/18
lOMoARcPSD| 61601688
Chương 1
TRIẾT HỌC VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
Mục tiêu
Về kiến thức
- Trình bày và phân tích được khái niệm triết học, nguồn gốc ra đời, vấn đề cơ bản
của triết học, hai trường phái lớn trong triết học phương pháp nghiên cứu của triết học.
- Luận giải sự ra đời của triết học Mác – Lênin là một tất yếu khách quan.
- Làm sáng tỏ đối tượng nghiên cứu, chức năng của triết học Mác – Lênin.
- Chứng minh được vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống hội nói
chung, trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam nói riêng.
Về kỹ năng
- Chứng minh được đặc trưng của tri thức triết học.
- Phân tích được mối quan hệ giữa triết học và các khoa học cụ thể.
- Vận dụng những kiến thức triết học để bước đầu trả lời những câu hỏi mang tính
suy tư triết học.
Về thái độ
- Nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, khoa học về sự cần thiết phải học tập
và vận dụng tri thức của triết học Mác – Lênin trong công việc, trong cuộc sống.
- Ý thức tự giác trong phản biện những luận điểm xuyên tạc, phủ nhận tri thức, vai
trò chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung và triết học Mác – Lênin nói riêng.
Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí,
vai trò của con người trong thế giới ấy. Triết học ra đời từ rất sớm trong lịch sử nhân loại
với hai nguồn gốc: nguồn gốc nhận thức nguồn gốc hội. Vấn đề cơ bản của triết học
là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học đã hình
thành hai trường phái triết học đối lập nhau chủ nghĩa duy vật chủ nghĩa duy tâm.
Hai phương pháp duy chung nhất, đối lập nhau của triết học là phương pháp biện chứng
và phương pháp siêu hình.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật phương
pháp biện chứng. Với tư cách một thế giới quan và phương pháp luận khoa học, học
thuyết Mác - Lênin vẫn không ngừng đổi mới phát triển. Với cách nền tảng
tưởng và kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản, đòi hỏi Đảng lãnh đạo
của giai cấp này phải luôn biết vận dụng chủ nghĩa
Mác - Lênin một cách sáng tạo.
lOMoARcPSD| 61601688
I. TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
1. Khái lược về triết học
1.1. Nguồn gốc của triết học
Triết học là dang tri thức lý luân xuất hiện sớm nhất trong lịch sử nhân loại, ra đờ i
cả Phương Đông Phương Tây khoảng từ thế k VIII đến thế kVI tr.CN tai các 
trung tâm văn minh lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp. Triết học ra đời từ thực tiễn,
do nhu cầu của thực tiễn; nó có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
* Nguồn gốc nhận thức
Trước khi triết học xuất hiện thế giới quan thần thoại đã chi phối hoạt động nhận
thức của con người.
Về mặt lịch sử, duy huyền thọai tín ngưỡng nguyên thủy loại hình triết
đầu tiên con người dùng để giải thích thế giới xung quanh. Triết học chính hình
thức duy luận đầu tiên trong lịch sử tưởng nhân loại, thay thế được cho duy
huyền thoại và tôn giáo.
Nói đến nguồn gốc nhận thức của triết học nói đến sự hình thành, phát triển của
duy trừu tượng, của năng lực khái quát trong nhận thức của con người. Tri thức cụ thể,
riêng lẻ về thế giới đến một giai đoạn nhất định phải được tổng hợp, trừu tượng hóa, khái
quát hóa thành những khái niệm, phạm trù, quan điểm, quy luật, luận thuyết… đủ sức phổ
quát để giải thích thế giới. Đó là lúc triết học xuất hiện.
* Nguồn gốc xã hội
Triết học ra đời khi nền sản xuất hội đã sự phân công lao động xuất hiện
giai cấp. Khi lao động trí óc tách khỏi lao động chân tay thì đội ngũ trí thức xuất hiện với
tư cách là một tầng lớp xã hội, có vị thế xã hội xác định. Tầng lớp này có điều kiện, năng
lực và nhu cầu nghiên cứu. Những người xuất sắc trong tầng lớp này đã hệ thống hóa tri
thức thời đại dưới dạng các quan điểm, các học thuyết luận; giải thích được svận
động, quy luật hay các quan hệ nhân quả của một đối tượng nhất định. Họ được hội
công nhận là các nhà thông thái, các triết gia.
1.2. Khái niệm Triết học
Trung Quốc, chữ Triết có nghĩa là Trí, nhằm diễn đạt sự truy tìm bản chất của đối
tương nhận thức, thường là con người, xã hội, vũ trụ và tư tưởng tinh thần.
Ở Ấn Độ, thuật ngữ Dar'sana nghĩa g
ốc chiêm ngưỡng, hàm ý là con đường suy
ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải, thấu đạt được chân lý về vũ trụ và nhân sinh.
Ở phương Tây, thuật ngữ triết học - Philosophia - vừa mang nghĩa giải thích vũ trụ,
định hướng nhận thức và hành vi, vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý.
lOMoARcPSD| 61601688
Như vậy, cả phương Đông phương Tây, ngay từ đầu, triết hoc đã họat động
tư duy lý luận có trình độ trừu tượng hóa và khái quát hóa rất cao.
Trên sở khái quát đối tượng nhận thức và đặc trưng của tri thức triết học, chủ
nghĩa Mác – Lênin định nghĩa: Triết học là hệ thống quan điểm lí luận chung nhất về thế
giới vị tcon người trong thế giới đó, khoa học về những quy luật vận động, phát
triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Triết học khác với các khoa học khác ở tính đặc thù của hệ thống tri thức và phương
pháp nghiên cứu. Tri thức triết học mang tính khái quát cao dựa trên sự trừu tượng hóa
sâu sắc về thế giới, về bản chất cuộc sống con người. Phương pháp nghiên cứu của triết
học là xem xét thế giới như một chỉnh thể trong mối quan hệ giữa các yếu tố và tìm cách
đưa lại một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó. Triết học là sự diễn tả thế giới quan
bằng lí luận. Triết học chỉ thể thực hiện được điều đó bằng cách tổng kết toàn bộ lịch
sử của khoa học và lịch sử của bản thân tư tưởng triết học
1.3. Vấn đề đối tượng của triết học trong lịch sử
Trong quá trình phát triển, đối tượng của triết học thay đổi theo từng giai đoạn lịch
sử. Ngay từ khi mới ra đời, triết học được xem là hình thái cao nhất của tri thức, bao hàm
trong nó tri thức về tất cả các lĩnh vực không có đối tượng riêng. Đây là nguyên nhân sâu
xa làm nảy sinh quan niệm cho rằng, triết học là khoa học của mọi khoa học, đặc biệt
Triết học tự nhiên của Hy Lạp cổ đại.
Nền triết học tự nhiên là khái niệm chỉ triết học ở phương Tây thời kỳ còn bao gồm
trong nó tất cả những tri thức mà con người có được, trước hết là các tri thức thuộc khoa
học tự nhiên.
Thời kỳ trung cổ, ở Tây Âu, khi quyền lực của Giáo hội bao trùm mọi lĩnh vực đời
sống xã hội thì nền triết học tự nhiên đã bị thay bằng nền Triết học kinh viện. Đối tượng
của triết học kinh viện chỉ tập trung vào các chủ đề nhằm làm sáng tỏ niềm tin tôn giáo.
Sự phát triển của các khoa học chuyên ngành trong thế k XVII – XVIII, từng bước
xóa bỏ vai trò của triết học tự nhiên cũ, làm phá sản tham vọng của triết học muốn đóng
vai trò khoa học của các khoa học. Hoàn cảnh kinh tế - xã hội và sự phát triển mạnh mc 
của khoa học vào đầu thế k XIX đã dẫn đến sự ra đời của triết học Mác. Triết học Mác
xác định đối tượng nghiên  cứu của mình, là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa tồn tại
duy, giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt đnghiên cứu những
quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
1.4. Triết học - hạt nhân lý luận của thế giới quan
* Thế giới quan
lOMoARcPSD| 61601688
Bằng trí tuệ, kinh nghiệm và sự mẫn cảm của mình, con người phải xác định những
quan điểm về toàn bộ thế giới làm cơ sở để định hướng cho nhận thức và hành động của
mình. Những quan điểm đó chính là sự thể hiện thế giới quan của con người.
Thế giới quan là khái niệm triết học chỉ hệ thống các tri thức, quan điểm, tình cảm,
niềm tin, lý tưởng về thế giới và về vị trí của con người trong thế giới đó. Thế giới quan
quy định các nguyên tắc, thái độ, giá trị trong định hướng nhận thức hoạt động thực
tiễn của con người. Một cách ngắn gọn: thế giới quan hệ thống quan điểm của con
người về thế giới.
Thế giới quan thể hiện dưới nhiều hình thức đa dạng. Chẳng hạn, thế giới quan tôn
giáo, thế giới quan khoa học và thế giới quan triết học. Thế giới quan chung nhất, phổ
biến nhất, được sdụng trong mọi ngành khoa học trong toàn bộ đời sống hội
thế giới quan triết học.
Những thành phần chủ yếu của thế giới quan là tri thức, niềm tin và lý tưởng.
Trong đó tri thức là cơ sở trực tiếp hình thành thế giới quan, nhưng tri thức chỉ gia nhập
thế giới quan khi đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn và trở thành niềm tin.
Lý tưởng là trình độ phát triển cao nhất của thế giới quan của con người.
* Hạt nhân lý luận của thế giới quan
Với phương thức tư duy đặc thù của mình, triết học đã tạo nên hệ thống lý luận bao
gồm những quan niệm chung nhất về thế giới, giữ vai trò định hướng cho quá trình củng
cố và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử.
Như vậy, triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan bởi vì:
Thứ nhất, bản thân triết học chính là thế giới quan.
Thứ hai, trong các thế giới quan khác, triết học bao giờ cũng thành phần quan
trọng, đóng vai trò là nhân tố cốt lõi.
Thứ ba, so với các loại hình thế giới quan khác thì triết học luôn giữ sự ảnh hưởng
và chi phối thường xuyên.
Thứ , thế giới quan triết học như thế nào sẽ quy định các thế giới quan các quan
niệm khác như thế đó.
Triết học ra đời với cách hạt nhân luận của thế giới quan, làm cho thế giới
quan phát triển như một quá trình tự giác, dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn
tri thức do các khoa học đưa lại.
Đó là chức năng thế giới quan của triết học.
2. Vấn đề cơ bản của triết học
lOMoARcPSD| 61601688
2.1. Nội dung vấn đề cơ bản của triết học
Triết học, cũng như những khoa học khác, phải giải quyết nhiều vấn đề có liên quan
với nhau. Trong hệ thống các vấn đề đó, có vấn đề giữ vai trò nền tảng, là điểm xuất phát
để giải quyết những vấn đề còn lại. Vấn đề đó được gọi vấn đề bản của triết học.
Sở như vậy bất kỳ trường phái triết học nào cũng không thể lảng tránh giải quyết
vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, trả lời hai câu hỏi lớn.
Mặt thứ nhất (gọi là mặt bản thể luận) trả lời câu hỏi: giữa ý thức và vật chất thì cái
nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
Nói cách khác, khi truy tìm nguyên nhân cuối cùng của hiện tượng, sự vật, hay s
vận động đang cần phải giải thích, thì nguyên nhân vật chất hay nguyên nhân tinh thần
đóng vai trò là cái quyết định?
Mặt thứ hai (gọi là mặt nhận thức luận) trả lời câu hỏi: con người có khả năng nhận
thức được thế giới hay không? Nói cách khác, khi khám phá sự vật hiện tượng, con
người có tin rằng, mình sẽ nhận thức được sự vật và hiện tượng hay không?
Cách trả lời hai câu hỏi trên quy định lập trường của nhà triết học, liên quan mật thiết
đến việc hình thành các trường phái triết học và các học thuyết về nhận thức của triết học.
2.2. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
Việc giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà triết học
thành hai trường phái lớn.
Những người cho rằng vật chất, giới tự nhiên cái trước quyết định ý thức
của con người đươc gọ
i các nduy vật. Học thuyết của họ hợp thành các phái khác
nhau của chủ nghĩa duy vật. Ngược lại, những người cho rằng ý thức, tinh thần, ý niệm,
cảm giác cái trước giới tự nhiên, được gọi là các nhà duy tâm. Các học thuyết của
họ hợp thành các phái khác nhau của chủ nghĩa duy tâm.
