-
Thông tin
-
Quiz
Chương 1 cơ sở lý luận về văn hóa doanh nghiệp
Chương 1 cơ sở lý luận về văn hóa doanh nghiệp, tài liệu gồm 17 trang, bao gồm các kiến thức cơ bản liên quan đến học phần Văn hóa doanh nghiệp giúp bạn ôn luyện và nắm vững kiến thức môn học. Mời bạn đọc đón xem!
Học viện Nông nghiệp Việt Nam 593 tài liệu
Chương 1 cơ sở lý luận về văn hóa doanh nghiệp
Chương 1 cơ sở lý luận về văn hóa doanh nghiệp, tài liệu gồm 17 trang, bao gồm các kiến thức cơ bản liên quan đến học phần Văn hóa doanh nghiệp giúp bạn ôn luyện và nắm vững kiến thức môn học. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ VĂN HÓA DOANH NGHIỆP
1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VĂN HÓA 1.1. Khái niệm
Văn hóa gắn liền với sự ra đời của nhân loại, nói một cách khác, văn hóa có
từ thuở bình minh của xã hội loài người. Cùng với quá trình phát triển nhân loại,
khái niệm văn hóa càng được bổ sung thêm những nội dung mới. Năm 1952, hai
nhà nhân chủng học người Mỹ A.L.Kroeber và K.Kluckolm đã sưu tầm được
164 định nghĩa khác nhau về văn hóa. Cho đến nay, con số định nghĩa chắc vẫn
đang tiếp tục tăng lên. Tại Hội nghị về văn hóa UNESCO tại Mê-xi-cô năm
1982, người ta cũng đã đưa ra 200 định nghĩa về văn hóa. Hiện nay, thì số lượng
khái niệm về văn hóa ngày càng tăng thêm đến vô vàn, khó mà thống kê hết được.
Văn hóa là một thuật ngữ đa nghĩa. Đó là do bản thân các vấn đề văn hóa rất
phức tạp, đa dạng, do vậy, các nhà nghiên cứu có những cách tiếp cận khác nhau
nên dẫn đến nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm văn hóa.
Vào năm 1943, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài của dân tộc Việt
Nam đưa ra định nghĩa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như vì mục đích cuộc sống, loài
người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa
học, tôn giáo, văn hóa, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về
mặc, ăn ở và các phương tiện, phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo va
phát minh đó tức là văn hóa.”
Tháng 12 năm 1986, UNESCO phát triển thêm định nghĩa về văn hóa: “Văn
hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của các cá nhân và các cộng
đồng trong quá khứ, hiện tại qua các thế kỷ hoạt động ấy đã hình thành nên hệ
thống các giá trị, các truyền thống và cách thể hiện, đó là những yếu tố xác định
tính riêng của mỗi dân tộc.”
Trong Từ điển tiếng Việt, văn hóa được định nghĩa: “Văn hóa là tổng thể nói
chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá
trình lịch sử.” Phát triển cách tiếp cận văn hóa theo nghĩa rộng, GS.TS Trần
Ngọc Thêm định nghĩa: “ Văn hóa là 1
một hệ thống hữu cơ những giá trị vật chất
và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn,,
trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.”
Như vậy, ta có thể hiểu văn hóa là toàn bộ những hoạt động tinh thần của
con người và xã hội bao gồm kiến thức, các phong tục, tập quán; thói quen và
cách ứng xử, ngôn ngữ (bao gồm cả ngôn ngữ có lời và ngôn ngữ không lời);
các giá trị và thái độ; các hoạt động văn học nghệ thuật; tôn giáo; giáo dục; các
phương thức giao tiếp, cách thức tổ chức xã hội.
1.2. Các yếu tố cấu thành văn hóa
Văn hóa là một đối tượng phức tạp và đa dạng. Để hiểu bản chất của văn hóa
cần xem xét các yếu tố cấu thành văn hóa. Dựa vào khái niệm về văn hóa, có thể
phân văn hóa thành 2 lĩnh vực cơ bản là văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
a) Văn hóa vật chất
Văn hóa vật chất là toàn bộ những giá trị sáng tạo được thể hiện trong các
của cải vật chất do con người sáng tạo ra. Đó là các sản phẩm hàng hóa, công cụ
lao động, tư liệu tiêu dùng, cơ sở hạ tầng kinh tế như giao thông, thông tin,
nguồn năng lượng; cơ sở hạ tầng xã hội như chăm sóc sức khỏe, nhà ở, hệ thống
giáo dục và cơ sở hạ tầng tài chính như ngân hàng, bảo hiểm, dịch vụ tài chính
trong xã hội. Văn hóa vật chất được thể hiện qua đời sống vật chất của quốc gia
đó. Chính vì vậy văn hóa vật chất sẽ ảnh hưởng to lớn đến trình độ dân trí, lối
sống của các thành viên trong nền kinh tế đó.
Một điểm lưu ý là khi xem xét đến văn hóa vật chất, chúng ta xem xét cách
con người làm ra những sản phẩm vật chất thể hiện rõ ở tiến bộ kỹ thuật và công
nghệ, ai làm ra chúng và tại sao. Tiến bộ kỹ thuật và công nghệ ảnh hưởng đến
mức sống và giúp giải thích những giá trị và niềm tin của xã hội đó. Ví dụ như
nếu là một quốc gia tiến bộ về kỹ thuật, con người ít tin vào số mệnh và họ tin
tưởng rằng có thể kiểm soát những điều xảy ra đối với họ. Những giá trị của họ
cũng thiên về vật chất bởi vì họ có mức sống cao hơn. Như vậy, một nền văn
hóa vật chất thường được coi là kết quả của công nghệ và liên hệ trực tiếp với
việc xã hội đó tổ chức hoạt động kinh tế của mình như thế nào.
b) Văn hóa tinh thần
Văn hóa tinh thần hay còn gọi là văn hóa phi vật chất là toàn bộ những hoạt
động tinh thần của con người và xã hội bao gồm kiến thức, các phong tục, tập
quán; thói quen và cách ứng xử, ngôn ngữ (bao gồm cả ngôn ngữ có lời và ngôn
ngữ không lời); các giá trị và thái độ; các hoạt động văn học nghệ thuật; tôn
giáo; giáo dục; các phương thức giao tiếp, cách thức tổ chức xã hội,… tạo nên
một hệ thống. Hệ thống đó bị chi phối bởi trình độ của các giá trị, đôi khi có thể
phân biệt một giá trị bản chất. Chính giá trị này mang lại cho văn hóa sự thống
nhất và khả năng tiến hóa nội tại của nó.
2. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VĂN HÓA DOANH NGHIỆP
2.1. Khái niệm văn hóa doanh nghiệp
Xã hội rộng lớn có một nền văn hóa lớn mà doanh nghiệp là một bộ phận
của xã hội. Do đó trong mỗi doanh nghiệp sẽ tồn tại những hệ thống hay chuẩn
mực về giá trị đặc trưng, hình tượng, phong cách được doanh nghiệp tôn trọng
và truyền từ thành viên n ày sang thành viên khác, từ lớp cũ đến lớp mới, trở 2
thành những giá trị, những quan niệm và tập quán, truyền thống ăn sâu vào hoạt
động của doanh nghiệp ấy và chi phối tình cảm, suy nghĩ và hành vi của mọi
thành viên của doanh nghiệp trong việc theo đuổi và thực hiện các mục đích.
Khái niệm được sử dụng để phản ánh những hệ thống này được gọi với nhiều
tên khấc nhau như văn hóa doanh nghiệp, văn hóa công ty, văn hóa tập đoàn,
hay văn hóa tổ chức. Mỗi doanh nghiệp có một bản sắc văn hóa doanh nghiệp
của riêng mình. Tương tự văn hóa, có rất nhiều quan điểm khác nhau bàn về văn
hóa doanh nghiệp. Tất cả các quan điểm đó sẽ giúp ta hiểu về văn hóa doanh
nghiệp một cách toàn diện và đầy đủ hơn.
