Chương 1 : Phân tích khái niệm tưởng Hồ Chí Minh và Quá trình nhận thức
của ĐCSVN về tưởng Hồ Chí Minh.
1.1. Phân tích khái niệm tưởng Hồ Chí Minh
1.1.1.
Khái niệm
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 2011)
nêu khái niệm tưởng Hồ Chí Minh như sau:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh một hệ thống quan điểm, toàn diện sâu sắc về
những vấn đề bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế
thừa phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hoá nhân loại; tài sản tinh thần cùng to lớn quý giá của Đảng
dân tộc ta mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân n ta giành
thắng lợi”.
1.1.2.
Phân tích khái niệm
Về nội hàm bản: Khái niệm đã thể hiện “Tư tưởng Hồ Chí Minh
hệ thống quan điểm toàn diện sâu sắc về những vấn đề bản của cách
mạng Việt Nam”. vậy, tưởng của Hồ Chí Minh tập trung vào những vấn
đề bản của cách mạng Việt Nam, con đường phát triển của dân tộc Việt Nam
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội. Mục tiêu con đường y
đúng theo luận Mác-Lênin,bao gồm các vấn đề sau:
Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam sự quản
của Nhà nước cách mạng
Xác định lực lượng cách mạng toàn th nhân dân Việt Nam yêu nước,
xây dựng con người Việt Nam năng lực phẩm chất đạo đức cách mạng
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại trên sở quan hệ
quốc tế hòa bình, hợp tác, hữu nghị cùng phát triển; với phương pháp cách
mạng phù hợp....
Về nguồn gốc: Đảng ta đã chỉ ba nguồn gốc luận hình thành nên tư
tưởng Hồ Chí Minh, bao gồm: Chủ nghĩa Mác Lênin, giá trị bản nhất.
đồng thời gồm c giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc tinh hoa
văn hóa của nhân loại. Đặc biệt chủ nghĩa Mác - Lê-nin vai trò quyết định
nhất đối với sự hình thành tưởng Hồ Chí Minh, nó cung cấp cho Hồ Chí
Minh một thế giới quan phương pháp luận của chủ nghĩa c. Dựa trên
sở thế giới quan phương pháp luận của chủ nghĩa Mác, tưởng cách mạng
Hồ Chí Minh đã sự chuyển biến về chất, giúp Người tiếp thu chuyển hóa
những giá trị tích cực, văn hóa n tộc, tinh hoa truyền thống tốt đẹp của nhân
loại. Giúp Người nhận định, đánh giá, phân tích đúc kết một cách khoa học
nhiều thuyết, quan điểm khác nhau, đặc biệt kinh nghiệm từ những hoạt
động động thực tiễn.
Về nội dung: Theo quan điểm của Đảng được trình bày tại Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX, tưởng Hồ Chí Minh gồm 9 nội dung bản:
Một là, tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Hai là, tưởng về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc.
Ba là, ởng về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thực
sự của dân, do dân, dân.
Bốn , ởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí ng
tư.
Năm là, tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.
Sáu là, tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người.
Bảy là, tưởng về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng trang
nhân dân.
Tám là, ởng về phát triển kinh tế văn hóa, không ngừng nâng cao
đời sống vật chất tinh thần của nhân dân.
Chín là, ởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ,
đảng viên vừa một người lãnh đạo, vừa một người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân.
Về giá trị, ý nghĩa: tài sản tinh thần cùng to lớn quý giá của
Đảng dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân
ta giành thắng lợi”. Cùng với chủ nghĩa MácLênin, tưởng Hồ Chí Minh
một bộ phận cấu thành m nên nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho hành
động của Đảng cách mạng Việt Nam. i sản tinh thần khái niệm khó
thể nhận diện một cách cụ thể nhưng lại khả năng gắn kết cộng đồng, kết
dính tâm thức dân tộc. Trong thực tế i sản vật chất thể mất đi nhưng tài sản
tinh thần thì luôn bền vững bởi nó p phần tạo dựng nên truyền thống văn hóa,
tạo nên hệ thống giá trị chuẩn mực của hội đồng thời định hướng giá trị cho
tương lai.
1.2. Phân tích quá trình nhận thức của ĐCSVN về Tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.2.1.
Giai đoạn trước năm 1991
Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua các n kiện
làm thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Cương lĩnh này thể hiện
những nội dung rất bản của tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam.