Chủ nghĩa duy vật được thể hiện dưới ba hình thức bản: Chủ nghĩa duy vật chất
phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết hoc duy vật thời
Cổ đại. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này thừa nhận tính thứ nhất của vật chất, nhưng đồng
nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể đưa ra những kết luận mang tính trực
quan, chất phác.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình thể hiện khá điển hình là ở thế kthứ XVII, XVIII. Đây
là thời kỳ mà cơ học cổ điển đạt đươc những thành tưu rực rỡ. Phương pháp tư duy siêu
hình của cơ học cổ điển đã ảnh hưởng đến triết học, làm cho chủ nghĩa duy vật mang hình
thức siêu hình.
lOMoARcPSD| 61601688
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do
C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng, V.I.Lênin phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các
học thuyết triết học trước đó và sử dụng khá triệt để thành tựu của khoa học đương thời,
chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phuc được hạn chế của chủ nghĩa duy vật thời cổ
đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình. Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ phản ánh hiện
thực đúng như chính bản thân nó tồn tai, mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp những lc
lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy.
Chủ nghĩa duy tâm gồm có hai phái: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy
tâm khách quan.
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người. Trong
khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thưc, chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định
mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp của cảm giác.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức nhưng coi
đó thứ tinh thần khách quan trước tồn tai độc lập với con người. Thực thể tinh
thần này thường được gọi bằng những cái tên khác nhau như Đấng sáng tạo, Thượng đế,
Tinh thn tuyệt đối, Lý tính thế giới…
Do thừa nhận ý thức, tinh thần là cái có trước và sản sinh ra giới tự nhiên, chủ nghĩa
duy tâm khách quan đã thừa nhận sư sáng tạo của một lực lượng siêu nhiên đối với toàn
bộ thế giới. vậy, tôn giáo thường sử dụng các học thuyết duy tâm làm sở luận,
luận chứng cho các quan điểm của mình.
Trong lịch sử triết học cũng những nhà triết học giải thích thế giới bằng cả hai
bản nguyên vật chất tinh thần. Học thuyết triết học n vậy được gọi nhị
nguyên luận. Thường thì trong trường hợp giải quyết một vấn đề nào đó, ở vào một thời
điểm nhất định, những người nhị nguyên luận là người duy vật, nhưng vào một thời
điểm khác, và khi giải quyết một vấn đề khác, lại là người duy tâm. Song, xét đến cùng,
nhị nguyên luận thuộc về chủ nghĩa duy tâm.
Như vậy, trong lịch sử, tuy những quan điểm triết học biểu hiện đa dạng nhưng suy
cho cùng, triết học chia thành hai trường phái chính: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm.
2.3. Thuyết có thể biết (Khả tri) và thuyết không thể biết (Bất khả tri)
Thuyết thể biết thuyết không thể biết như kết quả của cách giải quyết mặt
thứ hai vấn đề bản của triết học. Với câu hỏi Con người thnhận thức được thế giới
hay không? Học thuyết triết học khẳng định khả năng nhận thức của con người được gọi
thuyết thể biết. Học thuyết triết học phủ nhận khả năng nhận thức của con người
đươc gọ
i là thuyết không thể biết.
lOMoARcPSD| 61601688
Ít nhiều liên quan đến thuyết bất khả tri sự ra đời của trào lưu hoài nghi luận từ
triết học Hy Lạp cổ đại. Những người theo trào lưu này, nâng sự hoài nghi lên thành
nguyên tắc trong việc xem xét tri thức đã đạt được và cho rằng con người không thể đạt
đến chân lý khách quan.
3. Biện chứng và siêu hình
3.1. Khái niệm biện chứng và siêu hình
Khái niệm “biện chứng” “siêu hình” trong triết học Mác - Lênin được dùng, trước
hết, để chỉ hai phương pháp tư duy chung nhất, đối lập nhau. Sự đối lập giữa hai phương
pháp tư duy thể hiện ở đặc trưng của chúng.
* Đặc trưng của phương pháp siêu hình
Nhận thức đối tượng trạng thái lập, tách rời đối tượng ra khỏi các quan hệ được
xem xét cho rằng giữa các mặt đối lập có một ranh giới tuyệt đối. Nhận thức đối tượng
trạng thái tĩnh tại; đồng nhất đối tượng với trạng thái tĩnh nhất thời đó; Thừa nhận s
biến đổi chỉ là sự biến đổi về số lượng, về các hiện tượng bề ngoài; Nguyên nhân của sự
biến đổi nằm ở bên ngoài đối tượng. Kết quả của việc sử dụng phương pháp siêu hình sẽ
cho chủ thể biết sự vật hiện tượng là gì, nhưng không cho biết được bản chất của sự vật
đó như thế nào khi đặt trong mối quan hệ, tác động với sự vật hiện tượng khác.
* Đặc trưng của phương pháp biện chứng
Nhận thức đối tượng trong các mối liên hệ phổ biến vốn của nó. Đối tượng các
thành phần của nó luôn trong sự lệ thuộc, ảnh hưởng, ràng buộc, quy định lẫn nhau.
Nhận thức đối tượng trạng thái vận động biến đổi, nằm trong khuynh hướng phổ
quát phát triển. Nhờ phản ánh hiện thực đúng như tồn tại, nên phương pháp biện
chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức cải tạo thế giới
phương pháp luận tối ưu của nhiều khoa học. Kết quả của việc sử dụng phương pháp biện
chứng sẽ cho biết sự vật hiện tượng nthế nào khi đặt trong mối quan hệ, tác
động với sự vật hiện tượng khác.
3.2. Các hình thức của phép biện chứng trong lịch sử
Hình thức thứ nhất là phép biện chứng tự phát thời cổ đại. Các nhà biện chứng thời
cổ đại đã thấy được các sự vật, hiện tượng vận động trong ssinh thành, biến hóa cùng
tận. Tuy nhiên, những họ thấy được chỉ là trực kiến, chưa có các kết quả của nghiên
cứu và thực nghiệm khoa học minh chứng.
Hình thức thứ hai là phép biện chứng duy tâm mà đỉnh cao được thể hiện trong
triết học cổ điển Đức. Biện chứng theo các nhà triết học duy tâm, bắt đầu từ tinh thần và
kết thúc ở tinh thần. Thế giới hiện thực chỉ là sự phản ánh biện chứng của ý niệm nên
phép biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức là biện chứng duy tâm.
lOMoARcPSD| 61601688
Hình thức thứ ba phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng duy vật được thể hiện
trong triết học do C.Mác Ph.Ăngghen xây dựng, sau đó được V.I.Lênin các nhà
triết học thế hệ sau phát triển.
II. TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1. Sự ra đời và phát triển của triết học Mác - Lênin
1.1. Những điều kiện lịch sử của sự ra đời triết học Mác * Điều kiện kinh tế - xã hội
Sự hình thành và phát triển của phương thức sản xuất bản chủ nghĩa, trong điều
kiện cách mạng công nghiệp đã xuất hiện mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của lực lượng
sản xuất với hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Biểu hiện về
mặt hội mâu thuẫn giữa bản và lao động, giữa giai cấp sản gia cấp công
nhân.
Sự xuất hiện của giai cấp công nhân trên vũ đài lịch sử với tính cách một lực lượng
chính trị - xã hội độc lập, đặt ra nhu cầu khách quan đòi hỏi phải giải thích một cách khoa
học về mâu thuẫn giữa giai cấp sản và giai cấp công nhân, về vai trò, vị trí của giai cấp
công nhân đối với sự phát triển của lịch sử; làm cho phong trào công nhân từ tự phát
chuyển thành tự giác. Đây là nhân tố chính trị - xã hội quan trọng, cơ sở chủ yếu nhất
cho sự ra đời triết học Mác. * Nguồn gốc lý luận tiền đề khoa học tnhiên Nguồn
gốc lý luận:
Cùng với những điều kiện kinh tế - xã hội, thì sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác còn
sự kế thừa những tinh hoa trong toàn bộ lịch sử tưởng nhân loại, trong đó trực tiếp
nhất là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng
Pháp.
Triết học cổ điển Đức, đặc biệt với hai triết gia Hêghen và Phoiơbắc là nguồn gốc
luận trực tiếp của triết học Mác.
Hêghen người đầu tiên, trên lập trường duy tâm khách quan, trình bày một cách
hệ thống, rõ ràng những quy luật và phạm trù của phép biện chứng như là lý luận sâu sắc
về sphát triển. Trên sở phê phán chủ nghĩa nghĩa duy tâm, giải phóng phép biện
chứng của Hêghen khỏi tính chất duy tâm thần bí, C.Mác Ph.Ăngghen đã xây dựng
nên phép biện chứng duy vật – hình thức cao nhất của phép biện chứng.
Với triết gia Phoiơbắc, C.Mác Ph.Ăngghen tiếp thu những nguyên bản thuộc
chủ nghĩa duy vật của ông, cải tạo và phát triển những tư tưởng đó, bằng cách gắn nó với
phạm trù thực tiễn nhằm khắc phục tính duy tâm, trực quan và siêu hình khi giải thích xã
hội. Thành quả có được là quan điểm duy vật và phương pháp biện chứng thống nhất với
nhau, gọi là duy vật biện chứng.
lOMoARcPSD| 61601688
Kinh tế chính trị cổ điển Anh. Việc kế thừa và cải tạo tưởng của những đại biểu
xuất sắc như A.Xmit Đ. Ricacđô, không những là nguồn gốc để chủ nghĩa Mác xây
dựng học thuyết kinh tế, mà còn là cơ sở để phát triển quan niệm duy vật về lịch sử.
Chủ nghĩa hội không tưởng Pháp nguồn gốc luận trực tiếp về chủ nghĩa
hội khoa học. Những đại biểu nổi tiếng như Xanh Ximông, Sáclơ Phurtuy vạch ra
những mâu thuẫn hội của chủ nghĩa bản, sự đối lập giữa bản lao động… nhưng
họ lại không phát hiện được các quy luật phát triển của hội; về vị trí, vai trò của giai
cấp công nhân. Nhưng những tư tưởng của họ ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành thế
giới quan duy vật, phép biện chứng, những quan điểm cộng sản chủ nghĩa của triết học
Mác.
Tiền đề khoa học tự nhiên:
Ba phát minh lớn đối với sự hình thành triết học duy vật biện chứng: Định luật bảo
toàn và chuyển hóa năng lượng (chứng minh các hình thức vận động của vật chất liên hệ
và chuyển hoá lẫn nhau); Thuyết tế bào (chứng minh cơ thể động vật và thực vật đều do
tế bào cấu tạo thành, phát triển bằng cách nhân lên phân hoá của tế bào theo những
quy luật nhất định); Thuyết tiến hóa của Đácuyn (chứng minh giới hữu sinh là sản phẩm
của quá trình phát triển lâu dài).
Với những phát minh đó, khoa học đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những
dạng tồn tại khác nhau, các hình thức vận động khác nhau trong tính thống nhất vật chất
của thế giới, vạch ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển của nó.
* Nhân tố chủ quan trong sự hình thành triết học Mác:
Triết học Mác xuất hiện không chỉ kết quả của sự vận động phát triển tính
quy luật của các nhân tố khách quan mà còn được hình thành thông qua vai trò của nhân
tố chủ quan. Đó tài năng hoạt động thực tiễn, chiều sâu của tư duy triết học, chiều
rộng của nhãn quan khoa học, quan điểm sáng tạo trong việc giải quyết những nhiệm vụ
do thực tiễn đặt ra hoà quyện với tình bạn của hai nhà cách mạng phẩm chất đặc biệt
nổi bật của của C.Mác và Ph.Ăngghen.
1.2. Những thời kỳ chủ yếu trong sự hình thành phát triển của Triết học Mác *
Thời kỳ hình thành tưởng triết học với bước quá độ từ chủ nghĩa duy tâm dân chủ
cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản (1841 - 1844)
Tháng 4 năm 1841, sau khi nhận bằng tiễn triết học, C.Mác tham gia hoạt động
chính trị, trực tiếp chống chủ nghĩa chuyên chế Phổ, giành quyền tự do dân chủ. Vào đầu
năm 1842, tờ báo Sông Ranh ra đời. Sự chuyển biến bước đầu về tưởng của C.Mác
diễn ra trong thời kỳ ông làm việc báo này. Thời kỳ này, thế giới quan triết học của ông,
nhìn chung, vẫn đứng trên lập trường duy tâm, nhưng chính thông qua cuộc đấu tranh
lOMoARcPSD| 61601688
chống chính quyền nhà nước đương thời, ông cũng đã nhận ra rằng, các quan hệ khách
quan quyết định hoạt động của nhà nước là những lợi ích.
