cho đến khi trưởng thành tuổi già. Mỗi thành
viên trong gia đình đều vị trí, vai trò nhất định, vừa chủ thế vừa khách thể
trong việc nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình. Đây chức năng hết sức quan trọng,
mặc trong hội nhiêu cộng đồng khác (nhà trường, các đoàn thể, chính
quyền, v.v.) cũng thực hiện chức năng này, nhưng không thể thay thế chức ng
giáo dục của gia đình. Với chức năng này, gia đình góp phần to lớn vào việc đào
tạo thê hệ trẻ, thê hệ tương lai của hội, cung cấp nâng cao chất lượng nguồn
lao động để duy trì sự trường tồn của xã hội, đồng thời mỗi nhân từng bước
được hội hóa. Thực hiện tốt chức năng nuôi dưỡng, giáo dục đòi hỏi mỗi người
làm cha, làm mẹ phải kiến thức cơ bản, tương đôi toàn diện về mọi mặt, văn
hóa, học vấn, đặc biệt phương pháp giáo dục.
Khi vừa cất tiếng khóc chào đời thì gia đình chính môi trường đầu tiên mỗi
con người chúng ta được tiếp xúc một cách trực tiếp, nơi đại bộ phận con
người được giáo dục một cách thường xuyên như ca dao câu “Dạy con từ thuở
còn thơ”. Nhân cách của trẻ đều được hình thành từ khi còn rất nhỏ vì thế gia đình
một nhân tố rất quan trọng đóng góp vào sự hình thành nhân cách của mỗi thành
viên trong gia đình. Không chỉ được giáo dục ngay từ khi còn nhỏ trong suốt
quá trình trưởng thành của mỗi con người vẫn luôn luôn sự đồng hành của chức
năng này.
3. Chức năng kinh tế tổ chức tiêu dùng:
Cũng như các đơn vị kinh tế khác, gia đình tham gia trực tiếp vào quá trình sản
xuất tái sản sản xuất ra liệu sản xuất liệu tiêu dùng. Tuy nhiên, đặc thù
của gia đình c đơn vị kinh tế khác không được, chỗ, gia đình đơn vị
duy nhất tham gia vào q trình sản xuất tái sản xuất ra sức lao động cho hội.
Đây chức năng bản quan trọng của gia đình nhằm tạo ra của cải vật chất, đảm
bảo cho gia đình được ấm no, hạnh phúc góp phần vào sự phát triển của hội. Sự
tồn tại của kinh tế gia đình còn phát huy một cách hiệu quả mọi tiềm năng về
vốn, sức lao động của từng gia đình, tăng thêm của cải cho gia đình hội.
Tuy nhiên, gia đình không chỉ tham gia vào quá trình sản xuất tái sản xuất ra
của cải sức lao động, còn một đơn vị tiêu dùng hội. Gia đình thực hiện
chức năng tổ chức tiêu dùng hàng hóa để duy trì đời sống của gia đình về lao động
sản xuất cũng như các sinh hoạt trong gia đình.
Cùng với sự phát triển của hội, các hình thức gia đình khác nhau ngay cả
một hình thức gia đình, nhưng tùy theo từng giai đoạn phát triển của hội, chức
năng kinh tế của gia đình sự khác nhau, về quy sản xuất, sở hữu liệu sản
xuất cách thức tổ chức sản xuất phân phối. Vị trí, vai t của kinh tế gia đình
mối quan hệ của kinh tế gia đình với các đơn vị kinh tế khác trong xã hội cũng
không hoàn toàn giống nhau.
Thực hiện tốt chức năng này, không những tạo cho gia đình sở để tổ chức
đời sống, nuôi dạy con cái, còn đóng góp to lớn đối với sự phát triển của
hội.
VD: giáo viên thể nhận dạy lớp học thêm, công nhân thể nhận thêm
sản phẩm làm ngoài giờ, những người nông dân thì thể tăng gia chăn nuôi, tranh
thủ buổi tối bện chổi rơm, đan giậu,… Mỗi gia đình cần luôn ý thức phấn đấu
làm giàu làm giàu một cách chính đáng, đồng thời biết cách hài hòa giữa đời
sống vật chất tinh thần. Bên cạnh đó hội cũng cần phải trách nhiệm chăm
lo chung cho mọi gia đình bằng cách phát triển kinh tế, văn hóa như vậy thì
chức năng kinh tế của gia đình mới thể hoàn thiện được.
4. Chức năng thỏa mãn nhu cầu m sinh lý, duy trì tình cảm gia đình:
Ngoài ba chức năng bản trên thì gia đình còn chức năng thõa mãn nhu cầu
tinh thần, tình cảm chăm sóc sức khỏe.
Đây chức năng thường xuyên của gia đình, bao gồm việc thỏa mãn nhu cầu tình
cảm, văn hóa, tinh thần cho các thành viên, đảm bảo sự cân bằng tâm lý, bảo vệ,
chăm sóc sức khỏe người ốm, người già, trẻ em. Sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau
giữa các thành viên trong gia đình vừa nhu cầu tình cảm, vừa là trách nhiệm, đạo
lý, lương tâm của mỗi người. Do vậy, gia đình chỗ dựa tình cảm cho mỗi
nhân, nơi nương tựa v mặt tinh thần chứ không chỉ nơi nương tựa về vật chất
của con người. Với việc duy trì tình cảm giữa các thành viên, gia đình ý nghĩa
quyết định đến sự ổn định và phát triển của hội.
Với việc duy t tình cảm giữa các thành viên, gia đình ý nghĩa quyết định đến
sự ổn định phát triển của hội. Bởi lẽ các chức năng của gia đình luôn song
hành với các chức năng của hội, khi quan hệ gia đình rạn nứt thì quan hệ tình
cảm trong hội cũng nguy bị p vỡ.
