Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ BẢN VỀ GIÁO DỤC
1.1. Giáo dục hiện tượng hội đặc trưng cho hội loài người, nh chất phổ
biến vĩnh hằng
1.1.1. Hiện tượng giáo dục ?
–Kết quả của việc con người khám phá thế giới khách quan qua nhiều thế hệ bằng con
đường tri giác trực tiếp hay bằng con đường nghiên cứu khoa học con người tích luỹ
được một hệ thống những kinh nghiệm lịch sử - hội. Hệ thống những kinh nghiệm lịch
sử - hội được lưu giữ dưới một dạng rất đặc biệt đó nền văn h hội.
–Hiện tượng thế hệ đi trước truyền lại cho thế h đi sau hệ thống những kinh nghiệm lịch sử
- hội gọi hiện tượng dạy
–Hiện tượng thế hệ đi sau tiếp thu lấy hệ thống những kinh nghiệm lịch sử - hội làm
cho hệ thống những kinh nghiệm lịch sử - hội phong phú hơn đa dạng hơn lên gọi là hiện
tượng học.
Vậy hiện tượng giáo dục gì? Hiện tượng giáo dục hiện tượng thế hệ đi trước truyền lại
cho thế hệ đi sau hệ thống những kinh nghiệm lịch sử - xã hội thế hệ đi sau tiếp thu lấy
hệ thống những kinh nghiệm lịch sử - hội làm cho phong phú hơn đa dạng hơn.
1.1.2. Tại sao hiện tượng giáo dục hiện tượng hội đặc trưng cho hội loài
người?
hiện tượng giáo dục chỉ chỉ trong hội loài người.
1.1.3. Hiện tượng giáo dục tính chất phổ biến:
đâu con người thì đó hiện tượng giáo dục. Hiện tượng giáo dục không chỉ
trong nhà trường, gia đình còn mọi nơi, mọi lúc mọi chỗ, cứ đâu con người
thì đó hiện tượng giáo dục.
1.1.4. Hiện tượng giáo dục tính chất vĩnh hằng:
Hiện tượng giáo dục tồn tại mãi mãi cùng sự tồn tại của xã hội loài người. Hiện tượng giáo
dục chỉ mất đi khi xã hội loài người bị diệt vong.
* Hệ thống những kinh nghiệm lịch sử - hội gì? Hệ thống những kinh nghiệm lịch sử -
hội với cách kết quả của việc con người khám phá thế giới khách quan được thể
hiện 4 thành phần sau đây:
Thành phần thứ nhất của hệ thống những kinh nghiệm lịch sử - hội là: Hệ thống những
tri thức về tự nhiên, về hội, về con người về cách thức hoạt động.
- Tri thức những dấu hiệu (những đặc điểm) cho ta biết về các sự vật hiện ợng trong
thế giới khách quan và kết quả của việc con người khám phá thế giới khách quan.
–Tri thức kinh nghiệm tri thức được con người khám phá ra bằng cách tri giác trực tiếp
các sự vật, hiện tượng xảy ra xung quanh con người, ngay trong thực tiễn cuộc sống.Những
tri thức kinh nghiệm của nhân loại hiện nay đang được đúc kết trong tục ngữ, ca dao dân
ca.
–Tri thức khoa học tri thức được con người phát hiện ra bằng các phương pháp nghiên
cứu khoa học được thực tiễn kiểm nghiệm
Thành phần thứ 2 của hệ thống những kinh nghiệm lịch sử - hội:Hệ thống những năng
xảo thực hiện các cách thức hoạt động đã biết
năng khả năng thực hiện thành thạo một động tác nào đó, nếu được nâng lên mức
độ tự động hoá thì trở thành xảo. Trong quá trình khám phá thế giới khách quan con
người không chỉ biết về thế giới khách quan còn biết cách biết v thế giới khách quan
vận dụng những trí thức về các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan một cách thành
thạo vào thực tiễn cuộc sống để tồn tại.
Thành phần thứ ba của hệ thống những kinh nghiệm lịch sử - hội: Hệ thống những kinh
nghiệm hoạt động tìm tòi sáng tạo
Nhờ việc con người khám phá thế giới khách quan con người không chỉ biết về thế giới
khách quan, biết vận dụng tri thức về thế giới khách quan vào thực tiễn cuộc sống còn
biết vận dụng một cách sáng tạo những tri thức về thế giới khách quan vào thực tiễn cuộc
sống.
Thành phần thứ tư của hệ thống những kinh nghiệm lịch sử - hội :Hệ thống những qui
phạm quy định mối quan hệ giữa con người con người, giữa con người thế giới khách
quan.
Trong quá trình khám p hội, con người biết được người với người sống để yêu nhau,
học sinh phải lễ phép với thầy giáo, con cái phải hiếu thảo với ông cha mẹ...đó chính
những quy phạm quy định mối quan hệ giữa con người con người...
→4 thành phần này của hệ thống những kinh nghiệm lịch sử hội được lưu giữ dưới
một dạng rất đặc biệt đó nền văn hoá hội.
Như vậy nói đến hệ thống những kinh nghiệm lịch sử - hội nói đến 4 thành phần trên,
nói đến nền văn hóa hội cũng là nói đến 4 thành phần trên
* Tại sao việc truyền thụ tiếp thu hệ thống những kinh nghiệm lịch sử - hội lại làm
cho hội không chỉ tồn tại còn phát triển?
+ Việc truyền thụ tiếp thu thành phần thứ nhất giúp con người biết
+ Việc truyền thụ tiếp thu thành phần thứ hai giúp con người biết làm.
+ Việc truyền thụ tiếp thu thành phần thứ ba giúp con người biết làm sáng tạo.
+ Việc truyền thụ tiếp thu thành phần thứ giúp con người thái độ đúng.
Biết; biết làm; biết làm sáng tạo và thái đ đúng một nhân cách.
Như vậy việc truyền thụ tiếp thu hệ thống những kinh nghiệm lịch sử - hội giúp mỗi
nhân trở thành một nhân cách chính những nhân cách này góp phần làm cho hội
không chỉ tồn tại còn phát triển.
Thực tiễn cho thấy: hội chỉ cần tồn tại không cần phát triển t hội chỉ cần dựa
vào số lượng người. Xã hội càng đông dân số thì tốc độ diệt vong càng chậm chắc chắn
đến lúc nào đó hội sẽ bị diệt vong. hội muốn phát triển thì hội phải dựa vào chất
lượng người tức dựa vào những con người được đào tạo. Những con người được đào
tạo sản phẩm của giáo dục.
Chính vậy giáo dục được coi như một chức năng của hội. Điều này nghĩa
xã hội muốn phát triển t hội phải thực hiện chức năng quan trọng của mình đó
chức năng giáo dục.
giáo dục hoạt động hội nên giáo dục luôn chịu sự quy định của hội (chịu sự quy
định của các lĩnh vực của đời sống hội). Khi hội thay đổi thì giáo dục cũng thay đổi
theo. Chính vậy giáo dục luôn mang tính lịch s tính giai cấp.
1.3.2. Tính lịch sử của giáo dục
- Ứng với mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, tương ứng với nền giáo dục khác nhau,
nền giáo dục của giai đoạn lịch sử này khác nền giáo dục của giai đoạn lịch sử kia mục
đích, nội dung phương pháp.
Lịch sử phát triển giáo dục thế giới đã chứng minh. Cho đến nay hội đã trải qua 5 giai
đoạn lịch sử khác nhau, ứng với mỗi giai đoạn lịch sử đó là một nền giáo dục khác nhau.
Ứng với hội cộng sản nguyên thuỷ giáo dục cộng sản nguyên thủy, ứng với hội
chiếm hữu lệ giáo dục chiếm hữu lệ, ứng với hội tư bản chủ nghĩa giáo dục
bản chủ nghĩa ứng với hội chủ nghĩa giáo dục hội chủ nghĩa. Nền giáo dục
phong kiến khác nền giáo dục bản chủ nghĩa; nền giáo dục bản chủ nghĩa khác nền
giáo dục hội chủ nghĩa. Những nền giáo dục này khác nhau về mục đích, nội dung,
phương pháp.
- Trong cùng một giai đoạn lịch sử, khi lịch sử thay đổi t giáo dục cũng thay đổi theo
Tính lịch sử của giáo dục là một tính quy luật quan trọng của sự phát triển giáo dục. Điều
này nghĩa muốn phát triển giáo dục chúng ta phải căn cứ vào tính lịch sử của giáo dục
hay nói cách khác phải căn cứ vào yêu cầu đòi hỏi của lịch sử hội về con người.
Một nền giáo dục phát triển phải là nền giáo dục thể đào tạo ra được những con người
khả năng đáp ng được yêu cầu đòi hỏi của lịch sử hội. Một nền giáo dục Việt Nam phát
triển phải nền giáo dục Việt Nam thể đào tạo ra được những con người Việt Nam
thể đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của cuộc cách mạng hội chủ nghĩa Việt Nam.