Sự phê phán sâu rộng triết học của Hêghen, việc khái quát những kinh nghiệm lịch
sử phong phú, cùng với ảnh hưởng to lớn của quan điểm duy vật và nhân văn trong triết
học Phoiơbắc đã tăng thêm xu hướng duy vật trong thế giới quan của C.Mác.
Cuối tháng 10-1843, C.Mác sang Pháp. đây, không khí chính trị và sự tiếp xúc với
các đại biểu của giai cấp sản đã dẫn đến bước chuyển dứt khoát của ông sang lập
trường của chủ nghĩa duy vật chủ nghĩa cộng sản. Quá trình hình thành phát triển
tưởng triết học duy vật biện chứng triết học duy vật lịch sử cũng đồng thời quá
trình hình thành chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Cũng trong thời gian ấy, thế giới quan cách mạng của Ph.Ăngghen đã hình thành
một cách độc lập với C.Mác. Thời gian gần 2 năm sống ở Manchester (Anh), từ mùa thu
năm 1842, với việc tập trung nghiên cứu đời sống kinh tế sự phát triển chính trị của
nước Anh, nhất là việc trực tiếp tham gia vào phong trào công nhân mới dẫn đến bước
chuyển căn bản trong thế giới quan của ông sang chủ nghĩa duy vật chủ nghĩa cộng
sản.
Năm 1844, thông qua nhiều bài viết, Ph.Ăngghen đã thể hiện quá trình chuyển từ
chủ nghĩa duy tâm dân chủ - cách mạng sang chủ nghĩa duy vật biện chứng chủ
nghĩa cộng sản. Sự nhất trí về tưởng đã dẫn đến tình bạn đại của C.Mác
Ph.Ăngghen, gắn liền tên tuổi của hai ông với sự ra đời phát triển một thế giới quan
mới mang tên Mác - thế giới quan cách mạng của giai cấp vô sản.
Mặc dù C.Mác và Ph.Ăngghen hoạt động chính trị - xã hội và khoa học trong những
điều kiện khác nhau, nhưng những kinh nghiệm thực tiễn và kết luận rút ra từ nghiên cứu
khoa học của hai ông lại thống nhất, đều gặp nhau phát hiện sứ mệnh lịch sử giai cấp
vô sản, từ đó hình thành quan điểm duy vật biện chứng và tư tưởng cộng sản chủ nghĩa.
* Thời kỳ đề xuất những nguyên triết học duy vật biện chứng duy vật lịch sử
(1844 - 1848)
Đây là thời kỳ C.Mác Ph.Ăngghen, sau khi đã tự giải phóng mình khỏi hệ thống
triết học cũ, bắt tay vào xây dựng những nguyên lý nền tảng cho một triết học mới.
Mùa hè 1844, C.Mác viết Bản thảo kinh tế - triết học 1844.
Trong tác phẩm này, C.Mác đã trình bày khái lược những quan điểm kinh tế và triết
học của mình. Lần đầu tiên, C.Mác đã vạch ra mặt tích cưc trong phép biện chứng của
triết học Hêghen. Ông phân tích sự tha hóa của lao động những vấn đề liên quan
đến phạm trù cơ bản này. Việc khắc phục sự tha hóa ấy chính là sự xoá bỏ chế độ sở hữu
nhân, giải phóng người công nhân khỏi "lao động bị tha hóa" dưới chủ nghĩa bản,
cũng là sự giải phóng con người nói chung.
lOMoARcPSD| 61601688
Tác phẩm Gia đình thn thánh công trình của C.Mác Ph.Ăngghen, được xuất
bản tháng 2-1845 đã phê phán quan điểm duy tâm về lịch sử và đề xuất một số nguyên lý
cơ bản của triết học Mácxít và chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Năm1845, Luận cương về Phoiơbắc ra đời. Trong văn kiện này, C.Mác đã vận dụng
quan điểm duy vật biện chứng để chỉ ra mặt xã hội của bản chất con người, với luận điểm
trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội.
Cuối năm 1845 đầu năm 1846, C.Mác Ph.Ăngghen viết tác phẩm Hệ tưởng
Đức, trình bày quan điểm duy vật lịch sử một cách hệ thống nhiều nguyên bản
của chủ nghĩa cộng sản khoa học. Bằng việc thừa nhận sản xuất vật chất là cơ sở của đời
sống xã hội, hai ông nghiên cứu biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất,
phát hiện ra quy luật vận động phát triển nền sản xuất vật chất của hội. Triết học
Mác đã đi tới nhận thức đời sống xã hội bằng một hệ thống các quan điểm lí luận thực sự
khoa học; đã hình thành, tạo cơ sở lí luận khoa học vững chắc cho sự phát triển tư tưởng
cộng sản chủ nghĩa.
Năm 1847, C.Mác viết tác phẩm Sự khốn cùng của triết học, tiếp tục đề xuất các
nguyên lý triết học và chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Năm 1848, C.Mác cùng với Ph.Ăngghen viết tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản. Đây là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa Mác, trong đó, cơ sở
triết học của chủ nghĩa Mác được trình bày một cách thống nhất hữu với các quan điểm
kinh tế và các quan điểm chính trị - xã hội.
*Thời kỳ C.Mác Ph.Ăngghen bổ sung phát triển toàn diện luận triết học
(1848 - 1895)
Bằng hoạt động luận của mình, C.Mác Ph.Ăngghen đã đưa phong trào công
nhân từ tphát thành phong trào tự giác phát triển ngày càng mạnh mẽ. chính trong
quá trình đó, học thuyết của các ông không ngừng được phát triển một cách hoàn bị.
Sau năm 1848, C.Mác cho ra đời hai tác phẩm: Đấu tranh giai cấp Pháp Ngày
18 tháng Sương của Lui Bônapáctơ để tổng kết cuộc cách mạng Pháp (1848-1849).
Các năm sau, cùng với những hoạt động tích cực đthành lập Quốc tế I, C.Mác đã tập
trung viết bộ bản (Tập 1 xuất bản 9/1867), Góp phần phê phán kinh tế chính trị học
(1859).
Bộ Tư bản không chỉ là công trình đồ sộ của C.Mác về kinh tế chính trị học, mà còn
là bổ sung, phát triển của triết học Mác nói riêng, của học thuyết Mác nói chung.
Năm 1871, C.Mác viết Nội chiến Pháp, phân tích sâu sắc kinh nghiệm của Công
Paris. Năm 1875, C.Mác cho ra đời một tác phẩm quan trọng về con đường hình
của xã hội tương lai, xã hội cộng sản chủ nghĩa - tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gô ta.
lOMoARcPSD| 61601688
Trong khi đó , Ph.Ăngghen đã phát triển triết học Mác thông qua cuộc đấu tranh
chống lại những kẻ thù của chủ nghĩa Mác và bằng việc khái quát những thành tựu của
khoa học. Biện chứng của tnhiên Chống Đuyrinh lần lượt ra đời trong thời kỳ này.
Sau đó Ph.Ăngghen viết tiếp các tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu
của nhà nước (1884) Lútvích Phoiơbắc cáo chung c  ủa triết học cổ điển Đức
(1886)... Với những tác phẩm trên, Ph.Ăngghen đã trình bày học thuyết Mác nói chung,
triết học Mác nó i riêng dưới dạng một hệ thống lí luận tương đối độc lập và hoàn chỉnh.
1.3. Thực chất và ý nghĩa cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen
thực hiện
Mác và Ph.Ăngghen đã khắc phục tính chất trực quan, siêu hình của chủ nghĩa duy
vật cũ và khắc phục tính chất duy tâm, thn bí của phép biện chứng duy tâm, sáng tạo ra
chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị, đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Trước C.Mác, do sự hạn chế của điều kiện hội và của trình độ phát triển khoa
học nên tính chất siêu hình vẫn một nhược điểm chung của chủ nghĩa duy vật. Chủ
nghĩa duy vật Phoiơbắc xem xét con người gắn với tộc loài, phi lịch sử, phi giai cấp;
không nhìn thấy con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của lịch sử, gắn liền với thực
tiễn của mình. Trong khi đó, phép biện chứng lại được phát triển trong cái vỏ duy tâm
thần bí của một số đại biểu triết học cổ điền Đức, đặc biệt trong triết học Hêghen, nên đã
bất lực trước sự phân tích thực tiễn, phân tích sự phát triển của nền sản xuất vật chất
đặc biệt bất lực trước sự phân tích các sự kiện chính trị. Triết học Mác khắc phục sự
tách rời giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong các hệ thống triết học trước đó.
Đây là sự chuyển biến về chất của cả chủ nghĩa duy vật và của phép biện chứng.
C.Mác Ph.Ăngghen đã vận dụng mở rộng quan điểm duy vật biện chứng vào
nghiên cứu lịch sử hội, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử - nội dung chủ yếu của
bước ngoặt cách mạng trong triết học.
Những nhà triết học trước C.Mác tuyệt đối hoá vai trò của hoạt động chính trị, khoa
học, nghệ thuật, tôn giáo; xem nhẹ hoạt động sản xuất ra các sản phẩm vật chất cũng như
vai trò của người quần chúng lao động. Do vậy, họ đã giải thích lịch sử trước hết từ hoạt
động “làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo”, chứ không phải xuất phát từ hoạt
động sản xuất ra của cải vật chất. Nói cách khác, họ đã giải thích lịch sử xã hội theo quan
điểm duy tâm chứ không theo quan điểm duy vật.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chính là sự vận dụng triệt để những nguyên của chủ
nghĩa duy vật để xem xét lĩnh vực các hiện tượng hội. Điều đó được thể hiện chỗ,
chủ nghĩa duy vật lịch sử đã vận dụng quan điểm về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
để nghiên cứu và giải thích sự phát triển xã hội, các nguyên lý của phép biện chứng cũng
được áp dụng triệt để vào việc xem xét và lý giải sự phát triển của xã hội.
lOMoARcPSD| 61601688
C.Mác và Ph.Ăngghen đã sáng tạo ra một triết học chân chính khoa học, với những
đặc tính mới của triết học duy vật biện chứng
Hệ thống triết học trước Mác không thấy được vai trò của thực tiễn trong sự phát
triển của khoa học triết học. Do vậy, không ý nghĩa cách mạng đcải tạo thế
giới, chủ yếu nhấn mạnh đến vai trò quyết định của hoạt động tinh thần đối với t
nhiên, hội bản thân con người, cũng như sự quan sát, giải thích thế giới bằng cách
này hay cách khác.
Sự khác nhau căn bản giữa triết học Mác với các hệ thống triết học trước đó chỗ,
không chỉ giải thích thế giới mà chủ yếu vạch ra con đường cải tạo hiện thực khách quan,
định hướng cho sự vận động phát triển của hội. Với quan điểm về sự thống nhất
giữa luận thực tiễn, C.Mác xác định nhiệm vụ của triết học phải cải tạo thế giới;
chứng minh vai trò của quần chúng nhân dân, của giai cấp sản đối với sự phát triển
của lịch sử.
Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác
Ph.Ăngghen đã biến đổi và hoàn thiện tính chất, đối tượng và mối quan hệ giữa triết học
với các khoa học khác. Đó mối quan hgiữa việc nghiên cứu những quy luật chung
nhất của thế giới các quy luật đặc ttrong các khoa học cụ thể. Triết học không
tham vọng giải quyết những vấn đề chuyên biệt thuộc phạm vi giải quyết của các khoa
học cụ thể.
1.4. Giai đoạn V.I.Lênin trong sự phát triển Triết học Mác
Giai đoạn V.I.Lênin sống và hoạt động, khoa học tự nhiên đã đạt được những thành
tựu mới đặc biệt, nhất là trong nghiên cứu thế giới vi mô. Những phát minh khoa học về
vật học, hóa học đã làm cho nhiều quan niệm siêu hình trong triết học bđánh đổ. Đồng
thời, về chính trị - xã hội là sự xuất hiện chủ nghĩa đế quốc. Bước sang thế k XX, phong
trào cách mạng nước Nga trở nên sôi động, đỉnh cao cuộc Cách mạng Tháng mười
năm 1917. Trong bối cảnh ấy, trên thế giới cũng như nước Nga, đã xuất hiện một số
khuynh hướng tưởng không khoa học nhằm chống lại chủ nghĩa Mác. Đồng thời, sau
Cách mạng Tháng mười, nước Nga bước vào xây dựng chủ nghĩa hội.Tất cả những
điều kiện đó đã thôi thúc, đòi hỏi V.I.Lênin phải bảo vệ sự trong sáng, khoa học, cách
mạng cũng như phát triển chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng đáp ứng yêu
cầu của thời đại mới.
Toàn bộ giai đoạn V.I.Lênin trong sự phát triển Triết học Mác được chia làm 3 thời
kỳ lớn:
- Thời kỳ 1893 - 1907, thời kỳ V.I.Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác, nhằm
thành lập đảng Mácxít Nga chuẩn bị cho cuộc cách mạng dân chủ sản lần thứ nhất.
lOMoARcPSD| 61601688
- Từ 1907 1917, thời kỳ V.I.Lênin phát triển toàn diện triết học Mác lãnh
đạo phong trào công nhân Nga, chuẩn bị cho cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Từ 1917 1924, thời kỳ V.I.Lênin tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng,
bổ sung, hoàn thiện triết học Mác, gắn liền với việc nghiên cứu các vấn đề xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Trong 3 thời kỳ trên, V.I.Lênin bảo vệ phát triển chủ nghĩa Mác - Ăngghen thể
hiện qua các cuộc đấu tranh lý luận của ông chống lại chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán, chủ nghĩa hội, chủ nghĩa xét lại gắn liền với các tác phẩm bài báo
nổi tiếng.
Tác phẩm Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân
chủ - hội ra sao? (1894), V.I.Lênin vừa pphán tính chất duy tâm những sai lầm
nghiêm trọng của phái dân túy khi nhận thức những vấn đề về lịch sử - hội, vừa vạch
ra ý đồ của họ khi muốn xuyên tạc chủ nghĩa Mác bằng cách xóa nhòa ranh giới giữa
phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác với phép biện chứng duy tâm của Hêghen.
Trong tác phẩm Làm (1902), V.I.Lênin phê phán tính tự phát của phong trào công
nhân. Ông lập luận khoa học vý nghĩa của luận cách mạng. Không luận cách
mạng thì không có hành động cách mạng.
Trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (1909),
V.I.Lênin phân tích cuộc cách mạng khoa học tự nhiên cuối thế k XIX, đầu thế k XX,
đặc biệt trong vật học. Ông chống lại những kết luận duy tâm rút ra từ các phát minh
vật lý mới nhất, phát triển quan niệm duy vật biện chứng về vật chất.
Trong tác phẩm Bút triết học (1916), V.I.Lênin đã tạo ra những mẫu mực về sự
nghiên cứu các quy luật phạm trù của phép biện chứng duy vật; nguyên tắc vsự thống
nhất giữa phép biện chứng, logic học và lý luận nhận thức; các nguồn gốc nhận thức của
chủ nghĩa duy tâm, tính chất mâu thuẫn của sự phản ánh trong những sự trừu tượng khoa
học, đường lối tiếp tục phát triển lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Trong bài báo Về tác dụng của chủ nghĩa duy vật chiến đấu (1922), V.I.Lênin trình
bày khoa học nhiệm vụ xây dựng và củng cố sự liên minh giữa các nhà triết học Mácxít
và các nhà khoa học tự nhiên; chỉ ra sự cần thiết kế thừa biện chứng những truyền thống
duy vật biện chứng trước đây.
Trong tác phẩm Chủ nghĩa đế quốc – giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa bản (1916)
các tác phẩm mối liên hệ như Về vấn đdân tộc, Về sự phá sản của Quốc tế II…
chứa đựng sphân tích sâu sắc thời đại mới, vạch ra những quy luật khuynh hướng
phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
lOMoARcPSD| 61601688
* Sự phát triển của Triết học Mác – Lênin trong giai đoạn từ 1924 đến nay
Sau chiến tranh thế giới thứ II, với sự ra đời của hệ thống các nước hội chủ nghĩa,
triết học Mác – Lênin được truyền một cách rộng rãi, ảnh hưởng sâu rộng trong quần
chúng. Triết học Mác Lênin đóng vai trò quan trọng trong sphát triển của thực tiễn
xây dựng xã hội mới với những thành tựu to lớn không thể phủ nhận.
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề cần được giải
đáp về mặt luận. Chẳng hạn xóa bỏ chế độ hữu về liệu sản xuất, xác lập chế độ
công hữu, hoặc vấn đề vai trò của nnước trong việc quản nền sản xuất hội theo
một kế hoạch thống nhất trong phạm vi toàn xã hội, về xây dựng nhà nước trong thời kỳ
quá độ, về vai trò của đảng cộng sản trong quản lý hội, về quyền làm chủ của quần
chúng lao động... Chính sự lạc hậu về tư duy lý luận của đội ngũ lãnh đạo các đảng cộng
sản, đã trở thành một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng của chủ nghĩa
xã hội.
Sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội, sự phát triển của xã hội trong điều kiện mới
làm cho yêu cầu phát triển triết học Mác – Lênin càng trở nên cấp bách.
Một mặt bảo vệ những giá trị và thành quả của việc vận dụng triết học Mác – Lênin
trong đời sống thực tiễn, đồng thời khái quát, bổ sung, phát triển luận những vấn đề
thực tiễn đặt ra. Mặt khác, khắc phục bệnh giáo điều trong việc vận dụng lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, chống lại những tư tưởng, quan điểm xuyên tạc bản chất cách mạng,
khoa học của triết học Mác. Nếu không đáp ứng các yêu cầu quan trọng đó, thì không thể
hiểu được biện chứng của sự vận động phát triển xã hội; không thể xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội.
2. Đối tượng và chức năng của triết học Mác – Lênin
2.1. Khái niệm triết học Mác – Lênin
Triết học Mác – Lênin là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về tự nhiên, xã hội
duy, thế giới quan phương pháp luận khoa học, cách mạng của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và các lực lượng hội tiến bộ trong nhận thức cải tạo thế
giới.
2.2. Đối tượng của triết học Mác – Lênin
Giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật biện chứng
và nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư
duy.
Với triết học Mác – Lênin thì đối tượng của triết học và đối tượng của các khoa học
cụ thể đã được phân biệt ràng. Các khoa học cụ thể nghiên cứu những quy luật trong
các lĩnh vực riêng biệt về tự nhiên, hội hoặc duy. Triết học nghiên cứu những quy
luật chung nhất, tác động trong cả ba lĩnh vực này.
lOMoARcPSD| 61601688
Triết học Mác – Lênin có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với các khoa học cụ thể. Các
khoa học cụ thể cung cấp những dữ liệu, đặt ra những vấn đề khoa học mới, làm tiền đề,
sở cho sự phát triển triết học. Các khoa học cụ thể tuy đối tượng chức năng riêng
của mình nhưng đều phải dựa vào một thế giới quan và phương pháp luận triết học nhất
định. Quan hệ giữa quy luật của triết học và quy luật của khoa học cụ thể là quan hệ giữa
cái chung và cái riêng.
2.3. Chức năng của triết học Mác – Lênin
* Chức năng thế giới quan
Thế giới quan toàn bộ những quan điểm về thế giới và về vị trí của con người
trong thế giới đó. Triết học hạt nhân luận của thế giới quan. Triết học Mác Lênin
đem lại thế giới quan duy vật biện chứng, là hạt nhân thế giới quan cộng sản.
* Chức năng phương pháp luận
Phương pháp luận là hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát có vai
trò chỉ đạo việc sử dụng các phương pháp trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn nhằm đạt kết quả tối ưu. Phương pháp luận cũng nghĩa luận về hệ thống
phương pháp. Triết học Mác – Lênin thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất,
phổ biến nhất cho nhận thức và hoạt động thực tiễn.
3. Vai trò của triết học Mác – Lênin trong đời sống xã hội và trong sự nghiệp
đổi mới ở Việt Nam hiện nay
3.1. Triết học Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học và
cách mạng để phân tích xu hướng phát triển của xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ
Trong điều kiện phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đã và đang đặt
ra những vấn đề quan trọng, bức thiết đòi hỏi thúc đẩy chủ nghĩa Mác Lênin phải
vượt lên để giải đáp. Mặt khác, cũng tạo ra những điều kiện cần thiết để chủ nghĩa
Mác Lênin có thể thực hiện được vai trò của mình. Vai trò của chủ nghĩa Mác Lênin
được thể hiện tập trung ở những điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, nhận thức một cách toàn diện, sâu sắc cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa
hội hiện thực về thành tựu và khuyết tật, nguyên nhân của khủng hoảng; phân tích, đánh
giá xu hướng vận động theo con đường hội chủ nghĩa của một snước trên thế giới.
Trên cơ sở đó, tìm ra con đường, giải pháp thoát khỏi khủng hoảng và đưa ra dự báo một
cách khoa học, thực tế về tương lai của chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, nhận thức một cách khách quan, toàn diện, sâu sắc chủ nghĩa bản hiện
đại, nhất là chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa, về bản chất, quy luật, khả năng điều chỉnh và
thích ứng của nó với hoàn cảnh mới; những mâu thuẫn, khuyết tật, xu hướng vận động
quá trình phát triển.
lOMoARcPSD| 61601688
Thứ ba, nhận thức cuộc cách công nghiệp lần thứ 4 với nguyên nhân, bản chất, quy
luật, thành tựu hạn chế và dự báo xu hướng phát triển, cùng tác động, ảnh hưởng của nó
đến con người hội. Đồng thời, nhận thức sâu sắc quá trình toàn cầu hóa về bản chất,
quy luật, mâu thuẫn, xung đột, mặt tích cực, mặt tiêu cực và xu hướng tương lai của nó.
Trên cơ sở đó, khái quát lý luận, bổ sung và phát triển các phạm trù, nguyên lý, quy luật
của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Thứ tư, nghiên cứu các học thuyết xã hội hiện đại, những vấn đề lý luận và thực tiễn
mới của thời đại đtiếp thu tinh hoa văn hóa, trí tuệ của nhân loại, bổ sung làm giàu
thêm hệ giá trị của chủ nghĩa Mác Lênin; đồng thời, đấu tranh với mọi quan điểm thù
địch, bảo vệ bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn của chủ nghĩa Mác – Lênin, góp
phần thúc đẩy khoa học và thực tiễn phát triển theo hướng văn minh, tiến bộ.
Quá trình hình thành, phát triển chủ nghĩa Mác Lênin đồng thời cũng là quá trình
đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa bè phái, chủ
nghĩa xét lại và chủ nghĩa hội dưới nhiều màu sắc. Đó cũng là động lực phát triển
bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin.
3.2. Triết học Mác Lênin sở luận khoa học của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên thế giới và sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam
Hiện nay, chủ nghĩa Mác – Lênin đang đứng trước những hội thách thức to lớn
với nhu cầu cấp bách là phải đổi mới để phát triển. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, làm
sáng tỏ bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn của chủ nghĩa Mác – Lênin có ý nghĩa
sống còn đối với những người cộng sản, đối với tương lai của chủ nghĩa xã hội và đối với
sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Việt Nam đã vượt qua được sự khủng hoảng của chủ nghĩa hội những năm cuối
thập niên 80 đầu thập niên 90 của thế k XX, đạt được thành tựu to lớn suốt hơn 30 năm
tiến hành đổi mới. sao chế độ hội chủ nghĩa Đông Âu Liên lại sụp đổ, trong
khi đó Việt Nam chế độ xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại, hơn nữa Việt Nam lại thoát ra khỏi
khủng hoảng và đạt được thành tựu to lớn? Điều đó nhiều nguyên nhân khách quan
chủ quan, trong đó nguyên nhân Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên định vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin.
Nếu không nhận thức đúng cũng nkhông vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
Lênin trong điều kiện lịch sử cụ thể, thì việc khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa hội
là một tất yếu. Nói cách khác, tình trạng khủng hoảng và sụp đổ chủ nghĩa xã hội như đã
diễn ra ở một số nước, có nguyên nhân ở skhông kiên định và không vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác – Lênin. Sở dĩ sự nghiệp đổi mới ở nước ta từ Đại hội VI đạt được thành
lOMoARcPSD| 61601688
quả to lớn trước hết do Đảng Cộng sản Việt Nam kiên định vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác – Lênin.