Sau khi Đảng ra đời, tưởng Hồ Chí Minh trải qua thử thách đã được
khẳng định lại. Việc nhận thức về tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng
Việt Nam cũng như vai trò của Người đối với quá trình phát triển của dân tộc
từ sau khi một quá trình không đơn giản. Đã sự hiểu không đúng từ Quốc
tế Cộng sản từ một số người trong Đảng Cộng sản Đông Dương do những
người này bị chịu ảnh hưởng lớn của đường lối, quan điểm tả khuynh của Đại
hội VI Quốc tế Cộng sản (năm 1928) trên vấn đề tập hợp lực ợng cách mạng
những nước thuộc địa. Nhưng, thực tế đã chứng minh cho sự đúng đắn của
những quan điểm của Hồ Chí Minh những người tham gia Hội nghị thành
lập Đảng, vậy tưởng Hồ Chí Minh đã được khẳng định lại. Đại hội II của
Đảng (2-1951) nêu rõ:
“Đường lối chính trị, nề nếp làm việc đạo đức cách mạng của Đảng ta hiện
nay đường lối, tác phong đạo đức Hồ Chủ tịch... Toàn Đảng hãy ra sức
học tập đường lối chính trị, tác phong đạo đức ch mạng của Hồ Chủ tịch;
sự học tập ấy, điều kiện tiên quyết làm cho Đảng mạnh làm cho cách
mạng đi mau đến thắng lợi hoàn toàn”.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng tôn vinh Hồ Chí Minh “Anh hùng
dân tộc đại”. Hồ Chí Minh qua đời ngày 2-9-1969. Điếu văn của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đoạn nêu rõ: “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất
nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc đại, chính Người
đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta non sông đất nước ta”. Tiếp nối sự
đánh giá y, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12-1976) đánh
giá: “Thắng lợi to lớn của s nghiệp chống Mỹ, cứu nước ng như những
trang sử chói lọi của cách mạng Việt Nam ngót nửa thế kỷ nay mãi mãi gắn liền
với tên tuổi của Chủ tịch H Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta,
người khai sinh nền Cộng hoà Dân chủ Việt Nam, người vun trồng khối đại
đoàn kết dân tộc xây dựng lực lượng trang cách mạng, vị lãnh tụ thiên tài
của giai cấp công nhân nhân n ta, người anh hùng dân tộc đại, người
chiến lỗi lạc của phong trào cộng sản công nhân quốc tế”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần th V (tháng 3-1982) của Đảng nhấn
mạnh: “Đảng phải đặc biệt coi trọng việc tổ chức học tập một cách hệ thống
tưởng, đạo đức tác phong của Ch tịch H Chí Minh trong toàn Đảng”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) đã đề ra
đường lối đổi mới toàn diện nước ta, trong đó nhấn mạnh: “Đảng ta phải nắm
vững bản chất ch mạngvà khoa học của chủ nghĩa c - Lênin, kế thừa di
sản quý báu về tưởng luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”.
1.2.2.
Giai đoạn từ năm 1991 đến nay.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) một mốc
lớn khi năm 1990 , UNESSCO công nhận Hồ Chí Minh là doanh nhân văn hóa
Thế Giới,nêu cao tưởng Hồ Chí Minh. Thực tế sự nghiệp cách mạng Việt
Nam nói chung của những năm đổi mới nói riêng đã chứng t rằng, không
những ch nghĩa Mác - Lênin, còn tưởng Hồ Chí Minh nữa, đã trở
thành yếu tố chỉ đạo làm nên thắng lợi cho cách mạng Việt Nam. Chính thế,
một trong những điểm mới của Đại hội VII Đảng nêu cao tưởng Hồ Chí
Minh. Đại hội VII của Đảng khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tưởng, kim chỉ nam cho hành động”.