Không phải ngẫu nhiên người ta gọi gia đình với cách gọi yêu thương, trìu mến,
ấm áp. Trong gia đình người già được chăm sóc khỏe mạnh, vui vẻ lạc quan,
truyền lại cho con cháu vốn sống, cách ứng xử đẹp. Nơi đó, con cái biết yêu kính,
vâng lời cha mẹ, vợ chồng quan tâm chia s vui buồn cực nhọc với nhau... đó,
mỗi người cảm nhận được sự gần gũi, thân thương từ khoảng sân, mái nhà, chiếc
giường... đến những quan hệ họ hàng thân thiết.
Khi một thành viên gặp biến cố, gia đình, dòng họ sẽ sự quan tâm, chia sẻ
sự giúp đỡ để niềm vui được nhân đôi, nỗi buồn được vơi đi một nửa. Điều đó sẻ
tạo nên sợi dây vô hình nhưng bền chặt kết nối nghĩa tình những người trong gia
đình, dòng họ, thân tộc lại với nhau. Mối quan hệ đồng bào cũng từ đó hình
thành trong làng xóm, trong hội, trở thành nền tảng của tình yêu quê hương, đất
nước, con người.
THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI CỦA CÁC CHỨC NĂNG GIA ĐÌNH
DƯỚI SỰ TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP
4.0
Khái niệm:
Cách mạng công nghiệp lần thứ được gọi Công nghiệp 4.0. ng
nghiệp 4.0 tập trung vào công nghệ kỹ thuật số từ những thập kỷ gần đây lên một
cấp độ hoàn toàn mới với sự trợ giúp của kết nối thông qua Internet vạn vật, truy
cập dữ liệu thời gian thực giới thiệu các hệ thống vật không gian mạng.
Cách mạng công nghiệp 4.0 đã đang tạo ra nhiều thay đổi có ý nghĩa lớn đối với
sự phát triển của con người hội, trong đó sự phát triển gia đình. Cách
mạng công nghiệp 4.0 một mặt đem lại những diện mạo mới về văn hóa gia đình,
nhưng một mặt cũng đem lại những thách thức lớn đối với văn hóa gia đình. Từ
cách tiếp cận hội học, xét về bản chất, gia đình 4 chức năng bản (sinh sản,
giáo dục, kinh tế tâm - tình cảm). Do sự va chạm giữa yếu tố truyền thống
yếu tố hiện đại, sự chênh lệch giữa tốc độ biến đổi của cơ cấu hội tốc độ biến
đổi của gia đình, chức năng của gia đình Việt Nam những biến đổi theo phương
thức khác với gia đình phương Tây trong quá trình CNH - HĐH.
1. Chức năng sinh sản, tái sản xuất con người:
Với những thành tựu của y học hiện đại, việc sinh đẻ hiện nay được các gia đình
tiến hành một cách chủ động, t giác khi xác định số lượng con cái thời điểm
sinh con. Hơn nữa, việc sinh con còn chịu sự điều chỉnh bởi chính sách hội của
Nhà nước, tùy theo tình hình dân nhu cầu về sức lao động của hội.
Công tác kế hoạch hóa gia đình, sinh đẻ có kế hoạch được thực hiện trong nhiều
năm cũng làm biến đổi mạnh mẽ quy mô, cấu chức năng của gia đình. Sự
chuyển đổi t hình gia đình đông con sang hình chỉ từ một đến hai con
đã khiến cho quy gia đình thay đổi. Quy gia đình nhỏ, gia đình hạt nhân
ngày càng trở nên phổ biến được khẳng định. Chỉ trong vòng 40 năm quy
gia đình đã giảm từ 5.22 người/hộ năm 1979 xuống còn 4 người năm 2018.
Sự biến đổi về quy mô, cấu chức năng của gia đình cũng dẫn đến những biến
đổi về hệ thống giá trị gia đình. Trên thực tế, sự phát triển của quá trình công
nghiệp hóa đã khiến cho gia đình Việt Nam điều kiện tiếp thu những giá trị văn
hóa, nhân văn mới của xã hội hiện đại. Chúng ta một trong những quốc gia đầu
tiên trên thế giới đã thực hiện các công ước quốc tế về quyền của phụ nữ
quyền trẻ em.
Kết quả phân tích cho thấy đại bộ phận người dân đã tự nhận thức được giá trị của
con cái trong cuộc sống gia đình nói chung, chứ không chỉ đơn thuần thực hiện
theo qui định của chính sách dân số
VD:
Theo kết quả điều tra gia đình Việt Nam năm 2006, tỉ lệ người đồng ý rằng
gia đình phải nhiều con chiếm tỉ lệ khá thấp (18,6% người cao tuổi, 6,6%
người độ tuổi 18 - 60 2,8% vị thành niên), quan niệm “gia đình nhất thiết
phải con trai” vẫn được một bộ phận đáng kể người dân ủng hộ (gần 37%
người độ tuổi 18 - 60), trong đó nhóm dân s nghèo nhu cầu sinh con trai
nhiều hơn nhóm dân số giàu (45,5% nhóm thu nhập thấp nhất, 26%
nhóm thu nhập cao nhất). do để giải thích sao phải con trai chủ
yếu vẫn “để người nối dõi tông đường” (85,7%), “để nơi nương tựa
lúc tuổi già” (54,2%) “để người làm việc lớn, việc nặng” (23,4%)…
Tuy nhiên, đã khoảng 63% người trong độ tuổi 18 - 60 cho rằng không
nhất thiết phải con trai.
Thêm vào đó, cho đến nay cấu trúc hội quan điểm giá trị liên quan đến vấn
đề sinh sản quan hệ tình dục cũng đã s thay đổi. Sự tự do trong việc mang
thai sinh sản do các tiến bộ của y học mang lại cho con người, sự tự do trong
quan hệ tình dục nhờ vào sự phát triển của các phương pháp tránh thai các loại
dịch vụ liên quan đến tình dục… đã góp phần mang lại sự thay đổi trên. Giờ đây
tình dục không chỉ mang ý nghĩa một phương cách của việc sinh sản còn
sự thể hiện của nhu cầu thể xác t nhiên của loài người.
2. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục:
Sự cạnh tranh ngày càng gay gắt đã làm tăng kì vọng hội đối với tiêu chuẩn
chất lượng của việc dưỡng dục con cái
VD:
Cha mẹ thành thị chăm lo đến việc học của con cao hơn so với nông thôn.
Tây Bắc vùng tỉ lệ cha mẹ ít quan tâm hơn so với các vùng còn lại,
người Hmông dân tộc tỉ lệ cha mẹ quan tâm tới việc học của con cái
thấp nhất 3 . Các nhóm cha mẹ học vấn cao và thu nhập cao thì mức
độ quan tâm đến việc học của con nhiều hơn trẻ em độ tuổi 7 - 14 t
nhận được sự quan tâm của cha mẹ đến việc học hơn trẻ em trong độ tuổi
15 - 17.
Hiện tượng gia đình hạt nhân làm chặn đứng hội truyền thụ những hiểu biết về
việc nuôi dạy con cái từ thế hệ ông cho thế hệ cha mẹ
VD: Thế hệ trẻ mới lập gia đình cho nhận được sự giúp đỡ của bố mẹ
nhưng họ vẫn bộc lộ những bất đồng thế hệ, xung quanh việc nuôi dạy con cái
giới trẻ ngày nay trông cậy vào tri thức khoa học và chuyên môn hơn dựa vào sự
hiểu biết của thế hệ cha mẹ
3. Chức năng kinh tế tổ chức tiêu dùng:
Xét một cách khái quát, cho đến nay kinh tế gia đình đã hai bước chuyển mang
tính bước ngoặt:
- Thứ nhất, từ kinh tế tự cấp tự túc thành kinh tế hàng hóa, tức từ một đơn
vị kinh tế khép kín sản xuất để đáp ng nhu cầu của gia đình thành đơn vị
sản xuất chủ yếu đ đáp ứng nhu cầu của người khác hay của hội.
- Thứ hai, từ đơn vị kinh tế đặc trưng sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu
cầu của thị trường quốc gia thành tổ chức kinh tế của nền kinh tế thị trường
hiện đại đáp ứng nhu cầu của thị trường toàn cầu.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế cạnh tranh sản phẩm hàng hóa với các nước
trong khu vực trên thế giới, kinh tế gia đình gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại
trong việc chuyển sang sản xuất kinh doanh hàng hóa theo hướng chuyên sâu trong
kinh tế thị trường hiện đại. Nguyên nhân do kinh tế gia đình phần lớn quy
nhỏ, lao động ít t sản xuất chính.
Sự phát triển của kinh tế hàng hóa nguồn thu nhập bằng tiền của gia đinh tăng
lên làm cho gia đình trở thành một đơn vị tiêu dùng quan trọng của hội.
4. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình:
Theo truyền thống gia đình Việt Nam, các thế hệ trong gia đình trách nhiệm
niềm vui kính trọng, thương yêu, chăm sóc lẫn nhau. Tuy nhiên, hiện nay dưới tác
động của cách mạng công nghiệp 4.0, đạo đức vợ chồng, tình thương yêu anh chị
em, thái độ kính trên nhường dưới, tức k nhiều chuẩn mực đạo đức của gia
đình đã bị suy giảm.
Không gian rộng mở hơn đối với nhân nhưng thu hẹp đối với gia đình: buồng
riêng của trẻ nhỏ thường tách biệt, các kênh giao tiếp riêng qua điện thoại và mạng
hội thường xuyên kết nối, những người lớn tuổi trở nên đơn hơn, nhu cầu, s
thích sự quan tâm rất đa dạng riêng rẽ. Con trẻ dường như nhanh khôn hơn
nhưng không thích nghe lời, không quan trọng sự khuyên bảo của thế hệ lớn tuổi.
Một s người già bị ngược đãi bởi chính con cháu người thân.
Phân công trách nhiệm thành viên trong gia đình trong cách mạng công nghiệp 4.0
cũng ít nhiều đã thay đổi: con cái ngày nay thường không trực tiếp chăm sóc cha
mẹ, biểu hiện của đạo hiếu không nhất thiết phải như truyền thống. Các dịch vụ
giám hộ người già, người bệnh, người đơn… bắt đầu được c ý. Các viện
dưỡng lão tăng thêm, nhiều sở tốt, nhưng cũng không ít sở hoạt động thiếu
trách nhiệm. Các lễ nghi, phép tắc trong gia đình, những l thói truyền thống… ít
được tuân thủ. Trẻ nhỏ được nuông chiều tính ích kỷ, lại đua đòi… dường
như tăng lên. Người già khi sức khỏe kém ngày càng đơn.
Giá trị chung thủy g trị rất được coi trọng trong quan hệ hôn nhân gia đình,
được người dân đánh giá cao nhất, sau đó là đến các giá trị tình yêu thương, bình
đẳng, con, chia sẻ việc nhà, hòa hợp, thu nhập.
VD: Theo kết quả khảo sát từ Trần Thị Minh Thi (2019) “Các giá trị bản
của gia đình Việt Nam”, tới 41,6% coi chung thủy “quan trọng”, 56,7%
coi chung thủy “rất quan trọng” trong hôn nhân. Đồng thời, nghiên cứu cho thấy
hiện tượng bảo lưu những tiêu chuẩn kép khắt khe với phụ nữ xu hướng vị tha
hơn cho nam giới trong vấn đề chung thủy (giá trị “chung thủy quan trọng hơn với
phụ nữ” tỷ lệ đồng ý cao 66,2%). Điều này cho thấy, chung thủy vẫn thước
đo phẩm giá của người phụ nữ khi họ được kỳ vọng nhân tố giữ gìn cho s êm
ấm, tốt đẹp của gia đình hội.