Muốn xây dựng thành công chủ nghĩa hội thì phải kiên định chủ nghĩa Mác
Lênin, đồng thời phải vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin một cách sáng tạo trong những
hoàn cảnh thực tiễn cụ thể. Kiên định vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin
nguyên nhân cơ bản dẫn đến thành công trong quá trình đổi mới ở Việt Nam.
HẾT CHƯƠNG 1

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61601688 Chương 1
TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI Mục tiêu Về kiến thức
- Trình bày và phân tích được khái niệm triết học, nguồn gốc ra đời, vấn đề cơ bản
của triết học, hai trường phái lớn trong triết học và phương pháp nghiên cứu của triết học.
- Luận giải sự ra đời của triết học Mác – Lênin là một tất yếu khách quan.
- Làm sáng tỏ đối tượng nghiên cứu, chức năng của triết học Mác – Lênin.
- Chứng minh được vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống xã hội nói
chung, trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam nói riêng. Về kỹ năng
- Chứng minh được đặc trưng của tri thức triết học.
- Phân tích được mối quan hệ giữa triết học và các khoa học cụ thể.
- Vận dụng những kiến thức triết học để bước đầu trả lời những câu hỏi mang tính suy tư triết học. Về thái độ
- Nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, khoa học về sự cần thiết phải học tập
và vận dụng tri thức của triết học Mác – Lênin trong công việc, trong cuộc sống.
- Ý thức tự giác trong phản biện những luận điểm xuyên tạc, phủ nhận tri thức, vai
trò chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung và triết học Mác – Lênin nói riêng.
Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí,
vai trò của con người trong thế giới ấy. Triết học ra đời từ rất sớm trong lịch sử nhân loại
với hai nguồn gốc: nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội. Vấn đề cơ bản của triết học
là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học đã hình
thành hai trường phái triết học đối lập nhau là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Hai phương pháp tư duy chung nhất, đối lập nhau của triết học là phương pháp biện chứng
và phương pháp siêu hình.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương
pháp biện chứng. Với tư cách là một thế giới quan và phương pháp luận khoa học, học
thuyết Mác - Lênin vẫn không ngừng đổi mới và phát triển. Với tư cách là nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản, đòi hỏi Đảng lãnh đạo
của giai cấp này phải luôn biết vận dụng chủ nghĩa
Mác - Lênin một cách sáng tạo. lOMoAR cPSD| 61601688
I. TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
1. Khái lược về triết học
1.1. Nguồn gốc của triết học
Triết học là dang tri thức lý luân xuất hiện sớm nhất trong lịch sử nhân loại, ra đờ i
ở cả Phương Đông và Phương Tây khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI tr.CN tai các ̣
trung tâm văn minh lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp. Triết học ra đời từ thực tiễn,
do nhu cầu của thực tiễn; nó có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
* Nguồn gốc nhận thức
Trước khi triết học xuất hiện thế giới quan thần thoại đã chi phối hoạt động nhận thức của con người.
Về mặt lịch sử, tư duy huyền thọai và tín ngưỡng nguyên thủy là loại hình triết lý
đầu tiên mà con người dùng để giải thích thế giới xung quanh. Triết học chính là hình
thức tư duy lý luận đầu tiên trong lịch sử tư tưởng nhân loại, thay thế được cho tư duy
huyền thoại và tôn giáo.
Nói đến nguồn gốc nhận thức của triết học là nói đến sự hình thành, phát triển của
tư duy trừu tượng, của năng lực khái quát trong nhận thức của con người. Tri thức cụ thể,
riêng lẻ về thế giới đến một giai đoạn nhất định phải được tổng hợp, trừu tượng hóa, khái
quát hóa thành những khái niệm, phạm trù, quan điểm, quy luật, luận thuyết… đủ sức phổ
quát để giải thích thế giới. Đó là lúc triết học xuất hiện.
* Nguồn gốc xã hội
Triết học ra đời khi nền sản xuất xã hội đã có sự phân công lao động và xuất hiện
giai cấp. Khi lao động trí óc tách khỏi lao động chân tay thì đội ngũ trí thức xuất hiện với
tư cách là một tầng lớp xã hội, có vị thế xã hội xác định. Tầng lớp này có điều kiện, năng
lực và nhu cầu nghiên cứu. Những người xuất sắc trong tầng lớp này đã hệ thống hóa tri
thức thời đại dưới dạng các quan điểm, các học thuyết lý luận; giải thích được sự vận
động, quy luật hay các quan hệ nhân quả của một đối tượng nhất định. Họ được xã hội
công nhận là các nhà thông thái, các triết gia.
1.2. Khái niệm Triết học
Ở Trung Quốc, chữ Triết có nghĩa là Trí, nhằm diễn đạt sự truy tìm bản chất của đối
tương nhận thức, thường là con người, xã hội, vũ trụ và tư tưởng tinh thần.
Ở Ấn Độ, thuật ngữ Dar'sana nghĩa g̃ ốc là chiêm ngưỡng, hàm ý là con đường suy
ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải, thấu đạt được chân lý về vũ trụ và nhân sinh.
Ở phương Tây, thuật ngữ triết học - Philosophia - vừa mang nghĩa giải thích vũ trụ,
định hướng nhận thức và hành vi, vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý. lOMoAR cPSD| 61601688
Như vậy, cả ở phương Đông và phương Tây, ngay từ đầu, triết hoc đã là họat động
tư duy lý luận có trình độ trừu tượng hóa và khái quát hóa rất cao.
Trên cơ sở khái quát đối tượng nhận thức và đặc trưng của tri thức triết học, chủ
nghĩa Mác – Lênin định nghĩa: Triết học là hệ thống quan điểm lí luận chung nhất về thế
giới và vị trí con người trong thế giới đó, là khoa học về những quy luật vận động, phát
triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.

Triết học khác với các khoa học khác ở tính đặc thù của hệ thống tri thức và phương
pháp nghiên cứu. Tri thức triết học mang tính khái quát cao dựa trên sự trừu tượng hóa
sâu sắc về thế giới, về bản chất cuộc sống con người. Phương pháp nghiên cứu của triết
học là xem xét thế giới như một chỉnh thể trong mối quan hệ giữa các yếu tố và tìm cách
đưa lại một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó. Triết học là sự diễn tả thế giới quan
bằng lí luận. Triết học chỉ có thể thực hiện được điều đó bằng cách tổng kết toàn bộ lịch
sử của khoa học và lịch sử của bản thân tư tưởng triết học
1.3. Vấn đề đối tượng của triết học trong lịch sử
Trong quá trình phát triển, đối tượng của triết học thay đổi theo từng giai đoạn lịch
sử. Ngay từ khi mới ra đời, triết học được xem là hình thái cao nhất của tri thức, bao hàm
trong nó tri thức về tất cả các lĩnh vực không có đối tượng riêng. Đây là nguyên nhân sâu
xa làm nảy sinh quan niệm cho rằng, triết học là khoa học của mọi khoa học, đặc biệt là
Triết học tự nhiên của Hy Lạp cổ đại.
Nền triết học tự nhiên là khái niệm chỉ triết học ở phương Tây thời kỳ còn bao gồm
trong nó tất cả những tri thức mà con người có được, trước hết là các tri thức thuộc khoa học tự nhiên.
Thời kỳ trung cổ, ở Tây Âu, khi quyền lực của Giáo hội bao trùm mọi lĩnh vực đời
sống xã hội thì nền triết học tự nhiên đã bị thay bằng nền Triết học kinh viện. Đối tượng
của triết học kinh viện chỉ tập trung vào các chủ đề nhằm làm sáng tỏ niềm tin tôn giáo.
Sự phát triển của các khoa học chuyên ngành trong thế kỷ XVII – XVIII, từng bước
xóa bỏ vai trò của triết học tự nhiên cũ, làm phá sản tham vọng của triết học muốn đóng
vai trò khoa học của các khoa học. Hoàn cảnh kinh tế - xã hội và sự phát triển mạnh mc ̃
của khoa học vào đầu thế kỷ XIX đã dẫn đến sự ra đời của triết học Mác. Triết học Mác
xác định đối tượng nghiên ̣ cứu của mình, là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa tồn tại
và tư duy, giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu những
quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
1.4. Triết học - hạt nhân lý luận của thế giới quan * Thế giới quan lOMoAR cPSD| 61601688
Bằng trí tuệ, kinh nghiệm và sự mẫn cảm của mình, con người phải xác định những
quan điểm về toàn bộ thế giới làm cơ sở để định hướng cho nhận thức và hành động của
mình. Những quan điểm đó chính là sự thể hiện thế giới quan của con người.
Thế giới quan là khái niệm triết học chỉ hệ thống các tri thức, quan điểm, tình cảm,
niềm tin, lý tưởng về thế giới và về vị trí của con người trong thế giới đó. Thế giới quan
quy định các nguyên tắc, thái độ, giá trị trong định hướng nhận thức và hoạt động thực
tiễn của con người. Một cách ngắn gọn: thế giới quan là hệ thống quan điểm của con người về thế giới.
Thế giới quan thể hiện dưới nhiều hình thức đa dạng. Chẳng hạn, thế giới quan tôn
giáo, thế giới quan khoa học và thế giới quan triết học. Thế giới quan chung nhất, phổ
biến nhất, được sử dụng trong mọi ngành khoa học và trong toàn bộ đời sống xã hội là
thế giới quan triết học.
Những thành phần chủ yếu của thế giới quan là tri thức, niềm tin và lý tưởng.
Trong đó tri thức là cơ sở trực tiếp hình thành thế giới quan, nhưng tri thức chỉ gia nhập
thế giới quan khi đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn và trở thành niềm tin.
Lý tưởng là trình độ phát triển cao nhất của thế giới quan của con người.
* Hạt nhân lý luận của thế giới quan
Với phương thức tư duy đặc thù của mình, triết học đã tạo nên hệ thống lý luận bao
gồm những quan niệm chung nhất về thế giới, giữ vai trò định hướng cho quá trình củng
cố và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử.
Như vậy, triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan bởi vì:
Thứ nhất, bản thân triết học chính là thế giới quan.
Thứ hai, trong các thế giới quan khác, triết học bao giờ cũng là thành phần quan
trọng, đóng vai trò là nhân tố cốt lõi.
Thứ ba, so với các loại hình thế giới quan khác thì triết học luôn giữ sự ảnh hưởng
và chi phối thường xuyên.
Thứ tư, thế giới quan triết học như thế nào sẽ quy định các thế giới quan và các quan niệm khác như thế đó.
Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới
quan phát triển như một quá trình tự giác, dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và
tri thức do các khoa học đưa lại.
Đó là chức năng thế giới quan của triết học.
2. Vấn đề cơ bản của triết học lOMoAR cPSD| 61601688
2.1. Nội dung vấn đề cơ bản của triết học
Triết học, cũng như những khoa học khác, phải giải quyết nhiều vấn đề có liên quan
với nhau. Trong hệ thống các vấn đề đó, có vấn đề giữ vai trò nền tảng, là điểm xuất phát
để giải quyết những vấn đề còn lại. Vấn đề đó được gọi là vấn đề cơ bản của triết học.
Sở dĩ như vậy vì bất kỳ trường phái triết học nào cũng không thể lảng tránh giải quyết
vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, trả lời hai câu hỏi lớn.
Mặt thứ nhất (gọi là mặt bản thể luận) trả lời câu hỏi: giữa ý thức và vật chất thì cái
nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
Nói cách khác, khi truy tìm nguyên nhân cuối cùng của hiện tượng, sự vật, hay sự
vận động đang cần phải giải thích, thì nguyên nhân vật chất hay nguyên nhân tinh thần
đóng vai trò là cái quyết định?
Mặt thứ hai (gọi là mặt nhận thức luận) trả lời câu hỏi: con người có khả năng nhận
thức được thế giới hay không? Nói cách khác, khi khám phá sự vật và hiện tượng, con
người có tin rằng, mình sẽ nhận thức được sự vật và hiện tượng hay không?
Cách trả lời hai câu hỏi trên quy định lập trường của nhà triết học, liên quan mật thiết
đến việc hình thành các trường phái triết học và các học thuyết về nhận thức của triết học.
2.2. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
Việc giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà triết học
thành hai trường phái lớn.
Những người cho rằng vật chất, giới tự nhiên là cái có trước và quyết định ý thức
của con người đươc gọ ̣ i là các nhà duy vật. Học thuyết của họ hợp thành các phái khác
nhau của chủ nghĩa duy vật. Ngược lại, những người cho rằng ý thức, tinh thần, ý niệm,
cảm giác là cái có trước giới tự nhiên, được gọi là các nhà duy tâm. Các học thuyết của
họ hợp thành các phái khác nhau của chủ nghĩa duy tâm.
Chủ nghĩa duy vật được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản: Chủ nghĩa duy vật chất
phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết hoc duy vật thời
Cổ đại. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này thừa nhận tính thứ nhất của vật chất, nhưng đồng
nhất vật chất với một hay một số chất cụ ̣thể và đưa ra những kết luận mang tính trực quan, chất phác.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình thể hiện khá điển hình là ở thế kỷ thứ XVII, XVIII. Đây
là thời kỳ mà cơ học cổ điển đạt đươc những thành tưu rực rỡ. Phương pháp tư duy siêu
hình của cơ học cổ điển đã ảnh hưởng đến triết học, làm cho chủ nghĩa duy vật mang hình thức siêu hình. lOMoAR cPSD| 61601688
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do
C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng, V.I.Lênin phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các
học thuyết triết học trước đó và sử dụng khá triệt để thành tựu của khoa học đương thời,
chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phuc được hạn chế của chủ nghĩa duy vật thời cổ
đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình. Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ phản ánh hiện
thực đúng như chính bản thân nó tồn tai, mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp những lực
lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ̣ấy.
Chủ nghĩa duy tâm gồm có hai phái: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan.
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người. Trong
khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thưc, chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định
mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp của cảm giác.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức nhưng coi
đó là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tai độc lập với con người. Thực thể tinh
thần này thường được gọi bằng những cái tên khác nhau như Đấng sáng tạo, Thượng đế,
Tinh thần tuyệt đối, Lý tính thế giới…

Do thừa nhận ý thức, tinh thần là cái có trước và sản sinh ra giới tự nhiên, chủ nghĩa
duy tâm khách quan đã thừa nhận sư sáng tạo của một lực lượng siêu nhiên đối với toàn
bộ thế giới. Vì vậy, tôn giáo thường sử dụng các học thuyết duy tâm làm cơ sở lý luận,
luận chứng cho các quan điểm của mình.
Trong lịch sử triết học cũng có những nhà triết học giải thích thế giới bằng cả hai
bản nguyên vật chất và tinh thần. Học thuyết triết học như vậy được gọi là nhị
nguyên ̣luận. Thường thì trong trường hợp giải quyết một vấn đề nào đó, ở vào một thời
điểm nhất định, những người nhị nguyên luận là người duy vật, nhưng ở vào một thời
điểm khác, và khi giải quyết một vấn đề khác, lại là người duy tâm. Song, xét đến cùng,
nhị nguyên luận thuộc về chủ nghĩa duy tâm.
Như vậy, trong lịch sử, tuy những quan điểm triết học biểu hiện đa dạng nhưng suy
cho cùng, triết học chia thành hai trường phái chính: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
2.3. Thuyết có thể biết (Khả tri) và thuyết không thể biết (Bất khả tri)
Thuyết có thể biết và thuyết không thể biết như là kết quả của cách giải quyết mặt
thứ hai vấn đề cơ bản của triết học. Với câu hỏi Con người có thể nhận thức được thế giới
hay không?
Học thuyết triết học khẳng định khả năng nhận thức của con người được gọi
thuyết có thể biết. Học thuyết triết học phủ nhận khả năng nhận thức của con người
đươc gọ ̣ i là thuyết không thể biết. lOMoAR cPSD| 61601688
Ít nhiều liên quan đến thuyết bất khả tri là sự ra đời của trào lưu hoài nghi luận từ
triết học Hy Lạp cổ đại. Những người theo trào lưu này, nâng sự hoài nghi lên thành
nguyên tắc trong việc xem xét tri thức đã đạt được và cho rằng con người không thể đạt đến chân lý khách quan.
3. Biện chứng và siêu hình
3.1. Khái niệm biện chứng và siêu hình
Khái niệm “biện chứng” và “siêu hình” trong triết học Mác - Lênin được dùng, trước
hết, để chỉ hai phương pháp tư duy chung nhất, đối lập nhau. Sự đối lập giữa hai phương
pháp tư duy thể hiện ở đặc trưng của chúng.
* Đặc trưng của phương pháp siêu hình
Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khỏi các quan hệ được
xem xét và cho rằng giữa các mặt đối lập có một ranh giới tuyệt đối. Nhận thức đối tượng
ở trạng thái tĩnh tại; đồng nhất đối tượng với trạng thái tĩnh nhất thời đó; Thừa nhận sự
biến đổi chỉ là sự biến đổi về số lượng, về các hiện tượng bề ngoài; Nguyên nhân của sự
biến đổi nằm ở bên ngoài đối tượng. Kết quả của việc sử dụng phương pháp siêu hình sẽ
cho chủ thể biết sự vật hiện tượng là gì, nhưng không cho biết được bản chất của sự vật
đó như thế nào khi đặt trong mối quan hệ, tác động với sự vật hiện tượng khác.
* Đặc trưng của phương pháp biện chứng
Nhận thức đối tượng trong các mối liên hệ phổ biến vốn có của nó. Đối tượng và các
thành phần của nó luôn trong sự lệ thuộc, ảnh hưởng, ràng buộc, quy định lẫn nhau.
Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi, nằm trong khuynh hướng phổ
quát là phát triển. Nhờ phản ánh hiện thực đúng như nó tồn tại, nên phương pháp biện
chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới và là
phương pháp luận tối ưu của nhiều khoa học. Kết quả của việc sử dụng phương pháp biện
chứng sẽ cho biết sự vật hiện tượng là gì và như thế nào khi đặt trong mối quan hệ, tác
động với sự vật hiện tượng khác.
3.2. Các hình thức của phép biện chứng trong lịch sử
Hình thức thứ nhất là phép biện chứng tự phát thời cổ đại. Các nhà biện chứng thời
cổ đại đã thấy được các sự vật, hiện tượng vận động trong sự sinh thành, biến hóa vô cùng
vô tận. Tuy nhiên, những gì họ thấy được chỉ là trực kiến, chưa có các kết quả của nghiên
cứu và thực nghiệm khoa học minh chứng.
Hình thức thứ hai là phép biện chứng duy tâm mà đỉnh cao được thể hiện trong
triết học cổ điển Đức. Biện chứng theo các nhà triết học duy tâm, bắt đầu từ tinh thần và
kết thúc ở tinh thần. Thế giới hiện thực chỉ là sự phản ánh biện chứng của ý niệm nên
phép biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức là biện chứng duy tâm. lOMoAR cPSD| 61601688
Hình thức thứ ba là phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng duy vật được thể hiện
trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng, sau đó được V.I.Lênin và các nhà
triết học thế hệ sau phát triển.
II. TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1. Sự ra đời và phát triển của triết học Mác - Lênin
1.1. Những điều kiện lịch sử của sự ra đời triết học Mác * Điều kiện kinh tế - xã hội
Sự hình thành và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, trong điều
kiện cách mạng công nghiệp đã xuất hiện mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của lực lượng
sản xuất với hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Biểu hiện về
mặt xã hội là mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, giữa giai cấp tư sản và gia cấp công nhân.
Sự xuất hiện của giai cấp công nhân trên vũ đài lịch sử với tính cách một lực lượng
chính trị - xã hội độc lập, đặt ra nhu cầu khách quan đòi hỏi phải giải thích một cách khoa
học về mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân, về vai trò, vị trí của giai cấp
công nhân đối với sự phát triển của lịch sử; làm cho phong trào công nhân từ tự phát
chuyển thành tự giác. Đây là nhân tố chính trị - xã hội quan trọng, là cơ sở chủ yếu nhất
cho sự ra đời triết học Mác. * Nguồn gốc lý luận và tiền đề khoa học tự nhiên Nguồn gốc lý luận:
Cùng với những điều kiện kinh tế - xã hội, thì sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác còn
là sự kế thừa những tinh hoa trong toàn bộ lịch sử tư tưởng nhân loại, trong đó trực tiếp
nhất là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
Triết học cổ điển Đức, đặc biệt với hai triết gia Hêghen và Phoiơbắc là nguồn gốc lý
luận trực tiếp của triết học Mác.
Hêghen là người đầu tiên, trên lập trường duy tâm khách quan, trình bày một cách
hệ thống, rõ ràng những quy luật và phạm trù của phép biện chứng như là lý luận sâu sắc
về sự phát triển. Trên cơ sở phê phán chủ nghĩa nghĩa duy tâm, giải phóng phép biện
chứng của Hêghen khỏi tính chất duy tâm thần bí, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng
nên phép biện chứng duy vật – hình thức cao nhất của phép biện chứng.
Với triết gia Phoiơbắc, C.Mác và Ph.Ăngghen tiếp thu những nguyên lý cơ bản thuộc
chủ nghĩa duy vật của ông, cải tạo và phát triển những tư tưởng đó, bằng cách gắn nó với
phạm trù thực tiễn nhằm khắc phục tính duy tâm, trực quan và siêu hình khi giải thích xã
hội. Thành quả có được là quan điểm duy vật và phương pháp biện chứng thống nhất với
nhau, gọi là duy vật biện chứng. lOMoAR cPSD| 61601688
Kinh tế chính trị cổ điển Anh. Việc kế thừa và cải tạo tư tưởng của những đại biểu
xuất sắc như A.Xmit và Đ. Ricacđô, không những là nguồn gốc để chủ nghĩa Mác xây
dựng học thuyết kinh tế, mà còn là cơ sở để phát triển quan niệm duy vật về lịch sử.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp là nguồn gốc lý luận trực tiếp về chủ nghĩa xã
hội khoa học. Những đại biểu nổi tiếng như Xanh Ximông, Sáclơ Phuriê tuy vạch ra
những mâu thuẫn xã hội của chủ nghĩa tư bản, sự đối lập giữa tư bản và lao động… nhưng
họ lại không phát hiện được các quy luật phát triển của xã hội; về vị trí, vai trò của giai
cấp công nhân. Nhưng những tư tưởng của họ ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành thế
giới quan duy vật, phép biện chứng, những quan điểm cộng sản chủ nghĩa của triết học Mác.
Tiền đề khoa học tự nhiên:
Ba phát minh lớn đối với sự hình thành triết học duy vật biện chứng: Định luật bảo
toàn và chuyển hóa năng lượng (chứng minh các hình thức vận động của vật chất liên hệ
và chuyển hoá lẫn nhau); Thuyết tế bào (chứng minh cơ thể động vật và thực vật đều do
tế bào cấu tạo thành, phát triển bằng cách nhân lên và phân hoá của tế bào theo những
quy luật nhất định); Thuyết tiến hóa của Đácuyn (chứng minh giới hữu sinh là sản phẩm
của quá trình phát triển lâu dài).
Với những phát minh đó, khoa học đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những
dạng tồn tại khác nhau, các hình thức vận động khác nhau trong tính thống nhất vật chất
của thế giới, vạch ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển của nó.
* Nhân tố chủ quan trong sự hình thành triết học Mác:
Triết học Mác xuất hiện không chỉ là kết quả của sự vận động và phát triển có tính
quy luật của các nhân tố khách quan mà còn được hình thành thông qua vai trò của nhân
tố chủ quan. Đó là tài năng và hoạt động thực tiễn, chiều sâu của tư duy triết học, chiều
rộng của nhãn quan khoa học, quan điểm sáng tạo trong việc giải quyết những nhiệm vụ
do thực tiễn đặt ra hoà quyện với tình bạn của hai nhà cách mạng là phẩm chất đặc biệt
nổi bật của của C.Mác và Ph.Ăngghen.
1.2. Những thời kỳ chủ yếu trong sự hình thành và phát triển của Triết học Mác *
Thời kỳ hình thành tư tưởng triết học với bước quá độ từ chủ nghĩa duy tâm và dân chủ
cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản (1841 - 1844)

Tháng 4 năm 1841, sau khi nhận bằng tiễn sĩ triết học, C.Mác tham gia hoạt động
chính trị, trực tiếp chống chủ nghĩa chuyên chế Phổ, giành quyền tự do dân chủ. Vào đầu
năm 1842, tờ báo Sông Ranh ra đời. Sự chuyển biến bước đầu về tư tưởng của C.Mác
diễn ra trong thời kỳ ông làm việc ở báo này. Thời kỳ này, thế giới quan triết học của ông,
nhìn chung, vẫn đứng trên lập trường duy tâm, nhưng chính thông qua cuộc đấu tranh lOMoAR cPSD| 61601688
chống chính quyền nhà nước đương thời, ông cũng đã nhận ra rằng, các quan hệ khách
quan quyết định hoạt động của nhà nước là những lợi ích.
Sự phê phán sâu rộng triết học của Hêghen, việc khái quát những kinh nghiệm lịch
sử phong phú, cùng với ảnh hưởng to lớn của quan điểm duy vật và nhân văn trong triết
học Phoiơbắc đã tăng thêm xu hướng duy vật trong thế giới quan của C.Mác.
Cuối tháng 10-1843, C.Mác sang Pháp. Ở đây, không khí chính trị và sự tiếp xúc với
các đại biểu của giai cấp vô sản đã dẫn đến bước chuyển dứt khoát của ông sang lập
trường của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản. Quá trình hình thành và phát triển
tư tưởng triết học duy vật biện chứng và triết học duy vật lịch sử cũng đồng thời là quá
trình hình thành chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Cũng trong thời gian ấy, thế giới quan cách mạng của Ph.Ăngghen đã hình thành
một cách độc lập với C.Mác. Thời gian gần 2 năm sống ở Manchester (Anh), từ mùa thu
năm 1842, với việc tập trung nghiên cứu đời sống kinh tế và sự phát triển chính trị của
nước Anh, nhất là việc trực tiếp tham gia vào phong trào công nhân mới dẫn đến bước
chuyển căn bản trong thế giới quan của ông sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản.
Năm 1844, thông qua nhiều bài viết, Ph.Ăngghen đã thể hiện quá trình chuyển từ
chủ nghĩa duy tâm và dân chủ - cách mạng sang chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa cộng sản. Sự nhất trí về tư tưởng đã dẫn đến tình bạn vĩ đại của C.Mác và
Ph.Ăngghen, gắn liền tên tuổi của hai ông với sự ra đời và phát triển một thế giới quan
mới mang tên Mác - thế giới quan cách mạng của giai cấp vô sản.
Mặc dù C.Mác và Ph.Ăngghen hoạt động chính trị - xã hội và khoa học trong những
điều kiện khác nhau, nhưng những kinh nghiệm thực tiễn và kết luận rút ra từ nghiên cứu
khoa học của hai ông lại thống nhất, đều gặp nhau ở phát hiện sứ mệnh lịch sử giai cấp
vô sản, từ đó hình thành quan điểm duy vật biện chứng và tư tưởng cộng sản chủ nghĩa.
* Thời kỳ đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử (1844 - 1848)
Đây là thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen, sau khi đã tự giải phóng mình khỏi hệ thống
triết học cũ, bắt tay vào xây dựng những nguyên lý nền tảng cho một triết học mới.
Mùa hè 1844, C.Mác viết Bản thảo kinh tế - triết học 1844.
Trong tác phẩm này, C.Mác đã trình bày khái lược những quan điểm kinh tế và triết
học của mình. Lần đầu tiên, C.Mác đã vạch ra mặt tích cưc trong phép biện chứng của
triết học Hêghen. Ông phân tích sự tha hóa của lao động và những vấn đề có liên quan
đến phạm trù cơ bản này. Việc khắc phục sự tha hóa ấy chính là sự xoá bỏ chế độ sở hữu
tư nhân, giải phóng người công nhân khỏi "lao động bị tha hóa" dưới chủ nghĩa tư bản,
cũng là sự giải phóng con người nói chung. lOMoAR cPSD| 61601688
Tác phẩm Gia đình thần thánh là công trình của C.Mác và Ph.Ăngghen, được xuất
bản tháng 2-1845 đã phê phán quan điểm duy tâm về lịch sử và đề xuất một số nguyên lý
cơ bản của triết học Mácxít và chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Năm1845, Luận cương về Phoiơbắc ra đời. Trong văn kiện này, C.Mác đã vận dụng
quan điểm duy vật biện chứng để chỉ ra mặt xã hội của bản chất con người, với luận điểm
trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội.
Cuối năm 1845 đầu năm 1846, C.Mác và Ph.Ăngghen viết tác phẩm Hệ tư tưởng
Đức, trình bày quan điểm duy vật lịch sử một cách hệ thống và nhiều nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa cộng sản khoa học. Bằng việc thừa nhận sản xuất vật chất là cơ sở của đời
sống xã hội, hai ông nghiên cứu biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất,
phát hiện ra quy luật vận động và phát triển nền sản xuất vật chất của xã hội. Triết học
Mác đã đi tới nhận thức đời sống xã hội bằng một hệ thống các quan điểm lí luận thực sự
khoa học; đã hình thành, tạo cơ sở lí luận khoa học vững chắc cho sự phát triển tư tưởng cộng sản chủ nghĩa.
Năm 1847, C.Mác viết tác phẩm Sự khốn cùng của triết học, tiếp tục đề xuất các
nguyên lý triết học và chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Năm 1848, C.Mác cùng với Ph.Ăngghen viết tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản. Đây là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa Mác, trong đó, cơ sở
triết học của chủ nghĩa Mác được trình bày một cách thống nhất hữu cơ với các quan điểm
kinh tế và các quan điểm chính trị - xã hội.
*Thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung và phát triển toàn diện lí luận triết học (1848 - 1895)
Bằng hoạt động lí luận của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa phong trào công
nhân từ tự phát thành phong trào tự giác và phát triển ngày càng mạnh mẽ. Và chính trong
quá trình đó, học thuyết của các ông không ngừng được phát triển một cách hoàn bị.
Sau năm 1848, C.Mác cho ra đời hai tác phẩm: Đấu tranh giai cấp ở Pháp và Ngày
18 tháng Sương mù của Lui Bônapáctơ để tổng kết cuộc cách mạng Pháp (1848-1849).
Các năm sau, cùng với những hoạt động tích cực để thành lập Quốc tế I, C.Mác đã tập
trung viết bộ Tư bản (Tập 1 xuất bản 9/1867), Góp phần phê phán kinh tế chính trị học (1859).
Bộ Tư bản không chỉ là công trình đồ sộ của C.Mác về kinh tế chính trị học, mà còn
là bổ sung, phát triển của triết học Mác nói riêng, của học thuyết Mác nói chung.
Năm 1871, C.Mác viết Nội chiến ở Pháp, phân tích sâu sắc kinh nghiệm của Công
xã Paris. Năm 1875, C.Mác cho ra đời một tác phẩm quan trọng về con đường và mô hình
của xã hội tương lai, xã hội cộng sản chủ nghĩa - tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gô ta. lOMoAR cPSD| 61601688
Trong khi đó , Ph.Ăngghen đã phát triển triết học Mác thông qua cuộc đấu tranh
chống lại những kẻ thù của chủ nghĩa Mác và bằng việc khái quát những thành tựu của
khoa học. Biện chứng của tự nhiên và Chống Đuyrinh lần lượt ra đời trong thời kỳ này.
Sau đó Ph.Ăngghen viết tiếp các tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và
của nhà nước (1884) và Lútvích Phoiơbắc và sư cáo chung c ̣ ủa triết học cổ điển Đức
(1886)... Với những tác phẩm trên, Ph.Ăngghen đã trình bày học thuyết Mác nói chung,
triết học Mác nó i riêng dưới dạng một hệ thống lí luận tương đối độc lập và hoàn chỉnh.
1.3. Thực chất và ý nghĩa cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen thực hiện
Mác và Ph.Ăngghen đã khắc phục tính chất trực quan, siêu hình của chủ nghĩa duy
vật cũ và khắc phục tính chất duy tâm, thần bí của phép biện chứng duy tâm, sáng tạo ra
chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị, đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng.

Trước C.Mác, do sự hạn chế của điều kiện xã hội và của trình độ phát triển khoa
học nên tính chất siêu hình vẫn là một nhược điểm chung của chủ nghĩa duy vật. Chủ
nghĩa duy vật Phoiơbắc xem xét con người gắn với tộc loài, phi lịch sử, phi giai cấp;
không nhìn thấy con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của lịch sử, gắn liền với thực
tiễn của mình. Trong khi đó, phép biện chứng lại được phát triển trong cái vỏ duy tâm
thần bí của một số đại biểu triết học cổ điền Đức, đặc biệt trong triết học Hêghen, nên đã
bất lực trước sự phân tích thực tiễn, phân tích sự phát triển của nền sản xuất vật chất và
đặc biệt là bất lực trước sự phân tích các sự kiện chính trị. Triết học Mác khắc phục sự
tách rời giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong các hệ thống triết học trước đó.
Đây là sự chuyển biến về chất của cả chủ nghĩa duy vật và của phép biện chứng.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã vận dụng và mở rộng quan điểm duy vật biện chứng vào
nghiên cứu lịch sử xã hội, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử - nội dung chủ yếu của
bước ngoặt cách mạng trong triết học.

Những nhà triết học trước C.Mác tuyệt đối hoá vai trò của hoạt động chính trị, khoa
học, nghệ thuật, tôn giáo; xem nhẹ hoạt động sản xuất ra các sản phẩm vật chất cũng như
vai trò của người quần chúng lao động. Do vậy, họ đã giải thích lịch sử trước hết từ hoạt
động “làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo”, chứ không phải xuất phát từ hoạt
động sản xuất ra của cải vật chất. Nói cách khác, họ đã giải thích lịch sử xã hội theo quan
điểm duy tâm chứ không theo quan điểm duy vật.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chính là sự vận dụng triệt để những nguyên lý của chủ
nghĩa duy vật để xem xét lĩnh vực các hiện tượng xã hội. Điều đó được thể hiện ở chỗ,
chủ nghĩa duy vật lịch sử đã vận dụng quan điểm về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
để nghiên cứu và giải thích sự phát triển xã hội, các nguyên lý của phép biện chứng cũng
được áp dụng triệt để vào việc xem xét và lý giải sự phát triển của xã hội. lOMoAR cPSD| 61601688
C.Mác và Ph.Ăngghen đã sáng tạo ra một triết học chân chính khoa học, với những
đặc tính mới của triết học duy vật biện chứng
Hệ thống triết học trước Mác không thấy được vai trò của thực tiễn trong sự phát
triển của khoa học và triết học. Do vậy, nó không có ý nghĩa cách mạng để cải tạo thế
giới, mà chủ yếu nhấn mạnh đến vai trò quyết định của hoạt động tinh thần đối với tự
nhiên, xã hội và bản thân con người, cũng như là sự quan sát, giải thích thế giới bằng cách này hay cách khác.
Sự khác nhau căn bản giữa triết học Mác với các hệ thống triết học trước đó ở chỗ,
không chỉ giải thích thế giới mà chủ yếu vạch ra con đường cải tạo hiện thực khách quan,
định hướng cho sự vận động và phát triển của xã hội. Với quan điểm về sự thống nhất
giữa lí luận và thực tiễn, C.Mác xác định nhiệm vụ của triết học là phải cải tạo thế giới;
chứng minh vai trò của quần chúng nhân dân, của giai cấp vô sản đối với sự phát triển của lịch sử.
Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã biến đổi và hoàn thiện tính chất, đối tượng và mối quan hệ giữa triết học
với các khoa học khác. Đó là mối quan hệ giữa việc nghiên cứu những quy luật chung
nhất của thế giới và các quy luật đặc thù trong các khoa học cụ thể. Triết học không có
tham vọng giải quyết những vấn đề chuyên biệt thuộc phạm vi giải quyết của các khoa học cụ thể.
1.4. Giai đoạn V.I.Lênin trong sự phát triển Triết học Mác
Giai đoạn V.I.Lênin sống và hoạt động, khoa học tự nhiên đã đạt được những thành
tựu mới đặc biệt, nhất là trong nghiên cứu thế giới vi mô. Những phát minh khoa học về
vật lý học, hóa học đã làm cho nhiều quan niệm siêu hình trong triết học bị đánh đổ. Đồng
thời, về chính trị - xã hội là sự xuất hiện chủ nghĩa đế quốc. Bước sang thế kỷ XX, phong
trào cách mạng ở nước Nga trở nên sôi động, đỉnh cao là cuộc Cách mạng Tháng mười
năm 1917. Trong bối cảnh ấy, trên thế giới cũng như ở nước Nga, đã xuất hiện một số
khuynh hướng tư tưởng không khoa học nhằm chống lại chủ nghĩa Mác. Đồng thời, sau
Cách mạng Tháng mười, nước Nga bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội.Tất cả những
điều kiện đó đã thôi thúc, đòi hỏi V.I.Lênin phải bảo vệ sự trong sáng, khoa học, cách
mạng cũng như phát triển chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng đáp ứng yêu
cầu của thời đại mới.
Toàn bộ giai đoạn V.I.Lênin trong sự phát triển Triết học Mác được chia làm 3 thời kỳ lớn:
- Thời kỳ 1893 - 1907, là thời kỳ V.I.Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác, nhằm
thành lập đảng Mácxít ở Nga và chuẩn bị cho cuộc cách mạng dân chủ tư sản lần thứ nhất. lOMoAR cPSD| 61601688
- Từ 1907 – 1917, là thời kỳ V.I.Lênin phát triển toàn diện triết học Mác và lãnh
đạo phong trào công nhân Nga, chuẩn bị cho cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Từ 1917 – 1924, là thời kỳ V.I.Lênin tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng,
bổ sung, hoàn thiện triết học Mác, gắn liền với việc nghiên cứu các vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong 3 thời kỳ trên, V.I.Lênin bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Ăngghen thể
hiện qua các cuộc đấu tranh lý luận của ông chống lại chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại gắn liền với các tác phẩm và bài báo nổi tiếng.
Tác phẩm Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân
chủ - xã hội ra sao? (1894), V.I.Lênin vừa phê phán tính chất duy tâm và những sai lầm
nghiêm trọng của phái dân túy khi nhận thức những vấn đề về lịch sử - xã hội, vừa vạch
ra ý đồ của họ khi muốn xuyên tạc chủ nghĩa Mác bằng cách xóa nhòa ranh giới giữa
phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác với phép biện chứng duy tâm của Hêghen.
Trong tác phẩm Làm gì (1902), V.I.Lênin phê phán tính tự phát của phong trào công
nhân. Ông lập luận khoa học về ý nghĩa của lý luận cách mạng. Không có lý luận cách
mạng thì không có hành động cách mạng.
Trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (1909),
V.I.Lênin phân tích cuộc cách mạng khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX,
đặc biệt trong vật lý học. Ông chống lại những kết luận duy tâm rút ra từ các phát minh
vật lý mới nhất, phát triển quan niệm duy vật biện chứng về vật chất.
Trong tác phẩm Bút ký triết học (1916), V.I.Lênin đã tạo ra những mẫu mực về sự
nghiên cứu các quy luật và phạm trù của phép biện chứng duy vật; nguyên tắc về sự thống
nhất giữa phép biện chứng, logic học và lý luận nhận thức; các nguồn gốc nhận thức của
chủ nghĩa duy tâm, tính chất mâu thuẫn của sự phản ánh trong những sự trừu tượng khoa
học, đường lối tiếp tục phát triển lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Trong bài báo Về tác dụng của chủ nghĩa duy vật chiến đấu (1922), V.I.Lênin trình
bày khoa học nhiệm vụ xây dựng và củng cố sự liên minh giữa các nhà triết học Mácxít
và các nhà khoa học tự nhiên; chỉ ra sự cần thiết kế thừa biện chứng những truyền thống
duy vật biện chứng trước đây.
Trong tác phẩm Chủ nghĩa đế quốc – giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản (1916)
và các tác phẩm có mối liên hệ như Về vấn đề dân tộc, Về sự phá sản của Quốc tế II…
chứa đựng sự phân tích sâu sắc thời đại mới, vạch ra những quy luật và khuynh hướng
phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền. lOMoAR cPSD| 61601688
* Sự phát triển của Triết học Mác – Lênin trong giai đoạn từ 1924 đến nay
Sau chiến tranh thế giới thứ II, với sự ra đời của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa,
triết học Mác – Lênin được truyền bá một cách rộng rãi, ảnh hưởng sâu rộng trong quần
chúng. Triết học Mác – Lênin đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của thực tiễn
xây dựng xã hội mới với những thành tựu to lớn không thể phủ nhận.
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề cần được giải
đáp về mặt lý luận. Chẳng hạn xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, xác lập chế độ
công hữu, hoặc vấn đề vai trò của nhà nước trong việc quản lý nền sản xuất xã hội theo
một kế hoạch thống nhất trong phạm vi toàn xã hội, về xây dựng nhà nước trong thời kỳ
quá độ, về vai trò của đảng cộng sản trong quản lý xã hội, về quyền làm chủ của quần
chúng lao động... Chính sự lạc hậu về tư duy lý luận của đội ngũ lãnh đạo các đảng cộng
sản, đã trở thành một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội.
Sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội, sự phát triển của xã hội trong điều kiện mới
làm cho yêu cầu phát triển triết học Mác – Lênin càng trở nên cấp bách.
Một mặt bảo vệ những giá trị và thành quả của việc vận dụng triết học Mác – Lênin
trong đời sống thực tiễn, đồng thời khái quát, bổ sung, phát triển lý luận những vấn đề
thực tiễn đặt ra. Mặt khác, khắc phục bệnh giáo điều trong việc vận dụng lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, chống lại những tư tưởng, quan điểm xuyên tạc bản chất cách mạng,
khoa học của triết học Mác. Nếu không đáp ứng các yêu cầu quan trọng đó, thì không thể
hiểu được biện chứng của sự vận động phát triển xã hội; không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
2. Đối tượng và chức năng của triết học Mác – Lênin
2.1. Khái niệm triết học Mác – Lênin
Triết học Mác – Lênin là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về tự nhiên, xã hội
và tư duy, là thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và các lực lượng xã hội tiến bộ trong nhận thức và cải tạo thế giới.
2.2. Đối tượng của triết học Mác – Lênin
Giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật biện chứng
và nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Với triết học Mác – Lênin thì đối tượng của triết học và đối tượng của các khoa học
cụ thể đã được phân biệt rõ ràng. Các khoa học cụ thể nghiên cứu những quy luật trong
các lĩnh vực riêng biệt về tự nhiên, xã hội hoặc tư duy. Triết học nghiên cứu những quy
luật chung nhất, tác động trong cả ba lĩnh vực này. lOMoAR cPSD| 61601688
Triết học Mác – Lênin có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với các khoa học cụ thể. Các
khoa học cụ thể cung cấp những dữ liệu, đặt ra những vấn đề khoa học mới, làm tiền đề,
cơ sở cho sự phát triển triết học. Các khoa học cụ thể tuy có đối tượng và chức năng riêng
của mình nhưng đều phải dựa vào một thế giới quan và phương pháp luận triết học nhất
định. Quan hệ giữa quy luật của triết học và quy luật của khoa học cụ thể là quan hệ giữa cái chung và cái riêng.
2.3. Chức năng của triết học Mác – Lênin
* Chức năng thế giới quan
Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm về thế giới và về vị trí của con người
trong thế giới đó. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan. Triết học Mác – Lênin
đem lại thế giới quan duy vật biện chứng, là hạt nhân thế giới quan cộng sản.
* Chức năng phương pháp luận
Phương pháp luận là hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát có vai
trò chỉ đạo việc sử dụng các phương pháp trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn nhằm đạt kết quả tối ưu. Phương pháp luận cũng có nghĩa là lý luận về hệ thống
phương pháp. Triết học Mác – Lênin thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất,
phổ biến nhất cho nhận thức và hoạt động thực tiễn.
3. Vai trò của triết học Mác – Lênin trong đời sống xã hội và trong sự nghiệp
đổi mới ở Việt Nam hiện nay
3.1. Triết học Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học và
cách mạng để phân tích xu hướng phát triển của xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ

Trong điều kiện phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đã và đang đặt
ra những vấn đề quan trọng, bức thiết đòi hỏi và thúc đẩy chủ nghĩa Mác – Lênin phải
vượt lên để giải đáp. Mặt khác, nó cũng tạo ra những điều kiện cần thiết để chủ nghĩa
Mác – Lênin có thể thực hiện được vai trò của mình. Vai trò của chủ nghĩa Mác – Lênin
được thể hiện tập trung ở những điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, nhận thức một cách toàn diện, sâu sắc cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã
hội hiện thực về thành tựu và khuyết tật, nguyên nhân của khủng hoảng; phân tích, đánh
giá xu hướng vận động theo con đường xã hội chủ nghĩa của một số nước trên thế giới.
Trên cơ sở đó, tìm ra con đường, giải pháp thoát khỏi khủng hoảng và đưa ra dự báo một
cách khoa học, thực tế về tương lai của chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, nhận thức một cách khách quan, toàn diện, sâu sắc chủ nghĩa tư bản hiện
đại, nhất là chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa, về bản chất, quy luật, khả năng điều chỉnh và
thích ứng của nó với hoàn cảnh mới; những mâu thuẫn, khuyết tật, xu hướng vận động và quá trình phát triển. lOMoAR cPSD| 61601688
Thứ ba, nhận thức cuộc cách công nghiệp lần thứ 4 với nguyên nhân, bản chất, quy
luật, thành tựu hạn chế và dự báo xu hướng phát triển, cùng tác động, ảnh hưởng của nó
đến con người và xã hội. Đồng thời, nhận thức sâu sắc quá trình toàn cầu hóa về bản chất,
quy luật, mâu thuẫn, xung đột, mặt tích cực, mặt tiêu cực và xu hướng tương lai của nó.
Trên cơ sở đó, khái quát lý luận, bổ sung và phát triển các phạm trù, nguyên lý, quy luật
của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Thứ tư, nghiên cứu các học thuyết xã hội hiện đại, những vấn đề lý luận và thực tiễn
mới của thời đại để tiếp thu tinh hoa văn hóa, trí tuệ của nhân loại, bổ sung và làm giàu
thêm hệ giá trị của chủ nghĩa Mác – Lênin; đồng thời, đấu tranh với mọi quan điểm thù
địch, bảo vệ bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn của chủ nghĩa Mác – Lênin, góp
phần thúc đẩy khoa học và thực tiễn phát triển theo hướng văn minh, tiến bộ.
Quá trình hình thành, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin đồng thời cũng là quá trình
đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa bè phái, chủ
nghĩa xét lại và chủ nghĩa cơ hội dưới nhiều màu sắc. Đó cũng là động lực phát triển và
bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin.
3.2. Triết học Mác – Lênin là cơ sở lý luận khoa học của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên thế giới và sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Hiện nay, chủ nghĩa Mác – Lênin đang đứng trước những cơ hội và thách thức to lớn
với nhu cầu cấp bách là phải đổi mới để phát triển. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, làm
sáng tỏ bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn của chủ nghĩa Mác – Lênin có ý nghĩa
sống còn đối với những người cộng sản, đối với tương lai của chủ nghĩa xã hội và đối với
sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Việt Nam đã vượt qua được sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội những năm cuối
thập niên 80 đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, đạt được thành tựu to lớn suốt hơn 30 năm
tiến hành đổi mới. Vì sao chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô lại sụp đổ, trong
khi đó ở Việt Nam chế độ xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại, hơn nữa Việt Nam lại thoát ra khỏi
khủng hoảng và đạt được thành tựu to lớn? Điều đó có nhiều nguyên nhân khách quan và
chủ quan, trong đó có nguyên nhân Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên định và vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin.
Nếu không nhận thức đúng cũng như không vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin trong điều kiện lịch sử cụ thể, thì việc khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa xã hội
là một tất yếu. Nói cách khác, tình trạng khủng hoảng và sụp đổ chủ nghĩa xã hội như đã
diễn ra ở một số nước, có nguyên nhân ở sự không kiên định và không vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác – Lênin. Sở dĩ sự nghiệp đổi mới ở nước ta từ Đại hội VI đạt được thành lOMoAR cPSD| 61601688
quả to lớn trước hết là do Đảng Cộng sản Việt Nam kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin.
Muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì phải kiên định chủ nghĩa Mác –
Lênin, đồng thời phải vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin một cách sáng tạo trong những
hoàn cảnh thực tiễn cụ thể. Kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin là
nguyên nhân cơ bản dẫn đến thành công trong quá trình đổi mới ở Việt Nam. HẾT CHƯƠNG 1