Đại hội VII u tưởng Hồ Chí Minh kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta,và trong thực tế ởng
Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng ta và của cả
dân tộc”. Việc khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - nin, tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tưởng kim chỉ nam cho hành động cũng đã được ghi nhận
trong hai văn kiện nữa rất quan trọng của Đảng Nhà nước Cộng hoà hội
chủ nghĩa Việt Nam, đó ơng lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa hội được Đại hội VII năm 1991 thông qua (bổ sung, phát triển
năm 2011) trong Hiến pháp ớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1992 năm 2013.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4-2001), Đảng đã nhận thức về
tưởng Hồ C Minh một cách đầy đủ hơn so với Đại hội VII: tưởng Hồ
Chí Minh một hệ thống quan điểm toàn diện sâu sắc về những vấn đề
bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin o điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa phát triển
các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần th X của Đảng (4-2006), khi đề cập
tưởng Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Sự nghiệp cách mạng của Đảng của nhân
dân ta 76 m qua đã khẳng định rằng, tưởng đại của Người cùng với chủ
nghĩa Mác - Lênin mãi mãi nền tảng ởng, kim chỉ nam cho nh động
của Đảng cách mạng Việt Nam, i sản tinh thần vô giá của Đảng và dân
tộc ta. ởng đó đã dẫn dắt chúng ta trên mỗi chặng đường xây dựng phát
triển đất nước, ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam; sức mạnh tập
hợp đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp cách mạng của chúng
ta hôm nay mai sau”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI, XII XIII Đảng cũng luôn
khẳng định công lao đại của Hồ C Minh đối với cách mạng Việt Nam
khẳng định tưởng, đạo đức, phong cách Hồ C Minh những nhân tố
không thể thiếu trong tư tưởng hành động của toàn Đảng, toàn quân, toàn
dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội XIII của Đảng (tháng 01-2021) khẳng định quan điểm chỉ đạo
là: Kiên định vận dụng, phát triển ng tạo chủ nghĩa Mác - nin, tưởng
Hồ Chí Minh”.
Từ những năm đầu thế kỷ XXI, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương
phát động việc học tập làm theo tấm ơng đạo đức Hồ C Minh. Đại hội
XII của Đảng nhận định: “Việc thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính
trị về học tập làm theo tấm gương đạo đức H Chí Minh đạt kết quả bước
đầu quan trọng”. Tuy nhiên, việc y “chưa đều, chưa đi vào chiều sâu nhiều
ngành, địa phương, quan, đơn vị; một số nơi thực hiện còn mang tính hình
thức”. Trên sở đó, Đại hội XII của Đảng quyết định: Tiếp tục
đẩy mạnh việc học tập làm theo tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh; coi đó công việc thường xuyên của c tổ chức đảng, c cấp chính
quyển, các tổ chức chính trị -xã hội, địa phương, đơn vị gắn với chống suy
thoái về tưởng chính trị, đạo đức, lối sống những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa trong nội bộ”. Đó cũng tinh thần của Chỉ th số 05-CT/TW,
ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội
XII.
Đến Đại hội XIII, Đảng xác định nhiệm vụ “thực hiện thường xuyên,
sâu rộng, hiệu quả việc học tập, m theo tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh gắn với việcthực hiện c nhiệm vụ chính trị”
1.3. Liên hệ thực tiễn, ý nghĩa và giá trị của tưởng Hồ Chí Minh trong thời
kỳ toàn cầu hóa hội nhập quốc tế
1.3.1.
Ý nghĩa giá trị của tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ toàn cầu hóa và
hội nhập quốc tế thể hiện sự kiên định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin “làm
cốt”
Thế giới toàn cầu hóa hội nhập hiện nay đang rất nhiều thuyết
phát triển, nhưng Việt Nam chỉ một: đó chủ nghĩa Mác - Lênin mà Ch
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một cách bất di bất dịch. Tất nhiên, trong
hội hiện đại, muốn phát triển nhanh bền vững, Đảng ta vừa phải vận dụng
sáng tạo phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời phải tiếp thu chọn
lọc những giá trị của các luồng luận, ởng mới, tiến bộ. Theo đó, Đảng
phải duy năng động, luôn vận dụng sáng tạo phát triển ch nghĩa Mác
- Lênin, tưởng H Chí Minh và nắm bắt các nguồn lực trí tuệ tiên tiến trên
thế giới; biết kế thừa, phát triển từ những yếu tố thể kế thừa phát triển
được của các học thuyết, trào lưu chính trị - hội trên thế giới như chính bản
thân C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đã làm; phải bản lĩnh
chính trị vững vàng, nghĩa phải tâm lành - đức dày, tài cao - trí sáng -
tầm nhìn xa, cao rộng, chí, uy.
1.3.2.