Theo tổ chức Lao động quốc tế (International Labour Organization – ILO):
“Văn hóa doanh nghiệp là sự trộn lẫn đặc biệt các giá trị, các tiêu chuẩn, thói
quen và truyền thống, những thái độ ứng xử và lễ nghi mà toàn bộ chúng ta là
duy nhất đối với một tổ chức đã biết.”
Hay theo ông Georges de Saite Marie, một chuyên gia người Pháp về doanh
nghiệp vừa và nhỏ, đã đưa ra định nghĩa như sau: “Văn hóa doanh nghiệp là
tổng hợp các giá trị, các biểu tượng, huyền thoại, nghi thức, điều cấm kỵ, các
quan điểm triết học, đạo đức tạo thành nền móng sâu xa của doanh nghiệp.”
Một định nghĩa được phổ biến và chấp nhận rộng rãi nhất là định nghĩa của
Edgar Shein, một chuyên gia nghiên cứu các tổ chức: “Văn hóa công ty là tổng
hợp các quan niệm chung mà các thành viên trong công ty học được trong quá
trình giải quyết các vấn đề nội bộ và xử lý với các môi trường xung quanh.
Điểm chung của các định nghĩa trên là: “văn hóa doanh nghiệp có tính ổn
định và bền vững, bất chấp sự thay đổi thường xuyên của các cá nhân, kể cả
những người sáng lập và lãnh đạo doanh nghiệp”. Nó tác động sâu sắc tới động
cơ hành động của doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp có vai trò là một lực
lượng hướng dẫn, là ý chí thống nhất tất cả các lãnh đạo và cán bộ nhân viên của doanh nghiệp.
Dựa trên những nghiên cứu của các học giả, văn hóa doanh nghiệp có thể
được định nghĩa như sau: “Văn hóa doanh nghiệp là một hệ thống các giá trị,
các chuẩn mực, các quan niệm và hành vi của doanh nghiệp, chi phối hoạt động
của mỗi thành viên trong doanh nghiệp và tạo nên bản sắc kinh doanh riêng của doanh nghiệp.”
2.2. Các yếu tố cấu thành văn hóa doanh nghiệp
Văn hóa doanh nghiệp được cấu thành từ 3 yếu tố. Mỗi yếu tố được biểu hiện
với những đặc điểm, hình thức khác nhau nhưng đều có một mục đích chung là
thể hiện được đặc trưng văn hóa của tổ chức và lan truyền văn hóa ấy tới các
thành viên trong tổ chức. Theo Edgar H. Schein (2010) các yếu tố cấu thành văn
hóa doanh nghiệp có thể được chia thành 3 nhóm yếu tố sau:
a) Yếu tố thứ nhất - Những giá trị văn hóa hữu hình
Những giá trị văn hóa hữu hình là những cái được thể hiện ra bên ngoài rõ
ràng, có thể nhận biết nhất của văn hóa doanh nghiệp. Các thực thế hữu hình mô
tả một cách tồng quan nhất môi trường vật chất và các hoạt động xã hội trong
một doanh nghiệp. Bao gồ3m các hình thức cơ bản sau:
- Thứ nhất: “Kiến trúc đặc trưng và diện mạo doanh nghiệp”.
Được coi là bộ mặt của doanh nghiệp, kiến trúc và diện mạo luôn được các
doanh nghiệp quan tâm. xây dựng. Kiến trúc, diện mạo bề ngoài sẽ gây ấn tượng
mạnh với khách hàng, đối tác... về sức mạnh, sự thành đạt và tính chuyên nghiệp
của bất kỳ doanh nghiệp nào. "‘Diện mạo thể hiện ở hình khối kiến trúc, quy mô
về không gian của doanh nghiệp. Kiến trúc thể hiện ở sự thiết kế các phòng làm
việc, bố trí nội thất trong phòng, màu sắc chủ đạo....” Tất cả những sự thể hiện
đó đều có thể làm nên đặc trưng cho Doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, cấu trúc
và diện mạo có ảnh hưởng đến tâm lý trong quá trình làm việc của người lao động.
- Thứ hai: Các lễ kỹ niệm, lễ nghi và các sinh hoạt văn hóa.
Đây là những hoạt động đã được dự kiến từ trước và được chuẩn bị kỹ lưỡng.
“Lễ nghi theo từ điền tiếng Việt là toàn thể những cách làm thông thường theo
phong tục được áp dụng khi tiến hành một buổi lễ. Theo đó, lễ nghi là những
nghi thức đã trở thành thói quen, được mặc định sẽ được thực hiện khi tiến hành
một hoạt động nào đó; nó thể hiện trong đời sống hàng ngày chứ không chỉ
trong những dịp đặc biệt. Lễ nghi tạo nên đặc trưng về văn hóa, với mỗi nền văn
hóa khác nhau thì các lễ nghi cũng có hình thức khác nhau”.
Lễ kỹ niệm là hoạt động được tổ chức nhắm ghi nhớ những giá trị của doanh
nghiệp và dịp tôn vinh doanh nghiệp, tăng cường niềm tự hào của cán bộ nhân viên về doanh nghiệp.
Các sinh hoạt khác như hoạt động ca nhạc, thể thao, các cuộc thi... là hoạt động
phố biến trong đời sống văn hóa. Các hoạt động này nhằm tạo cơ hội cho các
cán bộ nhân viên rèn luyện sức khỏe, làm phong phú đời sống tinh thần, tăng
cường sự hiểu biết giao lưu, và chia sẽ lẫn nhau giữa các thành viên.
- Thứ ba: Ngôn ngữ, khẩu hiệu.
“Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp trong đời sống hàng ngày, do cách ứng
xử. giao tiếp giữa các thành viên trong doanh nghiệp quyết định”. Những người
sống và làm việc trong cùng một môi trường doanh nghiệp có xu hướng dùng
chung một thứ ngôn ngữ. Các thành viên trong tổ chức để làm việc được với
nhau cần có sự hiểu biết lẫn nhau thông qua việc sử dụng chung một ngôn ngữ,
tiếng “lóng” đặc trưng của doanh nghiệp.
Những từ như “dịch vụ hoàn hảo”, “khách hàng là thượng đế” ... được hiểu theo
các cách khác nhau tùy theo văn hóa của từng doanh nghiệp.
“Khẩu hiệu là một câu nói ngắn gọn, sử dụng những từ ngữ đơn giản, dễ nhớ thể
hiện một cách cô đọng nhất triết lý kinh doanh của một công ty”.
- Thứ tư: “Biểu tượng, bài hát truyền thống, đồng phục”.
“Biểu tượng là biểu thị một cái gì đó không phải là chính nó và có tác dụng
giúp mọi người nhận ra hay hiểu được cái mà nó biểu thị. Các công trình kiến
trúc, lễ nghi, giai thoại, 4khẩu hiệu đều chứa đựng những đặc trưng của biểu
tượng. Một biểu tượng khác là logo. Logo là một tác phẩm sáng tạo thể hiện
hình tượng về một tổ chức bằng ngôn ngữ nghệ thuật. Logo là loại biểu trưng
đơn giản nhưng có ý nghĩa lớn nên được các Doanh nghiệp rất quan tâm chú
trọng. Logo được in trên các biểu tượng khác của doanh nghiệp như bảng nội
quy, bảng tên công ty, đồng phục, các ấn phẩm, bao bì sản phẩm, các tài liệu được lưu hành”.