1.3.3. Tính giai cấp của giáo dục:
Trong hội có giai cấp thì giáo dục mang tính giai cấp rệt.
- Ứng với mỗi giai cấp khác nhau một nền giáo dục khác nhau, nền giáo dục của giai cấp
này khác nền giáo dục của giai cấp kia mục đích, nội dung phương pháp.
Ứng với giai cấp chủ giáo dục chiếm hữu lệ; ứng với giai cấp phong kiến nền
giáo dục phong kiến; ứng với giai cấp sản nền giáo dục tư bản chủ nghĩa, ứng với giai
cấp sản nền giáo dục hội chủ nghĩa. Nền giáo dục của giai cấp này khác nền giáo
dục của giai cấp kia mục đích, nội dung phương pháp.
Thực tiễn cho thấy:
- Bất giai cấp nào cũng lấy nhà trường làm công cụ của chuyên chính giai cấp. Lấy nhà
trường làm công cụ đ bảo vệ quyền lợi của giai cấp. Những giai cấp bóc lột lấy giáo dục
làm công cụ để bảo vệ quyền được áp bức bóc lột của giai cấp bóc lột; giai cấp sản cũng
lấy nhà trường làm công cụ để bảo vệ quyền lợi của giai cấp sản quyền lợi của giai
cấp sản quyền lợi của nhân dân lao động. Điều này được thể hiện trong quan điểm
giáo dục của Đảng “Giáo dục sự nghiệp cách mạng của toàn dân, nhà trường công cụ
của chuyên chính sản”
- Bất kì giai cấp nào cũng lấy môi trường nhà trường môi trường giáo dục làm đài đấu
tranh giai cấp.
Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra k khăn nhất, âm thầm nhất quyết liệt nhất không phải
trên mặt trận quân s trên mặt trận tưởng văn hóa trong đó giáo dục một trận
địa. Trong cuộc đấu tranh giai cấp thắng hay thua trên mặt trận tưởng văn hóa.
- Nếu nét đặc trưng của nền giáo dục của giai cấp bóc lột tồn tại trong 2 loại nhà
trường, một loại nhà trường dành cho con em của giai cấp bóc lột, một loại nhà trường
dành cho con em của giai cấp bị bọc lột,phương pháp đào tạo phương pháp truyền thụ
trực tiếp, cầm tay chỉ việc t nét đặc trưng của nền giáo dục hội chủ nghĩa tồn tại
trong đó một loại nhà trường đó nhà trường của toàn thể con em nhân dân lao động với
mục tiêu đào tạo con em nhân dân lao động trở thành những con người phát triển toàn
diện, với nội dung giáo dục toàn diện phương pháp đào tạo phương pháp n trường.
- Nếu giai cấp bóc lột thực hiện một nền giáo dục phân biệt bất bình đẳng thì giai cấp
sản lại thực hiện một nền giáo dục dân chủ bình đẳng.
-Tính giai cấp của giáo dục một tính quy luật của sự phát triển giáo dục.
-Tính giai cấp của giáo dục một sở khoa học của việc đổi mới giáo dục đào tạo hiện
nay. Muốn đổi mới giáo dục đào tạo thành công chúng ta phải căn cứ vào tính giai cấp
của giáo giáo dục, căn cứ vào yêu cầu đòi hỏi của Đảng về con người.
--Trong đổi mới phải n cứ vào u trả lời trên để xác định lại mục tiêu giáo dục lấy
mục tiêu giáo dục làm sở cho mọi hoạt động đổi mới giáo dục đào tạo.
Tóm lại: Giáo dục một phạm trù mang tính lịch sử tính giai cấp. Tính lịch sử tính
giai cấp của giáo dục những tính quy luật của sự phát triển giáo dục những cơ sở
khoa học của việc đổi mới giáo dục đào tạo.

Preview text:

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ GIÁO DỤC
1.1. Giáo dục là hiện tượng xã hội đặc trưng cho xã hội loài người, có tính chất phổ
biến và vĩnh hằng
1.1.1. Hiện tượng giáo dục là gì?
–Kết quả của việc con người khám phá thế giới khách quan qua nhiều thế hệ bằng con
đường tri giác trực tiếp hay bằng con đường nghiên cứu khoa học là con người tích luỹ
được một hệ thống những kinh nghiệm lịch sử - xã hội. Hệ thống những kinh nghiệm lịch
sử - xã hội được lưu giữ dưới một dạng rất đặc biệt đó là nền văn hoá xã hội.