Câu 1: Chức năng nào được coi là chức năng bản riêng của gia đình?
A.Tái sản xuất ra con người
B.Tổ chức đời sống gia đình
C.Giáo dục gia đình
D.Thỏa mãn tâm sinh
Câu 2: Chức năng cơ bản của gia đình :
a. Chức năng tái sản xuất ra con người
b. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục, kinh tế tổ chức tiêu ng
c. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy t tình cảm gia đình
d. Cả a,b,c d
Câu 3: Chức năng nào của gia đình ảnh hưởng lâu dài toàn diện đến cuộc đời
của mỗi thành viên trong gia đình?
lựa chọn trả lời
A.
Chức năng tái sản xuất ra con người
B.
Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục
C.
chức năng kinh tế tổ chức tiêu dùng
D.
Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình
Câu 4: Hai chức năng thay đổi rệt nhất của gia đình trong thời kỳ 4.0
A. Kinh tế, giáo dục
B. Sinh sản, kinh tế
C. Giáo dục, sinh sản
D. Thõa mãn nhu cầu, sinh sản
Câu 5: Chọn câu đúng: Xu hướng biến đổi đặc trưng từ gia đình truyền thống đến
gia đình hiện đại Việt Nam
A. Vai trò vị trí của người phụ nữ trong gia đình ngoài hội được cải thiện
B. Các mối quan hệ trong gia đình trở nên bền chặt, gần gũi hơn
C. Qui gia đình Việt Nam đang dần dần mở rộng, gia đình hạt nhân chưa phổ
biến
D. Chức năng của gia đình không sự thay đổi

Preview text:

CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA GIA ĐÌNH VÀ THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI
CÁC CHỨC NĂNG DƯỚI SỰ TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
Khái niệm gia đình: Gia đình là 1 cộng đồng đặc biệt, có vai trò quyết định đến sự
tồn tại của xã hội. C.Mác và PH.Ăngghen cho rằng: “Quan hệ thứ 3 tham dự ngay
từ đầu vào quá trình lịch sử: hàng ngày tái sinh ra đời sống cả bản than mình, con
người tạo ra những người khác, sinh sôi nảy nở - đó là quan hệ giữa vợ chồng, cha
mẹ, con cái, đó là gia đình”. Như vậy, gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội
đặc biệt, được hình thành, duy trì và củng cố chủ yếu dựa trên cơ sở hôn nhân,
quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng, cùng với những quy định về quyền
và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình.
Các chức năng cơ bản của gia đình: (liệt kê 4 chức năng) Chức năng cơ bản của gia
đình là vai trò cơ bản của gia đình mà vai trò đó làm cơ sở cho toàn bộ hoạt động
và phát triển của gia đình
1. Chức năng sinh sản, tái sản xuất con người
Gia đình là nơi tái sản sinh con người, cung cấp thành viên, nguồn nhân lực cho
gia đình và xã hội đảm bảo sự phát triển liên tục và trường tồn của xã hội loài người.
Chức năng này không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm, sinh lý tự nhiên của con người,
đáp ứng nhu cầu duy trì nòi giống của gia đình, dòng họ mà còn đáp ứng nhu cầu
về sức lao động và duy trì sự trường tồn của xã hội.
Ngày nay, khoa học sinh sản phát triển cao nhưng sinh sản tự nhiên trong gia đình
vẫn là ưu thế bởi đó là điều kiện cơ bản để bảo vệ nòi giống người, là cơ sở, nền
tảng cho mỗi người tham gia vào đời sống xã hội vì sự phát triển.
Khi thực hiện chức năng này cần phải dựa vào trình độ phát triển kinh tế- xã hội
của mỗi quốc gia và sự gia tăng dân số để có chính sách phát triển nhân lực cho phù hợp.
VD: Các nước phát triển như Đan Mạch, Canada, Nhật Bản,. đưa ra nhiều
biện pháp khuyến khích người dân sinh con như miễn thuế, gia hạn các
khoản vay, thậm trí hộ trợ hàng nghìn USD.( người dân k muốn sinh đẻ)
Còn các nước đang phát triển việc gia tăng dân số trẻ đang còn cao trong đó
có Việt Nam thì họ thực hiện chính sách hạn chế sinh đẻ, chính sách kế hoạch hóa gia đình.
=>> Không thể mang giá trị ở 1 nước phát triển dập vào nước đang phát triển
⇨ Như vậy đây là chức năng đặc thù của gia đình, không một cộng đồng nào
có thể thay vì nó quyết định sự tồn tại và duy trì của xã hội loài người.
2. Chức năng giáo dục nuôi dưỡng, giáo dục:
Bên cạnh chức năng tái sản xuất ra con người, gia đình còn có trách nhiệm nuôi
dưỡng, dạy dỗ con cái trở thành người có ích cho gia đình, cộng đồng và xã hội.
Chức năng này thể hiện tình cảm thiêng liêng, trách nhiệm của cha mẹ với con cái,
đồng thời thiện trách nhiệm của gia đình với xã hội.
Nội dung của giáo dục gia đình bao gồm cả tri thức kinh nghiệm, đạo đức, lối
sống, nhân cách, thẩm mỹ,. . Phương pháp giáo dục của gia đình của đa dạng song
chủ yếu bằng phương pháp nêu gương, thuyết phục về lối sống, gia phong của gia đình truyền thống.
Chủ thế giáo dục chủ yếu là cha mẹ, ông bà đối với con cháu.