Bài hát truyền thống, đồng phục là những giá trị văn hóa trong các dịp đặc
biệt, tạo ra nét đặc trưng cho doanh nghiệp và tạo ra sự đồng cảm giữa các thành
viên. Đây cũng là những biểu tượng tạo nên niềm tự hào của nhân viên về doanh
nghiệp của mình. Ngoài ra, các giai thoại, truyện kể truyền miệng, các ấn phẩm
điển hình ... là những biểu tượng giúp mọi người thấy rõ hơn về những giá trị văn hóa của tổ chức.
b) Yếu tố thứ 2 - Những giá trị dược tán đồng
Yếu tố này đề cập đến mức độ chấp nhận, tán đồng hay chia sẽ các giá trị bao
gồm các chiến lược, mục tiêu, các nội quy, quy định, tầm nhìn, sứ mệnh. Các giá
trị này được công bố công khai để mọi thành viên của công ty nổ lực thực hiện.
Đây là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của cán bộ nhân viên. - Thứ nhất: Tầm nhìn.
“Tầm nhìn là trạng thái trong tương lai mà doanh nghiệp mong muốn đạt tới.
Tầm nhìn cho thấy mục đích, phương hướng chung để dần tới hành động thống
nhất. Tầm nhìn cho thấy bức tranh toàn cảnh về doanh nghiệp trong tương lai
với giới hạn về thời gian tương đối dài và có tác dụng hướng mọi thành viên
trong doanh nghiệp chung sức nổ lực đạt được trạng thái đó”.
- Thứ hai: Sứ mệnh và các giá trị cơ bản.
“Sứ mệnh nêu lên lý do vì sao tổ chức tồn tại. mục đích của tổ chức là gì? Tại
sao làm vậy? Làm như thế nào? Để phục vụ ai? Sứ mệnh và các giá trị cơ bản
nêu lên vai trò, trách nhiệm mà tự thân doanh nghiệp đặt ra. Sứ mệnh và các giá
trị cơ bản cũng giúp cho việc xác định con đường, cách thức và các giai đoạn để
đi tới tầm nhìn mà doanh nghiệp đã xác định’’.
- Thứ ba: Mục tiêu chiến lược.
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp luôn chịu các ảnh hưởng của các
nhân tố khách quan và chủ quan. Những tác động này có thể mang lại các điều
kiện thuận lợi hay thách thức cho doanh nghiệp. Mỗi tổ chức cần xây dựng
những kế hoạch chiến lược để xác định “lộ trình” và chương trình hành động,
tận dụng được các cơ hội. vượt qua các thách thức để đi tới tương lai. hoàn
thành sứ mệnh của doanh nghiệp. Mối quan hệ giữa chiến lược và văn hóa
doanh nghiệp có thể được giải thích như sau: Khi xây dựng chiến lược cần thu
thập thông tin về môi trường. Các thông tin được thu thập sẽ được diễn đạt và
xử lý theo cách thức, ngôn ngữ thịnh hành trong doanh nghiệp nên chúng sẽ
chịu ảnh hưởng của văn hóa doanh nghiệp. Văn hóa có thể được coi là công cụ
thống nhất mọi người về nhận thức, cách thức hành động trong quá trình triến
khai chương trình hành độ5ng.
c) Yếu tố thứ 3 - Các quan điểm cơ bản (các giá trị ngầm định)
“Các giá trị ngầm định là niềm tin, nhận thức, suy nghĩ, tình cảm đã ăn sâu
trong tiềm thức mỗi thành viên trong doanh nghiệp. Các ngầm định là cơ sở cho
các hành động, định hướng sự hình thành các giá trị trong nhận thức cho các cá
nhân”. Hệ thống giá trị ngầm định được thể hiện qua các mối quan hệ sau:
- Thứ nhất: Quan hệ giữa con người với môi trường.
Về mối quan hệ này, mỗi người và mỗi doanh nghiệp có nhận thức khác
nhau. Một số người cho rằng họ có thể làm chủ được trong mọi tình huống, tác
động của môi trường không thể làm thay đổi vận mệnh của họ. Một số người
khác thì cho rằng họ cần phải hòa nhập với môi trường, tìm cách sao cho có một
vị trí an toàn để tránh được những tác động bất lợi của môi trường.
- Thứ hai: Quan hệ giữa con người với con người.
Các thành viên trong doanh nghiệp luôn có mối quan hệ trong công việc. Các
quan hệ này có ảnh hưởng hỗ tương lẫn nhau. Một số doanh nghiệp ủng hộ
thành tích và sự nổ lực của mỗi cá nhân. Một số doanh nghiệp khác lại khuyến
khích sự hợp tác và tinh thần tập thể. Triết lý quản lý của mỗi doanh nghiệp có
thể coi trọng tính độc lập, tự chủ hoặc đề cao tính dân chủ. Để xác định chính
xác tư tưởng chủ đạo trong mối quan hệ giữa con người trong tổ chức, cần đánh
giá vai trò của mỗi cá nhân trong mối quan hệ với các thành viên còn lại.
- Thứ ba: Ngầm định về bản chất con người.
Các doanh nghiệp khác nhau có quan niệm khác nhau về bản chất con người.
Một số nhà quản trị cho rằng bản chất con người là lười biếng, tinh thần tự chủ
thấp, khả năng sáng tạo kém. Các nhà quản trị khác lại cho rằng bản chất con
người là có tinh thần tự chủ cao, có trách nhiệm và có khả năng sáng tạo tiềm
ấn. Trong khi đó, một số doanh nghiệp lại đánh giá cao khả năng của người lao
động, đề cao người lao động và coi đó là chìa khóa của sự thành công. Các quan
điểm khác nhau dần đến những phương pháp quản lý khác nhau và có tác động
đến nhân viên theo những cách khác nhau.
- Thứ tư: Bản chất hành vi con người.
Cơ sở của hành vi cá nhân trong mỗi tổ chức căn cứ vào thái độ, tính cách,
nhận thức và sự học hỏi của các cá nhân. Bốn yếu tố này là những yếu tố cốt lõi
ảnh hưởng đến hành vi cá nhân trong tồ chức. Quan điểm về bản chất hành vi cá
nhân có sự khác nhau rõ rệt giữa phương Tây và phương Đông. Người phương
Tây quan tâm nhiều hơn đến năng tực, sự cố gắng và thể hiện bản thân trong khi
người phương Đông coi trọng vị thế cá nhân, nên thưởng có lối sống để cố
chứng tỏ mình là ai đó thể hiện qua địa vị xã hội mà cá nhân đó có được.
- Thứ năm: Bản chất sự thật và lẽ phải
Đối với một số doanh nghiệp, sự thật và lẽ phải là kết quà của một quá trình
đánh giá. phân tích theo những quy luật, chân lý đã có. Một số doanh nghiệp
khác lại xem sự thật và lẽ phải là quan điếm, ý kiến của nhà quản trị do niềm tin.
sự tín nhiệm tuyệt đối với6người lãnh đạo doanh nghiệp.
Ngoài ra. trong doanh nghiệp còn tồn tại một hệ thống giá trị chưa được coi
là đương nhiên và các giá trị mà lãnh đạo muốn đưa vào doanh nghiệp. Những
giá trị được các thành viên chấp nhận thì sẽ được tiếp tục duy trì theo thời gian
và dần dần được coi là đương nhiên. Sau một thời gian, các giá trị này sẽ trở
thành các ngầm định. Các ngầm định thưởng rất ít thay đổi và ảnh hưởng đáng
kể đến phong cách làm việc, quyết định, giao tiếp và ứng xử. Sự ảnh hưởng của
các giá trị ngầm định đôi khi lớn hơn sự ảnh hưởng của các giá trị được thể hiện.
2.3. Đặc trưng của văn hóa doanh nghiệp
a) Văn hoá doanh nghiệp tồn tại khách quan:
Văn hoá tồn tại ngoài sự nhận biết của chúng ta. Có con người, có gia đình,
có xã hội là có văn hoá. Văn hoá rất quan trọng, nó tồn tại độc lập với chúng ta.