–Hiện tượng thế hệ đi trước truyền lại cho thế hệ đi sau hệ thống những kinh nghiệm lịch sử
- xã hội gọi là hiện tượng dạy
–Hiện tượng thế hệ đi sau tiếp thu lấy hệ thống những kinh nghiệm lịch sử - xã hội và làm
cho hệ thống những kinh nghiệm lịch sử - xã hội phong phú hơn đa dạng hơn lên gọi là hiện tượng học.
Vậy hiện tượng giáo dục là gì? Hiện tượng giáo dục là hiện tượng thế hệ đi trước truyền lại
cho thế hệ đi sau hệ thống những kinh nghiệm lịch sử - xã hội và thế hệ đi sau tiếp thu lấy
hệ thống những kinh nghiệm lịch sử - xã hội và làm cho nó phong phú hơn đa dạng hơn.
1.1.2. Tại sao hiện tượng giáo dục là hiện tượng xã hội đặc trưng cho xã hội loài người?
Vì hiện tượng giáo dục chỉ có và chỉ có trong xã hội loài người.
1.1.3. Hiện tượng giáo dục có tính chất phổ biến:
Ở đâu có con người thì ở đó có hiện tượng giáo dục. Hiện tượng giáo dục không chỉ có
trong nhà trường, gia đình mà nó còn có ở mọi nơi, mọi lúc mọi chỗ, cứ ở đâu có con người
thì ở đó có hiện tượng giáo dục.
1.1.4. Hiện tượng giáo dục có tính chất vĩnh hằng:
Hiện tượng giáo dục tồn tại mãi mãi cùng sự tồn tại của xã hội loài người. Hiện tượng giáo
dục chỉ mất đi khi xã hội loài người bị diệt vong.
* Hệ thống những kinh nghiệm lịch sử - xã hội là gì? Hệ thống những kinh nghiệm lịch sử -
xã hội với tư cách là kết quả của việc con người khám phá thế giới khách quan được thể
hiện ở 4 thành phần sau đây:
Thành phần thứ nhất của hệ thống những kinh nghiệm lịch sử - xã hội là: Hệ thống những
tri thức về tự nhiên, về xã hội, về con người và về cách thức hoạt động.
- Tri thức là những dấu hiệu (những đặc điểm) cho ta biết về các sự vật hiện tượng trong
thế giới khách quan và là kết quả của việc con người khám phá thế giới khách quan.
–Tri thức kinh nghiệm là tri thức được con người khám phá ra bằng cách tri giác trực tiếp
các sự vật, hiện tượng xảy ra xung quanh con người, ngay trong thực tiễn cuộc sống.Những
tri thức kinh nghiệm của nhân loại hiện nay đang được đúc kết trong tục ngữ, ca dao và dân ca.
–Tri thức khoa học là tri thức được con người phát hiện ra bằng các phương pháp nghiên
cứu khoa học và được thực tiễn kiểm nghiệm
Thành phần thứ 2 của hệ thống những kinh nghiệm lịch sử - xã hội:Hệ thống những kĩ năng
kĩ xảo thực hiện các cách thức hoạt động đã biết
Kĩ năng là khả năng thực hiện thành thạo một động tác nào đó, nếu nó được nâng lên ở mức
độ tự động hoá thì nó trở thành kĩ xảo. Trong quá trình khám phá thế giới khách quan con
người không chỉ biết về thế giới khách quan mà còn biết cách biết về thế giới khách quan và
vận dụng những trí thức về các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan một cách thành
thạo vào thực tiễn cuộc sống để tồn tại.
Thành phần thứ ba của hệ thống những kinh nghiệm lịch sử - xã hội: Hệ thống những kinh
nghiệm hoạt động tìm tòi sáng tạo
Nhờ việc con người khám phá thế giới khách quan mà con người không chỉ biết về thế giới
khách quan, biết vận dụng tri thức về thế giới khách quan vào thực tiễn cuộc sống mà còn
biết vận dụng một cách sáng tạo những tri thức về thế giới khách quan vào thực tiễn cuộc sống.
Thành phần thứ tư của hệ thống những kinh nghiệm lịch sử - xã hội :Hệ thống những qui
phạm quy định mối quan hệ giữa con người và con người, giữa con người và thế giới khách quan.