Song phương pháp nêu gương là cách giáo dục tốt nhất trong gia đình ( Cha mẹ
thương yêu chân thành, tôn trọng, giúp đỡ nhau; cha mẹ, ông bà vừa yêu quý vừa
nghiêm khắc và bao dung với con cháu ), giữa gia đình với họ hàng, với láng
giềng, với cộng đồng ( trọng nhân nghĩa, làm điều thiện, sống chan hòa, ghét thói
gian tham, điều giả dối ), qua đó giúp con cháu tiếp thu một cách tự nhiên, nhẹ
nhàng những bài học cuộc đời nhưng lại tác động mạnh mẽ đến quá trình hình
thành và phát triển nhân cách.
VD: Để phát triển thành một con người trưởng thành, đứa trẻ đó phải trải qua
những năm tháng phát triển nhất định theo quy luật tự nhiên như từ lúc trẻ sơ sinh
đến khi 14-15 tuổi là giai đoạn quyết định sự hình thành về tố chất và phẩm chất cá
nhân, 16-17 tuổi là giai đoạn tiếp tục hoàn thành các phẩm chất đã hình thành và
định hướng nghề nghiệp. Trong các quá trình này, vai trò của những thành viên
khác trong gia đình đặc biệt là cha mẹ, cần phải có sự quan tâm về mặt tâm lý, tình cảm, lối sống. .
Giáo dục gia đình là một bộ phận và sự quan hệ hỗ trợ, bổ sung cho giáo dục nhà
và xã hội. Trong đó giáo dục gia đình đóng vai trò quan trọng được coi là thành tố
của nền giáo dục xã hội nói chung. Dù giáo dục xã hội đóng vai trò ngày càng quan
trọng nhưng có những nội dung và phương pháp giáo dục gia đình mang lại hiệu
quả lớn không thể thay thế được.
Thực hiện chức năng này, gia đình có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự hình thành
nhân cách, đạo đức, lối sống của mỗi người. Bởi vì, ngay khi sinh ra, trước tiên
mỗi người đều chịu sự giáo dục trực tiếp của cha mẹ và người thân trong gia đình.
Những hiểu biết đầu tiên mà gia đình đem lại thường để lại dấu ấn sâu đậm và bền
vững trong cuộc đời mỗi người.
VD: thay vì những trận đòn roi thì những bậc cha mẹ nên dạy dỗ, chỉ bảo
con cái một cách nhẹ nhàng, phân tích rõ đúng sai để trẻ có thể hiểu. Người lớn
cũng là những tấm gương để lớp trẻ noi theo nên các thành viên trong gia đình phải
sống một cách hòa thuận, vui vẻ, cùng nhau chia sẻ những khó khan trong cuộc
sống,… Nhưng lại có nhiều gia đình mải mê kiếm tiền mà không biết hài hòa giữa
vật chất và tinh thần nên ít dành thời gian cho con cái khiến chúng trở nên sống
buông thả, bị cảm dỗ vào những tệ nạn xã hội, có những hành vi sai trái,.
Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục có ảnh hưởng lâu dài và toàn diện đên cuộc đời
của mỗi thành viên, từ lúc lọt lòng cho đến khi trưởng thành và tuổi già. Mỗi thành
viên trong gia đình đều có vị trí, vai trò nhất định, vừa là chủ thế vừa là khách thể
trong việc nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình. Đây là chức năng hết sức quan trọng,
mặc dù trong xã hội có nhiêu cộng đồng khác (nhà trường, các đoàn thể, chính
quyền, v.v.) cũng thực hiện chức năng này, nhưng không thể thay thế chức năng
giáo dục của gia đình. Với chức năng này, gia đình góp phần to lớn vào việc đào
tạo thê hệ trẻ, thê hệ tương lai của xã hội, cung cấp và nâng cao chất lượng nguồn
lao động để duy trì sự trường tồn của xã hội, đồng thời mỗi cá nhân từng bước
được xã hội hóa. Thực hiện tốt chức năng nuôi dưỡng, giáo dục đòi hỏi mỗi người
làm cha, làm mẹ phải có kiến thức cơ bản, tương đôi toàn diện về mọi mặt, văn
hóa, học vấn, đặc biệt là phương pháp giáo dục.
Khi vừa cất tiếng khóc chào đời thì gia đình chính là môi trường đầu tiên mà mỗi
con người chúng ta được tiếp xúc một cách trực tiếp, là nơi mà đại bộ phận con
người được giáo dục một cách thường xuyên như ca dao có câu “Dạy con từ thuở
còn thơ”. Nhân cách của trẻ đều được hình thành từ khi còn rất nhỏ vì thế gia đình
là một nhân tố rất quan trọng đóng góp vào sự hình thành nhân cách của mỗi thành
viên trong gia đình. Không chỉ là được giáo dục ngay từ khi còn nhỏ mà trong suốt
quá trình trưởng thành của mỗi con người vẫn luôn luôn có sự đồng hành của chức năng này.
3. Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng:
Cũng như các đơn vị kinh tế khác, gia đình tham gia trực tiếp vào quá trình sản
xuất và tái sản sản xuất ra tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Tuy nhiên, đặc thù
của gia đình mà các đơn vị kinh tế khác không có được, là ở chỗ, gia đình là đơn vị
duy nhất tham gia vào quá trình sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động cho xã hội.
Đây là chức năng cơ bản quan trọng của gia đình nhằm tạo ra của cải vật chất, đảm
bảo cho gia đình được ấm no, hạnh phúc góp phần vào sự phát triển của xã hội. Sự
tồn tại của kinh tế gia đình còn phát huy một cách có hiệu quả mọi tiềm năng về
vốn, sức lao động của từng gia đình, tăng thêm của cải cho gia đình và xã hội.
Tuy nhiên, gia đình không chỉ tham gia vào quá trình sản xuất và tái sản xuất ra
của cải và sức lao động, mà còn là một đơn vị tiêu dùng xã hội. Gia đình thực hiện
chức năng tổ chức tiêu dùng hàng hóa để duy trì đời sống của gia đình về lao động
sản xuất cũng như các sinh hoạt trong gia đình.
Cùng với sự phát triển của xã hội, ở các hình thức gia đình khác nhau và ngay cả ở
một hình thức gia đình, nhưng tùy theo từng giai đoạn phát triển của xã hội, chức
năng kinh tế của gia đình có sự khác nhau, về quy mô sản xuất, sở hữu tư liệu sản
xuất và cách thức tổ chức sản xuất và phân phối. Vị trí, vai trò của kinh tế gia đình
và mối quan hệ của kinh tế gia đình với các đơn vị kinh tế khác trong xã hội cũng
không hoàn toàn giống nhau.
Thực hiện tốt chức năng này, không những tạo cho gia đình có cơ sở để tổ chức
đời sống, nuôi dạy con cái, mà còn đóng góp to lớn đối với sự phát triển của xã
hội. VD:giáoviêncóthểnhậndạylớphọcthêm,côngnhâncóthểnhậnthêm
sản phẩm làm ngoài giờ, những người nông dân thì có thể tăng gia chăn nuôi, tranh
thủ buổi tối bện chổi rơm, đan giậu,… Mỗi gia đình cần luôn có ý thức phấn đấu
làm giàu và làm giàu một cách chính đáng, đồng thời biết cách hài hòa giữa đời
sống vật chất và tinh thần. Bên cạnh đó xã hội cũng cần phải có trách nhiệm chăm
lo chung cho mọi gia đình bằng cách phát triển kinh tế, văn hóa có như vậy thì
chức năng kinh tế của gia đình mới có thể hoàn thiện được.
4. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình:
Ngoài ba chức năng cơ bản trên thì gia đình còn có chức năng thõa mãn nhu cầu
tinh thần, tình cảm và chăm sóc sức khỏe.
Đây là chức năng thường xuyên của gia đình, bao gồm việc thỏa mãn nhu cầu tình
cảm, văn hóa, tinh thần cho các thành viên, đảm bảo sự cân bằng tâm lý, bảo vệ,
chăm sóc sức khỏe người ốm, người già, trẻ em. Sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau
giữa các thành viên trong gia đình vừa là nhu cầu tình cảm, vừa là trách nhiệm, đạo
lý, lương tâm của mỗi người. Do vậy, gia đình là chỗ dựa tình cảm cho mỗi cá
nhân, là nơi nương tựa về mặt tinh thần chứ không chỉ là nơi nương tựa về vật chất
của con người. Với việc duy trì tình cảm giữa các thành viên, gia đình có ý nghĩa
quyết định đến sự ổn định và phát triển của xã hội.
Với việc duy trì tình cảm giữa các thành viên, gia đình có ý nghĩa quyết định đến
sự ổn định và phát triển của xã hội. Bởi lẽ các chức năng của gia đình luôn song
hành với các chức năng của xã hội, khi quan hệ gia đình rạn nứt thì quan hệ tình
cảm trong xã hội cũng có nguy cơ bị phá vỡ.
Không phải ngẫu nhiên người ta gọi gia đình với cách gọi yêu thương, trìu mến,
ấm áp. Trong gia đình người già được chăm sóc khỏe mạnh, vui vẻ lạc quan,
truyền lại cho con cháu vốn sống, cách ứng xử đẹp. Nơi đó, con cái biết yêu kính,
vâng lời cha mẹ, vợ chồng quan tâm chia sẻ vui buồn cực nhọc với nhau. . Ở đó,
mỗi người cảm nhận được sự gần gũi, thân thương từ khoảng sân, mái nhà, chiếc
giường. . đến những quan hệ họ hàng thân thiết.
Khi một thành viên gặp biến cố, gia đình, dòng họ sẽ có sự quan tâm, chia sẻ và có
sự giúp đỡ để niềm vui được nhân đôi, nỗi buồn được vơi đi một nửa. Điều đó sẻ
tạo nên sợi dây vô hình nhưng bền chặt kết nối nghĩa tình những người trong gia
đình, dòng họ, thân tộc lại với nhau. Mối quan hệ đồng bào cũng từ đó mà hình
thành trong làng xóm, trong xã hội, trở thành nền tảng của tình yêu quê hương, đất nước, con người.
THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI CỦA CÁC CHỨC NĂNG GIA ĐÌNH
DƯỚI SỰ TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 Khái niệm:
Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư được gọi là Công nghiệp 4.0. Công
nghiệp 4.0 tập trung vào công nghệ kỹ thuật số từ những thập kỷ gần đây lên một
cấp độ hoàn toàn mới với sự trợ giúp của kết nối thông qua Internet vạn vật, truy
cập dữ liệu thời gian thực và giới thiệu các hệ thống vật lý không gian mạng.
Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang tạo ra nhiều thay đổi có ý nghĩa lớn đối với
sự phát triển của con người và xã hội, trong đó có sự phát triển gia đình. Cách
mạng công nghiệp 4.0 một mặt đem lại những diện mạo mới về văn hóa gia đình,
nhưng một mặt cũng đem lại những thách thức lớn đối với văn hóa gia đình. Từ
cách tiếp cận xã hội học, xét về bản chất, gia đình có 4 chức năng cơ bản (sinh sản,
giáo dục, kinh tế và tâm lí - tình cảm). Do sự va chạm giữa yếu tố truyền thống và
yếu tố hiện đại, sự chênh lệch giữa tốc độ biến đổi của cơ cấu xã hội và tốc độ biến
đổi của gia đình, chức năng của gia đình Việt Nam có những biến đổi theo phương
thức khác với gia đình phương Tây trong quá trình CNH - HĐH.