Văn hoá không có nghĩa là cái đẹp. Dù ta có nhận thức hay không nhận thức thì
nó vẫn trường tồn. Nếu ta biết nhận thức nó, xây dựng nó thì nó lành mạnh, phát
triển. Có thể có văn hoá đồi trụy đi xuống, văn hoá phát triển đi lên, văn hoá
mạnh hay văn hóa yếu, chứ không thể không có văn hoá. Người ta đồng nghĩa
giữa văn hoá doanh nhân, văn hoá kinh doanh và nhiều người nghĩ văn hoá giao
tiếp là văn hóa doanh nghiệp. Nhưng hoàn toàn không phải như vậy.
Bill Hawlett, người sáng lập ra tập đoàn HP đã từng nói: “bất kỳ nhóm
người nào đã cùng nhau làm việc trong một thời gian, bất kỳ tổ chức nào đã tồn
tại một thời kỳ, bất kỳ chính phủ hay cơ quan nào của quốc gia.
Đây là đặc điểm chung của văn hoá doanh nghiệp cũng như bất kỳ loại hình
văn hoá nào khác. Văn hoá tồn tại khi có một nhóm người cùng sống và làm
việc với nhau, nhận định này đã được nhiều nhà nghiên cứu chứng minh mà tôi
không tiện ghi trong cuốn sách này. Vậy với tư cách là chủ doanh nghiệp hay
nhà quản lý, bản thân chúng ta cần nhận thức: văn hoá doanh nghiệp vẫn tồn tại
và phát triển dù ta không tác động vào chúng. Vậy thì, tại sao chúng ta không tác
động để nó mang lại những hiệu quả cho hoạt động của chúng ta?
b) Văn hoá doanh nghiệp hình thành trong một thời gian khá dài: Tức là
VHDN mang tính lịch sử (thời gian văn hoá): Quá trình hoạt động kinh doanh.
c) Văn hoá DN mang tính bền vững.
Tính giá trị: là sự khác biệt của một doanh nghiệp có văn hoá với một doanh
nghiệp phi văn hoá. Giá trị văn hoá của doanh nghiệp có giá trị nội bộ; giá trị
vùng; giá trị quốc gia; giá trị quốc tế. Doanh nghiệp càng tôn trọng và theo đuổi
những giá trị chung cho những cộng đồng càng rộng lớn bao nhiêu thì vai trò
của nó càng lớn bấy nhiêu.
Văn hóa doanh nghiệp có cấu trúc mạnh mẽ:
Nếu coi văn hóa như là một tòa nhà (của doanh nghiệp), khi thiết kế một tòa
nhà cần phải tuân thủ 3 nguyên tắc sau: Kết cấu vững chắc;
Tiện lợi khi sử dụng; 7 Phù hợp thẩm mỹ.
Như vậy, một doanh nghiệp xuất sắc phải xây dựng văn hóa doanh nghiệp
cũng dựa trên 3 nền tảng cơ bản. Một doanh nghiệp xuất sắc bền vững lâu dài
không phải vì có những ý tưởng kinh doanh vĩ đại hay những nhà lãnh đạo tài
giỏi, biết mọi việc, mà là có một tổ chức thiết kế tốt, thích ứng với sự thay đổi
không phụ thuộc vào cá nhân lãnh đạo nào. Những người lãnh đạo trong tổ chức
phải biết tập trung sức lực cho việc thiết kế tổ chức phù hợp, thích ứng. Đồng
thời doanh nghiệp cũng phải hiểu rằng nếu chỉ xác định tầm nhìn, sứ mệnh, lựa
chọn mục tiêu, chiến lược,… thôi thì chưa đủ, doanh nghiệp cần phải mang tầm
nhìn vào cuộc sống, chuyển biến những mong ước tốt đẹp thành hiện thực cụ
thể, chỉnh tề cơ cấu - đội ngũ thẳng hàng hướng đích vào các mục tiêu chiến lược.
Văn hóa doanh nghiệp đòi hỏi doanh nghiệp phải hài hòa trong tư duy, hành
động nhất quán để tạo ra một tổ chức xuất sắc, bền vững. Sự hài hòa đó chính là
tính thẩm mỹ cao nhất trong cấu trúc của tòa nhà văn hóa doanh nghiệp. Doanh
nghiệp bảo thủ xung quanh tư tưởng cốt lõi, nhưng luôn thử nghiệm và dò tìm
cơ hội, cải tiến liên tục tạo ra sự tiến bộ.
Văn hóa doanh nghiệp tạo nên chuẩn mực hành động:
Các hành động nào trong hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra sức mạnh
khác biệt của doanh nghiệp? Những hoạt động nổi trội, đặc thù nào cần có để
duy trì tầm nhìn tham vọng, thúc đẩy sự tiến bộ không ngừng trong toàn tổ chức?
Trong văn hóa doanh nghiệp, việc thực hiện các nhiệm vụ bất khả thi là một
cơ chế mạnh để thúc đẩy sự tiến bộ. Các doanh nghiệp khi xây dựng văn hóa
phải luôn đặt ra cho mình những nhiệm vụ to lớn, quá sức mình, có vẻ như liều
lĩnh, mạo hiểm, nhưng phải nhất quán với giá trị cốt lõi của doanh nghiệp. Từ
mục tiêu bất khả thi của doanh nghiệp, các quản lý, lãnh đạo đơn vị thành viên
xây dựng các mục tiêu bất khả thi cho đơn vị mình tạo một sự sống động thẳng
hàng trên toàn tổ chức. Chính các nhiệm vụ bất khả thi đó được đặt ra nối tiếp,
khi đạt được lại có một mục tiêu mới, nhiệm vụ mới sẽ tạo đã thúc đẩy sự tiến
bộ mạnh mẽ và liên tục giúp một doanh nghiệp trở thành một doanh nghiệp lớn
và xuất sắc trong tương lai.
Để thực hiện các nhiệm vụ bất khả thi, doanh nghiệp phải tìm kiếm, lựa
chọn, đào tạo những con người thích hợp, nhất quán và chia sẻ các giá trị cốt lõi
của doanh nghiệp. Những con người không thích hợp cần phải được loại ra khỏi
doanh nghiệp. Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải một mặt kiểm soát chặt chẽ tư
tưởng nhân viên, mặt khác ủng hộ sự tự chủ cao nhất cho mỗi người, thúc đẩy
mọi người luôn hành động và thử nghiệm và làm mọi thứ có thể cho sự tiến bộ
của doanh nghiệp. Trong các doanh nghiệp xuất sắc, nhiều hành động xuất sắc,
tạo ra cú đẩy phát triển vượt bậc không phải từ những kế hoạch chiến lược định
trước, mà từ các thử nghiệm ngẫu nhiên. Các doanh nghiệp xuất sắc tạo ra một
văn hóa mạnh với các ng8uyên tắc hành động thích hợp để đẩy mạnh quá trình
tiến hóa: Cho phép thử nghiệm - và nhanh chóng tiến hành; Chấp nhận có thể sai
lầm nhỏ, bỏ qua nếu không vi phạm đến tư tưởng cốt lõi. “Sai lầm là sản phẩm
quan trọng nhất của chúng ta” (W. Johnson - Người sáng lập của Johnson & Johnson).
d) Văn hoá doanh nghiệp mang tính hệ thống, thống nhất. tương tự như đặc
tính của văn hóa nói chung.
Văn hóa doanh nghiệp là một tổng thể thống nhất ở chỗ:
Văn hóa doanh nghiệp trước hết phải là một tổng thể có kết cấu thống nhất
và mạnh mẽ dựa trên các thành tố: Các mục tiêu/chiến lược/chiến thuật/chính
sách; Các quá trình nội bộ/hoạt động kinh doanh hàng ngày/công tác quản lý;
Các hệ thống lương/kế toán/thiết kế công việc/bố trí văn phòng; Các giá trị/con
người/sinh hoạt/giao tiếp,…
Biểu hiện tổng quan văn hóa doanh nghiệp là một khối thống nhất gồm 2
mối quan hệ bên trong và bên ngoài có tác động qua lại với nhau (biểu hiện như
vòng tròn Âm Dương có mối quan hệ tác động lẫn nhau)
Trong cứng: là duy trì kỷ luật; thống nhất quan điểm/tư tưởng/hành động;
chuẩn hóa mọi hoạt động quản lý, sản xuất, kinh doanh,… từ đó xây dựng giáo
lý của tổ chức và kiên trì thực hiện nhằm tiến tới một định hướng rõ ràng.
Ngoài mềm: là những mối quan hệ với khách hàng và đối tác; là hệ thống
dịch vụ, chăm sóc khách hàng hoàn hảo, phải hết sức uyển chuyển linh hoạt trong ứng xử.
2.4. Tác động của văn hóa doanh nghiệp tới hoạt động của doanh nghiệp
a) Tác động tích cực của văn hoá doanh nghiệp
Văn hoá doanh nghiệp tạo nên phong thái riêng của doanh nghiệp, giúp phân
biệt giữa doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác
Văn hoá doanh nghiệp gồm nhiều bộ phận hợp thành: Gồm Triết lý kinh
doanh, các tập tục, lễ nghi, thói quen, cách thức đào tạo, giáo dục, truyền thuyết,
huyền thoại của một số thành viên trong doanh nghiệp… Tất cả những yếu tố đó
tạo nên phong cách riêng của doanh nghiệp; điều này giúp cho ta phân biệt được
sự khác nhau giữa các doanh nghiệp và giữa các tổ chức xã hội. Phong cách đó
đóng vai trò như không khí và nước đối với doanh nghiệp, có ảnh hưởng rất lớn đối với doanh nghiệp
Văn hoá doanh nghiệp tạo nên lực hướng tâm chung cho toàn doanh nghiệp
Nếu doanh nghiệp có một nền văn hoá tốt sẽ giúp cho doanh nghiệp thu hút
được nhân tài, giữ chân được nhân tài, củng cố được lòng trung thành của các
nhân viên đối với doanh nghiệp. Vì người lao động làm việc không chỉ vì tiền
mà còn vì các mục đích khác nữa nhất là khi họ đã thoả mãn phần nào về mặt
kinh tế. Theo Maslow về hệ thống nhu cầu của con người, thì nhu cầu của con
người được mô tả bằng một hình tam giác với năm mức nhu cầu được sắp xếp
theo mức độ từ thấp đến c9ao: Nhu cầu sinh lý, nhu cầu an ninh, nhu cầu xã hội
– giao tiếp, nhu cầu được tôn trọng, nhu cầu tự khẳng định mình để tiến bộ.
Văn hoá doanh nghiệp tạo môi trường làm việc hiệu quả, thân thiện, tạo sự
gắn kết và thống nhất ý chí, góp phần định hướng và kiểm soát thái độ hành vi
của các thành viên trong doanh nghiệp.
Văn hoá doanh nghiệp góp phần làm tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp,
trên cơ sở tạo ra bầu không khí và tác phong làm việc tích cực, khích lệ tinh thần
sáng tạo, củng cố lòng trung thành gắn bó của các thành viên, nâng cao tinh thần
trách nhiệm… Tất cả những yếu tố đó góp phần tạo năng suất lao đông và đảm
bảo chất lượng sản phẩm dịch vụ, từ đó sẽ củng cố khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Văn hoá doanh nghiệp khích lệ quá trình đổi mới và sáng tạo
Tại các doanh nghiệp mà môi trường văn hoá ngự trị mạnh mẽ sẽ nảy sinh sự
tự lập đích thực ở mức độ cao nhất, nghĩa là các cá nhân được khuyến khích để
tách biệt đưa ra ý kiến, sáng kiến, thậm chí cả các cá nhân ở cấp cơ sở, sự khích
lệ này phát huy được tính năng động sáng tạo của mọi thành viên trong công ty,
là cơ sở cho quá trình nghiên cứu và phát triển (R&D) của công ty. Mặt khác
những thành công của nhân viên trong công việc sẽ tạo động lực về sự gắn bó
của họ với công ty lâu dài và tích cực hơn.
b) Tác động tiêu cực của văn hoá doanh nghiệp
Một doanh nghiệp có nền văn hoá tiêu cực có thể là doanh nghiệp có nền
quản lý cứng nhắc theo kiểu hợp đồng, độc đoán, chuyên quyền và hệ thống bộ
máy quản lý quan liêu, gây ra không khí làm việc thụ động, sợ hãi của nhân
viên, làm kìm hãm sự sáng tạo, khiến họ có thái độ thờ ơ hoặc chống đối lãnh
đạo. Đây là các doanh nghiệp không có ý định tạo (hoặc không có khả năng tạo)
được một mối liên hệ nào đó giữa các nhân viên trong và ngoài quan hệ công
việc, mà chỉ dừng lại ở chỗ tập hợp hàng nghìn người xa lạ, chỉ tạm dừng chân
tại công ty. Người quản lý chỉ phối hợp các cố gắng của họ, và như vậy dù thế
nào đi nữa thì cũng sản xuất ra một thứ gì đó, nhưng niềm tin của họ vào công
việc, vào doanh nghiệp là không hề có, họ luôn có ý định tìm cơ hội để ra đi và
như vậy doanh nghiệp ngày càng đi vào sự khó khăn.
2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến văn hóa doanh nghiệp
a) Các nhân tố bên trong
- Người đứng đầu/người chủ doanh nghiệp:
Đây là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến văn hóa doanh nghiệp. Người
đứng đầu doanh nghiệp không chỉ là người quyết định cơ cấu tổ chức và công
nghệ được áp dụng trong doanh nghiệp, mà còn là người sáng tạo ra các biểu
tượng, các ý thức hệ, các hệ thống giá trị áp dụng trong doanh nghiệp, sáng tạo
ra niềm tin, các giai thoại, nghi lễ, các nguyên tắc, mục tiêu, chiến lược... của
doanh nghiệp. Trong quá trình xây dựng và quản lý doanh nghiệp, các hệ tư
tưởng, tính cách của ngư1ờ0i đứng đầu doanh nghiệp sẽ được phản chiếu trong
hoạt động kinh doanh, góp phần quan trọng trong quá trình hình thành văn hoá
doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào có những con người có khát vọng cháy bỏng,
dám biến những khát vọng thành hiện thực sinh động thì doanh nghiệp ấy sẽ
chiến thắng trên thương trường. Cho nên có thể nói, nhân cách của người chủ
hay người đứng đầu doanh nghiệp sẽ quyết định chất lượng văn hóa của cả doanh nghiệp.
- Lịch sử, truyền thống của doanh nghiệp:
Đây là yếu tố tuy không mang vai trò quyết định nhưng cần phải được kể đến
trước tiên. Bởi vì, trên thực tế, mỗi doanh nghiệp đều có lịch sử phát triển của
mình. Qua mỗi thời kỳ tồn tại, mỗi doanh nghiệp đều có những đặc điểm mang
tính đặc thù cả về cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động và đặc trưng văn hóa. Tất cả
những yếu tố đó đều có ảnh hưởng không nhỏ đến việc xây dựng, điều chỉnh và
phát triển văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp trong giai đoạn mới. Lịch sử
phát triển và truyền thống văn hóa của một doanh nghiệp cho chúng ta hiểu
được đầy đủ quá trình vận động, thay đổi của doanh nghiệp, cũng như thấy được
những nguyên nhân và sự tác động của những nguyên nhân đó đối với sự thay
đổi của doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, những doanh nghiệp có lịch sử phát
triển lâu đời và bề dày truyền thống thường khó thay đổi về tổ chức hơn những
doanh nghiệp non trẻ chưa định hình rõ phong cách hay đặc trưng văn hóa.
Những truyền thống, tập quán, nhân tố văn hóa đã xuất hiện và định hình trong
lịch sử vừa là chỗ dựa nhưng cũng có thể là rào cản tâm lý không dễ vượt qua
trong việc xây dựng và phát triển những đặc trưng văn hóa mới cho doanh
nghiệp. Các doanh nghiệp mới thành lập thường có các phong cách kinh doanh
hiện đại và hướng tới thị trường nhiều hơn. Thành viên của doanh nghiệp này
cũng trẻ hơn và năng động hơn. Ngược lại những doanh nghiệp có lịch sử phát
triển lâu dài thường khó đổi mới hơn và có các giá trị văn hóa truyền thống, có
kinh nghiệm chuyên môn hơn.
- Ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp:
Giữa các công ty có ngành nghề kinh doanh khác nhau sẽ có văn hóa khác
nhau. Văn hóa ngành nghề cũng là một yếu tố tác động quan trọng đến kết quả
kinh doanh của từng doanh nghiệp. Các công ty thương mại có văn hóa khác với
công ty sản xuất và chế biến. Mặt khác, văn hóa ngành nghề cũng thể hiện rõ
trong việc xác định mối quan hệ giữa các phòng ban và bộ phận khác nhau trong
công ty. Những người làm hành chính sẽ có các cách ứng xử và những giá trị
văn hóa khác với các công nhân trực tiếp sản xuất và khác với các nhân viên kế
toán. Điều đó đã lý giải cho việc tại sao giữa các đơn vị, bộ phận trong một công
ty nhiều khi lại khó phối hợp hoạt động. Sự khó phối hợp này đã làm giảm khả
năng của tất cả các đơn vị trong việc đưa ra chất lượng hiệu quả cao vì mục đích
chung của doanh nghiệp. 11
- Hình thức sở hữu của doanh nghiệp
Loại hình sở hữu hay các loại hình công ty khác nhau cũng tạo ra sự khác biệt
trong văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp. Các công ty cổ phần sẽ có những
giá trị văn hóa khác với giá trị văn hóa của các công ty trách nhiệm hữu hạn và
càng khác với giá trị văn hóa của các công ty của nhà nước. Sở dĩ như vậy vì
bản chất hoạt động và điều hành cũng như ra quyết định của các công ty này là
khác nhau. Trong các công ty nhà nước, khi giám đốc điều hành hoạt động sản
xuất kinh doanh dựa trên nguồn vốn 100% của nhà nước, lại hoạt động chủ yếu
trong các môi trường độc quyền và điều hành hoạt động theo các chỉ tiêu kế
hoạch mà nhà nước thông qua thì tính chủ động và tự giác sẽ thấp hơn các công
ty tư nhân. Theo các nhà nghiên cứu thì các công ty nhà nước thường có giá trị
văn hóa thích sự tuân thủ, ít chú ý đến hoạt động chăm sóc khách hàng trong khi
các công ty tư nhân lại có giá trị văn hóa hướng tới khách hàng và ưa thích sự linh hoạt hơn.
- Mối quan hệ giữa các thành viên của doanh nghiệp:
Mối quan hệ giữa các thành viên trong doanh nghiệp sẽ là yếu tố ảnh hưởng
rất mạnh mẽ đến văn hóa doanh nghiệp cũng như sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có B những giá trị phù hợp để mọi thành viên
cùng chia sẻ, quan tâm; có một hệ thống định chế bao gồm những vấn đề liên
quan đến tính chuyên nghiệp như sự hoàn hảo của công việc, sự hài hòa giữa
quyền hạn và trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động; có quy
trình kiểm soát, đánh giá chính xác hiệu quả làm việc của người lao động. thì sẽ
tạo thành được một thể thống nhất, tạo được sự gắn bó, đoàn kết giữa các thành viên.
- Những giá trị văn hoá học hỏi được:
Những giá trị học hỏi được thường rất phong phú và đa dạng, nhưng chủ yếu qua các hình thức sau:
Những kinh nghiệm tập thể của doanh nghiệp: Đây là những kinh nghiệm có
được khi xử lý các công việc chung, rồi sau đó được tuyên truyền và phổ biến
toàn doanh nghiệp và các thành viên mới.
Những giá trị học hỏi được từ các doanh nghiệp khác: Đó là kết quả của quá
trình nghiên cứu thị trường, nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, các chương trình
giao lưu, hội chợ, các khoá đào tạo của ngành.
Những giá trị văn hoá được tiếp nhận trong quá trình giao lưu với nền văn hoá
khác: Đây là trường hợp phổ biến của các công ty đa quốc gia và xuyên quốc
gia, các công ty gửi nhân viên đi làm việc và đào tạo ở nước ngoài, các doanh
nghiệp đầu tư ở nước ngoài và có các đối tác nước ngoài. 12
Những giá trị do một hay nhiều thành viên mới đến mang lại: Việc tiếp nhận
những giá trị này thường phải trải qua một thời gian dài, tiếp nhận một cách vô
thức hoặc có ý thức. Ví dụ khi chưa có nhân viên mới này, doanh nghiệp chưa
có thói quen giải quyết khiếu nại của khách hàng trong vòng 24 giờ (đây là thói
quen của nhân viên mới), do thực hiện tốt công việc được khách hàng khen
ngợi, được cấp trên thưởng. Các nhân viên khác thấy vậy noi gương theo, dẫn
đến hình thành văn hoá của doanh nghiệp.
b) Các nhân tố bên ngoài
- Văn hoá xã hội, văn hóa dân tộc, văn hóa vùng miền: Các nhà nghiên cứu
cũng chỉ ra rằng, trong doanh nghiệp có các nhân viên đến từ các địa phương,
các vùng khác nhau thì các giá trị văn hóa vùng miền thể hiện rất rõ nét. Các
hành vi mà nhân viên mang đến nơi làm việc không dễ dàng thay đổi bởi các qui
định của doanh nghiệp. Hay nói cách khác, văn hóa của công ty không dễ dàng
làm giảm đi hoặc loại trừ văn hóa vùng miền trong mỗi nhân viên của công ty.
Do đó, đây cũng là yếu tố tác động đến văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp.
Văn hoá kinh doanh là một bộ phận của văn hoá dân tộc, văn hoá xã hội. Vì
vậy sự phản chiếu của văn hoá dân tộc, văn hoá xã hội lên nền văn hoá kinh
doanh là một điều tất yếu. Mỗi cá nhân trong một nền văn hoá kinh doanh đều
phụ thuộc vào một nền văn hoá dân tộc cụ thể, với một phần nhân cách tuân
theo các giá trị văn hoá dân tộc. Mức độ coi trọng tính cá nhân hay tính tập thể,
khoảng cách phân cấp của xã hội, tính linh hoạt chuyển đổi giữa các tầng lớp xã
hội, tính đối lập giữa nam quyền và nữ quyền, tính thận trọng. là những thành tố
của văn hoá xã hội tác động rất mạnh mẽ đến văn hoá kinh doanh. - Thể chế xã hội
Thể chế là yếu tố hàng đầu, có vai trò tác động chi phối tới văn hóa kinh
doanh mỗi nước. Thể chế là “những quy tắc của cuộc chơi trong xã hội” hoặc
“những luật lệ do con người đặt ra để điều tiết và định hình những quan hệ
tương hỗ giữa con người”. Vì đối tượng điều chỉnh của thể chế là các quan hệ xã
hội, cho nên để tương ứng với các quan hệ xã hội, người ta chia ra: thể chế chính
trị, thể chế kinh tế, thể chế văn hóa xã hội, thể chế hành chính.
Hoạt động sản xuất - kinh doanh của từng cá nhân, từng tổ chức, từng doanh
nghiệp trong xã hội đều phải chịu sự quy định, sự tác động của môi trường thể
chế, phải tuân thủ các nguyên tắc, thủ tục hành chính, sự quản lý của nhà nước
về kinh tế. Do vậy có thể nói, thể chế chính trị, thể chế kinh tế, thể chế hành
chính, thể chế văn hóa, các chính sách của chính phủ, hệ thống pháp chế... là
những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường kinh doanh và qua đó ảnh
hưởng sâu sắc tới việc hình thành và phát triển văn hóa kinh doanh.
Các chính sách của nhà nước 13
sẽ có ảnh hưởng mạnh mẽ tới doanh nghiệp, nó
có thể tạo ra lợi nhuận hoặc thách thức với doanh nghiệp như chính sách thương
mại, chính sách phát triển ngành, phát triển kinh tế, các chính sách điều tiết cạnh
tranh bảo vệ người tiêu dùng... Hệ thống chính sách hợp lý, đồng bộ, nhất quán
dựa trên một nền chính trị ổn định sẽ ảnh hưởng tích cực đến hoạt động của
doanh nghiệp. Ví dụ chính sách thuế với các quy định hợp lý về thuế xuất khẩu,
nhập khẩu, các khoản thuế tiêu thụ, thuế thu nhập... sẽ ảnh hưởng tới doanh thu,
lợi nhuận của doanh nghiệp.
Phương thức hoạt động, mức độ công bằng, công khai, minh bạch và hiệu quả
của nền hành chính có tác động trực tiếp tới hành vi và hiệu quả hoạt động của
giới doanh nhân. Sự ổn định về chính trị, thái độ của các quan chức chính phủ
đối với doanh nghiệp, hệ thống pháp luật, chính sách thương mại. là những yếu
tố ảnh hưởng trực tiếp tới môi trường kinh doanh, ảnh hưởng rất lớn đến chiến
lược kinh doanh và các mối quan hệ bên trong của chủ thể kinh doanh và qua đó
ảnh hưởng sâu sắc tới việc hình thành và phát triển văn hoá kinh doanh.
Ngoài các yếu tố thuộc về các chính sách và hệ thống pháp chế của chính phủ
thì chính thể chế kinh tế cũng đã đặt ra những yêu cầu cho sự phát triển của văn
hoá kinh doanh. Thông qua quan hệ kinh tế, kinh doanh mà chủ thể kinh doanh
hình thành được các bản sắc văn hóa riêng từ việc kế thừa và tiếp thu những giá
trị văn hóa tốt đẹp của nhân loại, những giá trị truyền thống quí báu của dân tộc
và thể hiện được những giá trị đó trong các sản phẩm được sản xuất ra. Sự cạnh
tranh trong nền kinh tế thị trường cũng buộc các doanh nghiệp muốn đạt được
sự phát triển bền vững thì phải quan tâm nhiều hơn đến văn hóa kinh doanh, nhà
kinh doanh phải có đạo đức, tôn trọng con người, có cuộc sống trong sạch, có
tác phong tự chủ, năng động sáng tạo, có tinh thần dám nghĩ dám làm, dám chấp
nhận rủi ro, dám chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của mình.
- Quá trình toàn cầu hóa
Toàn cầu hoá tạo nên một xu thế phát triển ngày càng rõ nét, các nền kinh tế
ngày càng trở nên phụ thuộc lẫn nhau, tiến dần đến một hệ thống kinh tế toàn
cầu. Tiến trình này đã thúc đẩy các quá trình luân chuyển vốn và công nghệ, mở
rộng các thị trường, góp phần làm cho hoạt động kinh doanh phát triển mạnh
mẽ. Các nền kinh tế hoà nhập cùng nền kinh tế thế giới, tạo điều kiện cho các
doanh nhân có cơ hội phát huy hết khả năng của mình, nâng cao trình độ kinh
doanh cho phù hợp với yêu cầu của thị trường. Quá trình này mở cửa cho các
nền kinh tế hoà nhập cùng nền kinh tế thế giới, tạo điều kiện cho các doanh nhân
có cơ hội phát huy hết khả năng của mình, nâng cao trình độ kinh doanh cho phù
hợp với yêu cầu của thị trường. Trong quá trình toàn cầu hoá diễn ra sự giao lưu
giữa các nền văn hoá kinh doanh, đã bổ sung thêm giá trị mới cho văn hoá kinh
doanh mỗi nước, làm phong phú thêm kho tàng kiến thức về kinh doanh, biết
cách chấp nhận những luậ1t4chơi chung, những giá trị chung để cùng hợp tác phát triển.
- Sự khác biệt và sự giao lưu văn hoá
Giữa các quốc gia, các chủ thể kinh doanh và các cá nhân trong đơn vị kinh
doanh không bao giờ có cùng một kiểu văn hoá thuần nhất. Trong khi nền văn
hoá Mỹ đánh giá cao lối sống cá nhân và tính thẳng thắn thì nền văn hoá châu Á
lại coi trọng việc tuân thủ luật lệ xã hội. Đối với một số nền văn hoá, việc
thưởng tiền hay hối lộ để đạt được một quyết định có lợi hơn là một thông lệ
được chấp nhận. Tuy nhiên, ở Mỹ nhà quản trị làm việc thưởng tiền kiểu đó có
thể phải vào tù. Sự khác biệt về văn hoá có thể là nguyên nhân gây căng thẳng
hoặc dẫn tới xung đột văn hoá (nhất là trong các doanh nghiệp liên doanh). Sự
xung đột này tác động khá mạnh đến việc hình thành một bản sắc văn hoá kinh doanh phù hợp.
Trong môi trường kinh doanh quốc tế ngày nay, các chủ thể kinh doanh không
thể duy trì văn hoá của mình như một lãnh địa đóng kín mà phải mở cửa và phát
triển giao lưu về văn hoá. Sự giao lưu văn hoá tạo điều kiện cho các chủ thể kinh
doanh học tập, lựa chọn những khía cạnh tốt về văn hoá của các chủ thể khác
nhằm phát triển mạnh nền văn hoá của doanh nghiệp mình. - Khách hàng
Các chủ thể kinh doanh tồn tại và phát triển không vì lợi nhuận trước mắt mà
phải vì một lợi nhuận lâu dài và bền vững. Với vai trò là người góp phần tạo ra
doanh thu, khách hàng cũng đóng góp một phần rất quan trọng vào việc tạo ra
lợi nhuận lâu dài và bền vững cho chủ thể kinh doanh. Nhất là trong xã hội hiện
đại, khách hàng không mua sản phẩm thuần tuý, họ muốn mua những giá trị, họ
đưa ra các quyết định dựa trên bối cảnh văn hoá chứ không đơn thuần là những
quyết định có tính chất thiệt hơn. Khách hàng ngày càng đòi hỏi nhiều hơn, họ
có tính cách, suy nghĩ, lập trường riêng, có nghĩa là họ có văn hoá riêng của họ.
Cuộc sống càng hiện đại, cung cách buôn bán càng phát triển thì họ càng được
tự do hơn trong lựa chọn. Do đó, nhu cầu, thẩm mỹ, trình độ dân trí về kinh tế
của khách hàng tác động trực tiếp tới văn hoá kinh doanh của các chủ thể kinh doanh.
2.6. Vai trò của văn hóa doanh nghiệp
Văn hóa doanh nghiệp là phần hồn, là tài sản vô hình của doanh nghiệp, góp
phần tạo nên sức mạnh và quyết định sự trường tồn của doanh nghiệp. Vậy nên,
văn hóa doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng với sự phát triển của doanh nghiệp.
a) VHDN là nguồn lực tạo ra lợi thế cạnh tranh
Lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp được xem xét trên các khía cạnh như:
chất lượng sản phẩm, chi 1p5hí, sự linh hoạt (trước phản ứng của thị trường), thời
gian giao hàng… Để có được những lợi thế này doanh nghiệp phải có những
nguồn lực như nhân lực, tài chính, công nghệ, máy móc, nguyên vật liệu,
phương pháp làm việc (phương pháp 5 M: man, money, material, machine,
method). Nguồn lực tài chính, máy móc, nguyên vật liệu đóng vai trò lợi thế so
sánh với đối thủ cạnh tranh trước khách hàng. Nguồn nhân lực đóng vai trò tham
gia toàn bộ quá trình chuyển hoá các nguồn lực khác thành sản phẩm đầu ra, vì
vậy có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định tạo ra những lợi thế cạnh tranh
như chất lượng sản phẩm, thời gian giao hàng..
Tính hiệu quả của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào yếu tố văn hoá
(VHDN. Nó ảnh hưởng trực tiếp to lớn đến việc hình thành mục tiêu, chiến lược
và chính sách, nó tạo ra tính định hướng có tính chất chiến lược cho bản thân
doanh nghiệp, đồng thời cũng tạo thuận lợi cho việc thực hiện thành công chiến
lược đã lựa chọn của doanh nghiệp. Môi trường văn hoá của doanh nghiệp còn
có ý nghĩa tác động quyết định đến tinh thần, thái độ, động cơ lao động của các
thành viên và việc sử dụng đội ngũ lao động và các yếu tố khác. Môi trường văn
hoá càng trở nên quan trọng hơn trong các doanh nghiệp liên doanh, bởi vì ở đó
có sự kết hợp giữa văn hoá của các dân tộc, các nước khác nhau.
b) Văn hoá doanh nghiệp là một nguồn lực của doanh nghiệp
Mục tiêu của văn hoá doanh nghiệp là nhằm xây dựng một phong cách quản trị
hiệu quả đưa hoạt động của doanh nghiệp vào nề nếp và xây dựng mối quan hệ
hợp tác thân thiện giữa các thành viên của doanh nghiệp , làm cho doanh nghiệp
trở thành một cộng đồng làm việc trên tinh thần hợp tác, tin cậy, gắn bó, thân
thiện và tiến thủ. Trên cơ sở đó hình thành tâm lý chung và lòng tin vào sự thành
công của doanh nghiệp. Do đó nó xây dựng một nề nếp văn hoá lành mạnh tiến
bộ trong tổ chức, đảm bảo sự phát triển của mỗi cá nhân trong doanh nghiệp.
Văn hoá càng mạnh bao nhiêu, nó càng định hướng tới thị trường, văn hoá và sự
định hướng tới thị trường càng mạnh bao nhiêu thì công ty càng cần ít chỉ thị,
mệnh lệnh, sơ đồ tổ chức, chỉ dẫn cụ thể hay điều lệ bấy nhiêu. Các công ty xuất
sắc đều có một hệ thống giá trị, một bản sắc riêng không ai bắt chước được. Đó
là “Cố gắng cung cấp cơ hội cho một sự phát triển nhanh chóng” của hãng Intel;
“Quản lý theo tinh thần chữ ái” của công ty Trung Cương; “Phục vụ Tổ quốc
thông qua buôn bán” của hãng Samsung.
c) Thu hút nhân tài , tăng cường sự gắn bó người lao động
Một nền văn hóa được doanh nghiệp quan tâm phát triển giúp doanh nghiệp
thu hút nhân lài và cúng cố lòng chung thành của nhân viên đối với doanh
nghiệp. Người lao động không chi vì tiền mà còn vì những nhu cầu khác nữa.
Hệ thống nhu cầu của con người của A. Maslow là một hình tam giác gồm 5 loại
nhu cầu sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao: Nhu cầu sinh lý, nhu cầu an ninh,
nhu cầu giao tiếp, nhu cầu được kính trọng và nhu cầu được khẳng định chính
mình để tiến bộ. Các nhu cầu trên là những cung bậc khác nhau của sự ham
muốn có tính khách quan ở mỗi cá nhân. Nó là những động lực thúc đẩy con
người hoạt động nhưng không nhất thiết là lý tưởng của họ. 16
Từ mô hình của A. Mas low, có the nhận thấy thật sai lầm nủa một doanh
nghiệp lại cho rằng chi cần trả lương cao là sẽ thu hút, duy trì được nhân lài.
Nhân viên chỉ trung thành và gắn bó với doanh nghiệp lâu dài khi họ thấy hứng
thú được làm việc trong bầu không khí thân thuộc của doanh nghiệp và có khả
năng tự khẳng định mình để thăng tiến. Trong một nền văn hóa chất lượng, các
nhân viên nhận thức rõ ràng về vai trò của bản thân mình trong toàn bộ tổng thể,
họ làm việc vì mục đích và mục tiêu chung.
d) Văn hoá doanh nghiệp tạo nên bản sắc của doanh nghiệp
Văn hoá doanh nghiệp là tài sản tinh thần của doanh nghiệp và phân biệt doanh
nghiệp với các doanh nghiệp khác tạo nên bản sắc (phong thái, sắc thái, nền nếp,
tập tục) của doanh nghiệp văn hoá doanh nghiệp di truyền, bảo tồn cái bản sắc
của doanh nghiệp qua nhiều thế hệ thành viên, tạo ra khả năng phát triển bền
vững của doanh nghiệp. Văn hoá doanh nghiệp như là “bộ gen” của doanh nghiệp.
Những doanh nghiệp thành công thường là những doanh nghiệp chú trọng xây
dựng, tạo ra môi trường văn hoá riêng biệt khác với các doanh nghiệp khác..
Bản sắc văn hoá không chỉ là tấm căn cước để nhận diện doanh nghiệp mà còn
là phương thức sinh hoạt và hoạt động chung của doanh nghiệp. Nó tạo ra lối
hoạt động, kinh doanh của doanh nghiệp. Đó là bầu không khí, là tình cảm, sự
giao lưu, mối quan hệ và ý thức trách nhiệm, tinh thần hiệp tác phối hợp trong
thực hiện công việc. Ví dụ như trong ngành điện dân dụng, từ xưa người ta đã
đặt tên cho từng xí nghiệp theo một phong cách riêng như : Hitachi : Võ sĩ
hoang dã (Nobushi), Matsushita: Thương nhân (Shonin), Mitsubisi: Quý nhân
(Donosama), Toshiba : Võ sĩ đạo (Samurai)
e) Văn hoá ảnh hướng tới hoạch định chiến lược
Văn hoá tổ chức có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạch định chiến lược phát triển
của tổ chức thông qua việc chọn lọc thông tin thích hợp (áp dụng kinh nghiệm,
mô hình phù hợp), đặt ra những mức tiêu chuẩn theo giá trị của tổ chức, cung
cấp những tiêu chuẩn, nguyên tắc cho các hoạt động. Hoạch định chiến lược
phát triển của tổ chức sẽ giúp cho các thành viên thấy hết vai trò của họ trong tổ
chức, cung cấp những cơ sở quan trọng để các thành viên tổ chức hiểu được môi
trường của họ và vị trí của DN trong môi trường đó.
Văn hoá tổ chức cũng sẽ có ảnh hưởng tới hiệu quả thực hiện chiến lược của
tổ chức. Bởi vì một văn hoá mạnh, tức là tạo được một sự thống nhất và tuân thủ
cao đối với giá trị, niềm tin của tổ chức sẽ là cơ sở quan trọng để thực hiện thành
công chiến lược của tổ chức. Văn hoá tổ chức với chức năng tạo được cam kết
cao của các thành viên trong tổ chức, yếu tố quyết định để nâng cao hiệu quả
hoạt động, năng suất lao động của tổ chức. Văn hoá tổ chức, chính vì vậy sẽ góp
phần quan trọng tạo nên một “công thức thành công” cho các DN trên con đường hội nhập. 17