Trong quá trình khám phá xã hội, con người biết được người với người sống để yêu nhau,
học sinh phải lễ phép với thầy cô giáo, con cái phải hiếu thảo với ông bà cha mẹ. .đó chính
là những quy phạm quy định mối quan hệ giữa con người và con người. .
→4 thành phần này của hệ thống những kinh nghiệm lịch sử – xã hội được lưu giữ dưới
một dạng rất đặc biệt đó là nền văn hoá xã hội.
Như vậy nói đến hệ thống những kinh nghiệm lịch sử - xã hội là nói đến 4 thành phần trên,
nói đến nền văn hóa xã hội cũng là nói đến 4 thành phần trên
* Tại sao việc truyền thụ và tiếp thu hệ thống những kinh nghiệm lịch sử - xã hội lại làm
cho xã hội không chỉ tồn tại mà còn phát triển?
+ Việc truyền thụ và tiếp thu thành phần thứ nhất giúp con người biết
+ Việc truyền thụ và tiếp thu thành phần thứ hai giúp con người biết làm.
+ Việc truyền thụ và tiếp thu thành phần thứ ba giúp con người biết làm sáng tạo.
+ Việc truyền thụ và tiếp thu thành phần thứ tư giúp con người có thái độ đúng.
Biết; biết làm; biết làm sáng tạo và có thái độ đúng là một nhân cách.
Như vậy việc truyền thụ và tiếp thu hệ thống những kinh nghiệm lịch sử - xã hội giúp mỗi
cá nhân trở thành một nhân cách và chính những nhân cách này góp phần làm cho xã hội
không chỉ tồn tại mà còn phát triển.
Thực tiễn cho thấy: Xã hội chỉ cần tồn tại mà không cần phát triển thì xã hội chỉ cần dựa
vào số lượng người. Xã hội càng đông dân số thì tốc độ diệt vong càng chậm và chắc chắn
đến lúc nào đó xã hội sẽ bị diệt vong. Xã hội muốn phát triển thì xã hội phải dựa vào chất
lượng người tức là dựa vào những con người được đào tạo. Những con người được đào
tạo là sản phẩm của giáo dục.
Chính vì vậy mà giáo dục được coi như là một chức năng của xã hội. Điều này có nghĩa
là xã hội muốn phát triển thì xã hội phải thực hiện chức năng quan trọng của mình đó là chức năng giáo dục.
Vì giáo dục là hoạt động xã hội nên giáo dục luôn chịu sự quy định của xã hội (chịu sự quy
định của các lĩnh vực của đời sống xã hội). Khi xã hội thay đổi thì giáo dục cũng thay đổi
theo. Chính vì vậy mà giáo dục luôn mang tính lịch sử và tính giai cấp.
1.3.2. Tính lịch sử của giáo dục
- Ứng với mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, tương ứng với nó là nền giáo dục khác nhau,
nền giáo dục của giai đoạn lịch sử này khác nền giáo dục của giai đoạn lịch sử kia là ở mục
đích, nội dung và phương pháp.
Lịch sử phát triển giáo dục thế giới đã chứng minh. Cho đến nay xã hội đã trải qua 5 giai
đoạn lịch sử khác nhau, và ứng với mỗi giai đoạn lịch sử đó là một nền giáo dục khác nhau.
Ứng với xã hội cộng sản nguyên thuỷ có giáo dục cộng sản nguyên thủy, ứng với xã hội
chiếm hữu nô lệ có giáo dục chiếm hữu nô lệ, ứng với xã hội tư bản chủ nghĩa có giáo dục
tư bản chủ nghĩa và ứng với xã hội chủ nghĩa có giáo dục xã hội chủ nghĩa. Nền giáo dục
phong kiến khác nền giáo dục tư bản chủ nghĩa; nền giáo dục tư bản chủ nghĩa khác nền
giáo dục xã hội chủ nghĩa. Những nền giáo dục này khác nhau về mục đích, nội dung, phương pháp.
- Trong cùng một giai đoạn lịch sử, khi lịch sử thay đổi thì giáo dục cũng thay đổi theo
Tính lịch sử của giáo dục là một tính quy luật quan trọng của sự phát triển giáo dục. Điều
này có nghĩa là muốn phát triển giáo dục chúng ta phải căn cứ vào tính lịch sử của giáo dục
hay nói cách khác là phải căn cứ vào yêu cầu đòi hỏi của lịch sử xã hội về con người.
Một nền giáo dục phát triển phải là nền giáo dục có thể đào tạo ra được những con người có
khả năng đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của lịch sử xã hội. Một nền giáo dục Việt Nam phát
triển phải là nền giáo dục Việt Nam có thể đào tạo ra được những con người Việt Nam có
thể đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1.3.3. Tính giai cấp của giáo dục:
Trong xã hội có giai cấp thì giáo dục mang tính giai cấp rõ rệt.
- Ứng với mỗi giai cấp khác nhau có một nền giáo dục khác nhau, nền giáo dục của giai cấp
này khác nền giáo dục của giai cấp kia là ở mục đích, nội dung và phương pháp.
Ứng với giai cấp chủ nô có giáo dục chiếm hữu nô lệ; ứng với giai cấp phong kiến có nền
giáo dục phong kiến; ứng với giai cấp tư sản có nền giáo dục tư bản chủ nghĩa, ứng với giai
cấp vô sản có nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Nền giáo dục của giai cấp này khác nền giáo
dục của giai cấp kia là ở mục đích, nội dung và phương pháp. Thực tiễn cho thấy:
- Bất kì giai cấp nào cũng lấy nhà trường làm công cụ của chuyên chính giai cấp. Lấy nhà
trường làm công cụ để bảo vệ quyền lợi của giai cấp. Những giai cấp bóc lột lấy giáo dục
làm công cụ để bảo vệ quyền được áp bức bóc lột của giai cấp bóc lột; giai cấp vô sản cũng
lấy nhà trường làm công cụ để bảo vệ quyền lợi của giai cấp vô sản mà quyền lợi của giai
cấp vô sản là quyền lợi của nhân dân lao động. Điều này được thể hiện trong quan điểm
giáo dục của Đảng “Giáo dục là sự nghiệp cách mạng của toàn dân, nhà trường là công cụ
của chuyên chính vô sản”
- Bất kì giai cấp nào cũng lấy môi trường nhà trường và môi trường giáo dục làm võ đài đấu tranh giai cấp.
Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra khó khăn nhất, âm thầm nhất và quyết liệt nhất không phải
là trên mặt trận quân sự mà trên mặt trận tư tưởng và văn hóa trong đó giáo dục là một trận
địa. Trong cuộc đấu tranh giai cấp thắng hay thua là trên mặt trận tư tưởng và văn hóa.
- Nếu nét đặc trưng của nền giáo dục của giai cấp bóc lột là tồn tại trong nó 2 loại nhà
trường, một loại nhà trường dành cho con em của giai cấp bóc lột, một loại nhà trường
dành cho con em của giai cấp bị bọc lột,phương pháp đào tạo là phương pháp truyền thụ
trực tiếp, cầm tay chỉ việc thì nét đặc trưng của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa là tồn tại
trong đó một loại nhà trường đó là nhà trường của toàn thể con em nhân dân lao động với
mục tiêu là đào tạo con em nhân dân lao động trở thành những con người phát triển toàn
diện, với nội dung giáo dục toàn diện và phương pháp đào tạo là phương pháp nhà trường.
- Nếu giai cấp bóc lột thực hiện một nền giáo dục phân biệt và bất bình đẳng thì giai cấp vô
sản lại thực hiện một nền giáo dục dân chủ và bình đẳng.
-Tính giai cấp của giáo dục là một tính quy luật của sự phát triển giáo dục.
-Tính giai cấp của giáo dục là một cơ sở khoa học của việc đổi mới giáo dục và đào tạo hiện
nay. Muốn đổi mới giáo dục và đào tạo thành công chúng ta phải căn cứ vào tính giai cấp
của giáo giáo dục, căn cứ vào yêu cầu đòi hỏi của Đảng về con người.
--Trong đổi mới phải căn cứ vào câu trả lời trên để xác định lại mục tiêu giáo dục và lấy
mục tiêu giáo dục làm cơ sở cho mọi hoạt động đổi mới giáo dục và đào tạo.
Tóm lại: Giáo dục là một phạm trù mang tính lịch sử và tính giai cấp. Tính lịch sử và tính
giai cấp của giáo dục là những tính quy luật của sự phát triển giáo dục và là những cơ sở
khoa học của việc đổi mới giáo dục và đào tạo.
Document Outline

  • 1.1.2.Tại sao hiện tượng giáo dục là hiện tượng xã hội đ
  • 1.1.3.Hiện tượng giáo dục có tính chất phổ biến:
  • 1.1.4.Hiện tượng giáo dục có tính chất vĩnh hằng:
  • 1.3.2. Tính lịch sử của giáo dục
  • 1.3.3. Tính giai cấp của giáo dục: