









Preview text:
lOMoAR cPSD| 58702377
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
-----🙞🙞🕮🙞🙜-----
BÁO CÁO BÀI TẬP NHÓM LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đề bài: Chứng minh sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân
tố ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám
năm 1945. Em hãy nêu nhận thức của bản thân về vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Cách mạng Việt Nam hiện nay?
Lớp học phần: LLLSD1102(125)CLC_32 Lớp:
Quan hệ công chúng CLC 66A Giảng
viên: TS. Nguyễn Hữu Công Nhóm sinh viên Mã sinh viên Nguyễn Trúc An 11247441 Mai Thị Chúc Anh 11243563 Nguyễn Vân Anh 11247531 Nguyễn Ngô Mai Hương 11248015 Trần Thị Quỳnh Nhi 11247422 Hà Nội, tháng 9 năm 2025 lOMoAR cPSD| 58702377 LỜI MỞ ĐẦU
Trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam hiện đại, thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 đã đánh dấu sự chấm dứt ách thống trị thực dân, phát xít và mở ra kỷ
nguyên độc lập dân tộc. Trong nhiều công trình nghiên cứu chính thống và học thuật,
các nhà sử học đều khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân
tố có ý nghĩa quyết định dẫn tới thắng lợi này. Đảng không chỉ đề ra đường lối cách
mạng đúng đắn, tập hợp và tổ chức quần chúng nhân dân, mà còn nhạy bén nắm bắt
thời cơ lịch sử để phát động cuộc tổng khởi nghĩa toàn quốc. Nghiên cứu vấn đề này
không chỉ giúp nhìn nhận đúng yếu tố khách quan của thắng lợi Cách mạng Tháng
Tám, mà còn có ý nghĩa khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, đồng thời cũng giúp mỗi cá nhân nhận thức rõ
hơn về trách nhiệm trong việc phát huy vai trò đó trong thực tiễn.
1. Bối cảnh lịch sử: 1939-1945 1.1. Thế giới:
Cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai (1939–1945) đã làm thay đổi cục diện chính trị
quốc tế, tác động sâu sắc đến phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa. Khi phát
xít Đức, Ý, Nhật mở rộng chiến tranh xâm lược, trật tự thế giới bị đảo lộn. Nhiều
quốc gia châu Âu lần lượt rơi vào ách thống trị của phát xít Đức, trong khi ở châu Á,
Nhật Bản nhanh chóng bành trướng, tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Trung Quốc
(từ 1937) và mở rộng ảnh hưởng xuống khu vực Đông Nam Á. Đặc biệt, sau khi Nhật
Bản tấn công Trân Châu Cảng (1941), chiến tranh lan rộng ra toàn cầu, thu hút sự
tham gia của nhiều lực lượng quốc tế, trong đó có Liên Xô và Mỹ. Sự phát triển của
phong trào chống phát xít, cùng với thắng lợi từng bước của phe Đồng minh, đã mở
ra thời cơ cho các dân tộc thuộc địa đứng lên giành độc lập 1.2. Trong nước:
Ở Việt Nam, sự kiện tháng 9 năm 1940 khi phát xít Nhật tiến vào Đông Dương đã đặt
nhân dân ta dưới ách thống trị “một cổ hai tròng”: thực dân Pháp vừa tiếp tục duy trì
bộ máy cai trị, vừa nhường quyền khai thác, vơ vét kinh tế cho quân phiệt Nhật. Chính
sách bóc lột tàn bạo dẫn đến nạn đói khủng khiếp năm 1944–1945, cướp đi sinh mạng
của hơn 2 triệu người dân (Trần Văn Giàu, 1976). Trong bối cảnh đó, mâu thuẫn dân
tộc ngày càng gay gắt, nhu cầu giải phóng dân tộc trở thành đòi hỏi bức thiết của toàn
xã hội. Đồng thời, phong trào cách mạng trong nước có bước phát triển mới: sự ra
đời của Mặt trận Việt Minh (1941) dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương
đã tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân, chuẩn bị lực lượng chính trị và vũ trang
cho một cao trào cách mạng giải phóng dân tộc. Đây chính là điều kiện quan trọng để
dẫn tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
2. Sự lãnh đạo của đảng ta trong CM T8 1945.
2.1. Lãnh đạo về mặt chính trị
Sau khi Nguyễn Ái Quốc về nước và trực tiếp chủ trì Hội nghị Trung ương 8
(5/1941), Đảng đã xác định giải phóng dân tộc là nhiệm vụ bức thiết hàng đầu của
cách mạng, tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất để tập trung toàn lực cho độc lập
dân tộc. Trên cơ sở đó, Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh nhằm đoàn lOMoAR cPSD| 58702377
kết mọi tầng lớp nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc rộng rãi. Đồng thời,
Đảng đề ra nhiệm vụ xây dựng căn cứ địa cách mạng, coi đó là chỗ dựa vững chắc
cho phong trào, và chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang khi thời cơ chín muồi. Những quyết
định chiến lược này đã đem lại sự thống nhất cao về chính trị và tổ chức, tạo tiền đề
trực tiếp cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
2.2. Lãnh đạo xây dựng lực lượng CM
2.2.1. Xây dựng lực lượng CM
Trong quá trình chuẩn bị cho Cách mạng Tháng Tám, Đảng ta đặc biệt chú trọng xây
dựng lực lượng cách mạng, lấy lực lượng chính trị quần chúng làm nền tảng. Sau
những thất bại của các phong trào Bắc Sơn (1940), Nam Kỳ (1940), Đô Lương (1941),
Đảng rút ra yêu cầu cấp bách là phải có một tổ chức thống nhất để tập hợp và lãnh
đạo toàn dân. Hội nghị Trung ương 8 (5/1941) xác định giải phóng dân tộc là nhiệm
vụ hàng đầu, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết toàn dân. Từ đây,
các đoàn thể cứu quốc của công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, học sinh… phát
triển mạnh mẽ, thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Công tác tuyên truyền, giáo
dục chính trị được đẩy mạnh qua các tờ báo cách mạng như “Việt Nam độc lập”,
“Cứu quốc”, “Giải phóng”, góp phần nâng cao nhận thức và tinh thần đấu tranh. Đảng
đồng thời chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ gắn bó mật thiết với nhân dân.
Đặc biệt, “Đề cương Văn hóa Việt Nam” (1943) và sự ra đời của Hội Văn hóa Cứu
quốc đã lôi cuốn đông đảo trí thức, văn nghệ sĩ, sinh viên tham gia phong trào. Cùng
với các cao trào chống nạn đói, chống bắt phu, bắt lính, lực lượng cách mạng ngày
càng lớn mạnh, thực sự đã trở thành một khối chính trị quần chúng hùng hậu, là chỗ
dựa vững chắc và giữ vai trò quyết định trong thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945.
2.2.2. Xây dựng lực lượng vũ trang
Sau khởi nghĩa Bắc Sơn (9/1940), Đảng chủ trương phát triển lực lượng vũ trang từ
đội du kích Bắc Sơn, xây dựng căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai và thành lập Cứu quốc
quân. Ngày 28/1/1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước, trực tiếp chỉ đạo xây dựng
căn cứ địa Cao Bằng, từ đó mở rộng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang trong
Mặt trận Việt Minh. Hội nghị Trung ương 11/1939 và 5/1941 đều xác định con đường
giành độc lập tất yếu phải bằng khởi nghĩa vũ trang, vừa tiến hành khởi nghĩa từng
phần, vừa chuẩn bị Tổng khởi nghĩa. Năm 1944, tình hình thế giới và trong nước
chuyển biến nhanh, Đảng và Mặt trận Việt Minh chủ trương gấp rút sửa soạn khởi
nghĩa và sắm vũ khí. Đến tháng 10/1944, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thư gửi đồng
bào toàn quốc đã nhấn mạnh: cơ hội giải phóng chỉ trong “một năm hoặc một năm
rưỡi nữa, thời gian rất gấp, ta phải làm nhanh”. Đặc biệt, theo chỉ thị của Người, ngày
22/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập, sau đó hợp
nhất với Cứu quốc quân thành Việt Nam Giải phóng quân (5/1945), trở thành nòng
cốt cho lực lượng vũ trang cách mạng.
2.2.3. Xây dựng căn cứ địa cách mạng
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh coi việc xây dựng căn cứ địa là nhiệm vụ chiến lược,
làm bàn đạp cho khởi nghĩa từng phần và tiến tới tổng khởi nghĩa. Từ 19411944,
Đảng đã chỉ đạo xây dựng căn cứ Bắc Sơn-Võ Nhai, Cao Bằng, phát triển thành các lOMoAR cPSD| 58702377
chiến khu Cao - Bắc - Lạng, Thái - Tuyên - Hà và nhiều căn cứ khác như Trần Hưng
Đạo, Quang Trung, Vĩnh Sơn - Núi Lớn… Đặc biệt, ngày 4/6/1945, khu giải phóng
Việt Bắc ra đời, gồm 6 tỉnh và một phần của các tỉnh lân cận, trở thành căn cứ địa
hoàn chỉnh về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa - xã hội. Tại đây, lực lượng vũ trang
được tổ chức, củng cố và phát triển mạnh, trở thành nòng cốt cho các cuộc khởi nghĩa.
Các căn cứ địa còn là nơi dự trữ lương thực, che chở cho cơ quan lãnh đạo, đồng thời
là hậu phương trực tiếp cho các trận đánh tiêu biểu như Đồn Bàng (Kiến An), Tam
Đảo (Vĩnh Yên), Yên Hưng, Quảng Yên… góp phần đẩy mạnh cao trào khởi nghĩa
từng phần trong cả nước. Việt Bắc trở thành “thủ đô kháng chiến”, chỗ dựa vững chắc
cho toàn dân tộc tiến tới Tổng khởi nghĩa.
2.2.4. Kịp thời nắm bắt thời cơ CM, kiên quyết phát động khởi nghĩa giành chính quyền
Tháng 8/1945, khi Nhật đầu hàng Đồng minh, bộ máy thống trị ở Đông Dương rệu
rã, đất nước rơi vào khoảng trống quyền lực, tạo nên thời cơ “ngàn năm có một” để
dân tộc vùng lên giành chính quyền. Với sự lãnh đạo sáng suốt, kịp thời của Đảng,
ngày 13/8, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc được thành lập và ban bố “Quân lệnh số 1”
phát động Tổng khởi nghĩa. Hội nghị toàn quốc của Đảng (14-15/8/1945) tại Tân Trào
quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa trước khi quân Đồng minh kéo vào. Ngay
sau đó, Quốc dân Đại hội được triệu tập, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh
và bầu Ủy ban Dân tộc Giải phóng do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch - một bước chuyển
quan trọng từ khởi nghĩa vũ trang sang xây dựng chính quyền mới. Dưới sự chỉ đạo
khẩn trương, thống nhất và linh hoạt từ Trung ương đến địa phương, phong trào khởi
nghĩa đã nổ ra nhanh chóng, ít đổ máu và giành thắng lợi liên tiếp: Hà Nội (19/8),
Huế (23/8), Sài Gòn (25/8). Chỉ trong vòng nửa tháng, chính quyền trên cả nước về
tay nhân dân. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay
mặt Đảng và dân tộc đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
2.2.5. Kết quả cuộc CMT8
Trong vòng 15 ngày (14-28/8/1945), dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước
đã đồng loạt vùng lên giành chính quyền và giành thắng lợi hoàn toàn. Đây là thành
quả của 15 năm đấu tranh kiên cường, trải qua ba cuộc tổng diễn tập lớn: cao trào
1939-1931, phong trào dân chủ 1939-1939 và cao trào giải phóng dân tộc 19391945.
Thắng lợi của CMT8 đã khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ
nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Cuộc cách mạng đã chấm dứt
ách thống trị gần một thế kỷ của thực dân, lật đổ chế độ phong kiến, đưa nhân dân ta
trở thành người làm chủ đất nước. Đảng Cộng sản từ một đảng hoạt động bí mật đã
trở thành đảng cầm quyền, lãnh đạo một nhà nước độc lập. Đây cũng chính là bước
ngoặt có ý nghĩa lịch sử vĩ đại trong tiến trình phát triển của dân tộc Việt Nam. 2.2.6. Kết luận
Cách mạng Tháng Tám 1945 bùng nổ trong bối cảnh trong và ngoài nước có nhiều
thuận lợi, nhất là khi phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, Đông Dương rơi vào khoảng
trống quyền lực. Nhưng thắng lợi vĩ đại ấy không phải ngẫu nhiên mà có được, đó là
kết quả của sự lãnh đạo sáng suốt, nhạy bén và kịp thời của Đảng Cộng sản Đông lOMoAR cPSD| 58702377
Dương. Đảng đã dũng cảm quyết định chuyển từ khởi nghĩa từng phần sang Tổng
khởi nghĩa toàn quốc, biến thời cơ “ngàn năm có một” thành hiện thực. Nếu để chậm
trễ, khi quân Đồng minh kéo vào thì cơ hội sẽ trôi qua, cách mạng có nguy cơ thất
bại. Chính sự quyết đoán của Đảng đã đưa dân tộc ta thoát khỏi cảnh “một cổ hai
tròng”, từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ. Thắng lợi ấy khẳng định chân lý:
sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi, đưa dân tộc Việt
Nam thoát khỏi đêm trường nô lệ và bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do.
3. Sự lãnh đạo của ĐCS VN đối với CMVN ngày nay là 1 tất yếu lịch sử
3.1. Thời cơ và thách thức của cách mạng Việt Nam hiện nay
Bước sang giai đoạn phát triển mới, cách mạng Việt Nam đứng trước một thời kỳ
lịch sử có ý nghĩa đặc biệt quan trọng: thời kỳ đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công
cuộc đổi mới, công nghiệp hóa – hiện đại hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng, thực hiện
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trong bối cảnh đó,
việc nhận diện rõ những thời cơ và thách thức là cơ sở để Đảng ta hoạch định đường
lối lãnh đạo đúng đắn, phát huy vai trò “nhân tố quyết định thắng lợi” của cách mạng
trong giai đoạn hiện nay. a. Thời cơ
Thứ nhất, bối cảnh quốc tế tạo nhiều thuận lợi cho phát triển đất nước. Xu thế hòa
bình, hợp tác, liên kết khu vực và toàn cầu vẫn là dòng chảy chính của thời đại. Việt
Nam đã trở thành thành viên có trách nhiệm, uy tín của cộng đồng quốc tế, thiết lập
quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với hầu hết các trung tâm kinh tế –
chính trị lớn như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, EU, Ấn Độ, Nga; tham gia các hiệp
định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, RCEP. Điều đó mở ra không
gian phát triển rộng lớn cho kinh tế Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng thị
trường, thu hút vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế.
Thứ hai, thành tựu hơn 35 năm đổi mới đã tạo thế và lực mới cho cách mạng. Nền
kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016–2020 khoảng 6%/năm, quy
mô GDP năm 2022 đứng trong nhóm 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Cơ cấu kinh tế
chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đời sống nhân dân
được cải thiện rõ rệt, tỉ lệ hộ nghèo giảm còn khoảng 2,93% năm 2022 (theo chuẩn
nghèo đa chiều). Những thành tựu này củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự
lãnh đạo của Đảng, là tiền đề để đất nước bước vào giai đoạn phát triển nhanh và bền vững.
Thứ ba, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang đến nhiều cơ hội để
rút ngắn khoảng cách phát triển. Việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, công
nghệ tự động hóa, chuyển đổi số giúp nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản
phẩm, mở ra cơ hội cho Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Thứ tư, ổn định chính trị – xã hội và khối đại đoàn kết dân tộc tiếp tục được
củng cố. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, đảm
bảo định hướng phát triển nhất quán. Quốc phòng – an ninh được giữ vững, tạo môi lOMoAR cPSD| 58702377
trường hòa bình để phát triển. Lòng yêu nước, ý chí vươn lên của dân tộc là động
lực quan trọng để đất nước tiếp tục phát triển. b. Thách thức
Bên cạnh những thành tựu nổi bật trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước,
cách mạng Việt Nam hiện nay vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức to lớn, đòi hỏi
sự lãnh đạo chặt chẽ, kiên định và sáng suốt của Đảng.
Trước hết, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế vẫn hiện hữu. Năng suất lao động
của Việt Nam chỉ bằng khoảng 7% năng suất lao động của Singapore, 19% của
Malaysia và 37% của Thái Lan (Tổng cục Thống kê, 2022). Nếu không tận dụng được
cơ hội do cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại, Việt Nam có thể rơi vào
“bẫy thu nhập trung bình” kéo dài, khó tạo ra sự bứt phá trong phát triển. Bên cạnh
đó, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chưa hoàn thiện,
chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Việc thu hút và sử dụng vốn
đầu tư nước ngoài còn thiếu chọn lọc, chưa tạo được liên kết và chuyển giao công
nghệ hiệu quả cho doanh nghiệp trong nước. Xuất khẩu tăng nhanh nhưng giá trị gia
tăng thấp, trong khi năng lực bảo vệ thị trường nội địa và xử lý tranh chấp thương
mại quốc tế còn nhiều hạn chế.
Thứ hai, quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng mang lại nhiều cơ hội song cũng
tạo áp lực cạnh tranh gay gắt. Doanh nghiệp trong nước phải đối mặt trực diện với
các tập đoàn đa quốc gia hùng mạnh, nguy cơ phụ thuộc vào thị trường bên ngoài
ngày càng lớn. Những biến động toàn cầu như xung đột địa chính trị, khủng hoảng
kinh tế, dịch bệnh hay biến đổi khí hậu đều tác động tiêu cực đến nền kinh tế và đời
sống nhân dân trong nước.
Thứ ba, các vấn đề xã hội phức tạp tiếp tục nảy sinh. Tình trạng phân hóa giàu
nghèo, di cư lao động tự do, ô nhiễm môi trường là những vấn đề cấp bách. Các tệ
nạn xã hội như ma túy, buôn bán người, bạo lực gia đình và đặc biệt là tội phạm công
nghệ cao gây bất ổn xã hội nếu không được kiểm soát hiệu quả.
Thứ tư, nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là một thách
thức nghiêm trọng. Một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống; tình trạng quan liêu, tham nhũng, lợi ích nhóm làm giảm sút niềm
tin của nhân dân. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã chỉ rõ đây là nguy cơ trực
tiếp đe dọa vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ nếu không kiên
quyết, kiên trì đấu tranh khắc phục. Tham nhũng, tiêu cực trong khu vực công, nhất
là ở lĩnh vực quản lý đất đai, tài chính, đầu tư công vẫn diễn biến phức tạp, với thủ đoạn ngày càng tinh vi.
Cuối cùng, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa
bình” bằng nhiều thủ đoạn ngày càng tinh vi, đặc biệt trên không gian mạng. Chúng
triệt để lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo”, “dân tộc” để chống
phá Đảng và Nhà nước, gieo rắc thông tin sai lệch, kích động tâm lý hoài nghi, chia
rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tác động trực tiếp đến ổn định chính trị – xã hội.
Công tác bảo đảm an ninh mạng, an toàn thông tin của ta vẫn còn hạn chế, chưa
theo kịp diễn biến mới của tình hình. lOMoAR cPSD| 58702377
3.2.1. Yêu cầu sự lãnh đạo của Đảng là một tất yếu khách quan
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ khi ra đời đến nay đã chứng minh một cách rõ ràng
rằng sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là yêu cầu khách quan, là nhân tố quyết định
mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, từ cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 đến công cuộc
đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay. Tính tất yếu ấy bắt nguồn từ những quy luật phát triển
của xã hội Việt Nam, từ xu thế thời đại và từ chính những thành tựu hiện thực mà đất nước đã đạt được.
Thứ nhất, xuất phát từ mâu thuẫn xã hội và yêu cầu giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp. Khi thực dân Pháp xâm lược và biến Việt Nam thành một nước thuộc địa nửa phong
kiến, xã hội Việt Nam xuất hiện hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn dân tộc giữa nhân dân Việt
Nam với đế quốc xâm lược, và mâu thuẫn giai cấp giữa nông dân với địa chủ phong kiến.
Trong đó, mâu thuẫn dân tộc là mâu thuẫn chủ yếu, đặt ra nhiệm vụ cấp bách là giành độc
lập dân tộc. Tuy nhiên, những phong trào yêu nước trước khi Đảng ra đời - dù anh dũng và
giàu tinh thần dân tộc - đều thất bại vì thiếu một đường lối cách mạng khoa học và một tổ
chức lãnh đạo thống nhất. Sự bế tắc đó tất yếu đòi hỏi phải có một lực lượng chính trị đủ tầm
để tập hợp, định hướng và dẫn dắt toàn dân.
Thứ hai, chủ nghĩa Mác - Lênin cung cấp cơ sở lý luận và phương pháp đấu tranh
khoa học. Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 mở ra thời đại mới của phong trào giải
phóng dân tộc, chứng minh sức mạnh của con đường cách mạng vô sản. Nguyễn Ái Quốc đã
tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và khẳng định chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới giải
phóng được dân tộc thuộc địa. Sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam đã dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
ngày 3/2/1930 - một kết quả hoàn toàn khách quan của yêu cầu lịch sử.
Thứ ba, giai cấp công nhân và các lực lượng cách mạng cần một tổ chức lãnh đạo
thống nhất. Trong quá trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất và thứ hai của thực dân Pháp,
giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và nhanh chóng trưởng thành. Đây là giai cấp tiên tiến,
có kỷ luật, có khả năng tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và gắn bó chặt chẽ với nông dân lực
lượng đông đảo của dân tộc. Để giai cấp công nhân phát huy vai trò lãnh đạo, cần có một
chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, đủ sức quy tụ và tổ chức các lực lượng yêu
nước thành một phong trào cách mạng thống nhất.
Thứ tư, thực tiễn cách mạng đã chứng minh vai trò quyết định của Đảng. Ngay từ
khi thành lập, Đảng đã đề ra Cương lĩnh chính trị đúng đắn, xác định nhiệm vụ chiến lược
là giải phóng dân tộc, tiến tới chủ nghĩa xã hội, xây dựng khối liên minh công - nông - trí
thức, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Chính sự lãnh đạo kiên quyết, linh
hoạt của Đảng đã làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, khai sinh Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - một sự kiện mang tính bước ngoặt trong lịch sử dân tộc.
Nếu Đảng không kịp thời nắm bắt và phát động toàn dân đứng lên khởi nghĩa, thời cơ quý
báu sẽ trôi qua, các lực lượng đồng minh kéo vào Đông Dương và mọi hy sinh gian khổ
của nhân dân sẽ bị bỏ lỡ. lOMoAR cPSD| 58702377
Thứ năm, trong bối cảnh hiện nay, sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục là nhân tố sống
còn. Bước vào thế kỷ XXI, Việt Nam đang tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Sau
gần bốn thập kỷ đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn: kinh tế tăng trưởng
liên tục, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại, đời sống nhân dân ngày càng được
nâng cao, chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh vững chắc, vị thế quốc tế không
ngừng được nâng cao. Tuy nhiên, quá trình hội nhập cũng đặt ra nhiều thách thức: cạnh tranh
chiến lược giữa các cường quốc, biến đổi khí hậu, khoảng cách giàu nghèo, nguy cơ “diễn
biến hòa bình” và những âm mưu chống phá từ các thế lực thù địch. Để giữ vững độc lập
dân tộc, chủ quyền quốc gia và định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam không thể thiếu một
lực lượng lãnh đạo đủ bản lĩnh, kinh nghiệm và tầm nhìn chiến lược - đó chính là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ thực tiễn lịch sử và bối cảnh hiện nay có thể khẳng định: sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam là một tất yếu khách quan, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Nếu như trong Cách mạng Tháng Tám 1945, Đảng đã nắm bắt thời cơ, đề
ra đường lối đúng đắn và lãnh đạo toàn dân giành độc lập, thì ngày nay, Đảng tiếp tục giữ
vai trò trung tâm trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước theo
con đường xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Đây là quy luật khách quan của cách mạng
Việt Nam, đồng thời cũng là bảo đảm vững chắc cho tương lai của dân tộc. 3.2.2. Những
việc bản thân cần phải làm để bảo vệ sự lãnh đạo của ĐCS VN đối với CM của nước ta hiện nay.
Từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, chúng em đã được học và cảm nhận sâu sắc
rằng: không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thì sẽ không có độc lập, tự
do, không có ngày hôm nay của dân tộc ta. Đảng đã dẫn dắt nhân dân vượt qua bao
đau thương, gian khổ, giành lại non sông gấm vóc, và tiếp tục đưa đất nước tiến lên
con đường xã hội chủ nghĩa. Nghĩ đến điều đó, trong lòng chúng em luôn dâng lên
niềm tự hào và biết ơn vô hạn đối với Đảng quang vinh. Và chúng em cũng hiểu rằng,
thế hệ trẻ hôm nay phải có trách nhiệm bảo vệ sự lãnh đạo của Đảng bằng những việc
làm cụ thể từ chính bản thân mình.
Em luôn tâm niệm rằng, hiểu biết và nhận thức đúng đắn về vai trò của Đảng là nhiệm
vụ trước hết của mỗi người trẻ như em. Vì vậy, việc học tập và nắm vững các kiến
thức về Đảng, đặc biệt là học tốt môn Lịch sử Đảng, là việc làm đầu tiên mà em phải
đặt lên hàng đầu. Nhờ những bài học, những lời dạy tận tâm của các thầy cô, em hiểu
được con đường cách mạng mà Đảng đã và đang dẫn dắt nhân dân, hiểu được giá trị
của độc lập, tự do và sự phát triển mà chúng ta đang có hôm nay. Việc học không chỉ
để ghi nhớ kiến thức, mà quan trọng hơn là để nuôi dưỡng trong em niềm tin vững
chắc vào con đường cách mạng mà Đảng ta đã lựa chọn.
Bên cạnh đó, em luôn xác định cho mình trách nhiệm kiên quyết đấu tranh với những
âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Thực tế hiện nay,
trên mạng xã hội xuất hiện không ít thông tin bịa đặt, xuyên tạc, thậm chí phủ nhận
những thành quả cách mạng mà Đảng và nhân dân ta đã đạt được. Điển hình là mỗi lOMoAR cPSD| 58702377
dịp kỷ niệm ngày Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước 30/4, vẫn còn có những
luận điệu sai trái của phe phản động cố tình phủ nhận thắng lợi vĩ đại của dân tộc
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trước những thông tin đó, em không hề lan truyền lung
tung mà mạnh dạn phản bác ngay, khẳng định sự thật rằng ngày 30/4 là ngày toàn dân
tộc Việt Nam giành được độc lập, thống nhất non sông, là mốc son chói lọi trong lịch sử.
Em nhận thức sâu sắc rằng, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố then
chốt định hướng và dẫn dắt công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, giữ vững độc
lập, tự do và ổn định xã hội. Chính vì vậy, bản thân em thấy cần trở thành một người
tích cực tuyên truyền, phổ biến quan điểm, chủ trương của Đảng đến xã hội, đặc biệt
là thế hệ trẻ xung quanh mình. Em thường chia sẻ những bài học quý giá từ môn Lịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam, những câu chuyện về các chặng đường cách mạng vẻ
vang và những thành tựu mà nhân dân ta đã đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng
thông qua các buổi thảo luận nhóm hay trong các hoạt động đoàn thể. Ngoài ra, em
còn tham gia các hoạt động chính luận như “Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng lần thứ năm, năm 2025 trên địa bàn thành phố Hà Nội” do Đoàn
Thanh niên Đại học Kinh tế Quốc dân phát động, nơi em trực tiếp phản bác những ý
kiến xuyên tạc, bịa đặt, đồng thời góp tiếng nói lan tỏa niềm tin vào sự lãnh đạo của
Đảng. Những việc làm này, dù nhỏ bé, nhưng theo em, đều là cách thiết thực để bảo
vệ uy tín, khẳng định vai trò lãnh đạo đúng đắn và quan trọng của Đảng trong mọi
mặt của đời sống xã hội.
Trái tim em luôn ngập tràn niềm tự hào khi nghĩ về những con đường cách mạng vẻ
vang mà nhân dân ta đang đi dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Niềm tự hào ấy
thôi thúc em không ngừng phấn đấu, rèn luyện bản thân về mọi mặt từ phẩm chất đạo
đức, tri thức đến kỹ năng sống để một ngày không xa có thể gia nhập vào hàng ngũ
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã
xác định: “Tăng cường giáo dục thế hệ trẻ về lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống
văn hóa, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, khát
vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với xã hội”. Với em,
đây chính là kim chỉ nam để rèn luyện và phấn đấu. Thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh
cần mang trong mình những phẩm chất đạo đức tốt đẹp, lòng yêu nước nồng nàn,
giàu lòng nhân ái nghĩa tình, cần cù sáng tạo, từ đó phấn đấu trở thành những Đảng
viên mẫu mực của đất nước. Em hiểu rằng từng nỗ lực học tập, từng hành động tham
gia hoạt động xã hội, từng chia sẻ tri thức và lý tưởng đều góp phần bảo vệ sự lãnh
đạo của Đảng, đồng thời chứng minh khát vọng cống hiến và tình yêu nước nồng nàn trong trái tim em.
Khi viết những dòng này, em cảm thấy trái tim mình ngập tràn niềm tự hào, bởi được
sinh ra, lớn lên và học tập dưới ngọn cờ đỏ sao vàng rực rỡ - biểu tượng của độc lập
dân tộc và lý tưởng cộng sản cao đẹp. Bảo vệ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam không chỉ là nhiệm vụ chính trị chung của toàn dân, mà còn là trách nhiệm cụ
thể của mỗi cá nhân, đặc biệt là thế hệ trẻ hôm nay. Em tin rằng, bằng tất cả sự cố lOMoAR cPSD| 58702377
gắng học tập, rèn luyện, tham gia các hoạt động xã hội và đấu tranh phản bác những
thế lực thù địch sai trái, chúng em sẽ góp phần tuy nhỏ bé nhưng vô cùng ý nghĩa để
giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, đưa đất nước Việt Nam ngày càng
phát triển giàu mạnh, văn minh và hùng cường. KẾT LUẬN
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch
sử cách mạng dân tộc, chấm dứt tình trạng khủng hoảng đường lối cứu nước kéo dài
nhiều thập kỷ. Trong thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng đã lãnh đạo nhân
dân giành thắng lợi trên mọi mặt trận, đưa dân tộc thoát khỏi ách nô lệ, còn trong
thời kỳ hòa bình, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiếp tục đạt được những
thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội. Qua mỗi giai đoạn lịch sử,
Đảng luôn là nhân tố quyết định để đất nước giữ vững độc lập và không ngừng phát
triển. Đặc biệt, thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã thể hiện rõ
vai trò lãnh đạo sáng suốt của Đảng trong buổi đầu thành lập, mở ra kỷ nguyên mới
cho dân tộc – kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trách nhiệm
của thế hệ trẻ hôm nay là tiếp nối truyền thống cách mạng, không ngừng học tập,
rèn luyện, cống hiến để góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước, hướng
tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Qua đó càng
khẳng định rằng sự lãnh đạo của Đảng chính là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam, xứng đáng là Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh Đảng do Chủ
tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sáng lập và rèn luyện.