lOMoARcPSD| 22014077
Chương 2
HÀNG HÓA THỊ TRƯỜNG
VAI TRÒ CỦA CHỦ THỂ THAM GIA THỊ TRƯỜNG I.
THUỘC TÍNH CỦA HÀNG HÓA:
Khái niệm Hàng hóa: Hàng hóa là một sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn một nhu cầu
nào đó của con người thông qua trao đổi mua bán.
Dù khác nhau về hình thái tồn tại, song mọi thứ hàng hóa đều có hai thuộc tính là giá trị sử
sụng và giá trị.
a) Giá trị sử dụng:
Khái niệm: Giá trị sử dụng của hàng hóa công dụng của sản phẩm thể thỏa mãn
một hay một số nhu cầu nào đó của con người.
Ví dụ: Giá trị sử dụng của cơm là để ăn, của áo là để mặc, của máy móc, thiết bị, nguyên
nhiên vật liệu là để sản xuất…
Bất cứ một hàng hóa nào cũng có một hay một số công dụng nhất định có thể thỏa mãn
một hay một số nhu cầu nào đó của con người. Những công dụng đó được gọi là tính có ích
của hàng hóa.
Giá trị sử dụng của hàng hóa nội dung vật chất của của cải do thuộc tính tự
nhiên (lý, hóa học) của thực thể hàng hoá đó quyết định.
Giá trị sử dụng của hàng hóa là một phạm trù vĩnh viễn vì không phụ thuộc vào sự sự
thay đổi của phương thức sản xuất.
Theo đà phát triển của khoa học k thuật, con người ngày càng phát hiện thêm những
thuộc tính mới của sản phẩm phương pháp để lợi dụng chúng đó đó số lượng giá trị sử
dụng ngày càng nhiều, chất lượng ngày càng tốt.
Giá trị sử dụng chỉ được thực hiện khi được tiêu dùng hay sử dụng. Nếu hàng a
chưa được tiêu dùng thì giá trị sử dụng của chỉ dạng tiềm năng. Để giá trị sử dụng
dạng tiềm năng trở thành giá trị sử dụng hiện thực thì hàng hóa đó cn được tiêu dùng. b)
Giá trị
Khái niệm: Giá trị hàng hóa là nội dung bên trong của hàng hóa, nó được biểu hiện ra
bên ngoài bằng việc hai hàng hóa có thể trao đổi được với nhau, là cơ sở của giá trị trao đổi.
Ví dụ: Giá trị hàng hóa của đồng xu là giá trị của kim loại mà nó được tạo ra.
+ Giá trị của hàng hóa là do lao động xã hội (lao động trừu tượng) của người sản xuất hàng
hóa kết tinh trong hàng hóa.
+ Giá trị là cơ sở là nội dung của giá trị trao đổi. Chất của giá trị là lao động, nên sản phẩm
không chứa đựng lao động thì không giá trị. Sản phẩm chứa đựng nhiều lao động để tạo
ra thì giá trị cao. Lượng giá trị biểu hiện lượng lao động kết tinh trong hàng hóa. Lượng
lOMoARcPSD| 22014077
lao động kết tinh thay đổi dẫn đến giá trị trao đổi thay đổi. Giá trị trao đổi là hình thức biểu
hiện của giá trị.
+ Giá trị một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong nền kinh tế hàng hóa, sản xuất hàng
hóa thì mới có giá trị hàng hóa.
c. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa
Giá trị sử dụng và giá trị là hai thuộc tính vùa thống nhất, vùa mâu thuần với nha trong một
hàng hoá.
Mặt thống nhất:
Hai thuộc tính này cùng tồn tại trong một ng hóa. Một vật muốn trở thành hàng hóa thì
không thể thiếu bất kmột thuộc tính nào trong hai thuộc tính trên. Ta thể thấy một vật
có ích tức là có giá trị sử dụng nhưng không do lao động tạo ra tức là không có lao động
hội kết tinh trong đó thì không phải là hàng hóa, ví dụ như: không khí, ánh nắng mặt trời…
Mặt mâu thuẫn:
+ Thứ nhất, với cách một giá trị sử dụng thì các hàng hoá không đồng nhất về chất
mỗi hàng hóa có một công dụng khác nhau. Ngược lại, với tư cách là giá trị thì các hàng hoá
đồng nhất về chất, chúng đều là kết tinh của lao động, đều là lao động được vật hoá.
+ Thứ hai, tuy giá trị giá trị sử dụng cùng tồn tại trong một hàng a nhưng quá trình thực
hiện giá trị sử dụng giá trkhác nhau về thời gian không gian. Cụ thể giá trị được
thực hiện trước trong lĩnh vực lưu thông, còn giá trị được thực hiện sau, trong lĩnh vực tiêu
dùng. Nếu không thực hiện được giá trị hàng h(hàng hóa không bán được) thì không thực
hiện được giá trị sử dụng có thể dẫn đến khủng hoảng sản xuất “thừa”.
II. LƯỢNG GIÁ TRỊ VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIÁ TRỊ CỦA HÀNG HÓA:
Để đo lượng lao động hao phí (lượng giá trị của hàng hóa) đtạo ra hàng hóa người ta thường
dùng bằng thước đo thời gian.
dụ : Người thợ mộc tốn 6h để tạo ra sản phẩm, còn người thmay chỉ tốn 4h để tạo ra
sản phẩm (lượng lao động hao phí).
Tuy nhiên, không cần phải đơn vị thời gian bất kthời gian lao động hội cần
thiết. Trong thực tế, xét một loại hàng hóa đưa ra thị trường rất nhiều người cùng sản
xuất, nhưng mỗi người sản xuất có điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề khác nhau, nên thời
gian lao động cá biệt để sản xuất ra hàng hóa của mỗi người là khác nhau.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian đòi hỏi để sản xuất ra một giá trị sử dụng nào
đó trong điều kiện bình thường của hội với trình độ thành thạo ờng độ lao động
trung bình.
Thời gian lao động xã hội cần thiết được xác định thông qua giá cả thị trường
lOMoARcPSD| 22014077
Ví dụ : Các công ty may hiện nay thì thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra 1 cái
áo là 4h.
Vậy, lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa lượng thời gian tiêu hao phí lao động hội
cần thiết để sản xuất ra đon vị hàng hóa nào đó.
Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa
Những nhân tố nào ảnh hưởng tới lượng thời gian hao phí xã hội cần thiết để sản xuất ra một
đơn vị hàng hóa tất sảnh hưởng tới giá trị của hàng hóa. C.mác cho rằng, những nhân
tố sau:
1. Năng suất lao động:
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động, nó được tính bằng số ợng sản phẩm
trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản
phẩm. Nó phản ánh hiệu quả, kết quả lao động (thể hiện ở người, quốc gia, …)
Ví dụ : Ngày xưa áo quần may bằng tay, bây giờ áo quần may bằng máy (cho thấy ta có thể
phân biệt thời đại qua năng suất lao động)
Có hai lọai năng suất lao động: năng suất lao động cá biệt và năng suất lao động xã hội.
Trên thị trường, hàng hóa được trao đổi không theo giá trị biệt mà là giá trị hội. Vì vậy,
năng suất lao động hội ảnh hưởng đến giá trị hội của hàng hóa chính năng suất
lao động xã hội.
Lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa tỷ lệ thuận với số lượng lao động kết tinh (thời gian
lao động hội cần thiết) tlệ nghịch với năng suất lao động hội. Như vậy, muốn giảm
giá trị của mỗi đơn vị hàng hóa xuống (giảm thời gian lao động xã hội cần thiết) thì ta phải
tăng năng suất lao động xã hội.
2. Tính chất phức tạp hay đơn giản của lao động:
Lao động giản đơn: lao động không đòi hỏi quá trình đào tạo một cách hệ thống, chuyên
sâu về chuyên môn, kỹ năng, nghiệp vụ cũng có thể thao tác được.
Lao động phức tạp những hoạt động theo yêu cầu phải trải qua một quá trình đào tạo về
kỹ năng, nghiệp vụ theo yêu cầu của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
Tạo ra nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn.
Để tăng năng suất lao động thì ta có thể :Áp dụng kĩ thuật công nghệ mới; Nâng cao trình độ
người lao động; Tổ chức, quản lao động khoa học; Thay đổi điều kiện tự nhiên của sản
xuất
Ví dụ : Người nông dân cải tạo đất để nâng cao năng suất thu họach gạo (thay đổi điều kiện
tự nhiên của sản xuất)
lOMoARcPSD| 22014077
III. 5 CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA TIỀN TỆ:
Ngày nay khi nền kinh tế sản phẩm & hàng hóa tăng trưởng cao thì hầu hết những mối quan
hệ kinh tế- tài chính xã hội đều được tiền tệ hóa, mọi thể, tổ chức, cơ quan đều không
hề thoát ly khỏi những quan hệ tiền tệ. Trong toàn cảnh đó, tiền tệ trở thành công cụ quyền
lực tối cao vạn năng, xử lý và giải tỏa mối ràng buộc phát sinh trong nền kinh tế- tài chính-
xã hội không những phạm vi trong nước mà còn phạm vi quốc tế.
1. Thước đo giá trị:
Tiền được dùng để biểu hiện đo ờng giá trị của tất cả các hàng hóa khác nhau. Để đo
lường giá trọ của các hàng hóa, tiền tệ cũng phải giá trị. vậy để thực hiện chức năng
thước đo giá trị người ta ngầm hiểu đó là tiền vàng, do giữa giá trị của ng của hàng hóa
trong thực tế đã phản ánh lượng lao động xã hội hao phí nhất định.
Ví dụ:Ở Hoa Kthì tiêu chuẩn giá của 1 đồng đô la là hàm lượng vàng: 0,83333 gr, Ở nước
Pháp thì 1 đồng Franc hàm lượng vàng: 0,170000 gr
Khi tiền tệ được dùng là làm tiêu chuẩn giá cả sẽ hoàn toàn không giống với chức năng của
nó khi làm thước đo giá trị, cụ thể là:
+ Khi tiền tệ là thước đo giá trị thì dùng để đo lường về giá trị của hàng hóa khác
+ Khi tiền tệ tiêu chuẩn của giá cả thì tiền tệ dùng để đo lường bản thân của kim loại đ
làm tiền tệ.
2. Phương tiện lưu thông:
Tiền được dùng làm môi giới trong quy trình trao đổi hàng hoá. Để làm chức năng lưu thông
hàng hoá yên cầu phải tiền mặt. Quá trình trao đổi hàng hoá lấy tiền làm môi giới gọi là
lưu thông hàng hoá.
Công thức lưu thông hàng hoá là: H – T H. Trong đó H là hàng hóa, T là tiền mặt. Khi tiền
làm môi giới trong trao đổi hàng hoá đã làm cho hành vi bán và hành vi mua có thể tách rời
nhau cả về thời gian và không gian. Với việc không nhất trí giữa mua và bán vô tình gây ta
những nguy cơ của khủng hoảng kinh tế.
Ví dụ:
Ngày xưa Việt Nam lưu hành những đồng tiền m bằng nhôm. Để thuận tiện người ta đã
đục lỗ ở giữa đồng tiền để tiện lưu trữ và vẫn có giá trị lưu thông trong xã hội ngày đó.
Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. sở tình trạng y
tiền làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò trong chốc lát. Người ta đổi hàng lấy tiền rồi
lại dùng để mua hàng mình cần. Làm phương tiện lưu thông, tiền không nhất thiết
phải có đủ giá trị.
Lợi dụng tình hình đó, khi đúc tiền nhà nước tìm cách giảm bớt hàm lượng kim loại của đơn
vị tiền tệ. Giá trị thực của tiền đúc ngày càng thấp so với giá trị danh nghĩa của nó. Thực tiễn
lOMoARcPSD| 22014077
đó dẫn đến sự ra đời của tiền giấy. Bản thân tiền giấy không có giá trị mà chỉ là ký hiệu của
giá trị, do đó việc in tiền giấy phải tuân theo quy luật lưu thông tiền giấy.
3. Phương tiện cất giữ:
+ Khi tiền được rút khỏi lưu thông được cất giữ, theo đó tiền cần phải đủ về chức năng.
Do tiền đại biểu của cải hội với hình thái giá trị, như vậy cất giữ tiền cũng cất giữ
của cải.
+ Việc cất giữ sẽ làm cho tự phát sự thích ứng trong lưu thông với nhu cầu tiền cần thiết. khi
sản xuất tăng thì hàng hóa nhiều thì tiền cất trữ được bỏ ra để đảm bảo lưu thông ngược
lại.
Ví dụ: Người giàu ngày xưa haythói quen cất trữ vàng, bạc trong hũ, trong ơng. Ngày
nay cũng nhiều người thói quen cất trữ tiền trong ngân hàng. Việc làm y không đúng
vì tiền cất giữ phải là tiền có giá trị như tiền vàng, bạc.
4. Phương tiện thanh toán:
Thực tế, tiền được dùng trong chi trả mua hàng, trả nợ, nộp thuế,… Khi việc sản xuất, trao
đổi hàng hóa được phát triển ở mức độ nào đó nhất định thì sẽ hình thành việc mua bán chịu.
Theo đó, tiền tệ cũng làm chức năng đđịnh giá cả hàng hóa, nhưng khi đến k hạn của việc
mua bán chịu thanh toán thì khi đó mới làm phương tiện để thanh toán trong lưu thông.
Ví dụ: Hiện nay ngân hàng điều cho vay tín dụng. Bạn dễ dàng trở thành con nợ của ngân
hàng nếu tiêu xài không đúng cách.
5. Tiền tệ trên thế giới:
Khi trao đổi hàng hóa mở rộng ra ngoài biên giới quốc gia, tiền làm chức năng tiền tệ thế
giới, được dùng làm phương tiện mua bán, thanh toán quốc tế giữa các nước với nhau.
Để thực hiện chức năng y, tiền phải đủ giá trị, tiền phảitiền vàng hoặc những đồng
tiền được công nhận là đồng tiền thanh toán quốc tế.
Ví dụ: Hiện nay ngành du lịch tăng trưởng, mọi người thuận tiện du lịch quốc tế. Khi đi du
lịch bạn cần đổi tiền tệ của mình sang tiền tệ nước bạn. giá hối đoái dự vào nền kinh tế
tài chính của những nước nên có giá trị khác nhau. Hiện tại 1 usd = 23.000 VNĐ
IV. KHUYẾT TẬT CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG:
Thứ nhất, xét trên phạm vi toàn bộ nền sản xuất hội, nền kinh tế thị trường luôn
tiềm ẩn những rủi ro khủng hoảng trong nền Kinh tế thị trường, cơ chế thị trường không
phải lúc nào cũng tạo ra sự cân đối về giá cả sản lượng hàng hóa. Thị trường vốn rất
nhạy cảm, khó dự đoán chính xác, nên khi xảy ra các biến cố như : chiến tranh, dịch bệnh,
thiên tai hay cấm vận… đều có thể là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng thị trường.
lOMoARcPSD| 22014077
dụ: trước kia, ngành hàng không tăng trưởng rất tốt, do quá trình hội nhập của chúng ta
ngày cảng thuận lợi. Nhưng , khi dịch bệnh covid xảy ra, cả nước đóng cửa chống dịch, mọi
hoạt động giao thương, vận chuyển ng hóa, du lịch … bị đóng băng->Ngành dịch vụ hàng
không lâm vào khủng hoảng nặng nề, thua lỗ hàng nghìn tỷ đồng.
hay như: cuộc chiến tranh giữa Nga và Ucraina, làm ảnh hưởng đến nguồn cung khí đốt
xăng dầu. Nguồn cung khan hiếm,giá xăng dầu tăng chóng mặt, gây ra khủng hoảng năng
lượng các nước nhập khẩu xăng dầu, các doanh nghiệp trực tiếp sử dụng nguồn năng
lượng này.
Ban đầu, khủng hoảng diễn ra cục bộ đối với một hoặc số loại hàng hóa, sau diễn ra trên
phạm vi tổng thể nền kinh tế. Nền kinh tế thị trường không thể tự khắc phục được những rủi
ro tiềm ẩn y, bởi chúng ta cũng không thể dự báo chính xác thời điểm dịch bệnh covid
cũng như chiến tranh sẽ xảy ra khi nào..
Thứ hai, nền kinh tế thị trường không thể khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài nguyên
không thể tái tạo, suy thoái môi trường tự nhiên, môi trường xã hội
Các chủ thể trong nền kinh tế thị trường với mục đích là tối đa hóa lợi nhuận, vì lợi ích trước
mắt mang nh nhân nên thể khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên, y suy thoái môi
trường tự nhiên. Không những thế cũng mục tiêu lợi nhuận, các chủ thể sản xuất kinh
doanh, các cán bộ chạy theo lợi ích cá nhân, gây tham ô, tham nhũng gây ra sự sói mòn đạo
đức kinh doanh, thậm chí đạo đức xã hội.
Ví dụ: Thực tếViệt Nam thì đã có không ít sự vụ khai thác cạn kiệt tài nguyên cũng y
suy thoái môi trường trầm trọng, như: c vụ khai thác cát trộm lòng sông Hồng hay các
vụ khai thác than trái phép ở Quảng Ninh. Đặc biệt nghiêm trọng, là các vụ gây ô nhiễm môi
trường sinh thái của Công ty vedan gây ô nhiễm sông Thị Vải năm 2008 ; Công ty Formusa
Hà Tĩnh gây ô nhiễm biển « cá chết hàng loạt » năm 2016… Nguyên nhân của các vụ gây ô
nhiễm y, lợi ích cá nhân doanh nghiệp, không muốn đầu , xử chất thải trước khi
đẩy ra môi trường. Đây mặt trái mang tính khuyết tật của kinh tế thị trường ảnh hưởng
đến môi trường tự nhiên.
Nhìn chung, kinh tế thị trường có thể gây ra những suy thoái về môi trường tự nhiên lẫn môi
trường hội. Tự bản thân nền kinh tế thị trường thì không thể tự khắc phục được các khuyết
tật này. Cho nên, chính phủ cần can thiệp vào nền kinh tế bằng những thể chế để hạn khuyết
tật của kinh tế thị thị trường.
Thứ Ba, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa sâu sắc trong
xã hội
Trong nền kinh tế thị trường, hiện tượng phân hóa hội về thu nhập, về hội là tất yếu.
Bản thân nền kinh tế thị trường không thể tự khắc phục được khía cạnh phân hóa có xu
hướng sâu sắc. Với loaij hình tham gia thị trường cộng với tác động của cạnh tranh mà dẫn
đến sự phân hóa như một tất yếu.
lOMoARcPSD| 22014077
dụ: trong thị trường lao động, việc cạnh tranh giữa các sinh viên khi ra trường để m
kiếm một hội công việc tốt, thu nhập cao khả năng thăng tiến tất yếu. Kết qu
của quá trình cạnh tranh này thể sẽ phân hóa thành người lao động thu nhập cao
người lao động có thu nhập thấp. Sự phân hóa này là tất yếu, và bản thân kinh tế thị trường
không thể tự khắc phục được. Tuy nhiên, nếu sphân hóa này trở nên thái quá, tức khoảng
cách chênh lệch giàu nghèo ngày càng tăng thì có thể dẫn đến căng thẳng về mặt xã hội, đấu
tranh giai cấp xuất hiện. Do vậy, chính phủ phải can thiệp bằng nhiều chính sách để điều a
mâu thuẫn lợi ích kinh tế như : chính sách thuế thu nhập cá nhân- trợ cấp an sinh xã hội- bảo
hiểm xã hội … để ổn định tình hình kinh tế - xã hội.
Tóm lại kinh tế thị trường bên cạnh những ưu điểm còn có những khuyết tật. Vì thế, để khắc
phục cần có sự can thiệp của nhà nước để hạn chế những khuyết tật của thị trường, đảm bảo
cho thị trường vận động hiệu quả ổn định, tối đa hóa lợi ích của các chủ thể kinh tế
của toàn hội. Khi đó nền kinh tế được gọi kinh tế thị trường sự điều tiết của nhà
nước hay nền kinh tế hỗn hợp.
V. MỘT SỐ QUY LUẬT KINH TẾ CHỦ YẾU CỦA THỊ TRƯỜNG:
1. Quy luật giá trị:
Quy luật gtrị quy luật kinh tế căn bản trong sản xuất lưu thông hàng hoá, đâu
sản xuất và lưu thông hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại của quy luật giá trị.
Về nội dung: Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên hao phí lao
động xã hội cần thiết
Trong sản xuất, người tiến hành sản xuất phải sự hao phí sức lao động biệt của mình
nhỏ hơn hoặc bằng với mức hao phí sức lao động hội cần thiết, thì mới đạt được lợi thế
trong cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh là những lợi thế giúp người sản xuất đó có thể có ưu thế
hơn so với những người sản xuất khác.
dụ: Để sản xuất ra một cái áo, người sản xuất A phải tốn chi phí lao động biệt 5$/
sản phẩm. Tuy nhiên, hao phí lao động xã hội tức là mức hao phí lao động trung bình mà xã
hội chấp nhận chỉ 4$/ sản phẩm. Như vậy, nếu bán ra thị trường theo mức hao phí lao
động cá biệt là 5$ thì người sản xuất A không bán được hàng, quy sản xuất bị thu hẹp.
Trong trao đổi, phải tiến hành theo nguyên tắc ngang giá, lấy giá trị xã hội làm cơ sở, không
dựa trên giá trị cá biệt
Ví dụ: Một cái áo có giá trị xã hội là 4$, trong trường hợp cung bằng cầu thì nhà sản xuất sẽ
bán cái áo theo đúng giá trị của nó, tức là lúc đó giá cả của cái áo= giá trị cái áo = 4$. Trong
trường hợp cung > cầu, tức sản xuất thừa, buộc nhà sản xuất phải giảm giá cả cái áo
xuống còn 3$, khi đó giá cả hàng hóa < giá trị. Ngược lại, trong trường hợp cung < cầu, tức
là hàng hóa khan hiếm thì giá cả sẽ cao hơn giá trị.
Như vậy, với chế hoạt động tác động của quy luật giá trị thì giá cả thị trường xoay
quanh giá trị dưới tác động của quan hệ cung cầu.
Trong nền kinh tế hàng hóa, quy luật giá trị có những tác động cơ bản sau;
lOMoARcPSD| 22014077
Thứ nhất, hỗ trợ điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá trên thị trường
Điều tiết quá trình sản xuất tức điều khiển phân bố yếu tố sản xuất giữa các ngành
các lĩnh vực khác nhau sao cho cân bằng.
Nếu Cung < Cầu: thì giá cả lớn hơn giá trị, hàng hoá sản xuất ra n nhanh và mang về
lợi nhuận. Nếu giá cả cao hơn giá trị thì sẽ phải đẩy mạnh và mở rộng sản xuất để tăng cung.
Ngược lại cầu giảm thì giá trị sản phẩm theo đó cũng giảm dần.
Nếu Cung > Cầu: thì hàng hóa được sản xuất ra quá nhiều so với nhu cầu sử dụng thực
tế của thị trường thì giá cả sẽ thấp hơn giá trị. Dẫn đến hàng hoá khó bán và không mang về
lợi nhuận. Chính vậy buộc phải giảm hoặc ngừng sản xuất, nếu giá cả giảm thì nhu cầu
mua sẽ tăng trở lại.
Nếu Cung = Cầu: là khi giá cả bằng với giá trị. Khi đó người ta gọi là nền kinh tế “bão
hoà”.
Ví dụ : trong bối cảnh dịch bệnh Covid, do tình trạng khan hiếm khẩu trang y tế nên giá cả
khẩu trang tăng lên nhanh chóng. Điều này đã hấp dẫn nhiều nhà máy may chuyển đổi
phương thức sản xuất tsản xuất quần áo sang sản xuất khẩu trang y tế. Việt Nam không
những đáp ứng nhu cầu khẩu trang trong nước mà còn xuất khẩu ra nhiều nước khác trên thế
giới.
Đối với điều tiết lưu thông: Khi giá cả thị trường biến động, quy luật giá trị tác động đưa
hàng hóa từ nơi giá cả thấp sang nơi giá cả cao, từ nơi cung lớn hơn cầu đến nơi
cung nhỏ hơn cầu. Quy luật giúp cho phân phối nguồn hàng một cách hợp lý giữa các vùng,
các khu vực với nhau.
dụ: Tại Hải ơng vào dịp hè lượng vải thiều rất dồi dào nhưng nếu chỉ bán địa phương
thì sẽ không thu được lợi nhuận cao vì giá thấp do cung lớn hơn cầu. Do đó, tiểu thương và
người nông dân xu hướng vận chuyển vải thiều đến các tỉnh thành khác, các quốc gia
khác có cung vải thiều nhỏ hơn cầu để bán được giá cao hơn, thu về lợi nhuận lớn hơn.
Thứ hai, kích thích cải tiến kĩ thuật, hợp lý hóa sản xuất nhằm tăng năng suất lao động
Trên thị trường, hàng hóa được trao đổi theo qtrình xã hội. Người sản xuất nào có hao phí
lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động của xã hội sẽ thu về lãi cao. Ngược lại người sản
xuất có hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội sẽ thua lỗ.
Thế nên, được lợi thế cạnh tranh tránh được nguy phá sản, vỡ nợ thì buộc họ phải
hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình sao cho nhỏ hơn hoặc bằng với hao phí lao động
hội cần. Để được như vậy, nhà sản xuất cần phải dùng đến những biện pháp tối ưu hoá
chi phí sản xuất. Đồng thời áp dụng khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất để cải thiện
năng suất lao động mà mang về cho mình lợi thế cạnh tranh.
dụ: Trong lĩnh vực kinh doanh điện thoại di động, để hạ thấp hao phí lao động biệt,
các hãng điện thoại không ngừng đổi mới công nghệ, cải tiến k thuật, đổi mới phương thức
lOMoARcPSD| 22014077
quản lý… Điều này đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển, giá thành sản phẩm điện thoại
ngày càng rẻ hơn, chất lượng, tính năng vượt trội hơn. Hơn nữa, ngoài việc đổi mới kthuật,
công nghệ sản xuất, dịch vụ chăm sóc, hậu mãi khách hàng cũng ngày càng tốt hơn.
Thứ ba, phân hóa những người sản xuất thành những người giàu, người nghèo một
cách tự nhiên
Trong quá trình cạnh tranh, những người sản xuất nhạy bén với thị trường, trình độ năng lực
giỏi, sản xuất với hao phí cá biệt thấp hơn mức hao phí chúng của xã hội sẽ trở nên giau có.
Ngược lại, những người do hạn chế về vốn, kinh nghiệm sản xuất thấp kém, trình độ công
nghệ lạc hậu.. thì giá trị cá biệt sẽ cao hơn giá trị xã hội và dễ m vào tình trạng thua lỗ, phá
sản, thậm chí phải đi làm thuê.
Trong nền kinh tế thị trường thuần túy, chạy theo lợi ích nhân, đầu gian lận, khủng
hoảng kinh tế là những yếu tố có thể làm tăng thêm tác động phân hóa sản xuất cùng những
tiêu cực về kinh tế xã hội khác.
Tóm lại quy luật giá trị vừa có tác dụng đào thải lạc hậu lỗi thời, kích thích sự tiến bộ, làm cho
lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ; vừa có tác dụng lựa chọn , đánh giá người sản xuất,
đảm bảo bình đẳng đối với người sản xuất; vừa có cả tác động tích cực lẫn tiêu cực. Vì vậy
cần có sự điều tiết của nhà nước để hạn chế tiêu cực, thúc đẩy tác động tích cực.
2. Quy luật cạnh tranh:
-Quy luật cạnh tranh quy luật kinh tế điều tiết khách quan mối quan hệ ganh đua kinh tế
giữa chủ thể sản xuất và trao đổi hàng hóa. Quy luật cạnh tranh yêu cầu, khi đã tham gia thị
trường, các chủ thể sản xuất kinh doanh bên cạnh sự hợp tác luôn phải chấp nhận cạnh tranh.
-Kinh tế thị trường càng phát triển thì cạnh tranh trên thị trường cành trở nên thường xuyên,
quyết liệt hơn. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh có thể diễn ra giữa các chủ thể thuộc
các ngành khác nhau
- Mục đích của cạnh tranh trong kinh tế: Tối đa hoá lợi nhuận; Sự tăng trưởng trong kinh
doanh của chủ thể.
- Điều kiện tiên quyết đcạnh tranh: Phải ít nhất hai chủ thể tham gia cạnh tranh;Sự
giành được lợi thế cạnh tranh của người này dẫn đến bất lợi tương ứng đối với người kia và
ngược lại
- Phương tiện cạnh tranh: Giá cả Chất lượng Dịch vụ Quảng cáo
Ví dụ:1. Bên bán luôn muốn bán sản phẩm với giá cao nhất, còn bên mua luôn giá rẻ hơn, 2
bên đều muốn cạnh tranh để mình có lợi nhất.
2.Người bán Táo Lê cạnh tranh với nhau vgiá để bán được nhiều, nhanh nhất thể.
Xét trên cùng công năng Táo Lê đều 2 loại trái câygiá trị sử dụng ngang nhau (bỏ
qua yếu tố sở thích, chất lượng) thì ai bán giá rẻ hơn thì sẽ bán được nhanh hơn.
3.Cửa hàng A và B đều bán quần áo thời trang cho giới trẻ. Cửa hàng A chuyên nhập
hàng sản xuất Việt Nam mẫu không mới, không cập nhật xu ớng như cửa hàng B
chuyên lấy sỉ tại các trang mạng của Trung Quốc. Theo thời gian, cửa hàng B luôn bán
lOMoARcPSD| 22014077
hàng được nhiều hơn, cửa hàng A thua lỗ phải đóng cửa - Phân loại theo phạm vi nền
kinh tế cạnh tranh:
Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng hoạt động trong
một lĩnh vực, một ngành kinh tế, cùng sản xuất ra một sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ. Quy
luật cạnh tranh này sẽ giúp cho k thuật phát triển.
Cạnh tranh giữa các ngành sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nhiều ngành kinh
tế khác nhau nhằm thu về mức lợi nhuận cao nhất. Quá trình cạnh tranh y có sự phân bổ
vốn đầu hoàn toàn tự nhiên giữa các ngành kinh tế với nhau. Kết quả thu được hình
thành nên t suất lợi nhuận bình quân đáng kể.
-Tác động của cạnh tranh trong nền kinh tế thj trường:
Tác động tích cực:
Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất: trong nền kinh tế thị trường các chủ thể không
ngừng m kiếm, cải thiện các ng dụng, vận dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hệ thống
dây chuyền sản xuất, đồng thời nâng cao tay nghề cho người lao động nhằm hướng đến kết
quả thúc đẩy sự phát triển của lực lượng xã hội.
Ví dụ: Sự cạnh tranh giữa các hãng Tivi như Sony, Samsung, LG, TCL, Panasonic,… Để
thể chiếm lĩnh thị trường và trở thành lựa chọn ưu tiên của người tiêu dùng thì bắt buộc các
nhãn hàng tivi cần nghiên cứu, phát triển thêm nhiều tính năng, thay đổi thiết kế mẫu mã đẹp
mắt, hỗ trợ chính sách bảo hành,…
Thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường: Mọi hoạt động giữa các chủ thể trong thị
trường đều nhằm mục đích lợi nhuận tối đa, vậy ngoài hợp tác, họ cũng phải cạnh tranh
với nhau để những điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh để thu lợi nhuận cao
nhất.
chế điều chỉnh linh hoạt việc phân bổ nguồn lực: Cách chủ thể cần phải cạnh tranh với
nhau nhằm tiếp cận với nguồn nhân lực như tại nguyên, công nghệ, vốn, nguồn lao động.
Với quy luật cạnh tranh, nguồn nhân lực trên thị trường sẽ được phân bổ một cách linh hoạt
hơn.
dụ: Khi xảy ra cạnh tranh về nguồn lực lao động, các doanh nghiệp sẽ cân nhắc để đưa
ra các mức lương, thưởng, chế độ phúc lợi,… Nhằm thu hút về mình lượng lao động có trình
độ, chất xám về làm việc cho doanh nghiệp.
Thúc đẩy năng lực thỏa mãn nhu cầu xã hội: Trong một nền kinh tế thị trường như hiện nay,
sự tồn tại phát triển của doanh nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào quyền quyết định của
người tiêu dùng. Do đó, muốn chiếm lĩnh toàn bộ thị trường cũng như thu về lợi nhuận thì
các doanh nghiệp bắt buộc phải cạnh tranh không ngừng để mở rộng thị phần. Muốn m
được như vậy, các doanh nghiệp phải tạo ra khối sản phẩm phong phú, chất lượng tốt, giá
thành thấp thì mới có thể đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đông đảo của xã hội.
Ví dụ: Cạnh tranh ở các công ty du lịch ở Việt Nam, trong quá trình cạnh tranh để mở rộng
thị trường, bắt buộc các công ty du lịch phải đa dạng hóa sn phẩm du lịch của mình để tạo
ra những sản phẩm, dịch vụ phù hợp với mọi đối tượng khách hàng khác.
lOMoARcPSD| 22014077
Tác động tiêu cực:
Gây tổn hại môi trường kinh doanh: Nhiều doanh nghiệp vì muốn đạt được lợi nhuận cao đã
không từ những thủ đoạn xấu xa để có được như thực hiện những hành vi lừa đảo, trốn thuế,
buôn bán ng giả, ăn cắp bản quyền, tung tin đồn thất thiệt để hạ uy tín đối thủ. Những hành
vi vi phạm đạo đức này gây tổn hại môi trường kinh doanh, xói mòn đạo đức giá trị hội
dẫn đến vi phạm pháp luật.
Gây lãng phí nguồn nhân lực xã hội: Cạnh tranh không lành mạnh gây ra những lãng phí về
nguồn lực hội nó có thể chiếm giữ nguồn lực không đưa vào sản xuất kinh doanh. Thậm
chí còn ép giá đối thủ, không cho đối thủ sản xuất.
dụ: m vừa qua đại dịch covid-19 ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người dân.
Những thời gian đầu dịch nhiều người thường nhân cơ hội tích trữ khẩu trang, sau khi dịch
bệnh ng phát Việt Nam lúc đó họ tung khẩu trang ra thị trường bán với giá cao nhằm
thu lợi nhuận.
Gây tổn hại phúc lợi hội: Khi các nguồn nhân lực bị lãng phí, không được sử dụng hiệu
quả, xã hội có ít cơ hội chọn để thỏa mãn nhu cầu. Phúc lợi xã hội bỉ giảm bớt.
Đây là quy luật khách quan trong nền kinh tế thị trường, đòi hỏi chủ thể kinh tế phải sẵn sàng
thích ứng mới có thể tồn tại và phát triển.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 22014077 Chương 2
HÀNG HÓA – THỊ TRƯỜNG
VÀ VAI TRÒ CỦA CHỦ THỂ THAM GIA THỊ TRƯỜNG I.
THUỘC TÍNH CỦA HÀNG HÓA:
Khái niệm Hàng hóa: Hàng hóa là một sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn một nhu cầu
nào đó của con người thông qua trao đổi mua – bán.
Dù khác nhau về hình thái tồn tại, song mọi thứ hàng hóa đều có hai thuộc tính là giá trị sử sụng và giá trị.
a) Giá trị sử dụng:
Khái niệm: Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của sản phẩm có thể thỏa mãn
một hay một số nhu cầu nào đó của con người.
Ví dụ: Giá trị sử dụng của cơm là để ăn, của áo là để mặc, của máy móc, thiết bị, nguyên
nhiên vật liệu là để sản xuất… –
Bất cứ một hàng hóa nào cũng có một hay một số công dụng nhất định có thể thỏa mãn
một hay một số nhu cầu nào đó của con người. Những công dụng đó được gọi là tính có ích của hàng hóa. –
Giá trị sử dụng của hàng hóa là nội dung vật chất của của cải vì nó do thuộc tính tự
nhiên (lý, hóa học) của thực thể hàng hoá đó quyết định. –
Giá trị sử dụng của hàng hóa là một phạm trù vĩnh viễn vì không phụ thuộc vào sự sự
thay đổi của phương thức sản xuất. –
Theo đà phát triển của khoa học kỹ thuật, con người ngày càng phát hiện thêm những
thuộc tính mới của sản phẩm và phương pháp để lợi dụng chúng đó đó số lượng giá trị sử
dụng ngày càng nhiều, chất lượng ngày càng tốt. –
Giá trị sử dụng chỉ được thực hiện khi nó được tiêu dùng hay sử dụng. Nếu hàng hóa
chưa được tiêu dùng thì giá trị sử dụng của nó chỉ ở dạng tiềm năng. Để giá trị sử dụng ở
dạng tiềm năng trở thành giá trị sử dụng hiện thực thì hàng hóa đó cần được tiêu dùng. b) Giá trị
Khái niệm: Giá trị hàng hóa là nội dung bên trong của hàng hóa, nó được biểu hiện ra
bên ngoài bằng việc hai hàng hóa có thể trao đổi được với nhau, là cơ sở của giá trị trao đổi.
Ví dụ: Giá trị hàng hóa của đồng xu là giá trị của kim loại mà nó được tạo ra.
+ Giá trị của hàng hóa là do lao động xã hội (lao động trừu tượng) của người sản xuất hàng
hóa kết tinh trong hàng hóa.
+ Giá trị là cơ sở là nội dung của giá trị trao đổi. Chất của giá trị là lao động, nên sản phẩm
không chứa đựng lao động thì không có giá trị. Sản phẩm chứa đựng nhiều lao động để tạo
ra thì có giá trị cao. Lượng giá trị là biểu hiện lượng lao động kết tinh trong hàng hóa. Lượng lOMoAR cPSD| 22014077
lao động kết tinh thay đổi dẫn đến giá trị trao đổi thay đổi. Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị.
+ Giá trị là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong nền kinh tế hàng hóa, có sản xuất hàng
hóa thì mới có giá trị hàng hóa.
c. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa
Giá trị sử dụng và giá trị là hai thuộc tính vùa thống nhất, vùa mâu thuần với nha trong một hàng hoá.
– Mặt thống nhất:
Hai thuộc tính này cùng tồn tại trong một hàng hóa. Một vật muốn trở thành hàng hóa thì
không thể thiếu bất kỳ một thuộc tính nào trong hai thuộc tính trên. Ta có thể thấy một vật
có ích tức là có giá trị sử dụng nhưng không do lao động tạo ra tức là không có lao động xã
hội kết tinh trong đó thì không phải là hàng hóa, ví dụ như: không khí, ánh nắng mặt trời…
– Mặt mâu thuẫn:
+ Thứ nhất, với tư cách là một giá trị sử dụng thì các hàng hoá không đồng nhất về chất vì
mỗi hàng hóa có một công dụng khác nhau. Ngược lại, với tư cách là giá trị thì các hàng hoá
đồng nhất về chất, chúng đều là kết tinh của lao động, đều là lao động được vật hoá.
+ Thứ hai, tuy giá trị và giá trị sử dụng cùng tồn tại trong một hàng hóa nhưng quá trình thực
hiện giá trị sử dụng và giá trị khác nhau về thời gian và không gian. Cụ thể là giá trị được
thực hiện trước trong lĩnh vực lưu thông, còn giá trị được thực hiện sau, trong lĩnh vực tiêu
dùng. Nếu không thực hiện được giá trị hàng hoá (hàng hóa không bán được) thì không thực
hiện được giá trị sử dụng có thể dẫn đến khủng hoảng sản xuất “thừa”. II.
LƯỢNG GIÁ TRỊ VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIÁ TRỊ CỦA HÀNG HÓA:
Để đo lượng lao động hao phí (lượng giá trị của hàng hóa) để tạo ra hàng hóa người ta thường
dùng bằng thước đo thời gian.
Ví dụ : Người thợ mộc tốn 6h để tạo ra sản phẩm, còn người thợ may chỉ tốn 4h để tạo ra
sản phẩm (lượng lao động hao phí).
Tuy nhiên, không cần phải là đơn vị thời gian bất kỳ mà là thời gian lao động xã hội cần
thiết. Trong thực tế, xét một loại hàng hóa đưa ra thị trường có rất nhiều người cùng sản
xuất, nhưng mỗi người sản xuất có điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề khác nhau, nên thời
gian lao động cá biệt để sản xuất ra hàng hóa của mỗi người là khác nhau.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian đòi hỏi để sản xuất ra một giá trị sử dụng nào
đó trong điều kiện bình thường của xã hội với trình độ thành thạo và cường độ lao động trung bình.
Thời gian lao động xã hội cần thiết được xác định thông qua giá cả thị trường lOMoAR cPSD| 22014077
Ví dụ : Các công ty may hiện nay thì thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra 1 cái áo là 4h.
Vậy, lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa là lượng thời gian tiêu hao phí lao động xã hội
cần thiết để sản xuất ra đon vị hàng hóa nào đó.
Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa
Những nhân tố nào ảnh hưởng tới lượng thời gian hao phí xã hội cần thiết để sản xuất ra một
đơn vị hàng hóa tất sẽ ảnh hưởng tới giá trị của hàng hóa. C.mác cho rằng, có những nhân tố sau:
1. Năng suất lao động:
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động, nó được tính bằng số lượng sản phẩm
trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản
phẩm. Nó phản ánh hiệu quả, kết quả lao động (thể hiện ở người, quốc gia, …)
Ví dụ : Ngày xưa áo quần may bằng tay, bây giờ áo quần may bằng máy (cho thấy ta có thể
phân biệt thời đại qua năng suất lao động)
Có hai lọai năng suất lao động: năng suất lao động cá biệt và năng suất lao động xã hội.
Trên thị trường, hàng hóa được trao đổi không theo giá trị cá biệt mà là giá trị xã hội. Vì vậy,
năng suất lao động xã hội có ảnh hưởng đến giá trị xã hội của hàng hóa chính là năng suất lao động xã hội.
Lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa tỷ lệ thuận với số lượng lao động kết tinh (thời gian
lao động xã hội cần thiết) và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động xã hội. Như vậy, muốn giảm
giá trị của mỗi đơn vị hàng hóa xuống (giảm thời gian lao động xã hội cần thiết) thì ta phải
tăng năng suất lao động xã hội.
2. Tính chất phức tạp hay đơn giản của lao động:
Lao động giản đơn: là lao động không đòi hỏi có quá trình đào tạo một cách hệ thống, chuyên
sâu về chuyên môn, kỹ năng, nghiệp vụ cũng có thể thao tác được.
Lao động phức tạp là những hoạt động theo yêu cầu phải trải qua một quá trình đào tạo về
kỹ năng, nghiệp vụ theo yêu cầu của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
Tạo ra nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn.
Để tăng năng suất lao động thì ta có thể :Áp dụng kĩ thuật công nghệ mới; Nâng cao trình độ
người lao động; Tổ chức, quản lý lao động khoa học; Thay đổi điều kiện tự nhiên của sản xuất
Ví dụ : Người nông dân cải tạo đất để nâng cao năng suất thu họach gạo (thay đổi điều kiện
tự nhiên của sản xuất) lOMoAR cPSD| 22014077 III.
5 CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA TIỀN TỆ:
Ngày nay khi nền kinh tế sản phẩm & hàng hóa tăng trưởng cao thì hầu hết những mối quan
hệ kinh tế- tài chính – xã hội đều được tiền tệ hóa, mọi cá thể, tổ chức, cơ quan … đều không
hề thoát ly khỏi những quan hệ tiền tệ. Trong toàn cảnh đó, tiền tệ trở thành công cụ có quyền
lực tối cao vạn năng, xử lý và giải tỏa mối ràng buộc phát sinh trong nền kinh tế- tài chính-
xã hội không những phạm vi trong nước mà còn phạm vi quốc tế.
1. Thước đo giá trị:
Tiền được dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của tất cả các hàng hóa khác nhau. Để đo
lường giá trọ của các hàng hóa, tiền tệ cũng phải có giá trị. Vì vậy để thực hiện chức năng
thước đo giá trị người ta ngầm hiểu đó là tiền vàng, do giữa giá trị của vàng và của hàng hóa
trong thực tế đã phản ánh lượng lao động xã hội hao phí nhất định.
Ví dụ:Ở Hoa Kỳ thì tiêu chuẩn giá của 1 đồng đô la là hàm lượng vàng: 0,83333 gr, Ở nước
Pháp thì 1 đồng Franc hàm lượng vàng: 0,170000 gr
Khi tiền tệ được dùng là làm tiêu chuẩn giá cả sẽ hoàn toàn không giống với chức năng của
nó khi làm thước đo giá trị, cụ thể là:
+ Khi tiền tệ là thước đo giá trị thì dùng để đo lường về giá trị của hàng hóa khác
+ Khi tiền tệ là tiêu chuẩn của giá cả thì tiền tệ dùng để đo lường bản thân của kim loại để làm tiền tệ.
2. Phương tiện lưu thông:
Tiền được dùng làm môi giới trong quy trình trao đổi hàng hoá. Để làm chức năng lưu thông
hàng hoá yên cầu phải có tiền mặt. Quá trình trao đổi hàng hoá lấy tiền làm môi giới gọi là lưu thông hàng hoá.
Công thức lưu thông hàng hoá là: H – T – H. Trong đó H là hàng hóa, T là tiền mặt. Khi tiền
làm môi giới trong trao đổi hàng hoá đã làm cho hành vi bán và hành vi mua có thể tách rời
nhau cả về thời gian và không gian. Với việc không nhất trí giữa mua và bán vô tình gây ta
những nguy cơ của khủng hoảng kinh tế. Ví dụ:
Ngày xưa Việt Nam lưu hành những đồng tiền làm bằng nhôm. Để thuận tiện người ta đã
đục lỗ ở giữa đồng tiền để tiện lưu trữ và vẫn có giá trị lưu thông trong xã hội ngày đó.
Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. sở dĩ có tình trạng này vì
tiền làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò trong chốc lát. Người ta đổi hàng lấy tiền rồi
lại dùng nó để mua hàng mà mình cần. Làm phương tiện lưu thông, tiền không nhất thiết phải có đủ giá trị.
Lợi dụng tình hình đó, khi đúc tiền nhà nước tìm cách giảm bớt hàm lượng kim loại của đơn
vị tiền tệ. Giá trị thực của tiền đúc ngày càng thấp so với giá trị danh nghĩa của nó. Thực tiễn lOMoAR cPSD| 22014077
đó dẫn đến sự ra đời của tiền giấy. Bản thân tiền giấy không có giá trị mà chỉ là ký hiệu của
giá trị, do đó việc in tiền giấy phải tuân theo quy luật lưu thông tiền giấy.
3. Phương tiện cất giữ:
+ Khi tiền được rút khỏi lưu thông và được cất giữ, theo đó tiền cần phải có đủ về chức năng.
Do tiền là đại biểu của cải xã hội với hình thái giá trị, như vậy cất giữ tiền cũng là cất giữ của cải.
+ Việc cất giữ sẽ làm cho tự phát sự thích ứng trong lưu thông với nhu cầu tiền cần thiết. khi
sản xuất tăng thì hàng hóa nhiều thì tiền cất trữ được bỏ ra để đảm bảo lưu thông và ngược lại.
Ví dụ: Người giàu ngày xưa hay có thói quen cất trữ vàng, bạc trong hũ, trong rương. Ngày
nay cũng có nhiều người có thói quen cất trữ tiền trong ngân hàng. Việc làm này không đúng
vì tiền cất giữ phải là tiền có giá trị như tiền vàng, bạc.
4. Phương tiện thanh toán:
Thực tế, tiền được dùng trong chi trả mua hàng, trả nợ, nộp thuế,… Khi việc sản xuất, trao
đổi hàng hóa được phát triển ở mức độ nào đó nhất định thì sẽ hình thành việc mua bán chịu.
Theo đó, tiền tệ cũng làm chức năng để định giá cả hàng hóa, nhưng khi đến kỳ hạn của việc
mua bán chịu thanh toán thì khi đó mới làm phương tiện để thanh toán trong lưu thông.
Ví dụ: Hiện nay ngân hàng điều cho vay tín dụng. Bạn dễ dàng trở thành con nợ của ngân
hàng nếu tiêu xài không đúng cách.
5. Tiền tệ trên thế giới:
Khi trao đổi hàng hóa mở rộng ra ngoài biên giới quốc gia, tiền làm chức năng tiền tệ thế
giới, được dùng làm phương tiện mua bán, thanh toán quốc tế giữa các nước với nhau.
Để thực hiện chức năng này, tiền phải có đủ giá trị, tiền phải là tiền vàng hoặc những đồng
tiền được công nhận là đồng tiền thanh toán quốc tế.
Ví dụ: Hiện nay ngành du lịch tăng trưởng, mọi người thuận tiện du lịch quốc tế. Khi đi du
lịch bạn cần đổi tiền tệ của mình sang tiền tệ nước bạn. Tý giá hối đoái dự vào nền kinh tế
tài chính của những nước nên có giá trị khác nhau. Hiện tại 1 usd = 23.000 VNĐ … IV.
KHUYẾT TẬT CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG:
Thứ nhất, xét trên phạm vi toàn bộ nền sản xuất xã hội, nền kinh tế thị trường luôn
tiềm ẩn những rủi ro khủng hoảng trong nền Kinh tế thị trường, cơ chế thị trường không
phải lúc nào cũng tạo ra sự cân đối về giá cả và sản lượng hàng hóa. Thị trường vốn dĩ rất
nhạy cảm, khó dự đoán chính xác, nên khi xảy ra các biến cố như : chiến tranh, dịch bệnh,
thiên tai hay cấm vận… đều có thể là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng thị trường. lOMoAR cPSD| 22014077
ví dụ: trước kia, ngành hàng không tăng trưởng rất tốt, do quá trình hội nhập của chúng ta
ngày cảng thuận lợi. Nhưng , khi dịch bệnh covid xảy ra, cả nước đóng cửa chống dịch, mọi
hoạt động giao thương, vận chuyển hàng hóa, du lịch … bị đóng băng->Ngành dịch vụ hàng
không lâm vào khủng hoảng nặng nề, thua lỗ hàng nghìn tỷ đồng.
hay như: cuộc chiến tranh giữa Nga và Ucraina, làm ảnh hưởng đến nguồn cung khí đốt và
xăng dầu. Nguồn cung khan hiếm,giá xăng dầu tăng chóng mặt, gây ra khủng hoảng năng
lượng ở các nước nhập khẩu xăng dầu, và các doanh nghiệp trực tiếp sử dụng nguồn năng lượng này.
Ban đầu, khủng hoảng diễn ra cục bộ đối với một hoặc số loại hàng hóa, sau diễn ra trên
phạm vi tổng thể nền kinh tế. Nền kinh tế thị trường không thể tự khắc phục được những rủi
ro tiềm ẩn này, bởi chúng ta cũng không thể dự báo chính xác thời điểm dịch bệnh covid
cũng như chiến tranh sẽ xảy ra khi nào..
Thứ hai, nền kinh tế thị trường không thể khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài nguyên
không thể tái tạo, suy thoái môi trường tự nhiên, môi trường xã hội
Các chủ thể trong nền kinh tế thị trường với mục đích là tối đa hóa lợi nhuận, vì lợi ích trước
mắt mang tính cá nhân nên có thể khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên, gây suy thoái môi
trường tự nhiên. Không những thế cũng vì mục tiêu lợi nhuận, các chủ thể sản xuất kinh
doanh, các cán bộ chạy theo lợi ích cá nhân, gây tham ô, tham nhũng gây ra sự sói mòn đạo
đức kinh doanh, thậm chí đạo đức xã hội.
Ví dụ: Thực tế ở Việt Nam thì đã có không ít sự vụ khai thác cạn kiệt tài nguyên cũng gây
suy thoái môi trường trầm trọng, như: các vụ khai thác cát trộm ở lòng sông Hồng hay các
vụ khai thác than trái phép ở Quảng Ninh. Đặc biệt nghiêm trọng, là các vụ gây ô nhiễm môi
trường sinh thái của Công ty vedan gây ô nhiễm sông Thị Vải năm 2008 ; Công ty Formusa
Hà Tĩnh gây ô nhiễm biển « cá chết hàng loạt » năm 2016… Nguyên nhân của các vụ gây ô
nhiễm này, vì lợi ích cá nhân doanh nghiệp, không muốn đầu tư , xử lý chất thải trước khi
đẩy ra môi trường. Đây là mặt trái mang tính khuyết tật của kinh tế thị trường ảnh hưởng
đến môi trường tự nhiên.
Nhìn chung, kinh tế thị trường có thể gây ra những suy thoái về môi trường tự nhiên lẫn môi
trường xã hội. Tự bản thân nền kinh tế thị trường thì không thể tự khắc phục được các khuyết
tật này. Cho nên, chính phủ cần can thiệp vào nền kinh tế bằng những thể chế để hạn khuyết
tật của kinh tế thị thị trường.
Thứ Ba, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa sâu sắc trong xã hội
Trong nền kinh tế thị trường, hiện tượng phân hóa xã hội về thu nhập, về cơ hội là tất yếu.
Bản thân nền kinh tế thị trường không thể tự khắc phục được khía cạnh phân hóa có xu
hướng sâu sắc. Với loaij hình tham gia thị trường cộng với tác động của cạnh tranh mà dẫn
đến sự phân hóa như một tất yếu. lOMoAR cPSD| 22014077
Ví dụ: trong thị trường lao động, việc cạnh tranh giữa các sinh viên khi ra trường để tìm
kiếm một cơ hội công việc tốt, có thu nhập cao và khả năng thăng tiến là tất yếu. Kết quả
của quá trình cạnh tranh này có thể sẽ phân hóa thành người lao động có thu nhập cao và
người lao động có thu nhập thấp. Sự phân hóa này là tất yếu, và bản thân kinh tế thị trường
không thể tự khắc phục được. Tuy nhiên, nếu sự phân hóa này trở nên thái quá, tức là khoảng
cách chênh lệch giàu nghèo ngày càng tăng thì có thể dẫn đến căng thẳng về mặt xã hội, đấu
tranh giai cấp xuất hiện. Do vậy, chính phủ phải can thiệp bằng nhiều chính sách để điều hòa
mâu thuẫn lợi ích kinh tế như : chính sách thuế thu nhập cá nhân- trợ cấp an sinh xã hội- bảo
hiểm xã hội … để ổn định tình hình kinh tế - xã hội.
Tóm lại kinh tế thị trường bên cạnh những ưu điểm còn có những khuyết tật. Vì thế, để khắc
phục cần có sự can thiệp của nhà nước để hạn chế những khuyết tật của thị trường, đảm bảo
cho thị trường vận động hiệu quả và ổn định, tối đa hóa lợi ích của các chủ thể kinh tế và
của toàn xã hội.
Khi đó nền kinh tế được gọi là kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà
nước hay nền kinh tế hỗn hợp. V.
MỘT SỐ QUY LUẬT KINH TẾ CHỦ YẾU CỦA THỊ TRƯỜNG: 1. Quy luật giá trị:
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản trong sản xuất và lưu thông hàng hoá, ở đâu có
sản xuất và lưu thông hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại của quy luật giá trị.
Về nội dung: Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên hao phí lao
động xã hội cần thiết
• Trong sản xuất, người tiến hành sản xuất phải có sự hao phí sức lao động cá biệt của mình
nhỏ hơn hoặc bằng với mức hao phí sức lao động xã hội cần thiết, thì mới đạt được lợi thế
trong cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh là những lợi thế giúp người sản xuất đó có thể có ưu thế
hơn so với những người sản xuất khác.
Ví dụ: Để sản xuất ra một cái áo, người sản xuất A phải tốn chi phí lao động cá biệt là 5$/
sản phẩm. Tuy nhiên, hao phí lao động xã hội tức là mức hao phí lao động trung bình mà xã
hội chấp nhận chỉ là 4$/ sản phẩm. Như vậy, nếu bán ra thị trường theo mức hao phí lao
động cá biệt là 5$ thì người sản xuất A không bán được hàng, quy mô sản xuất bị thu hẹp.
• Trong trao đổi, phải tiến hành theo nguyên tắc ngang giá, lấy giá trị xã hội làm cơ sở, không
dựa trên giá trị cá biệt
Ví dụ: Một cái áo có giá trị xã hội là 4$, trong trường hợp cung bằng cầu thì nhà sản xuất sẽ
bán cái áo theo đúng giá trị của nó, tức là lúc đó giá cả của cái áo= giá trị cái áo = 4$. Trong
trường hợp cung > cầu, tức là sản xuất dư thừa, buộc nhà sản xuất phải giảm giá cả cái áo
xuống còn 3$, khi đó giá cả hàng hóa < giá trị. Ngược lại, trong trường hợp cung < cầu, tức
là hàng hóa khan hiếm thì giá cả sẽ cao hơn giá trị.
Như vậy, với cơ chế hoạt động và tác động của quy luật giá trị thì giá cả thị trường xoay
quanh giá trị dưới tác động của quan hệ cung cầu.
Trong nền kinh tế hàng hóa, quy luật giá trị có những tác động cơ bản sau; lOMoAR cPSD| 22014077
Thứ nhất, hỗ trợ điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá trên thị trường
Điều tiết quá trình sản xuất tức là điều khiển và phân bố yếu tố sản xuất giữa các ngành và
các lĩnh vực khác nhau sao cho cân bằng. –
Nếu Cung < Cầu: thì giá cả lớn hơn giá trị, hàng hoá sản xuất ra bán nhanh và mang về
lợi nhuận. Nếu giá cả cao hơn giá trị thì sẽ phải đẩy mạnh và mở rộng sản xuất để tăng cung.
Ngược lại cầu giảm thì giá trị sản phẩm theo đó cũng giảm dần. –
Nếu Cung > Cầu: thì hàng hóa được sản xuất ra quá nhiều so với nhu cầu sử dụng thực
tế của thị trường thì giá cả sẽ thấp hơn giá trị. Dẫn đến hàng hoá khó bán và không mang về
lợi nhuận. Chính vì vậy buộc phải giảm hoặc ngừng sản xuất, nếu giá cả giảm thì nhu cầu mua sẽ tăng trở lại. –
Nếu Cung = Cầu: là khi giá cả bằng với giá trị. Khi đó người ta gọi là nền kinh tế “bão hoà”.
Ví dụ : trong bối cảnh dịch bệnh Covid, do tình trạng khan hiếm khẩu trang y tế nên giá cả
khẩu trang tăng lên nhanh chóng. Điều này đã hấp dẫn nhiều nhà máy may chuyển đổi
phương thức sản xuất từ sản xuất quần áo sang sản xuất khẩu trang y tế. Việt Nam không
những đáp ứng nhu cầu khẩu trang trong nước mà còn xuất khẩu ra nhiều nước khác trên thế giới.
Đối với điều tiết lưu thông: Khi giá cả thị trường biến động, quy luật giá trị tác động đưa
hàng hóa từ nơi có giá cả thấp sang nơi có giá cả cao, từ nơi có cung lớn hơn cầu đến nơi
cung nhỏ hơn cầu. Quy luật giúp cho phân phối nguồn hàng một cách hợp lý giữa các vùng, các khu vực với nhau.
Ví dụ: Tại Hải Dương vào dịp hè lượng vải thiều rất dồi dào nhưng nếu chỉ bán ở địa phương
thì sẽ không thu được lợi nhuận cao vì giá thấp do cung lớn hơn cầu. Do đó, tiểu thương và
người nông dân có xu hướng vận chuyển vải thiều đến các tỉnh thành khác, các quốc gia
khác có cung vải thiều nhỏ hơn cầu để bán được giá cao hơn, thu về lợi nhuận lớn hơn.
Thứ hai, kích thích cải tiến kĩ thuật, hợp lý hóa sản xuất nhằm tăng năng suất lao động
Trên thị trường, hàng hóa được trao đổi theo quá trình xã hội. Người sản xuất nào có hao phí
lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động của xã hội sẽ thu về lãi cao. Ngược lại người sản
xuất có hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội sẽ thua lỗ.
Thế nên, có được lợi thế cạnh tranh và tránh được nguy cơ phá sản, vỡ nợ thì buộc họ phải
hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình sao cho nhỏ hơn hoặc bằng với hao phí lao động
xã hội cần. Để được như vậy, nhà sản xuất cần phải dùng đến những biện pháp tối ưu hoá
chi phí sản xuất. Đồng thời áp dụng khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất để cải thiện
năng suất lao động mà mang về cho mình lợi thế cạnh tranh.
Ví dụ: Trong lĩnh vực kinh doanh điện thoại di động, để hạ thấp hao phí lao động cá biệt,
các hãng điện thoại không ngừng đổi mới công nghệ, cải tiến kỹ thuật, đổi mới phương thức lOMoAR cPSD| 22014077
quản lý… Điều này đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển, giá thành sản phẩm điện thoại
ngày càng rẻ hơn, chất lượng, tính năng vượt trội hơn. Hơn nữa, ngoài việc đổi mới kỹ thuật,
công nghệ sản xuất, dịch vụ chăm sóc, hậu mãi khách hàng cũng ngày càng tốt hơn.
Thứ ba, phân hóa những người sản xuất thành những người giàu, người nghèo một cách tự nhiên
Trong quá trình cạnh tranh, những người sản xuất nhạy bén với thị trường, trình độ năng lực
giỏi, sản xuất với hao phí cá biệt thấp hơn mức hao phí chúng của xã hội sẽ trở nên giau có.
Ngược lại, những người do hạn chế về vốn, kinh nghiệm sản xuất thấp kém, trình độ công
nghệ lạc hậu.. thì giá trị cá biệt sẽ cao hơn giá trị xã hội và dễ lâm vào tình trạng thua lỗ, phá
sản, thậm chí phải đi làm thuê.
Trong nền kinh tế thị trường thuần túy, chạy theo lợi ích cá nhân, đầu cơ gian lận, khủng
hoảng kinh tế là những yếu tố có thể làm tăng thêm tác động phân hóa sản xuất cùng những
tiêu cực về kinh tế xã hội khác.
Tóm lại quy luật giá trị vừa có tác dụng đào thải lạc hậu lỗi thời, kích thích sự tiến bộ, làm cho
lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ; vừa có tác dụng lựa chọn , đánh giá người sản xuất,
đảm bảo bình đẳng đối với người sản xuất; vừa có cả tác động tích cực lẫn tiêu cực. Vì vậy
cần có sự điều tiết của nhà nước để hạn chế tiêu cực, thúc đẩy tác động tích cực.
2. Quy luật cạnh tranh:
-Quy luật cạnh tranh là quy luật kinh tế điều tiết khách quan mối quan hệ ganh đua kinh tế
giữa chủ thể sản xuất và trao đổi hàng hóa. Quy luật cạnh tranh yêu cầu, khi đã tham gia thị
trường, các chủ thể sản xuất kinh doanh bên cạnh sự hợp tác luôn phải chấp nhận cạnh tranh.
-Kinh tế thị trường càng phát triển thì cạnh tranh trên thị trường cành trở nên thường xuyên,
quyết liệt hơn. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh có thể diễn ra giữa các chủ thể thuộc các ngành khác nhau -
Mục đích của cạnh tranh trong kinh tế: Tối đa hoá lợi nhuận; Sự tăng trưởng trong kinh doanh của chủ thể. -
Điều kiện tiên quyết để có cạnh tranh: Phải có ít nhất hai chủ thể tham gia cạnh tranh;Sự
giành được lợi thế cạnh tranh của người này dẫn đến bất lợi tương ứng đối với người kia và ngược lại -
Phương tiện cạnh tranh:Giá cảChất lượngDịch vụQuảng cáo
Ví dụ:1. Bên bán luôn muốn bán sản phẩm với giá cao nhất, còn bên mua luôn giá rẻ hơn, 2
bên đều muốn cạnh tranh để mình có lợi nhất.
2.Người bán Táo và Lê cạnh tranh với nhau về giá để bán được nhiều, nhanh nhất có thể.
Xét trên cùng công năng Táo và Lê đều là 2 loại trái cây có giá trị sử dụng ngang nhau (bỏ
qua yếu tố sở thích, chất lượng) thì ai bán giá rẻ hơn thì sẽ bán được nhanh hơn.
3.Cửa hàng A và B đều bán quần áo thời trang cho giới trẻ. Cửa hàng A chuyên nhập
hàng sản xuất Việt Nam mẫu mã không mới, không cập nhật xu hướng như cửa hàng B
chuyên lấy sỉ tại các trang mạng của Trung Quốc. Theo thời gian, cửa hàng B luôn bán lOMoAR cPSD| 22014077
hàng được nhiều hơn, cửa hàng A thua lỗ phải đóng cửa - Phân loại theo phạm vi nền kinh tế cạnh tranh:
• Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng hoạt động trong
một lĩnh vực, một ngành kinh tế, cùng sản xuất ra một sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ. Quy
luật cạnh tranh này sẽ giúp cho kỹ thuật phát triển.
• Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nhiều ngành kinh
tế khác nhau nhằm thu về mức lợi nhuận cao nhất. Quá trình cạnh tranh này có sự phân bổ
vốn đầu tư hoàn toàn tự nhiên giữa các ngành kinh tế với nhau. Kết quả thu được là hình
thành nên tỷ suất lợi nhuận bình quân đáng kể.
-Tác động của cạnh tranh trong nền kinh tế thj trường:
Tác động tích cực:
Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất: trong nền kinh tế thị trường các chủ thể không
ngừng tìm kiếm, cải thiện các ứng dụng, vận dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hệ thống
dây chuyền sản xuất, đồng thời nâng cao tay nghề cho người lao động nhằm hướng đến kết
quả thúc đẩy sự phát triển của lực lượng xã hội.
Ví dụ: Sự cạnh tranh giữa các hãng Tivi như Sony, Samsung, LG, TCL, Panasonic,… Để có
thể chiếm lĩnh thị trường và trở thành lựa chọn ưu tiên của người tiêu dùng thì bắt buộc các
nhãn hàng tivi cần nghiên cứu, phát triển thêm nhiều tính năng, thay đổi thiết kế mẫu mã đẹp
mắt, hỗ trợ chính sách bảo hành,…
Thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường: Mọi hoạt động giữa các chủ thể trong thị
trường đều nhằm mục đích lợi nhuận tối đa, vì vậy ngoài hợp tác, họ cũng phải cạnh tranh
với nhau để có những điều kiện thuận lợi cho sản xuất và kinh doanh để thu lợi nhuận cao nhất.
Cơ chế điều chỉnh linh hoạt việc phân bổ nguồn lực: Cách chủ thể cần phải cạnh tranh với
nhau nhằm tiếp cận với nguồn nhân lực như tại nguyên, công nghệ, vốn, nguồn lao động.
Với quy luật cạnh tranh, nguồn nhân lực trên thị trường sẽ được phân bổ một cách linh hoạt hơn.
Ví dụ: Khi xảy ra cạnh tranh về nguồn lực lao động, các doanh nghiệp sẽ cân nhắc để đưa
ra các mức lương, thưởng, chế độ phúc lợi,… Nhằm thu hút về mình lượng lao động có trình
độ, chất xám về làm việc cho doanh nghiệp.
Thúc đẩy năng lực thỏa mãn nhu cầu xã hội: Trong một nền kinh tế thị trường như hiện nay,
sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào quyền quyết định của
người tiêu dùng. Do đó, muốn chiếm lĩnh toàn bộ thị trường cũng như thu về lợi nhuận thì
các doanh nghiệp bắt buộc phải cạnh tranh không ngừng để mở rộng thị phần. Muốn làm
được như vậy, các doanh nghiệp phải tạo ra khối sản phẩm phong phú, chất lượng tốt, giá
thành thấp thì mới có thể đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đông đảo của xã hội.
Ví dụ: Cạnh tranh ở các công ty du lịch ở Việt Nam, trong quá trình cạnh tranh để mở rộng
thị trường, bắt buộc các công ty du lịch phải đa dạng hóa sản phẩm du lịch của mình để tạo
ra những sản phẩm, dịch vụ phù hợp với mọi đối tượng khách hàng khác. lOMoAR cPSD| 22014077
Tác động tiêu cực:
Gây tổn hại môi trường kinh doanh: Nhiều doanh nghiệp vì muốn đạt được lợi nhuận cao đã
không từ những thủ đoạn xấu xa để có được như thực hiện những hành vi lừa đảo, trốn thuế,
buôn bán hàng giả, ăn cắp bản quyền, tung tin đồn thất thiệt để hạ uy tín đối thủ. Những hành
vi vi phạm đạo đức này gây tổn hại môi trường kinh doanh, xói mòn đạo đức giá trị xã hội
dẫn đến vi phạm pháp luật.
Gây lãng phí nguồn nhân lực xã hội: Cạnh tranh không lành mạnh gây ra những lãng phí về
nguồn lực xã hội vì nó có thể chiếm giữ nguồn lực không đưa vào sản xuất kinh doanh. Thậm
chí còn ép giá đối thủ, không cho đối thủ sản xuất.
Ví dụ: Năm vừa qua đại dịch covid-19 ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người dân.
Những thời gian đầu dịch nhiều người thường nhân cơ hội tích trữ khẩu trang, sau khi dịch
bệnh bùng phát ở Việt Nam lúc đó họ tung khẩu trang ra thị trường bán với giá cao nhằm thu lợi nhuận.
Gây tổn hại phúc lợi xã hội: Khi các nguồn nhân lực bị lãng phí, không được sử dụng hiệu
quả, xã hội có ít cơ hội chọn để thỏa mãn nhu cầu. Phúc lợi xã hội bỉ giảm bớt.
Đây là quy luật khách quan trong nền kinh tế thị trường, đòi hỏi chủ thể kinh tế phải sẵn sàng
thích ứng mới có thể tồn tại và phát triển.