1. Chức năng sinh sản, tái sản xuất con người:
Với những thành tựu của y học hiện đại, việc sinh đẻ hiện nay được các gia đình
tiến hành một cách chủ động, tự giác khi xác định số lượng con cái và thời điểm
sinh con. Hơn nữa, việc sinh con còn chịu sự điều chỉnh bởi chính sách xã hội của
Nhà nước, tùy theo tình hình dân sô và nhu cầu về sức lao động của xã hội.
Công tác kế hoạch hóa gia đình, sinh đẻ có kế hoạch được thực hiện trong nhiều
năm cũng làm biến đổi mạnh mẽ quy mô, cơ cấu và chức năng của gia đình. Sự
chuyển đổi từ mô hình gia đình đông con sang mô hình chỉ có từ một đến hai con
đã khiến cho quy mô gia đình thay đổi. Quy mô gia đình nhỏ, gia đình hạt nhân
ngày càng trở nên phổ biến và được khẳng định. Chỉ trong vòng 40 năm quy mô
gia đình đã giảm từ 5.22 người/hộ năm 1979 xuống còn 4 người năm 2018.
Sự biến đổi về quy mô, cơ cấu và chức năng của gia đình cũng dẫn đến những biến
đổi về hệ thống giá trị gia đình. Trên thực tế, sự phát triển của quá trình công
nghiệp hóa đã khiến cho gia đình Việt Nam có điều kiện tiếp thu những giá trị văn
hóa, nhân văn mới của xã hội hiện đại. Chúng ta là một trong những quốc gia đầu
tiên trên thế giới đã ký thực hiện các công ước quốc tế về quyền của phụ nữ và quyền trẻ em.
Kết quả phân tích cho thấy đại bộ phận người dân đã tự nhận thức được giá trị của
con cái trong cuộc sống gia đình nói chung, chứ không chỉ đơn thuần thực hiện
theo qui định của chính sách dân số VD:
Theo kết quả điều tra gia đình Việt Nam năm 2006, tỉ lệ người đồng ý rằng
gia đình phải có nhiều con chiếm tỉ lệ khá thấp (18,6% người cao tuổi, 6,6%
người độ tuổi 18 - 60 và 2,8% vị thành niên), quan niệm “gia đình nhất thiết
phải có con trai” vẫn được một bộ phận đáng kể người dân ủng hộ (gần 37%
người độ tuổi 18 - 60), trong đó nhóm dân số nghèo có nhu cầu sinh con trai
nhiều hơn nhóm dân số giàu (45,5% ở nhóm có thu nhập thấp nhất, 26% ở
nhóm có thu nhập cao nhất). Lí do để giải thích vì sao phải có con trai chủ
yếu vẫn là “để có người nối dõi tông đường” (85,7%), “để có nơi nương tựa
lúc tuổi già” (54,2%) và “để có người làm việc lớn, việc nặng” (23,4%)…
Tuy nhiên, đã có khoảng 63% người trong độ tuổi 18 - 60 cho rằng không
nhất thiết phải có con trai.
Thêm vào đó, cho đến nay cấu trúc xã hội và quan điểm giá trị liên quan đến vấn
đề sinh sản và quan hệ tình dục cũng đã có sự thay đổi. Sự tự do trong việc mang
thai và sinh sản do các tiến bộ của y học mang lại cho con người, sự tự do trong
quan hệ tình dục nhờ vào sự phát triển của các phương pháp tránh thai và các loại
dịch vụ liên quan đến tình dục… đã góp phần mang lại sự thay đổi trên. Giờ đây
tình dục không chỉ mang ý nghĩa là một phương cách của việc sinh sản mà còn là
sự thể hiện của nhu cầu thể xác tự nhiên của loài người.
2. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục:
Sự cạnh tranh ngày càng gay gắt đã làm tăng kì vọng xã hội đối với tiêu chuẩn
chất lượng của việc dưỡng dục con cái VD:
Cha mẹ ở thành thị chăm lo đến việc học của con cao hơn so với nông thôn.
Tây Bắc là vùng có tỉ lệ cha mẹ ít quan tâm hơn so với các vùng còn lại,
người Hmông là dân tộc có tỉ lệ cha mẹ quan tâm tới việc học của con cái
thấp nhất 3 . Các nhóm cha mẹ có học vấn cao và có thu nhập cao thì mức
độ quan tâm đến việc học của con nhiều hơn và trẻ em ở độ tuổi 7 - 14 thì
nhận được sự quan tâm của cha mẹ đến việc học hơn là trẻ em trong độ tuổi 15 - 17.
Hiện tượng gia đình hạt nhân làm chặn đứng cơ hội truyền thụ những hiểu biết về
việc nuôi dạy con cái từ thế hệ ông bà cho thế hệ cha mẹ
VD: Thế hệ trẻ mới lập gia đình cho dù có nhận được sự giúp đỡ của bố mẹ
nhưng họ vẫn bộc lộ những bất đồng thế hệ, xung quanh việc nuôi dạy con cái vì
giới trẻ ngày nay trông cậy vào tri thức khoa học và chuyên môn hơn là dựa vào sự
hiểu biết của thế hệ cha mẹ
3. Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng:
Xét một cách khái quát, cho đến nay kinh tế gia đình đã có hai bước chuyển mang tính bước ngoặt:
- Thứ nhất, từ kinh tế tự cấp tự túc thành kinh tế hàng hóa, tức là từ một đơn
vị kinh tế khép kín sản xuất để đáp ứng nhu cầu của gia đình thành đơn vị
mà sản xuất chủ yếu để đáp ứng nhu cầu của người khác hay của xã hội.
- Thứ hai, từ đơn vị kinh tế mà đặc trưng là sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu
cầu của thị trường quốc gia thành tổ chức kinh tế của nền kinh tế thị trường
hiện đại đáp ứng nhu cầu của thị trường toàn cầu.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế và cạnh tranh sản phẩm hàng hóa với các nước
trong khu vực và trên thế giới, kinh tế gia đình gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại
trong việc chuyển sang sản xuất kinh doanh hàng hóa theo hướng chuyên sâu trong
kinh tế thị trường hiện đại. Nguyên nhân là do kinh tế gia đình phần lớn có quy mô
nhỏ, lao động ít và tự sản xuất là chính.
Sự phát triển của kinh tế hàng hóa và nguồn thu nhập bằng tiền của gia đinh tăng
lên làm cho gia đình trở thành một đơn vị tiêu dùng quan trọng của xã hội.
4. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình:
Theo truyền thống gia đình Việt Nam, các thế hệ trong gia đình có trách nhiệm và
niềm vui kính trọng, thương yêu, chăm sóc lẫn nhau. Tuy nhiên, hiện nay dưới tác
động của cách mạng công nghiệp 4.0, đạo đức vợ chồng, tình thương yêu anh chị
em, thái độ kính trên nhường dưới, tức là khá nhiều chuẩn mực đạo đức của gia đình đã bị suy giảm.
Không gian rộng mở hơn đối với cá nhân nhưng thu hẹp đối với gia đình: buồng
riêng của trẻ nhỏ thường tách biệt, các kênh giao tiếp riêng qua điện thoại và mạng
xã hội thường xuyên kết nối, những người lớn tuổi trở nên cô đơn hơn, nhu cầu, sở
thích và sự quan tâm rất đa dạng và riêng rẽ. Con trẻ dường như nhanh khôn hơn
nhưng không thích nghe lời, không quan trọng sự khuyên bảo của thế hệ lớn tuổi.
Một số người già bị ngược đãi bởi chính con cháu và người thân.
Phân công trách nhiệm thành viên trong gia đình trong cách mạng công nghiệp 4.0
cũng ít nhiều đã thay đổi: con cái ngày nay thường không trực tiếp chăm sóc cha
mẹ, biểu hiện của đạo hiếu không nhất thiết phải như truyền thống. Các dịch vụ
giám hộ người già, người bệnh, người cô đơn… bắt đầu được chú ý. Các viện
dưỡng lão tăng thêm, nhiều cơ sở tốt, nhưng cũng không ít cơ sở hoạt động thiếu
trách nhiệm. Các lễ nghi, phép tắc trong gia đình, những lề thói truyền thống… ít
được tuân thủ. Trẻ nhỏ được nuông chiều và tính ích kỷ, ỷ lại và đua đòi… dường
như tăng lên. Người già khi sức khỏe kém ngày càng cô đơn.
Giá trị chung thủy là giá trị rất được coi trọng trong quan hệ hôn nhân và gia đình,
được người dân đánh giá cao nhất, sau đó là đến các giá trị tình yêu thương, bình
đẳng, có con, chia sẻ việc nhà, hòa hợp, có thu nhập.
VD: Theo kết quả khảo sát từ Trần Thị Minh Thi (2019) “Các giá trị cơ bản
của gia đình Việt Nam”, có tới 41,6% coi chung thủy là “quan trọng”, và 56,7%
coi chung thủy là “rất quan trọng” trong hôn nhân. Đồng thời, nghiên cứu cho thấy
hiện tượng bảo lưu những tiêu chuẩn kép khắt khe với phụ nữ và xu hướng vị tha
hơn cho nam giới trong vấn đề chung thủy (giá trị “chung thủy quan trọng hơn với
phụ nữ” có tỷ lệ đồng ý cao là 66,2%). Điều này cho thấy, chung thủy vẫn là thước
đo phẩm giá của người phụ nữ khi họ được kỳ vọng là nhân tố giữ gìn cho sự êm
ấm, tốt đẹp của gia đình và xã hội.
Câu 1: Chức năng nào được coi là chức năng cơ bản và riêng có của gia đình?
A.Tái sản xuất ra con người
B.Tổ chức đời sống gia đình C.Giáo dục gia đình D.Thỏa mãn tâm sinh lý
Câu 2: Chức năng cơ bản của gia đình là:
a. Chức năng tái sản xuất ra con người
b. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục, kinh tế và tổ chức tiêu dùng
c. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình d. Cả a,b,c và d
Câu 3: Chức năng nào của gia đình có ảnh hưởng lâu dài và toàn diện đến cuộc đời
của mỗi thành viên trong gia đình? lựa chọn trả lời
A. Chức năng tái sản xuất ra con người
B. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục
C. chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng
D. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình
Câu 4: Hai chức năng thay đổi rõ rệt nhất của gia đình trong thời kỳ 4.0 là A. Kinh tế, giáo dục B. Sinh sản, kinh tế C. Giáo dục, sinh sản
D. Thõa mãn nhu cầu, sinh sản
Câu 5: Chọn câu đúng: Xu hướng biến đổi đặc trưng từ gia đình truyền thống đến
gia đình hiện đại ở Việt Nam là
A. Vai trò và vị trí của người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội được cải thiện
B. Các mối quan hệ trong gia đình trở nên bền chặt, gần gũi hơn
C. Qui mô gia đình Việt Nam đang dần dần mở rộng, gia đình hạt nhân chưa phổ biến
D. Chức năng của gia đình không có sự thay đổi
Document Outline

  • CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA GIA ĐÌNH VÀ THỰC TRẠNG BIẾN Đ
    • 1.Chức năng sinh sản, tái sản xuất con người
    • 2.Chức năng giáo dục nuôi dưỡng, giáo dục:
    • 3.Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng:
    • 4.Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tì
  • THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI CỦA CÁC CHỨC NĂNG GIA ĐÌNH DƯỚ
    • Khái niệm:
    • 1.Chức năng sinh sản, tái sản xuất con người:
    • 2.Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục:
    • 3.Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng:
    • 4.Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tì