Ý nghĩa giá trị của tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ toàn cầu hóa
hội nhập quốc tế thể hiện vấn đề then chốt nhất: xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực nh đạo và sức chiến đấu của Đảng
Trong thời kỳ toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay, ý nghĩa và g trị của
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một đảng cộng sản như thế vẫn tỏa sáng. Điều
đó luôn được Đảng ta khẳng định trong c kỳ Đại hội: “xây dựng Đảng
nhiệm vụ then chốt”. Sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng không tự nhiên
không phải cứ tự nhận được. Sự lãnh đạo, cầm quyền đó kết qu của
bao hy sinh, phấn đấu của Đảng, từ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Nhân dân đã tin tưởng trao cho Đảng vai trò lãnh đạo toàn hội, lãnh đạo
Nhà nước tất cả các lĩnh vực đời sống hội. Nhưng, Đảng sẽ mất vai trò
lãnh đạo, mất vai trò cầm quyền nếu Đảng không trong sạch, vững mạnh, nếu
Đảng bị suy thoái, không được nhân dân tin yêu nữa. Do đó, Đảng tất yếu phải
thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn để làm trong sạch đội ngũ, xứng đáng
với niềm tin yêu của nhân dân. Đó một thông điệp cực kỳ quan trọng trong
tưởng Hồ Chí Minh.

Preview text:

Chương 1 : Phân tích khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh và Quá trình nhận thức
của ĐCSVN về Tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.1. Phân tích khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh 1.1.1. Khái niệm
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 2011)
nêu khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh như sau:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm, toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế
thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và
dân tộc ta mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”.
1.1.2. Phân tích khái niệm
Về nội hàm cơ bản: Khái niệm đã thể hiện rõ “Tư tưởng Hồ Chí Minh
là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam”. Vì vậy, tư tưởng của Hồ Chí Minh tập trung vào những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, con đường phát triển của dân tộc Việt Nam
là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu và con đường này
đúng theo lý luận Mác-Lênin,bao gồm các vấn đề sau:
Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý
của Nhà nước cách mạng
Xác định lực lượng cách mạng là toàn thể nhân dân Việt Nam yêu nước,
xây dựng con người Việt Nam có năng lực và phẩm chất đạo đức cách mạng
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại trên cơ sở quan hệ
quốc tế hòa bình, hợp tác, hữu nghị cùng phát triển; với phương pháp cách mạng phù hợp. .
Về nguồn gốc: Đảng ta đã chỉ rõ ba nguồn gốc lý luận hình thành nên tư
tưởng Hồ Chí Minh, bao gồm: Chủ nghĩa Mác – Lênin, là giá trị cơ bản nhất.
Và đồng thời gồm có các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa
văn hóa của nhân loại. Đặc biệt chủ nghĩa Mác - Lê-nin có vai trò quyết định
nhất đối với sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, vì nó cung cấp cho Hồ Chí
Minh một thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác. Dựa trên cơ
sở thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác, tư tưởng cách mạng
Hồ Chí Minh đã có sự chuyển biến về chất, giúp Người tiếp thu và chuyển hóa
những giá trị tích cực, văn hóa dân tộc, tinh hoa truyền thống tốt đẹp của nhân
loại. Giúp Người nhận định, đánh giá, phân tích và đúc kết một cách khoa học
nhiều lý thuyết, quan điểm khác nhau, đặc biệt là kinh nghiệm từ những hoạt động động thực tiễn.
Về nội dung: Theo quan điểm của Đảng được trình bày tại Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX, tư tưởng Hồ Chí Minh gồm 9 nội dung cơ bản:
Một là, tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Hai là, tư tưởng về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc.Balà,tưtưởngvềquyềnlàmchủcủanhândân,xâydựngnhànướcthực
sự của dân, do dân, vì dân.
Bốn là, tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư. Nămlà,tưtưởng vềchămlobồidưỡng thếhệcách mạng chođời sau.
Sáu là, tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Bảy là, tư tưởng về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
Tám là, tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Chín là, tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ,
đảng viên vừa là một người lãnh đạo, vừa là một người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Về giá trị, ý nghĩa: Là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của
Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân
ta giành thắng lợi”. Cùng với chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là
một bộ phận cấu thành làm nên nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Tài sản tinh thần là khái niệm khó có
thể nhận diện một cách cụ thể nhưng nó lại có khả năng gắn kết cộng đồng, kết
dính tâm thức dân tộc. Trong thực tế tài sản vật chất có thể mất đi nhưng tài sản
tinh thần thì luôn bền vững bởi nó góp phần tạo dựng nên truyền thống văn hóa,
tạo nên hệ thống giá trị chuẩn mực của xã hội đồng thời định hướng giá trị cho tương lai.
1.2. Phân tích quá trình nhận thức của ĐCSVN về Tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.2.1. Giai đoạn trước năm 1991
Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua các văn kiện
làm thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Cương lĩnh này thể hiện
những nội dung rất cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam.
Sau khi Đảng ra đời, tư tưởng Hồ Chí Minh trải qua thử thách và đã được
khẳng định lại. Việc nhận thức về tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng
Việt Nam cũng như vai trò của Người đối với quá trình phát triển của dân tộc
từ sau khi là một quá trình không đơn giản. Đã có sự hiểu không đúng từ Quốc
tế Cộng sản và từ một số người trong Đảng Cộng sản Đông Dương do những
người này bị chịu ảnh hưởng lớn của đường lối, quan điểm tả khuynh của Đại
hội VI Quốc tế Cộng sản (năm 1928) trên vấn đề tập hợp lực lượng cách mạng
ở những nước thuộc địa. Nhưng, thực tế đã chứng minh cho sự đúng đắn của
những quan điểm của Hồ Chí Minh và những người tham gia Hội nghị thành
lập Đảng, vì vậy tư tưởng Hồ Chí Minh đã được khẳng định lại. Đại hội II của Đảng (2-1951) nêu rõ:
“Đường lối chính trị, nề nếp làm việc và đạo đức cách mạng của Đảng ta hiện
nay là đường lối, tác phong và đạo đức Hồ Chủ tịch. . Toàn Đảng hãy ra sức
học tập đường lối chính trị, tác phong và đạo đức cách mạng của Hồ Chủ tịch;
sự học tập ấy, là điều kiện tiên quyết làm cho Đảng mạnh và làm cho cách
mạng đi mau đến thắng lợi hoàn toàn”.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng tôn vinh Hồ Chí Minh là “Anh hùng
dân tộc vĩ đại”. Hồ Chí Minh qua đời ngày 2-9-1969. Điếu văn của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng có đoạn nêu rõ: “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất
nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người
đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta”. Tiếp nối sự
đánh giá ấy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12-1976) đánh
giá: “Thắng lợi to lớn của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước cũng như những
trang sử chói lọi của cách mạng Việt Nam ngót nửa thế kỷ nay mãi mãi gắn liền
với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta,
người khai sinh nền Cộng hoà Dân chủ Việt Nam, người vun trồng khối đại
đoàn kết dân tộc và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, vị lãnh tụ thiên tài
của giai cấp công nhân và nhân dân ta, người anh hùng dân tộc vĩ đại, người
chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (tháng 3-1982) của Đảng nhấn
mạnh: “Đảng phải đặc biệt coi trọng việc tổ chức học tập một cách có hệ thống
tư tưởng, đạo đức tác phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong toàn Đảng”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) đã đề ra
đường lối đổi mới toàn diện ở nước ta, trong đó nhấn mạnh: “Đảng ta phải nắm
vững bản chất cách mạngvà khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa di
sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”.
1.2.2.Giai đoạn từ năm 1991 đến nay.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) là một mốc
lớn khi năm 1990 , UNESSCO công nhận Hồ Chí Minh là doanh nhân văn hóa
Thế Giới,nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh. Thực tế sự nghiệp cách mạng Việt
Nam nói chung và của những năm đổi mới nói riêng đã chứng tỏ rằng, không
những chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn là tư tưởng Hồ Chí Minh nữa, đã trở
thành yếu tố chỉ đạo làm nên thắng lợi cho cách mạng Việt Nam. Chính vì thế,
một trong những điểm mới của Đại hội VII là Đảng nêu cao tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đại hội VII của Đảng khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”.
Đại hội VII nêu rõ “Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta,và trong thực tế tư tưởng
Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng ta và của cả
dân tộc”. Việc khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cũng đã được ghi nhận
trong hai văn kiện nữa rất quan trọng của Đảng và Nhà nước Cộng hoà Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, đó là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội VII năm 1991 thông qua (bổ sung, phát triển
năm 2011) và trong Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 và năm 2013.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4-2001), Đảng đã nhận thức về tư
tưởng Hồ Chí Minh một cách đầy đủ hơn so với Đại hội VII: “Tư tưởng Hồ
Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển
các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4-2006), khi đề cập tư
tưởng Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Sự nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân
dân ta 76 năm qua đã khẳng định rằng, tư tưởng vĩ đại của Người cùng với chủ
nghĩa Mác - Lênin mãi mãi là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động
của Đảng và cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân
tộc ta. Tư tưởng đó đã dẫn dắt chúng ta trên mỗi chặng đường xây dựng và phát
triển đất nước, là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam; là sức mạnh tập
hợp và đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp cách mạng của chúng ta hôm nay và mai sau”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI, XII và XIII Đảng cũng luôn
khẳng định công lao vĩ đại của Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam và
khẳng định tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là những nhân tố
không thể thiếu trong tư tưởng và hành động của toàn Đảng, toàn quân, toàn
dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội XIII của Đảng (tháng 01-2021) khẳng định quan điểm chỉ đạo
là: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Từ những năm đầu thế kỷ XXI, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương
phát động việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đại hội
XII của Đảng nhận định: “Việc thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính
trị về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đạt kết quả bước
đầu quan trọng”. Tuy nhiên, việc này “chưa đều, chưa đi vào chiều sâu ở nhiều
ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị; một số nơi thực hiện còn mang tính hình
thức”. Trên cơ sở đó, Đại hội XII của Đảng quyết định: “Tiếp tục
đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh; coi đó là công việc thường xuyên của các tổ chức đảng, các cấp chính
quyển, các tổ chức chính trị -xã hội, địa phương, đơn vị gắn với chống suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Đó cũng là tinh thần của Chỉ thị số 05-CT/TW,
ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội
XII. Đến Đại hội XIII, Đảng xác định nhiệm vụ “thực hiện thường xuyên,
sâu rộng, có hiệu quả việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh gắn với việcthực hiện các nhiệm vụ chính trị”
1.3. Liên hệ thực tiễn, ý nghĩa và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời
kỳ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
1.3.1. Ý nghĩa và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ toàn cầu hóa và
hội nhập quốc tế thể hiện ở sự kiên định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin “làm
cốt” Thế giới toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay đang có rất nhiều lý thuyết
phát triển, nhưng ở Việt Nam chỉ có một: đó là chủ nghĩa Mác - Lênin mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một cách bất di bất dịch. Tất nhiên, trong xã
hội hiện đại, muốn phát triển nhanh và bền vững, Đảng ta vừa phải vận dụng
sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời phải tiếp thu có chọn
lọc những giá trị của các luồng lý luận, tư tưởng mới, tiến bộ. Theo đó, Đảng
phải có tư duy năng động, luôn vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và nắm bắt các nguồn lực trí tuệ tiên tiến trên
thế giới; biết kế thừa, phát triển từ những yếu tố có thể kế thừa và phát triển
được của các học thuyết, trào lưu chính trị - xã hội trên thế giới như chính bản
thân C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đã làm; phải có bản lĩnh
chính trị vững vàng, nghĩa là phải có tâm lành - đức dày, có tài cao - trí sáng -
tầm nhìn xa, cao và rộng, có chí, có uy.
1.3.2. Ý nghĩa và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ toàn cầu hóa và
hội nhập quốc tế thể hiện ở vấn đề then chốt nhất: xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
Trong thời kỳ toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay, ý nghĩa và giá trị của tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một đảng cộng sản như thế vẫn tỏa sáng. Điều
đó luôn được Đảng ta khẳng định trong các kỳ Đại hội: “xây dựng Đảng là
nhiệm vụ then chốt”. Sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng không tự nhiên mà có
và không phải cứ tự nhận mà được. Sự lãnh đạo, cầm quyền đó là kết quả của
bao hy sinh, phấn đấu của Đảng, từ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Nhân dân đã tin tưởng trao cho Đảng vai trò lãnh đạo toàn xã hội, lãnh đạo
Nhà nước và tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Nhưng, Đảng sẽ mất vai trò
lãnh đạo, mất vai trò cầm quyền nếu Đảng không trong sạch, vững mạnh, nếu
Đảng bị suy thoái, không được nhân dân tin yêu nữa. Do đó, Đảng tất yếu phải
thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn để làm trong sạch đội ngũ, xứng đáng
với niềm tin yêu của nhân dân. Đó là một thông điệp cực kỳ quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh.