Chứng minh sự ra đời của ĐCSVN là tất yếu - Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.

Thông tin:
14 trang 7 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Chứng minh sự ra đời của ĐCSVN là tất yếu - Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.

42 21 lượt tải Tải xuống
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN: KẾ TOÁN-KIỂM TOÁN
--------- ----------




BÀI TẬP LỚN
MÔN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
Đề bài: Chứng minh sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam là một tất yếu lịch sử. Em hãy
nêu nhận thức của bản thân mình về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam đối với Cách mạng và dân tộc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Họ và tên: Hồ Minh Thái
Mã sinh viên: 11194633
Lớp học phần: Lịch sử Đảng Cộng sản 05
Giảng viên: TS. Nguyễn Hữu Công
Hà Nội - 2021
MỤC LỤC
I. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu lịch sử........................1
1. Bối cảnh lịch sử thế giới và trong nước..........................................................1
1.1. Bối cảnh lịch sử thế giới.............................................................................1
1.2. Bối cảnh lịch sử trong nước.......................................................................1
2. Yêu cầu của Cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX........................................3
II. Nhận thức của bản thân về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
đối với dân tộc và Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.....................4
1. Tình hình Việt Nam hiện nay..........................................................................4
1.1. Thành tựu....................................................................................................4
1.2. Hạn chế và nguyên nhân............................................................................6
1.3. Yêu cầu của Cách mạng Việt Nam hiện nay..............................................8
2. Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Cách mạng Việt Nam hiện
nay..........................................................................................................................8
3. Trách nhiệm của bản thân trong việc đấu tranh chống lại sự xuyên tạc
của kẻ thù, bảo vệ Đảng quyết tâm đi theo con đường Cách mạng
Đảng, Bác Hồ, dân tộc Việt Nam đã lựa chọn..................................................10
I. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu lịch sử
1. Bối cảnh lịch sử thế giới và trong nước
1.1. Bối cảnh lịch sử thế giới
Từ nửa sau thế kỷ XIX, các nước bản Âu- Mỹ sự chuyển biến mạnh mẽ
trong đời sống kinh tế - xã hội. Chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ giai
đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ nghĩa), đẩy
mạnh quá trình xâm chiếm dịch các nước nhỏ, yếu châu Á, châu Phi
khu vực Mỹ-Latinh, biến các quốc gia này thành thuộc địa khiến cho mâu thuẫn
giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc ngày càng gay gắt. Trước bối
cảnh đó, nhân dân các dân tộc bị áp bức đã đứng lên đấu tranh tự giải phóng khỏi
ách thực dân, tạo thành phong trào giải phóng dân tộc mạnh mẽ, rộng khắp. Cùng
với phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản ở các nước tư
bản chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc các nước thuộc địa trở thành một
bộ phận quan trọng trong cuộc đấu tranh chung chống tư bản, thực dân.
Trong bối cảnh đó, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã làm
biến đổi sâu sắc tình hình thế giới. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga
không chỉ ý nghĩa to lớn đối với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đối với các
nước bản, còn tác động sâu sắc đến phong trào giải phóng dân tộc các
thuộc địa. Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở ra cho nhân loại con đường hiện
thực để thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, cổ nhân dân các nước, đồng thời cũng
dẫn tới sự ra đời hàng loạt các Đảng Cộng sản. Tình hình đó đòi hỏi phải có một tổ
chức quốc tế đứng ra lãnh đạo, tập trung sức mạnh của các phong trào ở tất cả các
quốc gia, dân tộc. Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản, do Lê-nin đứng đầu, với khẩu
hiệu “Vô sản thế giới các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”, được thành lập, trở
thành bộ tham mưu chiến đấu, tổ chức lãnh đạo phong trào cách mạng sản thế
giới. Quốc tế Cộng sản không những vạch đường hướng chiến lược cho cách mạng
sản cả đối với các vấn đề dân tộc thuộc địa, giúp đỡ, chỉ đạo phong trào
giải phóng dân tộc.
Như vậy, thể nói rằng, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga 1917
cùng sự ra đời của Quốc tế Cộng sản 3 đã tác động to lớn, sâu sắc đến phong trào
giải phóng dân tộc phong trào đấu tranh của giai cấp sản trên toàn thế giới
nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
1.2. Bối cảnh lịch sử trong nước
Ngày 1-9-2858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam tại Đà Nẵng. Tuy
nhiên, trước sự kháng cự quyết liệt ta, chúng đã bước đầu thất bại và chuyển hướng
sang tấn công 3 tỉnh miền Đông rồi miền Tây thôn tính xong Nam kỳ cuối
những năm 60. Tiếp đó, chúng lần lượt đánh chiếm Bắc Kỳ thành Hà Nội 2 lần
1
vào năm 1873 và 1882. Trước sự xâm lược trắng trợn của thực dân Pháp, triều đình
phong kiến nhà Nguyễn vốn đang lâm vào khủng hoảng trầm trọng lúc bấy giờ, đã
hoàn toàn đầu hàng Pháp quua bản Hàng ước Hác-măng (1883) Hiệp định Pa-
tơ-nốt (1884), đồng nghĩa với việc chấp nhận sự đô hộ của thực dân Pháp trên toàn
cõi Việt Nam.
Đến năm 1897, thực dân Pháp đã áp đặt xong bộ máy cai trị nước ta bắt
đầu tiến hành các cuộc khai thác thuộc địa lần một (1897-1914) lần hai (1919-
1929) với những chính sách phản động khắc nhằm biến Việt Nam nói riêng
bán đảo Đông Dương nói chung thành thị trường tiêu thụ hàng hóa của “chính
quốc”, đồng thời ra sức vét tài nguyên, bóc lột sức lao động rẻ mạt của người
bản xứ, cùng nhiều hình thức thuế khóa nặng nề.
, thực dân Pháp dùng chinh sách chia để trị. Chúng chia nước taVề chính trị
thành 3 kỳ hòng gây chia rẽ, suy yếu sự đoàn kết, sức mạnh tổng hợp của nhân dân
ta. Chúng thực hiện chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp nặng nề, mọi quyền
hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị người Pháp, biến vua quan nhà
Nguyễn thành bù nhìn tay sai.
, thực dân Pháp thi hành chính sách rất bảo thủ, du nhập phương thứcVề kinh tế
sản xuất tư bản chủ nghĩa một cách nửa vời khiến cho nền kinh tế Việt Nam bị kìm
hãm trong lạc hậu vừa mang tính chất bản vừa mang tính chất phong kiến.
Chúng ra sức vét tài nguyên, tăng thuế gấp nhiều lần, độc quyền thuốc phiện,
rượu, muối. Đặc biệt man rợ chế độ mộ phu của chúng cho các đồn điền cao su
mỏ than, đồng thời cướp đoạt ruộng đất của người nông dân khiến đời sống
nhân dân vô cùng cực khổ.
, chúng thực hiện chính sách “ngu dân” triệt để nhằm dễ bềVề văn hóa – xã hội
cai trị, lập nhà nhiều hơn trường học, đồng thời du nhập những giá trị phản văn
hóa, duy trì tệ nạn hội vốn của chế độ phong kiến tạo ra nhiều tệ nạn
hội mới; dùng rượu cồn thuốc phiện để đầu độc các thế hệ người Việt Nam, ra
sức tuyên truyền tư tưởng “khai hóa văn minh” của nước “Đại Pháp”,…
Chế độ áp bức tàn bạo về chính trị, bóc lột về kinh tế, dịch về văn hóa của
thực dân Pháp đã dẫn đến những biến đổi sâu sắc tình hình chính trị, kinh tế, xã hội
Việt Nam lúc bấy giờ.
, làm cho tính chất xã hội Việt Nam thay đổi từ xã hội phong kiến độcThứ nhất
lập sang xã hội thuộc địa nửa phong kiến.
, các mâu thuẫn bản chủ yếu trong hội cũng thay đổi. hộiThứ hai
Việt Nam bấy giờ có 2 mâu thuẫn cơ bản:
2
Một là, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp và phong kiến phản
động mâu thuẫn mới xuất hiện nhưng mâu thuẫn chủ yếu nhất ngày càng
gay gắt nhất
Hai là, mâu thuẫn của giai cấp nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến
, các giai cấp bị phân hóa triệt để. Ngoài 2 giai cấp vốn địa chủThứ ba
phong kiến và nông dân, xã hội Việt Nam xuất hiện những giai cấp, tầng lớp mới là
công nhân, tư sản và tiểu tư sản.
Thái độ chính trị của các giai cấp cũng sự phân hóa sâu sắc. Theo đó, giai
cấp nông nhân chiếm số lượng đông đảo nhất và có mâu thuẫn gay gắt với đế quốc,
phong kiến; giai cấp công nhân tuy ra đời một nước thuộc địa kém phát triển
nhưng họ vẫn những đặc điểm của giai cấp công nhân quốc tế, lực lượng
chính trị tiên tiến nhất của hội Việt Nam lúc này; tầng lớp tiểu sản thì nhạy
bén về thời cuộc (đặc biệt trí thức) song do địa vị bấp bênh, lập trường chưa đủ
kiên định nên hay hoang mang, dao động. Còn lại, trong giai cấp địa chủ cùng
sản đều có sự phân hóa; một bộ phận thì gắn kết lợi ích, cấu kết với thực dân Pháp,
trở thành tay sai đắc lực của chúng trong việc bóc lột, đàn áp nhân dân; bộ phận
còn lại thì nêu cao tinh thần dân tộc, yêu nước nên thường xuyên chịu sự chèn ép,
kìm hãm của bọn thực dân Pháp.
2. Yêu cầu của Cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX
Ngay từ khi Pháp xâm lược, các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp với
tinh thần quật cường bảo vệ nền độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam đã diễn ra
liên tục, rộng khắp. Trong bối cảnh phải chịu đựng chính sách cai trị bạo tàn, ác
độc của bọn thực dân Pháp, các phong trào lại ngày một trở nên sôi nổi, với tính
chất, quy ngày càng quyết liệt, rộng khắp. Tiêu biểu thể kể đến các phong
trào yêu nước như: Phong trào Cần Vương (1885-1896), Khởi nghĩa của nông dân
Yên Thế (1885-1913), Phong trào Đông Du (1906-1908), Phong trào Duy Tân
(1906-1908), Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, Khởi nghĩa Yên Bái của Việt
Nam Quốc dân đảng (1927-1930).
Tuy nhiên, việc các phong trào kể trên đều bị thực dân Pháp dập tắt đàn áp
dã man đã chứng tỏ sự thất bại của phong trào đấu tranh theo ý thức hệ phong kiến
sản đã diễn ra theo nhiều hình thức khác nhau. Thất bại của con đường
cứu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản đã dẫn đến sự khủng hoảng sâu
sắc về đường lối cứu nước ở Việt Nam. nhiều nguyên nhân dẫn đến sự thất bại
này nhưng thể thấy rõ, nguyên nhân chủ yếu quan trọng nhất cách mạng
Việt Nam thiếu một giai cấp một tổ chức chính trị tiên tiến lãnh đạo để giải
quyết triệt để những mâu thuẫn bản, chủ yếu của hội tập hợp, giác ngộ,
lãnh đạo toàn dân tộc đứng lên đánh đổ kẻ thù. Cho nên, yêu cầu, nhiệm vụ quan
3
trọng cấp thiết nhất của các nhà yêu nước Việt Nam lúc này phải tìm được
con đường cứu nước đúng đắn, phải xây dựng một tổ chức chính trị tiên tiến đủ
tầm để lãnh đạo cách mạng.
Tóm lại, trong bối cảnh lịch sử thế giới trong nước biến động sâu sắc
bài học rút ra từ sự thất bại của các phong trào yêu nước đi trước đã đặt ra một yêu
cầu cấp thiết nhất cho cách mạng Việt Nam bấy giờ phải xây dựng một tổ chức
chính trị tiên tiến đủ tầm, đường lối đúng đắn để lãnh đạo cách mạng. Vì lẽ đó,
sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là một tất yếu lịch sử.
II. Nhận thức của bản thân về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
đối với dân tộc và Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
1. Tình hình Việt Nam hiện nay
1.1. Thành tựu
Công cuộc đổi mới đất nước, được tiến hành từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VI (tháng 12-1986). Từ đó đến nay, sau 35 năm đổi mới 30 năm thực hiện
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩahội, chúng ta
đã đạt được nhiều thành tựu to lớn nhiều mặt lĩnh vực, với thế lực ngày càng
mạnh hơn bao giờ hết. Cụ thể
, đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế tình trạng kém phátVề kinh tế
triển. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
từng bước được hình thành phát triển. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu
với 90% dân số làm nông nghiệp, Việt Nam đã xây dựng được sở vật chất - kỹ
thuật, hạ tầng kinh tế - hội từng bước đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, tạo ra môi trường thu hút nguồn lực hội cho phát triển. Giai đoạn
1988-2020, GDP Việt Nam tăng hơn 10 lần, từ 25,42 tỷ USD đến 268,4 tỷ USD;
thu nhập bình quân đầu người tăng hơn 32 lần, từ 86 USD/người lên đến 2800
USD/người, đưa Việt Nam từ quốc gia có thu nhập thấp lên đứng hàng trung bình.
Tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm 2016-2020 ước đạt 5,9%, thuộc nhóm các
nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới. Đặc biệt, trong năm 2020, phải
chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19 cùng sự tàn phá nghiêm trọng của
thiên tai miền Trung Tây Nguyên nhưng Việt Nam vẫn giữ được mức tăng
trưởng dương 2,91%, thuộc vào tốp đầu trên thế giới đứng đầu khu vực Đông
Nam Á, đồng thời ghi nhận GDP Việt Nam vượt mặt Singapore, Malaysia để trở
thành nền kinh tế lớn thứ 4 Đông Nam Á.
Công cuộc xóa đói giảm nghèo liên tục được cải thiện. Giai đoạn 2002-2018, tỷ
lệ nghèo giảm mạnh từ hơn 70% xuống dưới 6%. Năm 2020, tỷ lệ nghèo tiếp cận
4
đa chiều ước đạt 4,7%, đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia đầu tiên
về đích trước mục tiêu thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc về giảm nghèo.
từ một nước bị bao vây, cấm vận, tính đến năm 2014, ViệtVề hội nhập quốc tế,
Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 181 quốc gia vùng lãnh thổ, quan hệ
kinh tế - thương mại với trên 230 thị trường nước ngoài, là thành viên tích cực của
hơn 70 tổ chức quốc tế và khu vực. Thể hiện tinh thần “Việt Nam là bạn, là đối tác
tin cậy thành viên tích cực, trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, Việt
Nam đã đưa ra nhiều chủ trương tăng cường hợp tác quốc tế, tích cực tham gia vào
các quan hệ song phương, tổ chức đa phương như ASEAN, APEC, UN, WTO…
Đến năm 2019, vị thế và uy tín của Việt Nam càng được khẳng định khi được bầu
làm ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc với số phiếu gần
như tuyệt đối 192/193. Đặc biệt năm 2020, trong bối cảnh đại dịch COVID-19,
Việt Nam vẫn hoàn thành tốt với vai trò Chủ tịch ASEAN; hội nhập sâu rộng
vào nền kinh tế thế giới khu vực qua Hiệp định Đối tác Toàn diện Tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương (CPPPP), hay Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực
(RCEEP)…
Bên cạnh đó, Việt Nam còn tích cực tham gia đàm phán kết Hiệp định tự
do thương mại FTA với Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản,… mới đây nhất
Hiệp định EVFTA với Liên minh châu Âu giúp Việt Nam mở rộng thị trường, thu
hút hiệu quả cả ba nguồn lực quốc tế lớn là ODA, FDI và nguồn kiều hối. Điều này
đã lần nữa khẳng định uy tín vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày một
nâng cao và được coi trọng.
Về an ninh quốc phòng, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia được giữ vững,
quốc phòng an ninh được đảm bảo tăng cường. Việt Nam đã hoàn thành phân
giới cắm mốc biên giới đất liền với Trung Quốc, Lào đang xúc tiến hoàn thành
với Campuchia. Lực lượng công an, quân đội, sở vật chất, trang thiết bị được
đầu kỹ càng, hiện đại hóa, phục vụ công tác bảo đảm an ninh, trật tự, quốc
phòng trước các thế lực thù địch, tổ chức phản động trong ngoài nước. Trong
những năm gần đây, dù phải đối mặt với những yêu sách vô của Trung Quốc về
vấn đề biển đảo cũng như sự hiện diện trái phép, quấy nhiễu, gây rối của các tàu
biển, giàn khoan HD 981 của nước bạn tại vùng biển thuộc chủ quyền nhưng Đảng
Nhà nước đã những quyết sách, đường lối ngoại giao đúng đắn, khéo léo,
tranh thủ được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong vấn đề lãnh thổ. Đó
những thành tựu không thể chối cãi của Việt Nam trong lĩnh vực an ninh quốc
phòng
song hành với phát triển kinh tế, Việt Nam luôn coi trọngVề văn hóa hội,
củng cố, xây dựng nền văn hóa mang đậm bản sắc, truyền thống quý báu của dân
tộc cũng như không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
5
Năm 2020, chỉ số phát triển con người của Việt Nam đứng thứ 117/189, lọt vào
danh sách các nước phát triển con người cao. Đó do Đảng, Nhà nước Chính
phủ luôn đặt việc phát triển đời sống nhân dân lên hàng đầu, đảm bảo các quyền và
nghĩa vụ của công dân, phát huy tinh thần “tương thân tương ái”, “không để ai bị
bỏ lại ở phía sau”…
Nhìn chung, sau 35 năm tiến hành đổi mới, Việt Nam đã đạt được các thành tựu
to lớn trên nhiều mặt. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc
phòng, an ninh được tăng cường. Văn hóa - hội bước phát triển; bộ mặt đất
nước đời sống của nhân dân nhiều thay đổi. Dân chủ hội chủ nghĩa được
phát huy ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố tăng
cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được
nâng lên. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ chế độ hội chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại ngày
càng mở rộng đi vào chiều sâu; vị thế uy tín của Việt Nam trên trường quốc
tế được nâng cao.
1.2. Hạn chế và nguyên nhân
a. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu to lớn, ý nghĩa lịch sử, công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, khiếm khuyết cần tập
trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Cụ thể, công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm
một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung
cấp sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước. luận về chủ nghĩa hội con đường đi lên chủ nghĩa hội
còn có một số vấn đề phải qua tổng kết thực tiễn để tiếp tục làm rõ.
Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu
thực tế nguồn lực được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế bản ổn
định nhưng chưa vững chắc, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm.
Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động hội năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, hội môi
trường. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội
chưa được nhận thức đầy đủ giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn những nhân tố
nguy mất ổn định hội. Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận
nhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi
mới. Năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm
6
vụ. Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế; năng lực và hiệu quả hoạt
động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ
Nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, nước ta bản
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt.
Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng
(năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như nguy cơ "diễn biến
hòa bình" của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới tinh vi thâm độc
chống phá nước ta những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Niềm tin
của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút.
b. Nguyên nhân
Những hạn chế trên đều xuất phát từ những nguyên nhân khách quan và nguyên
nhân chủ quan.
, trong quá trình lãnh đạo của Đảng, điều hành củaVề nguyên nhân khách quan
Nhà nước, Việt Nam còn gặp nhiệu khó khăn do đổi mới sự nghiệp toàn diện,
lâu dài phức tạp. Tình hình thế giới khu vực những mặt tác động không
thuận lợi, trong đó bao gồm sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch nhằm
phá vỡ chế độ chính trị nước ta.
, công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, chưaVề nguyên nhân chủ quan
được quan tâm đúng mức, đổi mới duy luận chưa kiên quyết, mạnh mẽ. Dự
báo tình hình đôi khi còn chậm trễ, thiếu chính xác gây ảnh hưởng đến chất lượng
của các quyết sách, chủ trương, đường lốiĐảng đề ra. Không những thế, Nhận
thức và giải quyết các mối quan hệ lớn còn hạn chế. Đổi mới chưa toàn diện, thiếu
đồng bộ trên một số lĩnh vực.
Nhận thức, phương pháp cách thức lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chủ
trương, đường lối, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước còn
nhiều hạn chế. Quyền hạn và chế độ trách nhiệm, nhất là quyền hạn và trách nhiệm
của người đứng đầu không được quy định rõ ràng; thiếu cơ chế để kiểm soát quyền
lực. Nhiều chủ trương, nghị quyết đúng không được tích cực triển khai thực hiện,
kết quả đạt thấp. Một số chính sách không phù hợp thực tiễn, chậm được sửa đổi,
bổ sung.
Công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, nhất cán bộ lãnh
đạo, quản lý, điều hành của cấp ủy các cấp, chính quyền về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống vẫn chưa được coi trọng thường xuyên, đúng mức, hiệu quả thấp,
chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa tạo được sự thống nhất cao về nhận thức
tưởng, ý chí hành động trong Đảng trước những diễn biến phức tạp của tình
7
hình. Đánh giá, sử dụng, bố trí cán bộ còn mang tính cục bộ; chưa quan tâm việc
xây dựng cơ chế, chính sách để trọng dụng người có đức, có tài.
1.3. Yêu cầu của Cách mạng Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng trong bối cảnh toàn cầu hóa
hiện nay. Khi tiến trình toàn cầu hóa, trước hết là toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra
mạnh mẽ, vừa tạo ra thời nhưng cũng đặt ra không ít thách thức cho quốc gia,
dân tộc. vậy, phải xây dựng Đảng Cộng sản như thế nào để nâng cao năng lực
cầm quyền của Đảng, xây dựng một hệ thống chính trị hiệu quả, năng lực cạnh
tranh tốt; giữ vững vai trò nền tảng tinh thần của ý thức hệ Mác - Lênin, tưởng
Hồ Chí Minh yêu cầu mới đang đặt ra hiện nay đối với luận xây dựng Đảng
và công tác xây dựng Đảng hiện nay.
Thứ hai, nâng cao khả năng thích ứng và tăng cường nguồn lực của Đảng trước
sự phát triển của xã hội thông tin và “thời đại dữ liệu lớn”. Cách mạng công nghiệp
lần thứ 4 đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của toàn bộ nhân loại, ảnh hưởng
sâu sắc đến mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Điều này đặt ra không ít cơ hội lẫn thách
thức cho tổ chức và hoạt động của Đảng, đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam cần kịp
thời trong việc thích nghi, giải quyết và vận dụng nguồn lực này.
Thứ ba, công cuộc đổi mới Việt Nam hiện nay phải toàn diện, đồng bộ,
bước đi phù hợp; phải tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám
sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu luận, tập trung giải quyết
kịp thời, hiệu quả những vấn đề thực tiễn đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương, chính
sách, pháp luật của Ðảng và Nhà nước đều phải xuất phát từ thực tiễn.
Thứ tư, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc; kiên định độc lập, tự chủ,
chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trên sở bình đẳng, cùng lợi. Phải luôn
coi lợi ích quốc gia - dân tộc tối thượng. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng cần
kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Kết
hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với
sức mạnh quốc tế nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh,
bền vững
2. Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Cách mạng Việt Nam hiện
nay
Học thuyết Mác – Lênin về Đảng Cộng sản chỉ ra rằng: “Giai cấp vô sản muốn
làm cách mạng phải thành lập được chính đảng độc lập của mình”.
Còn Chủ tịch Hồ Chí Minh thì khẳng định: “Cách mệnh trước hết phải có Đảng
cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân
8
tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công,
cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”
Trong bối cảnh biến động sâu sắc trên thế giới và trong nước, ngày 3/2/1930,
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đáp ứng yêu cầu tất yếu của lịch sử. Ngay từ khi
ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng
là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào
cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách
mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và
phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở
đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc
cùng chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành
những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là chính là điều kiện cơ bản quyết định
phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt 86 năm qua.
Nhờ đi theo con đường cách mạng đúng đắn mà Đảng đã vạch ra, lịch sử Việt
Nam trong những năm 30 của thế kỷ 20 đến nay đã đánh dấu nhiều mốc son chói
lọi, gắn liền với sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam. Ðó là các sự kiện dân
tộc ta đứng lên làm cách mạng giải phóng dân tộc, lật đổ chế độ thực dân, phong
kiến lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam); vừa kháng chiến vừa kiến quốc, thống nhất đất nước và nay đang thực
hiện công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh". Sứ mệnh và vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản
Việt Nam đã được khẳng định ngay từ khi mới thành lập, được chỉ rõ trong Chính
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt.
Và mới đây, tại phiên khai mạc Đại hội XIII của Đảng sáng 26/1, đồng chí Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã dõng dạc và tự hào tuyên bố “Với tất cả sự khiêm
tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm
lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh
sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua
nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta…” Có thể thấy, qua tuyên
bố của đồng chí Tổng Bí thư, vai trò lãnh đạo của Đảng lại một lần nữa được
khẳng định. Quả thật, sau gần 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới và 30 năm thực
hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, dưới
sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới đã thu được nhiều thắng lợi: đất nước đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so
với những năm trước đổi mới; quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên; đời
9
sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt; đất nước chưa bao
giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Chính những
thành tựu đó là minh chứng cho sự lãnh đạo sáng suốt và xuyên suốt của Đảng, đập
tan luận điệu thù địch, xuyên tạc phản động, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với Cách mạng Việt Nam.
Trong bối cảnh hiện nay, có thể thấy rằng, hội nhập quốc tế chính là xu hướng
tất yếu, là con đường phát triển không thể nào khác đối với các quốc gia trên thế
giới. Việc chuẩn bị kỹ càng và tích cực tham gia vào quá trình hội nhập sẽ mở ra
nhiều cơ hội cho Việt Nam vươn mình phát triển, tiến bước trên con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội. Nhưng bên cạnh đó, đất nước còn phải đối mặt với muôn vàn
thách thức, diễn biến phức tạp từ các thế lực phản động chống phá trong và ngoài
nước, nguy cơ tụt hậu về kinh tế nếu như không nắm bắt kịp thời các cơ hội trong
thời đại mới, những hạn chế chưa được khắc phục kịp thời trong quá trình hoạt
động của Đảng hay thậm chí là hứng chịu hậu quả của thiên tai lũ lụt… Đứng
trước những cơ hội cùng thách thức đan xen, bản thân em cho rằng, vai trò lãnh
đạo của Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết, cùng với sự sáng suốt đề ra đường lối
đúng đắn và những kinh nghiệm thực tiễn quý báu, Đảng mãi luôn xứng đáng là
người chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua phong ba bão táp để đi
đến bến bờ vinh quang.
3. Trách nhiệm của bản thân trong việc đấu tranh chống lại sự xuyên tạc của
kẻ thù, bảo vệ Đảng và quyết tâm đi theo con đường Cách mạng mà Đảng,
Bác Hồ, dân tộc Việt Nam đã lựa chọn
Là một người con xứ Nghệ, sinh ra và lớn lên trong gia đình có nhiều Đảng
viên nên trong tâm thức của em sớm đã đem Đảng và Bác trở thành một hình
tượng vô cùng cao quý và thiêng liêng. Sau khi được học về lịch sử đất nước trên
ghế nhà trường, biết rằng mình sinh ra và lớn lên được như ngày hôm nay là nhờ
mồ hôi, xương máu của các bậc cha ông đi trước, em cảm thấy vô cùng bội phục
và biết ơn những con người đã hi sinh vì Tổ quốc và càng thêm tin tưởng vào
đường lối đúng đắn của Đảng. Bây giờ, với tư cách là một sinh viên, được giáo dục
bởi truyền thống gia đình, được tiếp thu kiến thức từ trường lớp, đặc biệt từ môn
Lịch sử Đảng, Tư tưởng Hồ Chí Minh… em cảm thấy, mình cần phải có trách
nhiệm trong việc đấu tranh chống lại sự xuyên tạc về Đảng và quyết tâm đi theo
con đường Cách mạng mà Đảng, Bác Hồ, dân tộc Việt Nam đã lựa chọn.
Với đặc thù, tính chất công việc hiện tại của một sinh viên, em thiết nghĩ, bản
thân trước hết phải biết tự trau dồi kiến thức và cố gắng trong học tập, đặc biệt
10
hoàn thành tốt môn học Lịch sử Đảng và tìm đọc các tài liệu, ấn phẩm về Đảng.
Đồng thời, rèn luyện ý chí bản thân, xây dựng lối sống lành mạnh, có trách nhiệm,
tránh xa tệ nạn xã hội. Bởi, chỉ có đầy đủ về kiến thức, vững vàng về lập trường, ý
chí thì mới có thể trở thành một công dân tốt, mới có thể góp nhiều hơn sức mình
trong việc bảo vệ Đảng, xây dựng đất nước cũng như tránh bị mê hoặc, lợi dụng bở
luận điệu xuyên tạc, phản động của các thế lực thù địch.
Thế nhưng chỉ tự rèn luyện cho bản thân mình là chưa đủ, mà mình còn phải
biết cách tuyên truyền kiến thức về Đảng, tạo dựng niềm tin về Đảng cho những cá
nhân, bạn bè, người thân ít có điều kiện, thời gian tìm hiểu về Đảng, chưa hiểu biết
về tư tưởng, đường lối của Đảng. Tuy nhiên, trong thời đại Internet phổ cập hiện
nay, bọn phản động thường lợi dụng mạng xã hội như Facebook, các trang báo
chống Đảng để tuyên truyền thông tin sai sự thật nhằm xuyên tạc, bôi nhọ Đảng và
Bác; sử dụng nhiều chiêu bài hiểm độc nhằm mê hoặc, lôi kéo những cá nhân thiếu
hiểu biết, thiếu niềm tin vào Đảng. Không đâu xa, trong giai đoạn diễn ra bầu cử
Quốc hội khóa XV, nhiều trang web đã tung tin phản động nhằm gây rối, phá hoại
cuộc bầu cử. Cho nên, em tự cảm thấy mình không những cần phải tuyên truyền
đúng đắn về Đảng cho những cá nhân trên, mà còn phải góp sức ngăn chặn những
luồng thông tin bẩn, ảnh hưởng xấu đến hình ảnh Đảng và Bác Hồ bằng cách báo
với cơ quan chức năng có thẩm quyền để xử lý. Không những thế, việc liên kết
những cá nhân, sinh viên có cùng niềm tin vào Đảng thành câu lạc bộ, đội nhóm
tuyên truyền có thể gia tăng hiệu quả trong công tác tuyên truyền bảo vệ Đảng, Bác
Hồ. Và đồng thời, cá nhân em cũng phải thường xuyên cập nhật tin tức thời sự,
nâng cao cảnh giác, bản lĩnh chính trị và giữ vững niềm tin tuyệt đối vào Đảng để
không bị mê hoặc, dụ dỗ bởi các thế lực thù địch, phản động chống phá.
Vừa rồi, cầm trong tay lá phiếu cử tri đi bầu cử cùng các bạn mà em cảm thấy
thật sự tự hào. Phần vì đây là lần đầu tiên được đi bỏ phiếu, phần vì cảm thấy mình
đã góp phần nào đó vào công cuộc xây dựng đất nước. Đối với em, đó là quyền và
nghĩa vụ, thể hiện sự tin tưởng của em đối với phẩm chất của đại biểu, với niềm tin
về sự phát triển mạnh mẽ của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, của những
Đảng viên có đủ năng lực, phẩm chất.
Với những thành tựu và vị thế của đất nước đạt được dưới sự lãnh đạo của
Đảng đã khẳng định vai trò lãnh đạo sáng suốt và xuyên suốt của Đảng, đồng thời
củng cố niềm tin của bản thân em với Đảng ngày một vững chắc, giúp em kiên
định đi theo con đường Cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn.
11
12
| 1/14

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN: KẾ TOÁN-KIỂM TOÁN
----------  --------- BÀI TẬP LỚN MÔN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đề bài: Chứng minh sự
ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam là một tất
yếu lịch sử. Em hãy
nêu nhận thức của bản thân mình về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam đối với Cách mạng và dân tộc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay Họ và tên: Hồ Minh Thái Mã sinh viên: 11194633
Lớp học phần: Lịch sử Đảng Cộng sản 05
Giảng viên: TS. Nguyễn Hữu Công Hà Nội - 2021 MỤC LỤC
I. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu lịch sử........................1
1. Bối cảnh lịch sử thế giới và trong nước..........................................................1
1.1. Bối cảnh lịch sử thế giới.............................................................................1
1.2. Bối cảnh lịch sử trong nước.......................................................................1
2. Yêu cầu của Cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX........................................3
II. Nhận thức của bản thân về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
đối với dân tộc và Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
.....................4
1. Tình hình Việt Nam hiện nay..........................................................................4
1.1. Thành tựu....................................................................................................4
1.2. Hạn chế và nguyên nhân............................................................................6
1.3. Yêu cầu của Cách mạng Việt Nam hiện nay..............................................8
2. Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Cách mạng Việt Nam hiện
nay
..........................................................................................................................8
3. Trách nhiệm của bản thân trong việc đấu tranh chống lại sự xuyên tạc
của kẻ thù, bảo vệ Đảng và quyết tâm đi theo con đường Cách mạng mà
Đảng, Bác Hồ, dân tộc Việt Nam đã lựa chọn.
.................................................10
I. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu lịch sử
1. Bối cảnh lịch sử thế giới và trong nước
1.1. Bối cảnh lịch sử thế giới
Từ nửa sau thế kỷ XIX, các nước tư bản Âu- Mỹ có sự chuyển biến mạnh mẽ
trong đời sống kinh tế - xã hội. Chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ giai
đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ nghĩa), đẩy
mạnh quá trình xâm chiếm và nô dịch các nước nhỏ, yếu ở châu Á, châu Phi và
khu vực Mỹ-Latinh, biến các quốc gia này thành thuộc địa khiến cho mâu thuẫn
giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc ngày càng gay gắt. Trước bối
cảnh đó, nhân dân các dân tộc bị áp bức đã đứng lên đấu tranh tự giải phóng khỏi
ách thực dân, tạo thành phong trào giải phóng dân tộc mạnh mẽ, rộng khắp. Cùng
với phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản ở các nước tư
bản chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trở thành một
bộ phận quan trọng trong cuộc đấu tranh chung chống tư bản, thực dân.
Trong bối cảnh đó, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã làm
biến đổi sâu sắc tình hình thế giới. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga
không chỉ có ý nghĩa to lớn đối với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đối với các
nước tư bản, mà còn có tác động sâu sắc đến phong trào giải phóng dân tộc ở các
thuộc địa. Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở ra cho nhân loại con đường hiện
thực để thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, cổ vũ nhân dân các nước, đồng thời cũng
dẫn tới sự ra đời hàng loạt các Đảng Cộng sản. Tình hình đó đòi hỏi phải có một tổ
chức quốc tế đứng ra lãnh đạo, tập trung sức mạnh của các phong trào ở tất cả các
quốc gia, dân tộc. Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản, do Lê-nin đứng đầu, với khẩu
hiệu “Vô sản thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”, được thành lập, trở
thành bộ tham mưu chiến đấu, tổ chức lãnh đạo phong trào cách mạng vô sản thế
giới. Quốc tế Cộng sản không những vạch đường hướng chiến lược cho cách mạng
vô sản mà cả đối với các vấn đề dân tộc và thuộc địa, giúp đỡ, chỉ đạo phong trào giải phóng dân tộc.
Như vậy, có thể nói rằng, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga 1917
cùng sự ra đời của Quốc tế Cộng sản 3 đã tác động to lớn, sâu sắc đến phong trào
giải phóng dân tộc và phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản trên toàn thế giới
nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
1.2. Bối cảnh lịch sử trong nước
Ngày 1-9-2858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam tại Đà Nẵng. Tuy
nhiên, trước sự kháng cự quyết liệt ta, chúng đã bước đầu thất bại và chuyển hướng
sang tấn công 3 tỉnh miền Đông rồi miền Tây và thôn tính xong Nam kỳ ở cuối
những năm 60. Tiếp đó, chúng lần lượt đánh chiếm Bắc Kỳ và thành Hà Nội 2 lần 1
vào năm 1873 và 1882. Trước sự xâm lược trắng trợn của thực dân Pháp, triều đình
phong kiến nhà Nguyễn vốn đang lâm vào khủng hoảng trầm trọng lúc bấy giờ, đã
hoàn toàn đầu hàng Pháp quua bản Hàng ước Hác-măng (1883) và Hiệp định Pa-
tơ-nốt (1884), đồng nghĩa với việc chấp nhận sự đô hộ của thực dân Pháp trên toàn cõi Việt Nam.
Đến năm 1897, thực dân Pháp đã áp đặt xong bộ máy cai trị ở nước ta và bắt
đầu tiến hành các cuộc khai thác thuộc địa lần một (1897-1914) và lần hai (1919-
1929) với những chính sách phản động và hà khắc nhằm biến Việt Nam nói riêng
và bán đảo Đông Dương nói chung thành thị trường tiêu thụ hàng hóa của “chính
quốc”, đồng thời ra sức vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao động rẻ mạt của người
bản xứ, cùng nhiều hình thức thuế khóa nặng nề.
Về chính trị, thực dân Pháp dùng chinh sách chia để trị. Chúng chia nước ta
thành 3 kỳ hòng gây chia rẽ, suy yếu sự đoàn kết, sức mạnh tổng hợp của nhân dân
ta. Chúng thực hiện chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp nặng nề, mọi quyền
hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị người Pháp, biến vua quan nhà
Nguyễn thành bù nhìn tay sai.
Về kinh tế, thực dân Pháp thi hành chính sách rất bảo thủ, du nhập phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa một cách nửa vời khiến cho nền kinh tế Việt Nam bị kìm
hãm trong lạc hậu – vừa mang tính chất tư bản – vừa mang tính chất phong kiến.
Chúng ra sức vơ vét tài nguyên, tăng thuế gấp nhiều lần, độc quyền thuốc phiện,
rượu, muối. Đặc biệt man rợ là chế độ mộ phu của chúng cho các đồn điền cao su
và mỏ than, đồng thời cướp đoạt ruộng đất của người nông dân khiến đời sống
nhân dân vô cùng cực khổ.
Về văn hóa – xã hội, chúng thực hiện chính sách “ngu dân” triệt để nhằm dễ bề
cai trị, lập nhà tù nhiều hơn trường học, đồng thời du nhập những giá trị phản văn
hóa, duy trì tệ nạn xã hội vốn có của chế độ phong kiến và tạo ra nhiều tệ nạn xã
hội mới; dùng rượu cồn và thuốc phiện để đầu độc các thế hệ người Việt Nam, ra
sức tuyên truyền tư tưởng “khai hóa văn minh” của nước “Đại Pháp”,…
Chế độ áp bức tàn bạo về chính trị, bóc lột về kinh tế, nô dịch về văn hóa của
thực dân Pháp đã dẫn đến những biến đổi sâu sắc tình hình chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Thứ nhất, làm cho tính chất xã hội Việt Nam thay đổi từ xã hội phong kiến độc
lập sang xã hội thuộc địa nửa phong kiến.
Thứ hai, các mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu trong xã hội cũng thay đổi. Xã hội
Việt Nam bấy giờ có 2 mâu thuẫn cơ bản: 2
Một là, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp và phong kiến phản
động là mâu thuẫn mới xuất hiện nhưng là mâu thuẫn chủ yếu nhất và ngày càng gay gắt nhất
Hai là, mâu thuẫn của giai cấp nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến
Thứ ba, các giai cấp bị phân hóa triệt để. Ngoài 2 giai cấp vốn có là địa chủ
phong kiến và nông dân, xã hội Việt Nam xuất hiện những giai cấp, tầng lớp mới là
công nhân, tư sản và tiểu tư sản.
Thái độ chính trị của các giai cấp cũng có sự phân hóa sâu sắc. Theo đó, giai
cấp nông nhân chiếm số lượng đông đảo nhất và có mâu thuẫn gay gắt với đế quốc,
phong kiến; giai cấp công nhân tuy ra đời ở một nước thuộc địa kém phát triển
nhưng họ vẫn có những đặc điểm của giai cấp công nhân quốc tế, và là lực lượng
chính trị tiên tiến nhất của xã hội Việt Nam lúc này; tầng lớp tiểu tư sản thì nhạy
bén về thời cuộc (đặc biệt là trí thức) song do địa vị bấp bênh, lập trường chưa đủ
kiên định nên hay hoang mang, dao động. Còn lại, trong giai cấp địa chủ cùng tư
sản đều có sự phân hóa; một bộ phận thì gắn kết lợi ích, cấu kết với thực dân Pháp,
trở thành tay sai đắc lực của chúng trong việc bóc lột, đàn áp nhân dân; bộ phận
còn lại thì nêu cao tinh thần dân tộc, yêu nước nên thường xuyên chịu sự chèn ép,
kìm hãm của bọn thực dân Pháp.
2. Yêu cầu của Cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX
Ngay từ khi Pháp xâm lược, các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp với
tinh thần quật cường bảo vệ nền độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam đã diễn ra
liên tục, rộng khắp. Trong bối cảnh phải chịu đựng chính sách cai trị bạo tàn, ác
độc của bọn thực dân Pháp, các phong trào lại ngày một trở nên sôi nổi, với tính
chất, quy mô ngày càng quyết liệt, rộng khắp. Tiêu biểu có thể kể đến các phong
trào yêu nước như: Phong trào Cần Vương (1885-1896), Khởi nghĩa của nông dân
Yên Thế (1885-1913), Phong trào Đông Du (1906-1908), Phong trào Duy Tân
(1906-1908), Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, Khởi nghĩa Yên Bái của Việt
Nam Quốc dân đảng (1927-1930).
Tuy nhiên, việc các phong trào kể trên đều bị thực dân Pháp dập tắt và đàn áp
dã man đã chứng tỏ sự thất bại của phong trào đấu tranh theo ý thức hệ phong kiến
và tư sản dù đã diễn ra theo nhiều hình thức khác nhau. Thất bại của con đường
cứu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản đã dẫn đến sự khủng hoảng sâu
sắc về đường lối cứu nước ở Việt Nam. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự thất bại
này nhưng có thể thấy rõ, nguyên nhân chủ yếu và quan trọng nhất là cách mạng
Việt Nam thiếu một giai cấp và một tổ chức chính trị tiên tiến lãnh đạo để giải
quyết triệt để những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội và tập hợp, giác ngộ,
lãnh đạo toàn dân tộc đứng lên đánh đổ kẻ thù. Cho nên, yêu cầu, nhiệm vụ quan 3
trọng và cấp thiết nhất của các nhà yêu nước Việt Nam lúc này là phải tìm được
con đường cứu nước đúng đắn, phải xây dựng một tổ chức chính trị tiên tiến đủ
tầm để lãnh đạo cách mạng.
Tóm lại, trong bối cảnh lịch sử thế giới và trong nước có biến động sâu sắc và
bài học rút ra từ sự thất bại của các phong trào yêu nước đi trước đã đặt ra một yêu
cầu cấp thiết nhất cho cách mạng Việt Nam bấy giờ là phải xây dựng một tổ chức
chính trị tiên tiến đủ tầm, có đường lối đúng đắn để lãnh đạo cách mạng. Vì lẽ đó,
sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là một tất yếu lịch sử.
II. Nhận thức của bản thân về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
đối với dân tộc và Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
1. Tình hình Việt Nam hiện nay 1.1. Thành tựu
Công cuộc đổi mới đất nước, được tiến hành từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VI (tháng 12-1986). Từ đó đến nay, sau 35 năm đổi mới và 30 năm thực hiện
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta
đã đạt được nhiều thành tựu to lớn ở nhiều mặt lĩnh vực, với thế và lực ngày càng
mạnh hơn bao giờ hết. Cụ thể
Về kinh tế, đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế và tình trạng kém phát
triển. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
từng bước được hình thành và phát triển. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu
với 90% dân số làm nông nghiệp, Việt Nam đã xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ
thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, tạo ra môi trường thu hút nguồn lực xã hội cho phát triển. Giai đoạn
1988-2020, GDP Việt Nam tăng hơn 10 lần, từ 25,42 tỷ USD đến 268,4 tỷ USD;
thu nhập bình quân đầu người tăng hơn 32 lần, từ 86 USD/người lên đến 2800
USD/người, đưa Việt Nam từ quốc gia có thu nhập thấp lên đứng hàng trung bình.
Tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm 2016-2020 ước đạt 5,9%, thuộc nhóm các
nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới. Đặc biệt, trong năm 2020, dù phải
chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19 cùng sự tàn phá nghiêm trọng của
thiên tai ở miền Trung và Tây Nguyên nhưng Việt Nam vẫn giữ được mức tăng
trưởng dương 2,91%, thuộc vào tốp đầu trên thế giới và đứng đầu khu vực Đông
Nam Á, đồng thời ghi nhận GDP Việt Nam vượt mặt Singapore, Malaysia để trở
thành nền kinh tế lớn thứ 4 Đông Nam Á.
Công cuộc xóa đói giảm nghèo liên tục được cải thiện. Giai đoạn 2002-2018, tỷ
lệ nghèo giảm mạnh từ hơn 70% xuống dưới 6%. Năm 2020, tỷ lệ nghèo tiếp cận 4
đa chiều ước đạt 4,7%, đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia đầu tiên
về đích trước mục tiêu thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc về giảm nghèo.
Về hội nhập quốc tế, từ một nước bị bao vây, cấm vận, tính đến năm 2014, Việt
Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 181 quốc gia và vùng lãnh thổ, quan hệ
kinh tế - thương mại với trên 230 thị trường nước ngoài, là thành viên tích cực của
hơn 70 tổ chức quốc tế và khu vực. Thể hiện tinh thần “Việt Nam là bạn, là đối tác
tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, Việt
Nam đã đưa ra nhiều chủ trương tăng cường hợp tác quốc tế, tích cực tham gia vào
các quan hệ song phương, tổ chức đa phương như ASEAN, APEC, UN, WTO…
Đến năm 2019, vị thế và uy tín của Việt Nam càng được khẳng định khi được bầu
làm ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc với số phiếu gần
như tuyệt đối 192/193. Đặc biệt năm 2020, trong bối cảnh đại dịch COVID-19,
Việt Nam vẫn hoàn thành tốt với vai trò là Chủ tịch ASEAN; hội nhập sâu rộng
vào nền kinh tế thế giới và khu vực qua Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương (CPPPP), hay Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEEP)…
Bên cạnh đó, Việt Nam còn tích cực tham gia đàm phán và ký kết Hiệp định tự
do thương mại FTA với Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản,… và mới đây nhất là
Hiệp định EVFTA với Liên minh châu Âu giúp Việt Nam mở rộng thị trường, thu
hút hiệu quả cả ba nguồn lực quốc tế lớn là ODA, FDI và nguồn kiều hối. Điều này
đã lần nữa khẳng định uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày một
nâng cao và được coi trọng.
Về an ninh – quốc phòng, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia được giữ vững,
quốc phòng an ninh được đảm bảo và tăng cường. Việt Nam đã hoàn thành phân
giới cắm mốc biên giới đất liền với Trung Quốc, Lào và đang xúc tiến hoàn thành
với Campuchia. Lực lượng công an, quân đội, cơ sở vật chất, trang thiết bị được
đầu tư kỹ càng, hiện đại hóa, phục vụ công tác bảo đảm an ninh, trật tự, quốc
phòng trước các thế lực thù địch, tổ chức phản động trong và ngoài nước. Trong
những năm gần đây, dù phải đối mặt với những yêu sách vô lý của Trung Quốc về
vấn đề biển đảo cũng như sự hiện diện trái phép, quấy nhiễu, gây rối của các tàu
biển, giàn khoan HD 981 của nước bạn tại vùng biển thuộc chủ quyền nhưng Đảng
và Nhà nước đã có những quyết sách, đường lối ngoại giao đúng đắn, khéo léo,
tranh thủ được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong vấn đề lãnh thổ. Đó là
những thành tựu không thể chối cãi của Việt Nam trong lĩnh vực an ninh – quốc phòng
Về văn hóa – xã hội, song hành với phát triển kinh tế, Việt Nam luôn coi trọng
củng cố, xây dựng nền văn hóa mang đậm bản sắc, truyền thống quý báu của dân
tộc cũng như không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. 5
Năm 2020, chỉ số phát triển con người của Việt Nam đứng thứ 117/189, lọt vào
danh sách các nước phát triển con người cao. Đó là do Đảng, Nhà nước và Chính
phủ luôn đặt việc phát triển đời sống nhân dân lên hàng đầu, đảm bảo các quyền và
nghĩa vụ của công dân, phát huy tinh thần “tương thân tương ái”, “không để ai bị bỏ lại ở phía sau”…
Nhìn chung, sau 35 năm tiến hành đổi mới, Việt Nam đã đạt được các thành tựu
to lớn trên nhiều mặt. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc
phòng, an ninh được tăng cường. Văn hóa - xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất
nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được
phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng
cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
và hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được
nâng lên. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại ngày
càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
1.2. Hạn chế và nguyên nhân a. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, khiếm khuyết cần tập
trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Cụ thể, công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ
một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung
cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật
của Nhà nước. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
còn có một số vấn đề phải qua tổng kết thực tiễn để tiếp tục làm rõ.
Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và
thực tế nguồn lực được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn
định nhưng chưa vững chắc, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm.
Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi
trường. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội
chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn những nhân tố
và nguy cơ mất ổn định xã hội. Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận
nhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi
mới. Năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm 6
vụ. Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế; năng lực và hiệu quả hoạt
động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ
Nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt.
Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng
(năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như nguy cơ "diễn biến
hòa bình" của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới tinh vi và thâm độc
chống phá nước ta và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Niềm tin
của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút.
b. Nguyên nhân
Những hạn chế trên đều xuất phát từ những nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Về nguyên nhân khách quan, trong quá trình lãnh đạo của Đảng, điều hành của
Nhà nước, Việt Nam còn gặp nhiệu khó khăn do đổi mới là sự nghiệp toàn diện,
lâu dài và phức tạp. Tình hình thế giới và khu vực có những mặt tác động không
thuận lợi, trong đó bao gồm sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch nhằm
phá vỡ chế độ chính trị nước ta.
Về nguyên nhân chủ quan, công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, chưa
được quan tâm đúng mức, đổi mới tư duy lý luận chưa kiên quyết, mạnh mẽ. Dự
báo tình hình đôi khi còn chậm trễ, thiếu chính xác gây ảnh hưởng đến chất lượng
của các quyết sách, chủ trương, đường lối mà Đảng đề ra. Không những thế, Nhận
thức và giải quyết các mối quan hệ lớn còn hạn chế. Đổi mới chưa toàn diện, thiếu
đồng bộ trên một số lĩnh vực.
Nhận thức, phương pháp và cách thức lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chủ
trương, đường lối, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước còn
nhiều hạn chế. Quyền hạn và chế độ trách nhiệm, nhất là quyền hạn và trách nhiệm
của người đứng đầu không được quy định rõ ràng; thiếu cơ chế để kiểm soát quyền
lực. Nhiều chủ trương, nghị quyết đúng không được tích cực triển khai thực hiện,
kết quả đạt thấp. Một số chính sách không phù hợp thực tiễn, chậm được sửa đổi, bổ sung.
Công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh
đạo, quản lý, điều hành của cấp ủy các cấp, chính quyền về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống vẫn chưa được coi trọng thường xuyên, đúng mức, hiệu quả thấp,
chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa tạo được sự thống nhất cao về nhận thức tư
tưởng, ý chí và hành động trong Đảng trước những diễn biến phức tạp của tình 7
hình. Đánh giá, sử dụng, bố trí cán bộ còn mang tính cục bộ; chưa quan tâm việc
xây dựng cơ chế, chính sách để trọng dụng người có đức, có tài.
1.3. Yêu cầu của Cách mạng Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng trong bối cảnh toàn cầu hóa
hiện nay. Khi tiến trình toàn cầu hóa, trước hết là toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra
mạnh mẽ, vừa tạo ra thời cơ nhưng cũng đặt ra không ít thách thức cho quốc gia,
dân tộc. Vì vậy, phải xây dựng Đảng Cộng sản như thế nào để nâng cao năng lực
cầm quyền của Đảng, xây dựng một hệ thống chính trị hiệu quả, có năng lực cạnh
tranh tốt; giữ vững vai trò nền tảng tinh thần của ý thức hệ Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh là yêu cầu mới đang đặt ra hiện nay đối với lý luận xây dựng Đảng
và công tác xây dựng Đảng hiện nay.
Thứ hai, nâng cao khả năng thích ứng và tăng cường nguồn lực của Đảng trước
sự phát triển của xã hội thông tin và “thời đại dữ liệu lớn”. Cách mạng công nghiệp
lần thứ 4 đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của toàn bộ nhân loại, ảnh hưởng
sâu sắc đến mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Điều này đặt ra không ít cơ hội lẫn thách
thức cho tổ chức và hoạt động của Đảng, đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam cần kịp
thời trong việc thích nghi, giải quyết và vận dụng nguồn lực này.
Thứ ba, công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay phải toàn diện, đồng bộ, có
bước đi phù hợp; phải tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám
sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết
kịp thời, hiệu quả những vấn đề thực tiễn đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương, chính
sách, pháp luật của Ðảng và Nhà nước đều phải xuất phát từ thực tiễn.
Thứ tư, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc; kiên định độc lập, tự chủ,
chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi. Phải luôn
coi lợi ích quốc gia - dân tộc là tối thượng. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng cần
kiên định độc lập, tự chủ, và đồng thời chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Kết
hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với
sức mạnh quốc tế nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh, bền vững
2. Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Cách mạng Việt Nam hiện nay
Học thuyết Mác – Lênin về Đảng Cộng sản chỉ ra rằng: “Giai cấp vô sản muốn
làm cách mạng phải thành lập được chính đảng độc lập của mình”.
Còn Chủ tịch Hồ Chí Minh thì khẳng định: “Cách mệnh trước hết phải có Đảng
cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân 8
tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công,
cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”
Trong bối cảnh biến động sâu sắc trên thế giới và trong nước, ngày 3/2/1930,
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đáp ứng yêu cầu tất yếu của lịch sử. Ngay từ khi
ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng
là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào
cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách
mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và
phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở
đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc
cùng chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành
những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là chính là điều kiện cơ bản quyết định
phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt 86 năm qua.
Nhờ đi theo con đường cách mạng đúng đắn mà Đảng đã vạch ra, lịch sử Việt
Nam trong những năm 30 của thế kỷ 20 đến nay đã đánh dấu nhiều mốc son chói
lọi, gắn liền với sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam. Ðó là các sự kiện dân
tộc ta đứng lên làm cách mạng giải phóng dân tộc, lật đổ chế độ thực dân, phong
kiến lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam); vừa kháng chiến vừa kiến quốc, thống nhất đất nước và nay đang thực
hiện công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh". Sứ mệnh và vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản
Việt Nam đã được khẳng định ngay từ khi mới thành lập, được chỉ rõ trong Chính
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt.
Và mới đây, tại phiên khai mạc Đại hội XIII của Đảng sáng 26/1, đồng chí Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã dõng dạc và tự hào tuyên bố “Với tất cả sự khiêm
tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm
lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh
sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua
nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta…” Có thể thấy, qua tuyên
bố của đồng chí Tổng Bí thư, vai trò lãnh đạo của Đảng lại một lần nữa được
khẳng định. Quả thật, sau gần 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới và 30 năm thực
hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, dưới
sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới đã thu được nhiều thắng lợi: đất nước đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so
với những năm trước đổi mới; quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên; đời 9
sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt; đất nước chưa bao
giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Chính những
thành tựu đó là minh chứng cho sự lãnh đạo sáng suốt và xuyên suốt của Đảng, đập
tan luận điệu thù địch, xuyên tạc phản động, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với Cách mạng Việt Nam.
Trong bối cảnh hiện nay, có thể thấy rằng, hội nhập quốc tế chính là xu hướng
tất yếu, là con đường phát triển không thể nào khác đối với các quốc gia trên thế
giới. Việc chuẩn bị kỹ càng và tích cực tham gia vào quá trình hội nhập sẽ mở ra
nhiều cơ hội cho Việt Nam vươn mình phát triển, tiến bước trên con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội. Nhưng bên cạnh đó, đất nước còn phải đối mặt với muôn vàn
thách thức, diễn biến phức tạp từ các thế lực phản động chống phá trong và ngoài
nước, nguy cơ tụt hậu về kinh tế nếu như không nắm bắt kịp thời các cơ hội trong
thời đại mới, những hạn chế chưa được khắc phục kịp thời trong quá trình hoạt
động của Đảng hay thậm chí là hứng chịu hậu quả của thiên tai lũ lụt… Đứng
trước những cơ hội cùng thách thức đan xen, bản thân em cho rằng, vai trò lãnh
đạo của Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết, cùng với sự sáng suốt đề ra đường lối
đúng đắn và những kinh nghiệm thực tiễn quý báu, Đảng mãi luôn xứng đáng là
người chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua phong ba bão táp để đi đến bến bờ vinh quang.
3. Trách nhiệm của bản thân trong việc đấu tranh chống lại sự xuyên tạc của
kẻ thù, bảo vệ Đảng và quyết tâm đi theo con đường Cách mạng mà Đảng,
Bác Hồ, dân tộc Việt Nam đã lựa chọn

Là một người con xứ Nghệ, sinh ra và lớn lên trong gia đình có nhiều Đảng
viên nên trong tâm thức của em sớm đã đem Đảng và Bác trở thành một hình
tượng vô cùng cao quý và thiêng liêng. Sau khi được học về lịch sử đất nước trên
ghế nhà trường, biết rằng mình sinh ra và lớn lên được như ngày hôm nay là nhờ
mồ hôi, xương máu của các bậc cha ông đi trước, em cảm thấy vô cùng bội phục
và biết ơn những con người đã hi sinh vì Tổ quốc và càng thêm tin tưởng vào
đường lối đúng đắn của Đảng. Bây giờ, với tư cách là một sinh viên, được giáo dục
bởi truyền thống gia đình, được tiếp thu kiến thức từ trường lớp, đặc biệt từ môn
Lịch sử Đảng, Tư tưởng Hồ Chí Minh… em cảm thấy, mình cần phải có trách
nhiệm trong việc đấu tranh chống lại sự xuyên tạc về Đảng và quyết tâm đi theo
con đường Cách mạng mà Đảng, Bác Hồ, dân tộc Việt Nam đã lựa chọn.
Với đặc thù, tính chất công việc hiện tại của một sinh viên, em thiết nghĩ, bản
thân trước hết phải biết tự trau dồi kiến thức và cố gắng trong học tập, đặc biệt 10
hoàn thành tốt môn học Lịch sử Đảng và tìm đọc các tài liệu, ấn phẩm về Đảng.
Đồng thời, rèn luyện ý chí bản thân, xây dựng lối sống lành mạnh, có trách nhiệm,
tránh xa tệ nạn xã hội. Bởi, chỉ có đầy đủ về kiến thức, vững vàng về lập trường, ý
chí thì mới có thể trở thành một công dân tốt, mới có thể góp nhiều hơn sức mình
trong việc bảo vệ Đảng, xây dựng đất nước cũng như tránh bị mê hoặc, lợi dụng bở
luận điệu xuyên tạc, phản động của các thế lực thù địch.
Thế nhưng chỉ tự rèn luyện cho bản thân mình là chưa đủ, mà mình còn phải
biết cách tuyên truyền kiến thức về Đảng, tạo dựng niềm tin về Đảng cho những cá
nhân, bạn bè, người thân ít có điều kiện, thời gian tìm hiểu về Đảng, chưa hiểu biết
về tư tưởng, đường lối của Đảng. Tuy nhiên, trong thời đại Internet phổ cập hiện
nay, bọn phản động thường lợi dụng mạng xã hội như Facebook, các trang báo
chống Đảng để tuyên truyền thông tin sai sự thật nhằm xuyên tạc, bôi nhọ Đảng và
Bác; sử dụng nhiều chiêu bài hiểm độc nhằm mê hoặc, lôi kéo những cá nhân thiếu
hiểu biết, thiếu niềm tin vào Đảng. Không đâu xa, trong giai đoạn diễn ra bầu cử
Quốc hội khóa XV, nhiều trang web đã tung tin phản động nhằm gây rối, phá hoại
cuộc bầu cử. Cho nên, em tự cảm thấy mình không những cần phải tuyên truyền
đúng đắn về Đảng cho những cá nhân trên, mà còn phải góp sức ngăn chặn những
luồng thông tin bẩn, ảnh hưởng xấu đến hình ảnh Đảng và Bác Hồ bằng cách báo
với cơ quan chức năng có thẩm quyền để xử lý. Không những thế, việc liên kết
những cá nhân, sinh viên có cùng niềm tin vào Đảng thành câu lạc bộ, đội nhóm
tuyên truyền có thể gia tăng hiệu quả trong công tác tuyên truyền bảo vệ Đảng, Bác
Hồ. Và đồng thời, cá nhân em cũng phải thường xuyên cập nhật tin tức thời sự,
nâng cao cảnh giác, bản lĩnh chính trị và giữ vững niềm tin tuyệt đối vào Đảng để
không bị mê hoặc, dụ dỗ bởi các thế lực thù địch, phản động chống phá.
Vừa rồi, cầm trong tay lá phiếu cử tri đi bầu cử cùng các bạn mà em cảm thấy
thật sự tự hào. Phần vì đây là lần đầu tiên được đi bỏ phiếu, phần vì cảm thấy mình
đã góp phần nào đó vào công cuộc xây dựng đất nước. Đối với em, đó là quyền và
nghĩa vụ, thể hiện sự tin tưởng của em đối với phẩm chất của đại biểu, với niềm tin
về sự phát triển mạnh mẽ của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, của những
Đảng viên có đủ năng lực, phẩm chất.
Với những thành tựu và vị thế của đất nước đạt được dưới sự lãnh đạo của
Đảng đã khẳng định vai trò lãnh đạo sáng suốt và xuyên suốt của Đảng, đồng thời
củng cố niềm tin của bản thân em với Đảng ngày một vững chắc, giúp em kiên
định đi theo con đường Cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn. 11 12