lOMoARcPSD| 58794847
Chương 2
MÔI TRƯỜNG VÀ NGHIÊN CỨU MARKETING QUỐC TẾ
TÓM TẮT KIẾN THỨC CHƯƠNG
Nội dung chương 2 đề cập đến các ảnh hưởng của các yếu tố môi trường đến hoạt động
marketing quốc tế. Từ đó cho thấy việc nghiên cứu marketing quốc tế ý nghĩa cùng
quan trọng trong quá trình hoạch định và đề ra các quyết định marketing tại thị trường nước
ngoài.
Chương 2 nêu ra một số khác biệt của môi trường marketing quốc tế một số lưu ý
khi thu thập số liệu và thực hiện quá trình nghiên cứu marketing tại thị trường nước ngoài.
2.1. MÔI TRƯỜNG MARKETING QUỐC TẾ
Sự khác biệt bản giữa marketing trong nước marketing trên phạm vi quốc tế
tính đa chiều phức tạp của các thị trường nước ngoài doanh nghiệp đang hoạt động.
Khi kinh doanh trên phạm vi quốc tế, doanh nghiệp chịu sự tác động của các yếu tố môi
trường quốc gia quốc tế. So với môi trường nội địa, các yếu tố môi trường doanh
nghiệp phải đương đầu trong kinh doanh quốc tế rất rộng lớn đa chiều. Bởi mỗi quốc
gia đều hệ thống luật pháp, văn hóa, ngôn ngữ, điều kiện khí hậu địa hình… khác biệt.
Các yếu tố môi trường marketing tác động đến doanh nghiệp bao gồm cả các yếu tố doanh
nghiệp có thể kiểm soát được và không kiểm soát được.
Các yếu tố môi trường doanh nghiệp kiểm soát được các yếu tố bản của
marketing - mix, là kết quả hoạt động sáng tạo của các yếu tố nội tại như con người, công
nghệ… Các yếu tố bên ngoài không kiểm soát được bao gồm các yếu tố môi trường quốc gia
và yếu tố môi trường quốc tế doanh nghiệp không kiểm soát được bao gồm các yếu tố như:
Môi trường nhân khẩu học (Demographic environment)
Môi trường kinh tế (Economic environment)
Môi trường tự nhiên (Natural environment)
Môi trường văn hóa (Cultural environment)
Môi trường chính trị - pháp luật (Political& Legal environment)
Môi trường công nghệ (Technological environment)
2.1.1. Môi trường nhân khẩu học
Môi trường nhân khẩu học mô tả những đặc trưng cơ bản nhất liên quan đến con người
mỗi quốc gia. Sự khác biệt của các yếu tố nhân khẩu học sẽ dẫn tới sự khác biệt về quy
mô, cơ cấu hàng hóa tiêu thụ, chủng loại, khối lượng hàng hóa được đóng gói, tiêu thtrên
lOMoARcPSD| 58794847
mỗi khu vực. Nhân khẩu học khoa học nghiên cứu về con người trên các khía cạnh như
quy dân số sự chuyển dịch dân cư, cấu theo độ tuổi, giới tính, quy cấu hộ
gia đình, hình dáng tầm vóc người tiêu dùng, xu hướng kết hôn ly hôn... Đây chính là
những chỉ dẫn quan trọng trong việc đánh giá thị trường tiêu dùng tiềm ng. Những thay
đổi về nhân khẩu học của các thị trường trên thế giới sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến nhu cầu tiêu
dùng trong tương lai.
Quy mô dân số và sự chuyển dịch dân cư
Ước tính dân số hiện tại toàn thế giới trên 8 tỷ người, trong đó 85% tập trung các
khu vực kém phát triển. Hơn 1,2 tỷ việc làm mới phải được tạo ra để đáp ứng cho lực lượng
lao động tăng thêm, nhất là khu vực đô thị, nơi hầu hết dân số sẽ cư trú.
Di cư từ nông thôn ra thành thị, bao gồm cả di cư nội địa và quốc tế, chủ yếu là kết quả
của một ham muốn tiếp cận nhiều hơn với các nguồn giao dục, y tế các cơ hội cải thiện
công việc. Đầu những năm 1800, chỉ có dưới 3,5% dân số thế giới sống tại các thành phố
20.000 cứ dân hoặc nhiều hơn. Ngày nay, 40% dân số thế giới là dân thành thị và xu hướng
này ngày càng gia tăng. Đến năm 2030, ước tính sẽ 61% dân số thế giới sẽ sống ở các khu
vực đô thị, ít nhất 27 thành phố có dân số là 10 triệu người trở lên, 23 trong số đó ở khu vực
các nước kém phát triển. Sự chuyển dịch dân số này sẽ dẫn đến sự thay đổi vị trí, nhu cầu
cũng như thứ tự các sản phẩm ưu tiên khi mua hàng tại các thị trường.
Các doanh nghiệp cần lưu ý đến xu hướng này khi thâm nhập các thị trường nước ngoài.
Sự già hóa dân số
Trong khi thế giới đang phải đối mặt với dân số ngày càng tăng nhanh thì dân số của
các nước công nghiệp đang suy giảm nhanh chóng già hóa. Tăng trưởng dân số nhiều
nước phát triển đã giảm xuống dưới mức cần thiết để duy trì mức độ dân số hiện tại. Ngoài
ra, dân số hiện nay đang có xu hướng già hóa. Liên hợp quốc dự kiến vào năm 2050 số lượng
người trong độ tuổi 65-84 trên toàn thế giới sẽ tăng lên gấp ba, số người từ 85 tuổi trở lên sẽ
tăng lên gấp 6 lần hiện tại. Các quốc gia có dân số già đang phải đối mặt với chi phí cao về
lương hưu chăm sóc y tế cho người già. Sgià hóa của đội ngũ lao động cũng kéo theo
sự suy giảm của công nhân có tay nghề cao. Nhiều quốc gia phải kéo dài độ tuổi của người
lao động hay thay đổi pháp luật hiện hành nhằm ổn định tỷ lệ lao động. Tuy nhiên, dân số
già hóa lại là tin vui cho một số ngành như dịch vụ chăm sóc sức khỏe, dịch vụ tài chính, du
lịch và giải trí…
Sự khác biệt giữa các thế hệ:
Thế giới ngày càng phát triển, sự thay đổi giữa các thế hệ ngày càng ng, nhất
với các nhóm như thế hệ X, thế hệ Y và thế hệ Z. Và chính sự khác biệt này đã tạo ra những
tác động khác nhau của họ với các chiến lược marketing hiện tại.
lOMoARcPSD| 58794847
Sự thay đổi trong cấu trúc gia đình
Gia đình là một đơn vị cơ bản làm nền tảng cho hành vi xã hội và kinh tế trong hầu hết
các quốc gia. Do đó, các nhà làm marketing cần hiểu các dạng cấu trúc gia đình tại mỗi quốc
gia, để từ đó xây dựng chiến lược marketing phù hợp với thị trường mục tiêu hướng đến.
Thực tế hiện nay trên thế giới cũng như Việt Nam, ngày càng nhiều người trẻ không muốn
kết hôn, số lượng mẹ đơn thân, bố đơn thân ngày càng gia tăng. Thêm vào đó, tỷ lệ ly hôn,
ly thân có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây. Theo đó, khi xã hội ngày càng phát
triển, người phụ nữ tham gia rất nhiều công việc, có vị thế ngày càng cao trong xã hội, họ
xu hướng tự chủ hơn ít bị ràng buộc bởi những mối quan hệ hôn nhân gia đình. Thực
trạng này tác động mạnh mẽ đến hành vi tiêu dùng sản phẩm, gia tăng các sản phẩm phục vụ
cho các gia đình quy mô nhỏ thay cho các sản phẩm phục vụ gia đình lớn trước đây.
2.1.2. Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế liên quan đến tất cả các yếu tố góp phần tạo nên sức hấp dẫn của
thị trường mục tiêu. Bản chất của việc đánh giá môi trường kinh tế của một quốc gia là xác
định quy mô và tiềm năng thị trường của nó. Các yếu tố chủ chốt trong môi trường kinh tế
của một quốc gia mà doanh nghiệp thường quan tâm là tốc độ phát triển kinh tế, tỷ lệ lạm
phát, tỷ giá hối đoái, mức sống dân cư, cơ sở hạ tầng và tốc độ đô thị hóa.
Tốc độ phát triển kinh tế của quốc gia
Quy của một nền kinh tế thể hiện bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng
sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc tổng sản phẩm bình quân đầu người hoặc thu nhập bình quân
đầu người. Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng GDP hoặc GNP hoặc thu nhập bình quân đầu
người trong một thời gian nhất định.
Tăng trưởng kinh tế ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ hàng hóa của thị trường. Khi một
quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao, khả năng tiêu thụ hàng hóa trên thị trường tăng lên, nhu
cầu nhập khẩu khả năng trao đổi hàng hóa cũng lớn hơn. Khi thị trường tốc độ tăng
trưởng kinh tế giảm, lạm phát ra tăng, người tiêu dùng trên thị trường đó sẽ hạn chế mua sắm
các sản phẩm xa xỉ, thắt chặt chi tiêu, tăng cường tiết kiệm. Điều đó sẽ dẫn đến tình trạng
người tiêu dùng trên thị trường tăng cường tích lũy, gia tăng mua hàng hóa có giá rẻ. Một số
người tiêu dùng gác lại việc mua hàng hóa tiêu dùng lâu bền, một số khác lại tăng cường
mua sắm sợ rằng thời gian tới giá tăng lên. Yếu tố này tác động làm cho thị trường biến
động bất ổn, giảm khả năng an toàn trong kinh doanh của các doanh nghiệp. Lạm phát
Lạm phát sự gia tăng mức giá chung của hàng hóa dịch vụ trong một quốc gia,
dẫn đến sự suy giảm sức mua của người tiêu dùng trong nền kinh tế đó. Khi so sánh với các
nền kinh tế khác thì lạm phát sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ
lOMoARcPSD| 58794847
khác. Lạm phát là chỉ số quan trọng với các nhà làm marketing quốc tế bởi các lý do: - Lạm
phát ảnh hưởng đến khả năng mua hàng hóa dịch vụ của người tiêu dùng.
- Tỷ lệ lạm phát cao góp phần gây bất ổn chính trị và kinh tế. Một công ty quốc tế
hoạt động tại các thị trường này sẽ gặp khó khăn trong chiến lược định giá nỗ lực kiểm
soát chi phí.
- Lạm phát làm tăng giá cả của các yếu tố sản xuất trên thị trường liên quan.
Lạm phát cao làm cho giá trị doanh thu tính bằng đồng nội tệ giảm điều này khiến các
doanh nghiệp gặp rủi ro ngoại hối. Điều tồi tệ hơn khi các doanh nghiệp sản xuất ở quốc gia
lạm phát cao xong bán sản phẩm cho các quốc gia lạm phát thấp, vì chi phí đầu vào
tăng lên trong khi doanh thu vẫn ổn định.
Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái đóng vai trò chính trong thương mại quốc tế, cho phép so sánh giá
cả của các hàng hóa và dịch vụ sản xuất trên các nước khác nhau. Giá hàng xuất khẩu của
một nước sẽ được nh theo giá của nước nhập khẩu nếu biết tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền
của hai nước. Khi đồng tiền của một nước mất giá, người nước ngoài nhận ra rằng, giá hàng
xuất khẩu của nước này rẻ đi, người dân trong nước nhận thấy hàng nhập từ nước ngoài
đắt lên. Sự tăng giá có hiệu quả ngược lại: người nước ngoài sẽ phải trnhiều hơn cho sản
phẩm của nước này, và người dân trong nước phải trả ít hơn cho hàng hóa của nước ngoài.
Chính vì điều này mà tỷ giá hối đoái được sử dụng để điều tiết chính sách khuyến khích xuất
khẩu hay nhập khẩu hàng hóa của một nước.
Mức sống dân cư
Mức sống của người tiêu dùng ở mỗi quốc gia cũng tác động mạnh đến nền kinh tế
khả năng tham gia vào thương mại quốc tế của quốc gia đó. Nếu căn cứ vào mức sống,
thể chia các quốc gia trên thế giới thành 5 nhóm:
- Nhóm 1: Các quốc gia mức sống thấp, phần lớn nền kinh tế trong nước xây
dựng trên cơ sở tự cung tự cấp, các sản phẩm sản xuất đơn giản, trình độ công nghệ lạc hậu.
- Nhóm 2: nhóm các quốc gia có mức sống tương đối thấp, phần lớn hàng hóa tiêu
dùng được sản xuất bởi các doanh nghiệp trong nước. Các quốc gia này có khả năng trao đổi
với bên ngoài hạn chế.
- Nhóm 3: nhóm các quốc gia mức sống chênh lệch, được đặc trưng bởi nh
hình thị trường khá đặc biệt. Đại bộ phận dân mức sống thấp dựa vào sản xuất nông
nghiệp, tuy nhiên đã hình thanh một bộ phận người tiêu dùng giàu có, có khả năng tiêu dùng
hàng nhập khẩu.
lOMoARcPSD| 58794847
- Nhóm 4: nhóm các quốc gia mức sống chênh lệch. Trong nền kinh tế tồn tại
tầng lớp giàu và tầng lớp nghèo khó. Giữa hai tầng lớp này hình thành một tầng lớp người
trung lưu do quá trình ng nghiệp hóa mang lại. Quốc gia thuộc nhóm này hình thành thị
trường tiêu dùng tương đối phong phú với tất cả các loại hàng hóa.
- Nhóm 5: nhóm các quốc gia có mức sống cao. Đặc trưng cơ bản của nhóm quốc
gia này là khoảng cách thu nhập ngày càng bị thu hẹp. Tầng lớp trung lưu chiếm vị trí quan
trọng, phổ biến và thu nhập khá cao. Ở đây hình thành thị trường đa dạng đối với các loại
hàng hóa, đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao.
Cơ sở hạ tầng
Bao gồm các phương tiện thông tin, năng lượng và giao thông vận tải ở một quốc gia.
Nghiên cứu marketing hoạt động xúc tiến hoàn toàn phụ thuộc vào chất lượng thông tin
của một quốc gia. Phương tiện truyền thông đại chúng hệ thống các dịch vụ, điện thoại,
radio, tivi, internet…; sự sẵn của các phương tiện này thay đổi từ quốc gia này tới các
quốc gia khác. Cần lưu ý không phải tất cả các quốc gia đều cho phép quảng cáo thương mại.
Sự bao phủ của internet các phương tiện truyền thông thay đổi rất lớn giữa các quốc gia
và ngoài ra còn bị giới hạn bởi các qui định quảng cáo thương mại.
Hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống giao thông vận tải, khả năng giải phóng phương
tiện các sân bay, bến cảng, hệ thống điện nước, năng lượng cung cấp cho kinh doanh, hệ
thống kho bãi, hệ thống bán buôn, bán lẻ… Tất cả đều là những yếu tố rất quan trọng trong
việc ra quyết định nên lựa chọn thị trường quốc gia đó hay không của một công ty quốc
tế. Mức độ đô thị hóa
Mức độ đô thị hóa cũng là một nội dung cần được quan tâm. Các nhà marketing quốc
tế thực hiện nhiệm vụ những nơi mức đô thị hóa cao sẽ dễ dàng hơn so với những nơi
mà mức độ đô thị hóa thấp.
Đô thị hóa là sự mở rộng của đô thị, tính theo tỉ lệ phần trăm giữa số dân đô thị hay
diện tích đô thị trên tổng số dân hay diện tích của một vùng hay khu vực. Nó cũng có thể
tính theo tỉ lệ gia tăng của hai yếu tố đó theo thời gian. Nếu tính theo cách đầu tiên thì nó
còn được gọi là mức độ đô thị hóa; còn theo cách thứ hai, nó có tên là tốc độ đô thị hóa.
Đô thị hóa quá trình phát triển rộng rãi lối sống thị thành thể hiện qua các mặt dân
số, mật độ dân số, chất lượng cuộc sống... Các nước phát triển (như tại châu Âu, Mỹ hay Úc)
thường có mức độ đô thị hóa (trên 80%) cao hơn nhiều so với các nước đang phát triển (như
Việt Nam hay Trung Quốc). Đô thị các nước phát triển phần lớn đã ổn định nên tốc độ đô thị
hóa thấp hơn nhiều so với trường hợp các nước đang phát triển.
lOMoARcPSD| 58794847
Đô thị hóa ảnh hưởng sâu sắc tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tác động mạnh
lên sự phát triển kinh tế hội của vùng và cả nước, tạo ra nhiều việc làm thu nhập cho
người lao động. Các thành phố, thị nơi tiêu thụ sản phẩm hàng hóa lớn đa dạng,
nơi sử dụng lực lượng lao động có chất lượng cao, cơ sở kĩ thuật hạ tầng hiện đại có sức hút
đầu tư mạnh trong nước và nước ngoài.
Mức độ hội nhập quốc gia
Thường các quốc gia trên thế giới có hình thức hội nhập sau đây: khu vực mậu dịch tự
do, liên minh thuế quan, thị trường chung, liên minh kinh tế, hội nhập về chính trị. Mỗi hình
thức hội nhập có các đặc điểm của nó. Người làm marketing quốc tế cần xem xét hình thức
hội nhập của quốc gia thị trường mục tiêu để có chiến lược marketing phù hợp bởi đặc điểm
mỗi hình thức hội nhập sẽ ảnh hưởng đến hoạt động cụ thể của hoạt động marketing ở từng
thị trường. Đặc điểm các hình thức hội nhập được thể hiện tóm tắt ở bảng 2.1 dưới đây.
Bảng 2.1. Các đặc điểm hội nhập quốc tế.
Đặc điểm
Khu vực
mậu
dịch tự
do
Liên
minh
thuế
quan
Thị
trường
chung
Liên
minh
kinh tế
Liên
minh
chính
trị
Bỏ hàng rào thuế quan chung giữa
các quốc gia
x
x
x
x
x
Có chính sách thuế quan chung
x
x
x
x
Tự do di chuyển vốn, sức lao động
x
x
x
Hài hòa chính sách kinh tế, thống
nhất tiền tệ
x
x
Hội nhập chính trị
x
lOMoARcPSD| 58794847
Nguồn: Gerald Albaum, Jesper Strandskov, Edwin Duerr (2002)
2.1.3. Môi trường tự nhiên
Địa lý, khí hậu, các nguồn tài nguyên... những yếu tố thuộc môi trường tự nhiên
không thể kiểm soát được mà tất cả các nhà làm marketing phải đối mặt. Nghiên cứu các tác
động của môi trường tự nhiên đến hoạt động marketing không chỉ nghiên cứu các khía cạnh
như các thực thể độc lập cần đặt trong sự liên kết với các yếu tố văn hóa, kinh tế
hội. Việc nghiên cứu về môi trường tự nhiên là rất quan trọng trong việc đánh giá thị trường
và tác động của môi trường đến hoạt động marketing của doanh nghiệp.
Vị trí địa lý, địa hình
Vị trí tự nhiên của một quốc gia ảnh hưởng đến những lợi thế tuyệt đối tương đối
của các quốc gia trong phát triển kinh tế. dụ, Việt Nam có bờ biển dài, khnăng phát triển
vận tải biển quốc tế sẽ lợi thế hơn một số quốc gia như Lào, Campuchia... khi tham gia
thương mại quốc tế.
Bên cạnh vị trí địa lý, đặc điểm về địa hình núi, đại dương, biển, rừng nhiệt đới…và
các đặc điểm địa khác thể gây trở ngại cho sự tăng trưởng kinh tế thương mại của
một số thị trường nhưng lại có thể là cơ hội cho một số thị trường khác. Địa hình có thể tạo
ra những rào cản cho sự phát triển thương mại và liên lạc giữa các khu vực, ảnh hưởng trực
tiếp đến nền kinh tế, cụ thể các hoạt động liên quan đến truyền thông phân phối các
thị trường. dụ các quốc gia miền núi sẽ khó khăn trong vận chuyển phân phối, các quốc
gia không giáp biển như Lào, Zimbabue sẽ ảnh hưởng đến chi phí vận chuyển khả năng
tiếp cận bằng đường bộ tới các thị trường này.
Khí hậu
Sự đa dạng của tự nhiên tác động mạnh mẽ lên thị trường các quốc gia, ảnh hưởng đến
hành vi cũng như thói quen tiêu dùng của các thị trường khác nhau, buộc các nhà làm
marketing cần phải quan tâm thích ứng. Ở các quốc gia có khí hậu bốn mùa, cơ cấu hàng hóa
mùa vụ tăng cao hơn so với khu vực có khí hậu phân chia thành hai mùa nhưng vòng đời các
sản phẩm mùa vụ lại ngắn hơn. Độ ẩm cao và và khí hậu khắc nghiệt có thể ảnh hưởng đến
chức năng và việc sử dụng của sản phẩm, thiết bị. Các sản phẩm sử dụng tốt trong vùng ôn
đới có thể xấu đi nhanh chóng hoặc yêu cầu những biện pháp làm mát hoặc dầu bôi trơn đ
sử dụng tốt vùng nhiệt đới. Ngay cả trong thị trường một quốc gia, khí hậu cũng th
thay đổi khác nhau đòi hỏi các điều chỉnh lớn cho sản phẩm hàng hóa. Sự khác biệt mùa giữa
bán cầu bắc và nam cũng sẽ ảnh hưởng đến các chiến lược toàn cầu.
Tài nguyên thiên nhiên
lOMoARcPSD| 58794847
Điều kiện tự nhiên cũng quyết định nguồn tài nguyên thiên nhiên quốc gia, tạo lợi thế
tuyệt đối lợi thế tương đối giữa các quốc gia này với các quố gia khác. Tài nguyên thiên
nhiên bao gồm các dạng của cái hiện có tiềm ẩn do thiên nhiên cung cấp, như khoáng sản,
đất đai, nguồn nước, nguồn năng lượng… Chẳng hạn, Việt Nam nguồn tài nguyên khoáng
sản phong phú, Irac nguồn dầu mỏ dồi dào nhờ đó khả năng phát triển kinh tế thông
qua xuất khẩu dầu mỏ, Singapore bốn phía biển đã trở thành quốc gia hệ thống kho
hàng và đội tàu vận tải quốc tế mạnh nhất thế giới…
Sự phân bổ các nguồn tài nguyên, nguồn năng ợng cũng tác động đến sức hấp dẫn
của thị trường. Các quốc gia trên thế giới đều được phú cho các nguồn tài nguyên không đều
nhau và không quốc gia nào thể đáp ứng hoàn toàn nhu cầu nội địa về các tài nguyên cần
thiết. Các nguồn nguyên nhiên vật liệu không có khả năng tái sinh như dầu mỏ, than đá, các
loại khoáng sản khác đang ngày càng cạn kiệt. Ngay cả không khí và nước sạch là nguồn tài
nguyên vô tận cũng đang dần cạn kiệt. Thế giới đang đối mặt với tình trạng thiếu nước sạch
nghiêm trọng. Việc sử dụng quá nhiều hóa chất gây tổn hại tầng ozon, phá hủy sự cân bằng
bầu khí quyển, đe dọa sự tồn tại của loài người trong tương lai.
Chính sách môi trường nghèo nàn, thiên tai, thảm họa tự nhiên như động đất, sóng thần,
hạn hán, dân số tăng, nạn chặt phá rừng bừa bãi...khiến cho một số quốc gia lâm và vào tình
cảnh trì trệ nền kinh tế, nếu không có những chính sách hiệu quả từ chính phủ thì tình trạng
này càng thêm trầm trọng. Các quốc gia chịu nhiều tổn thất nhất từ thiên tai nằm trong số
những quốc gia nghèo nhất thế giới. Nhiều nước không có tiền cũng như khả năng kỹ thuật
để giảm thiểu tác động của các hiện tượng tự nhiên. Khi các nước phát triển thịnh vượng thì
các rào cản tự nhiên được khắc phục. Các đường hầm, kênh rạch, cầu đập nước… được
xây dựng để thích ứng với khí hậu và địa hình tự nhiên.
Với hầu hết các quốc gia, sự tăng trưởng kinh tế cũng tác động đến môi trường. Ô nhiễm
từ các nguồn khí thải, nước thải sự cạn kiện các nguồn tài nguyên… đang vấn đề
các quốc gia phải đương đầu. Sự cạn kiệt các nguồn nguyên nhiên vật liệt không khả năng
tái sinh dẫn đến sự gia tăng giá của các nguồn lực đầu vào. Các nguồn nguyên nhiên vật liệu
khả năng tái sinh vẫn chưa được tìm ra hoặc khả năng cung cấp còn hạn chế. Trong khi
đó, việc tăng giá sản phẩm đầu ra không phải có được sự chấp nhận dễ dàng của người tiêu
dùng.
Bảo vệ môi trường
Bảo vệ môi trường được coi là vấn đề thiết yếu trong phát triển kinh tế quốc gia và hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Các chính phủ doanh nghiệp hiện nay đều đặc biệt
quan tâm đến vấn đề ngăn chặn ô nhiễm làm sạch môi trường. dụ như EU, vấn đquản
lý môi trường rất nghiêm ngặt bằng hệ thống các quy định pháp lý. Khi xuất khẩu hàng hóa
lOMoARcPSD| 58794847
sang EU, ngoài việc xuất trình các chứng chỉ về dịch tễ, an toàn vệ sinh thực phẩm, kiểm
dịch thực vật là các yêu cầu bắt buộc, các doanh nghiệp Việt Nam còn phải tuân thủ các quy
định về môi trường của EU.
Vấn đề bảo vệ môi trường chống ô nhiễm được xem là vấn đề toàn cầu chứ không phải
của từng quốc gia riêng lẻ. Các chính phủ các nước, các tổ chức các doanh nghiệp ngày
càng quan tâm đến trách nhiệm xã hội và các vấn đề đạo đức xoay quanh vấn đề duy trì tăng
trưởng kinh tế đồng thời bảo vệ môi trường cho các thế hệ tiếp theo. Nhiều công ty đa quốc
gia lớn như Walmart, Nike... không chỉ làm sạch các quá trình hoạt động của họ trên thế giới
còn thúc đẩy các nhà cung cấp của họ thực hiện tương tự. Phát triển bền vững cách
tiếp cận chung giữa các chính phủ, các doanh nghiệp, các nhà môi trường, người tiêu
dùng. Chính phủ doanh nghiệp cần quan tâm tới việc quản lý nguồn lực thông minh, phân
phối lợi ích công bằng và giảm những ảnh hưởng tiêu cực đến con người môi trường từ
quá trình tăng trưởng kinh tế. Phát triển bền vững không phải vấn đề môi trường, kinh tế
hay hội, đó sự cân bằng lâu dài giữa các yếu tố đó. Trách nhiệm bảo vệ môi trường
không việc riêng của chính phủ, doanh nghiệp hay các tổ chức hội còn trách
nhiệm của mỗi công dân.
2.1.4. Môi trường kỹ thuật công nghệ
Nghiên cứu môi trường công nghệ có ý nghĩa quan trọng đối với công ty quốc tế. Trình
độ công nghệ quốc gia phản ánh năng lực cạnh tranh giữa quốc gia này so với quốc gia khác.
Trình độ công nghệ quốc gia có thể được xem xét trên các yếu tố:
Trình độ công nghệ chung của quốc gia thông qua những thành tựu công nghệ
được so với các quốc gia khác trên thế giới khu vực. Vấn đề theo kịp trình độ
công nghệ của các nước phát triển đang là thách thức không nhỏ với doanh nghiệp của các
quốc gia đang và kém phát triển.
Ngân sách quốc gia dành cho nghiên cứu và phát triển công nghệ: phản ánh mức
độ đầu và khả năng phát triển công nghệ của quốc gia đó trong tương lai. Người ta thấy
rằng giữa chi phí nghiên cứu, phát triển khả năng sinh lời mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Các công ty quốc tế đầu tư cho việc nghiên cứu và phát triển cao thì khả năng sinh lời
cũng sẽ cao hơn.
Chiến lược phát triển công nghệ quốc gia: Công nghệ được coi là chìa khóa của
sự thành công, ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển của nhiều quốc gia. Chính
chiến lược phát triển công nghệ đã giúp Mỹ vượt qua khủng hoảng và giữ vững địa vị thống
trị kinh tế bằng chuỗi: tiến bộ kỹ thuật - tăng năng suất - tăng trưởng - việc làm - thịnh vượng.
Số lượng bằng phát minh sáng chế, bí quyết kỹ thuật... là những nguồn lực mang
lại khả năng tìm kiếm lợi nhuận độc quyền cho các quốc gia trong việc khai thác lợi thế của
lOMoARcPSD| 58794847
nó mang lại. Việc áp dụng công nghệ mới giúp các công ty quốc tế tạo ra sản phẩm mới
làm tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
Mức độ độc quyền công nghệ của một quốc gia: đánh giá qua thời gian mà các
quốc gia khác có thể theo kịp công nghệ của quốc gia đó.
Trong kinh doanh, vấn đề công nghệ được đánh giá trong mối quan hệ với trình độ tiêu
dùng trên mỗi khu vực thị trường tiêu thụ. Việc đánh giá trong mối tương quan này tạo ra sự
phù hợp giữa công nghệ sản xuất sản phẩm với công nghệ tiêu dùng. Tuy nhiên, những thay
đổi về công nghệ không phải lúc nào cũng nhận được sự ủng hộ của người tiêu dùng.
Trong marketing quốc tế, các yếu tố công nghệ động lực chính trong quá trình hướng
tới một thị trường toàn cầu. Tác động của những tiến bộ công nghệ thể thấy được trong
tất cả các khía cạnh của quá trình marketing. Khả năng thu thập dữ liệu về thị trường, khả
năng kiểm soát quản lý, khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học trong lĩnh vực truyền thông…
Thông tin kết nối thông qua truyền thông vệ tinh, internet wifi đã tạo nên sức mạnh
trong marketing quốc tế. Internet đã tạo ra cuộc cách mạng trong hoạt động marketing quốc
tế. Chỉ cần bằng một nút bấm, các nhà quản trị cũng có thể truy cập thông tin và đưa ra các
quyết định kinh doanh. Thông tin được cung cấp liên tục cập nhật hàng ngày, hàng giờ.
Hệ thống thông tin di động toàn cầu cho phép các nhà kinh doanh xác định vị trí khách hàng
trên toàn cầu để gửi cho họ các thông điệp quảng cáo phù hợp. Sự phát triển của công nghệ
ngày nay cho phép khách hàng có thể tiếp cận các thông tin về sản phẩm, dịch vụ, đặt hàng
và thanh toán dù đang di chuyển hay ở bất cứ đâu trên thế giới.
2.1.5. Môi trường chính trị, pháp luật
a) Chính trị
Môi trường chính trị một trong những yếu tố tác động mạnh mẽ trong môi trường
marketing quốc tế bởi nh độc lập mỗi quốc gia. Mối quan tâm quan trọng nhất đối với
các công ty quốc tế là hệ thống luật pháp, chính trị tại các quốc gia mà họ dự định tiến hành
kinh doanh. Sự ổn định của hệ thống chính trị, tác động của Chính phủ đến môi trường thông
qua hệ thống chính sách có thể kiểm soát và hạn chế hoạt động của các doanh nghiệp.
Môi trường chính trị lý tưởng cho một doanh nghiệp khi kinh doanh ở thị trường nước
ngoài sự ổn định, thân thiện của chính phủ nước sở tại. Để đánh giá một thị trường
marketing tiềm năng, doanh nghiệp cần xác định và đánh giá những yếu tố liên quan đến bất
ổn chính trị. Những nguyên nhân tiềm năng liên quan đến bất ổn chính trị có thể là:
Rối loạn xã hội: sự bất ổn xã hội do các điều kiện cơ bản gây ra như khó khăn về
kinh tế, sự chia rẽ khởi nghĩa nổi dậy trong nước và sự khác nhau về tưởng, tôn giáo,
dân tộc và văn hóa. Ví dụ cuộc xung đột giữa phái Hindu và phái Hồi giáo ở Ấn Độ…
lOMoARcPSD| 58794847
Thái độ của nhân dân với các doanh nghiệp ng dân nước ngoài: Thái độ
của nhân dân với các doanh nghiệp công dân nước ngoài có thể không thiện cảm. Nhân
dân nước sở tại có thể cho rằng các doanh nghiệp nước ngoài đang thực hiện các hành động
khai thác, bóc lột và chủ nghĩa thực dân từ đó có thể nảy sinh các thái độ thù địch.
Thái độ của Chính phủ nước sở tại: Thái độ thể thay đổi theo thời gian hoặc
theo sự thay đổi trong giới lãnh đạo. Sự thay đổi thái độ chính trị kéo theo sự thay đổi chính
sách tạo ra những vấn đề phức tạp cho các các doanh nghiệp đang kinh doanh ở những nước
đang xung đột với nhau. Những bất đồng về chính trị thường lan sang các hoạt động kinh
doanh. Chẳng hạn, cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine không chỉ ảnh hưởng đến các doanh
nghiệp hai nước còn tác động đến nền kinh tế toàn cầu. Ngoài ra, yếu tố đặc biệt
quan trọng đối với giới kinh doanh cần quan tâm là tính chất của các đảng phái chính trị lớn
trong một đất nước, bởi khi bất kỳ đảng nào lên nắm quyền đều có thể làm thay đổi thái
độ của chính phủ và môi trường kinh doanh tổng thể. Sự bất ổn và thay đổi nhanh chóng về
chính trị sẽ tạo ra một môi trường rủi ro cho việc kinh doanh. Một môi trường chính trị tiêu
cực sẽ tạo ra những ảnh hưởng khác nhau đối với công ty trên thị trường nước ngoài. Nó có
thể hạn chế chương trình marketing hay việc bán sản phẩm tại thị trường đó. Nó cũng có thể
gây ra những khó khăn cho việc xin giấy phép hay việc chuyển hồi lợi nhuận về công ty mẹ
nó cũng thể tạo nên sự tẩy chay đối với một sản phẩm nào đó. Hơn thế nữa, rủi ro cũng
có thể xảy ra khi sự chuyển tài sản từ doanh nghiệp sang chính phủ không được đền
thỏa đáng. Nhà làm marketing quốc tế cần phải nghiên cứu môi trường chính trị như
một phần thiết yếu trong việc hoạch định marketing. b) Pháp luật
Môi trường pháp luật trong marketing quốc tế rất phức tạp, cùng lúc doanh nghiệp bị
ràng buộc bởi 3 hệ thống luật (i) Luật pháp quốc gia sở tại, (ii) Luật quốc tế (iii) Luật tại
quốc gia mà doanh nghiệp hoạt động.
Hệ thống pháp luật của các quốc gia rất khác nhau và phức tạp. Tất cả các quốc gia đều
ban hành những điều luật điều chỉnh về các hoạt động marketing trong quảng bá, phát triển
sản phẩm, ghi nhãn, giá cả các kênh phân phối. Kinh doanh trong môi trường quốc tế chịu
tác động trực tiếp của luật chống bán phá giá, luật chi phối trong quảng cáo, khuyến mại,
luật chi phối trong bao sản phẩm, quy chế của chính phủ đối với các văn phòng đại diện
và chi nhánh của công ty nước ngoài, các thủ tục hải quan, thuế xuất nhập khẩu, qui định
về lương thực, thực phẩm, y tế, an toàn kiểm dịch cần phải đảm bảo khi nhập khẩu… Khi
kinh doanh tại nhiều quốc gia, nhà quản trị marketing cần cảnh giác với các hệ thống pháp
luật khác nhau, thậm chí là mỗi quốc gia lại có những luật khác nhau tác động đến cùng một
hoạt động marketing. Vấn đề này đặc biệt phức tạp khi các nhà marketing xây dựng một kế
hoạch cùng thực hiện một số nước. Ví dụ khi thực hiện quảng cáo ở một số thị trường có
lOMoARcPSD| 58794847
thể gặp các hạn chế về phương tiện truyền thông hay khả năng chấp nhận các yêu cầu sáng
tạo cụ thể.
Một vài nội dung cơ bản cần lưu ý khi nghiên cứu môi trường pháp luật tại một quốc gia là:
Hệ thống luật pháp chi phối trực tiếp trong kinh doanh đối với từng quốc gia:
Thực tế kinh doanh tồn tại hai hệ thống luật bao gồm luật thành văn luật bất thành văn.
Luật bất thành văn (Thông luật common law) các quy tắc truyền thống trong quá khứ,
“giải thích pháp luật thông qua việc áp dụng các quyết định của tòa án trước đây đã giải thích
một đạo luật tương tự, hay áp dụng các quy tắc tập quán đã vào sự việc tương tự”. Luật
thành văn (Dân luật - Code law) dựa trên một hệ thống bao gồm tất cả các văn bản pháp luật
được viết ra. Mỹ và một số quốc gia sử dụng luật dựa trên các tiền lệ pháp lý từ phán quyết
trước đó của tòa án trong khi đa số các quốc gia bao gồm EU và Nhật bản căn cứ trên các
quy định pháp luật được lập thành văn bản.
Mức độ kiểm soát của chính phủ về xuất nhập khẩu và các mặt có liên quan. Hầu
hết các quốc gia đều coi nhập khẩu không lợi, ảnh hưởng đến cán cân thanh toán của
họ nên đều những biện pháp hạn chế nhập khẩu. Quy định về các sản phẩm nhập khẩu
cũng rất khác nhau ở các quốc gia. Chiến lược sản phẩm của một công ty ng có thể bị ảnh
hưởng bởi môi trường luật pháp.
Hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Ví dụ: Singapore có chế độ nhập khẩu rất
mở đối với mặt hàng thực phẩm. Tất ccác loại thực phẩm trừ đồ uống cồn và thuốc lá
đều được miễn thuế nhập khẩu. Trên thực tế không có những hàng rào phi thuế quan bởi
quá ít sản phẩm nội địa.
Một vấn đề cần quan tâm trong marketing quốc tế là khi xảy ra tranh chấp thương mại
sẽ giải quyết bằng hệ thống pháp luật của quốc gia nào? Thẩm quyền giải quyết tranh chấp
nhìn chung được quyết định theo một trong ba cách: (i) Trên cơ sở điều khoản quy định thẩm
quyền giải quyết tranh chấp được ghi trong hợp đồng, (ii) Trên cơ sở nơi mà hợp đồng đó ra
đời, hoặc (iii) trên cơ sở nơi mà các điều khoản trong hợp đồng được thực hiện.
2.1.6. Môi trường văn hóa xã hội
Các yếu tố thuộc môi trường văn hóa xã hội là ngôn ngữ, phong tục tập quán, tôn giáo,
giá trị thái độ, giáo dục, dân số, quan niệm về gia đình và xã hội.
Văn hóa ảnh hưởng đến hành vi và thái độ của khách hàng. Vì vậy các chiến lược sản
phẩm, quảng cáo, phân phối…phải xem xét yếu tố văn hóa của quốc gia công ty thâm
nhập. Trong marketing quốc tế, mỗi thị trường nước ngoài sẽ có một nền văn hóa và hành vi
khác nhau so với thị trường trong nước của công ty, thế các nhiệm vụ tình huống
marketing cũng sẽ khác nhau. Mỗi quốc gia không chỉ có một nền văn hóa duy nhất, mà hầu
lOMoARcPSD| 58794847
hết còn các nhánh văn hóa khác nhau, thường dựa trên tín ngưỡng, tôn giáo. Thông
thường, các nhánh văn hóa khác nhau schỉ ra các phân khúc thị trường khác nhau yêu
cầu một phương pháp marketing riêng biệt. Sự khác biệt vền hóa được thể hiện thông qua
các yếu tố như ngôn ngữ, tôn giáo, giá trị, thái độ, giáo dục, tổ chức xã hội...
a) Ngôn ngữ
Ngôn ngữ phương tiện giao tiếp trong một nền văn hóa. Ngôn ngữ bao gồm ngôn
ngữ có lời ngôn ngữ không lời. Ngôn ngữ là tấm gương phản ánh văn hóa của quốc gia.
Ngôn ngữ là công cụ để lưu trữ và truyền đạt thông tin, nhờ đó con người mới xây dựng và
duy trì văn a của mình. Ngôn ngữ giúp tạo dựng nhận thức về thế giới và định hình đặc
điểm văn hóa. dụ Canada sử dụng hai ngôn ngữ Anh Pháp nên hình thành hai nền
văn hóa: văn hóa Anh và văn hóa Pháp.
Sự khác biệt về ngôn ngữ ảnh hưởng đối với nhiều quyết định trong marketing.
Người làm marketing thành công phải đạt đến độ nhuần nhuyễn, thông hiểu về ngôn ngữ.
Người viết quảng cáo cần để ý đến sự khác biệt của ngôn ngữ. Các nhà ngôn ngữ học cho
rằng có ít nhất 3.000 ngôn ngữ trên thế giới, do đó đã tạo nên 3.000 nền văn hóa khác nhau.
Riêng ở Indonesia đã có tới 250 ngôn ngữ, còn ở Trung Quốc, chữ viết thống nhất nhưng lại
có tới hàng ngàn loại tiếng của các địa phương.
Sự đa dạng của ngôn ngữ chi phối các nỗ lực marketing quốc tế. Việc lựa chọn nhãn
hiệu, khẩu hiệu, những thông điệp quảng cáo đều thông qua ngôn ngữ. Một trong những khó
khăn nhất của người làm marketing quốc tế nắm bắt được những sắc thái ngôn ngữ khác
nhau của các nước. Mỗi quốc gia có bản sắc văn hóa riêng quyết định mạnh mẽ đến hành vi,
thái độ, tâm lý, sở thích… của người tiêu dùng quốc gia đó. Cũng như từ ngữ, ngôn ngữ
cử chỉ cũng truyền tải nhiều ý nghĩa khác nhau. Ví dụ, vòng ngón tay cái và ngón trỏ thành
một vòng tròn rất nhiều ý nghĩa. được, tốt với người Mỹ hầu hết các nước
Châu Âu, với người Nhật nó có nghĩa tiền, khiếm nhã đối với người Braxin, trong khi
với các nước Châu Mỹ Latinh nó có nghĩa là một cử chỉ thô tục.
b) Tôn giáo
Tôn giáo là động cơ của hành vi và là cơ sở cho hầu hết các giá trị và thái độ của khách
hàng. Nhà marketing quốc tế cần một số kiến thức về truyền thống tôn giáo của quốc gia để
hiểu được hành vi của người tiêu dùng đó. Tôn giáo cũng một nhân tố ảnh hưởng khá
mạnh đến thái độ của mọi người đối với việc mua sắm và cách thức tiêu dùng. Nếu hiểu theo
mức độ thấp thì điều này có nghĩa là việc tiêu thụ thực phẩm nhiều hay ít, mua sắm… có liên
quan đến các ngày lễ tôn giáo. Ví dụ các giai đoạn ăn kiêng (tháng ăn kiêng Ramadann của
người đạo Hồi), việc tránh ăn những loại thực phẩm (người đạo Hồi tránh ăn thịt heo, người
theo đạo Hindu tránh ăn thịt bò), lễ Giáng sinh và lễ Phục sinh…
lOMoARcPSD| 58794847
Hoạt động marketing trên toàn thế giới đều bị ảnh hưởng bởi các đức tin tôn giáo.
Không một ấn phẩm nào ở Arab được phép in hình mộtgái lên đó. Váy áo không có tay
được coi là sự xúc phạm đối với các quy định của đạo Hồi, và vì thế tất cả các quảng cáo có
hình ảnh tương tự đều bị cấm ngặt ở Malaysia.
Người làm marketing nếu hiểu ít hoặc không am hiểu về tôn giáo thể tình xúc
phạm đến tín ngưỡng của một nhóm người. Thương hiệu thời trang Chanel của Pháp đã
tình báng bổ kinh Koran bằng việc thêu một số câu từ thiêng liêng của Hồi giáo lên một số
mẫu váy trong bộ sưu tập mùa hè của họ. Nhà thiết kế nói rằng ông ấy đã sử dụng mẫu thiết
kế mà ông thấy đẹp về mặt thẩm mỹ từ một cuốn sách ở đền thời Taj Mahal ở Ấn Độ và ông
ấy không biết gì về ý nghĩa của nó. Điều này đã khiến người Hồi giáo cảm thấy bất bình. c)
Giá trị, thái độ
Giữa các quốc gia cũng sự khác biệt về thái độ giá trị. Chẳng hạn, trong hội
Mỹ người nông dân luôn được kính trọng nhưng ở rất nhiều nước thì nông dân chỉ được coi
thiếu giáo dục không tinh tế. Do những suy nghĩ khác nhau về văn hóa đó nên chiến
dịch quảng cáo của một công ty sản xuất thiết bị nông nghiệp dựa vào sự khẳng định chất
lượng của những tiểu nông gây ra những khó chịu cho khách hàng Châu Âu.
Quan niệm về thời gian tiền bạc cũng rất khác nhau các quốc gia. Người Mỹ
xu hướng coi trọng thời gian- kể cả thời gian làm việc và thời gian nghỉ ngơi, bởi vì họ quan
niệm “thời gian là vàng bạc”. Họ thường cho rằng mọi việc cần được giải quyết hoàn thành
càng nhanh càng tốt và không có thời gian để lãng phí hay để dành. Ngược lại, một số nước
thuộc Đông Âu lại có cả những lớp huấn luyện cho việc trả giá và đánh cờ. Họ kiên nhẫn
thận trọng trước khi hành động và thường bỏ thêm thời gian chỉ đạt được chút ưu thế trong
toàn bộ quá trình đàm phán. Nói chung, người Châu Á thường không đúng giờ nhưng lại rất
coi trọng thời gian trong một số khía cạnh, thường quan tâm đến “giờ tốt, ngày tốt” khi bắt
đầu hay thực hiện các việc quan trọng.
Màu sắc cũng có ý nghĩa riêng sở thích về màu sắc được quy định tùy vào từng nền
văn hóa. Do tập quán sự cấm đoán, một số màu sắc bị cho là mang ý nghĩa xấu. Một số
loại màu được cho tốt và chấp nhận được một nền văn hóa lại có thể không phù hợp
nền văn hóa khác. dụ, Châu Phi, màu vàng nghĩa bệnh tật; Màu đỏ với người Trung
quốc may mắn trong khi người Mỹ Nhật lại không thích màu đỏ. Các nhà quản trị
Marketig nên cẩn trọng trong việc sdụng màu thích hợp với các sản phẩm của mình vì việc
sử dụng màu sắc không đúng có thể tạo ra hoặc phá vỡ một hợp đồng. Ví dụ, bút màu trắng
của Parker không được ưa chuộng Trung Quốc nơi màu trắng màu của đám tang.
Sản phẩm bút màu xanh cũng gặp phải sự thất bại Ấn độ, nơi màu này đồng nghĩa
với sự không may mắn.
lOMoARcPSD| 58794847
d) Giáo dục
Tài nguyên tận của mỗi quốc gia không phải tài nguyên thiên nhiên là tài
nguyên nhân lực. Đối với các quốc gia, giáo dục đóng vai trò quan trọng trong việc vượt qua
chia sẻ những trở ngại về văn hóa. Trình độ văn hóa của mỗi quốc gia có thể đánh giá qua
tỷ lệ người biết đọc, biết viết, tỷ lệ tốt nghiệp trung học, cao đẳng, đại họcChất lượng giáo
dục ảnh hưởng nhiều đến việc áp dụng trang thiết bị hiện đại vào quảng cáo và lựa chọn sản
phẩm thâm nhập thị trường. Trên thị trường có tỷ lệ người mù chữ cao thì hoạt động quảng
cáo cần tăng cường sử dụng các phương tiện nghe nhìn hơn các phương tiện in ấn.
e) Gia đình
Trong các nền văn hóa khác nhau, vai trò gia đình các thành viên trong gia đình cũng
khác nhau. Chúng ta có thể thấy sự khác biệt về độ lớn của gia đình, vai trò người phụ nữ và
nhiều nhân tố khác chúng ta cần quan tâm. Đặc biệt khi gia đình là nhóm đối chiếu căn
bản được xem chỉ số quan trọng cho tính cách tiêu thụ, sự khác biệt này càng trở nên
quan trọng.
gia đình đóng vai trò quan trọng như một đơn vị tiêu thụ, nhà nghiên cứu
marketing cần hiểu biết về vai trò cấu trúc của chúng thay đổi theo quốc gia. Mỹ, từ
“family” mang nghĩa hẹp nhất khi bao gồm người chồng, người vợ con của họ (nếu
có). Ở những quốc gia khác, từ này mang nghĩa rộng hơn vì nó mang nghĩa một đại gia đình
hay gia đình mối quan hệ máu mủ ruột thịt, một gia đình thể bao gồm nhiều thế hệ
hoặc cũng có thể bao gồm tất cả các thành viên trong gia đình như chú, dì, anh em họ…
Ngoài ra, còn cần chú ý đến vai trò từng cá nhân trong gia đình, sự tương tác giữa các
thành viên và vai trò xã hội của họ. Mỗi thành viên hoạt động vừa như một người cố vấn vừa
như người cung cấp thông tin. Mỗi thành viên một đơn vị tiêu dùng nhỏ nghĩa mỗi thành
viên chia sẻ tổng số các sản phẩm, đặc biệt là những sản phẩm lâu bền hoặc những sản phẩm
ảnh hưởng tới ngân sách gia đình. Những hiểu biết như vậy rất cần thiết cho việc marketing
sản phẩm tiêu dùng có tác động đến chính sách truyền thông lẫn chính sách sản phẩm.
Một nhà hoạt động marketing phải xác định hình thức ra quyết định liên quan đến sản phẩm.
Cụ thể là, nhà quản trị marketing thể đưa ra nỗ lực xúc tiến về phía ra quyết định mua
hàng. Bởi vậy, cân nhắc và đánh giá mức ảnh hưởng tương đối của vợ hay chồng trong quá
trình ra quyết định là hữu ích.
f) Tổ chức xã hội
Tổ chức hội liên quan đến các vai trò được thực hiện bởi các nhân các nhóm
trong một hội các mối quan hệ giữa các nhân các nhóm. nhiều loại nhóm
trong một quốc gia mà họ mối quan tâm của nhà marketing quốc tế, như là: gia đình, bộ
lOMoARcPSD| 58794847
tộc, (hoặc là) những nhóm chủng tộc khác, tầng lớp hay giai cấp. Cũng có những nhóm cần
quan tâm đặc biệt như hiệp hội, nhóm người tiêu dùng, câu lạc bộ và hội phụ nữ.
Trong tổ chức xã hội, có một số cá nhân có thể tạo ranh hưởng đáng kể đến các thành
viên khác để gây ảnh hưởng tới suy nghĩ và hành vi theo một hướng mong muốn. Những cá
nhân này được biết đến như người lãnh đạo ý kiến. Trong hoạt động marketing quốc tế, các
công ty đa quốc gia cố gắng kêu gọi người lãnh dạo ý kiến bởi ý kiến của họ ảnh hưởng
lớn tới ý kiến của những người khác. Chẳng hạn hãng BMW bán xe hơi của mình chiết
khấu cho các nhà ngoại giao, vì họ tin rằng những người này sẽ tạo ra sự chú ý về loại xe hơi
mà họ lái đang chiếm lĩnh thị trường.
2.2. Nghiên cứu marketing quốc tế
2.2.1. Các vấn đề cơ bản trong nghiên cứu marketing quốc tế
Sự phức tạp của môi trường kinh doanh quốc tế cùng với việc thiếu kiến thức, thiếu
thông tin của thị trường nước ngoài khiến cho hoạt động marketing quốc tế gặp nhiều khó
khăn, phức tạp hơn nhiều so với marketing tại thị trường trong nước. Điều này nhấn mạnh
tầm quan trọng của việc tiến hành nghiên cứu trước khi đưa ra quyết định và đưa ra chiến
lược marketing quốc tế.
Nghiên cứu marketing quốc tế là công cụ giúp giảm thiểu rủi ro trong quá trình ra
quyết định, dù là quyết định gia nhập thị trường ban đầu, định vị sản phẩm hoặc xây dựng
chương trình marketing mix hay các chiến lược mở rộng sau đó. Nghiên cứu marketing là
cần thiết để tránh những sai lầm do chiến lược không phù hợp và tránh khả năng đánh mất
cơ hội trên thị trường quốc tế. Nghiên cứu marketing là cần thiết để xác định mức độ phối
hợp giữa các hoạt động quốc tế giữa các quốc gia để tận dụng các sức mạnh tổng hợp phát
sinh từ hoạt động marketing trong môi trường toàn cầu.
Nghiên cứu marketing quốc tế có thể được định nghĩa là một quá trình thu thập, xử lý
diễn giải thông tin thường xuyên khách quan, cần thiết để đưa ra các quyết định
marketing trên thị trường quốc tế.
Nghiên cứu marketing quốc tế không phải là sự mở rộng của nghiên cứu trong nước
thị trường mục tiêu ở nước ngoài. Việc ứng dụng marketing quốc tế đòi phải có sự tìm hiểu
chính xác nhu cầu, đặc nh người tiêu dùng đặc điểm hành vi của họ. Nghiên cứu
marketing quốc tế là phương tiện để các doanh nghiệp có thể thu thập, xử lý thông tin và dữ
liệu thị trường để xây dựng các chiến lược, chương trình và các quyết định phù hợp với từng
thị trường mục tiêu.
Phạm vi hoạt động của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế và mức độ mạo hiểm của
doanh nghiệp sẽ quyết định quy nghiên cứu marketing của nó. Nghiên cứu marketing
quốc tế là cần thiết để quyết định những thị trường nước ngoài nào cần thâm nhập và đối với
lOMoARcPSD| 58794847
từng thị trường thì phương thức xâm nhập nào tốt nhất. Nghiên cứu marketing quốc tế
giúp ích cho việc xác định các hội cũng như vấn đề nảy sinh. Sự khác biệt căn bản giữa
nghiên cứu marketing quốc tế và trong nước là phạm vi nghiên cứu rộng hơn và tính không
ổn định cao hơn.
Marketing quốc tế thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Xét về loại hình
cơ bản của dự án nghiên cứu, nghiên cứu marketing quốc tế được phân thành:
Nghiên cứu so sánh (Comparative research): bao gồm so sánh các hiện tượng và
quá trình nghiên cứu, cũng như các điều kiện xảy ra các quốc gia khác nhau để từ đó xác
định những điểm khác biệt tương đồng giữa chúng. Skhác biệt giữa các thị trường
thể xuất phát từ sự khác biệt của các yếu tố môi trường chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và
công nghệ, cũng có thể từ sự khác biệt trong hành vi của người tiêu dùng và các tổ chức. Khi
nghiên cứu so sánh cần chú ý đến tính đồng bộ tức là cùng thời điểm hoặc cùng khoảng thời
gian nghiên cứu.
Nghiên cứu tương tác (Interactive research): tập trung vào nghiên cứu sự tác động
giữa các nhân cũng như các nhóm từ các quốc gia (nền văn hóa) khác nhau. Nghiên cứu
này liên quan đến các tương tác thông thường giữa con người, tổ chức, người mua và người
bán, người lao động và người quản lý ở các quốc gia và nền văn hóa khác nhau.
2.2.2. Nguồn thông tin nghiên cứu trong marketing quốc tế
a) Thông tin nghiên cứu trong marketing quốc tế
Nhu cầu thông tin trong nghiên cứu marketing quốc tế tùy thuộc vào kinh nghiệm của
doanh nghiệp và mức độ tham gia vào thị trường quốc tế. Trong giai đoạn đầu xâm nhập thị
trường, cần các thông tin để đánh giá các cơ hội và rủi ro ở các quốc gia khác nhau trên
thế giới và lập kế hoạch thâm nhập thị trường quốc tế cũng như phương thức hoạt động. Sau
khi các quyết định gia nhập được đưa ra, sự chú ý sẽ chuyển sang các vấn đề liên quan đến
các quyết định marketing hỗn hợp như phát triển sản phẩm mới, nội dung quảng cáo
nghiên cứu phương tiện truyền thông, độ nhạy cảm về giá. Khi kinh nghiệm trên thị trường
phát triển các hoạt động trở nên phổ biến hơn, doanh nghiệp sẽ chú trọng đến xây dựng
hệ thống thông tin toàn cầu để phân bổ nguồn lực giữa các thị trường các quốc gia, tận
dụng lợi thế thông qua hội nhập và phối hợp chiến lược quốc tế.
Thông tin thâm nhập thị trường quốc tế
Khi thu thập thông tin cho các quyết định gia nhập thị trường, người nghiên cứu sẽ cần
dữ liệu ở hai cấp độ:
(1) Thông tin liên quan đến môi trường kinh doanh chung ở một quốc gia hoặc khu
vực. Ví dụ như tình hình chính trị, môi trường pháp lý, quy mô tăng trưởng thị trường, cơ sở
lOMoARcPSD| 58794847
hạ tầng thị trường… Đây là các thông tin hết sức quan trọng để xác định sự hấp dẫn của thị
trường và phương thức gia nhập hoặc hoạt động phù hợp trên thị trường.
(2) Thông tin liên quan đến thị trường sản phẩm hoặc ngành dịch vụ cụ thể mà công
ty dự định tham gia, bao gồm tiềm năng bán hàng, tốc độ tăng trưởng thị trường, cấu trúc thị
trường sản phẩm, nguồn cạnh tranh trực tiếp và gián tiếp, tình hình cạnh tranh…
Sau khi thu thập thông tin, các nhà nghiên cứu tiến hành phân tích, đánh giá mức độ
hấp dẫn và ước lượng mức cầu thị trường.
Thông tin để lập kế hoạch thị trường
Trong giai đoạn này, tập trung nghiên cứu các thông tin đánh giá các yếu tố marketing
hỗn hợp.
- Đánh giá mức độ cần thay đổi của sản phẩm và định vị cho phù hợp thị
trường nước ngoài. Các sản phẩm có thể thu hút các phân khúc khách hàng khác nhau
các lợi ích cũng như sở thích mong muốn của khách hàng có thể khác nhau giữa các
quốc gia. Sự thay đổi về sản phẩm định vị khả năng làm tăng doanh số như thế
nào, cũng như mức độ mở rộng khách hàng hay tăng cường thâm nhập thị trường.
- Thử nghiệm đánh giá hiệu quả của quảng cáo tại các thị trường địa
phương.
- Đánh giá độ nhạy cảm về giá. Giữa các quốc gia khác nhau sẽ có sự khác
biệt về
thu nhập, phân khúc khách hàng, sản phẩm cạnh tranh thay thế, nhận thức về giá nên phản
ứng với từng mức giá sản phẩm sẽ khác nhau.
- Xác định kênh phân phối phù hợp: đánh giá mức độ quan tâm đến dịch
vụ, giao hàng, sự thuận tiện, sở thích đối với các phương thức phân phối khác nhau..sẽ
khác nhau giữa các quốc gia và ảnh hưởng đến hiệu quả và khả năng tiếp cận của các
kênh phân phối.
- Đánh giá cơ hội cho các sản phẩm và dịch vụ mới.
Thông tin toàn cầu
Trong giai đoạn này, người nghiên cứu quan tâm đến sự phối hợp và tích hợp chiến lược
giữa các quốc gia, đòi hỏi phải thu thập thông tin trên cơ sở toàn cầu. Thông tin về thị hiếu,
sở thích của người tiêu dùng được thu thập từng quốc gia cần được tổng hợp để xác định
những điểm chung giữa các quốc gia cũng như các xu thế mới. Điều này cung cấp cơ sở để
lập kế hoạch marketing toàn cầu. Đồng thời, cần chế chuyển giao thông tin, kinh
nghiệm và ý tưởng từ thị trường này sang thị trường khác, điều phối thông tin giữa các quốc
lOMoARcPSD| 58794847
gia. Nhu cầu tích hợp dữ liệu từ các nguồn bên trong và bên ngoài đặt ra vấn đề phải hệ
thống thông tin toàn cầu để theo dõi xác định cách tốt nhất để phân bnguồn lực toàn
cầu.
b) Dữ liệu thứ cấp (Secondary data)
Dữ liệu thứ cấp là dữ liệu sẵn có, được thu thập từ trước cho các mục đích khác.
Trong marketing quốc tế, nguồn dữ liệu thứ cấp được chia thành các loại sau:
Nguồn dữ liệu nội bộ: có sẵn trong công ty, trong quá trình hoạt động trên thị
trường quốc tế. Đó dữ liệu về kết quả kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty vào một
quốc gia nào đó, thông tin về hình hình tiêu thụ sản phẩm theo thị trường, các thị trường
thâm nhập, tình hình tồn kho… Dữ liệu về các khía cạnh khác nhau của hoạt động kinh doanh
được thu thập trong khoảng thời gian không gian xác định, đối tượng cụ thể (theo phân khúc
khách hàng và phân khúc sản phẩm).
Nguồn dữ liệu bên ngoài từ trong nước: thu thập được từ các tổ chức hành chính
kinh tế, các hiệp hội, viện nghiên cứu, các quan thống kê, các trung tâm nghiên cứu
khoa học…
Nguồn dữ liệu thu thập được từ nước ngoài: Bao gồm dữ liệu từ các tổ chức, cơ
quan thống quốc tế; số liệu thống kê chính thức của quốc gia; tài liệu thông tin nước ngoài
được xuất bản bởi các tổ chức chuyên gia (ví dụ: phòng thương mại, hiệp hội thương mại và
tổ chức thương mại, viện nghiên cứu kinh tế và giá cả, cơ quan nghiên cứu); và các ấn phẩm
khác (ví dụ: sách chuyên khảo thị trường, báo chí chuyên ngành, tạp chí tổng hợp).
Khi tiến hành nghiên cứu về hành vi thị trường, nhà nghiên cứu marketing quốc tế
thường bắt đầu từ các dữ liệu thứ cấp, ưu điểm của những dữ liệu này là lượng thông
tin phong phú, phạm vi bao quát. Trong một số trường hợp, dữ liệu thứ cấp sau khi
được xử lý có thể đủ dùng để ra các quyết định marketing. Tuy nhiên, khi sử dụng dữ
liệu thứ cấp cần phải đánh giá cẩn thận về độ tin cậy của nguồn tin, độ chính xác,
tính sẵn có và khả năng so sánh của dữ liệu.
Sử dụng nguồn dữ liệu thứ cấp có thể gặp một số hạn chế sau:
Sự giới hạn hay thiếu hụt một số loại thông tin, đặc biệt với các nước đang phát
triển, nơi có thể gặp những khó khăn khi thu thập thông tin về mức thu nhập của người dân,
giá bán lẻ, cơ sở hạ tầng thương mại…
Khả năng so sánh hạn chế do các phương pháp thu thập, tổng hợp phân loại
dữ liệu khác nhau, cũng như tần suất thực hiện các loại nghiên cứu khác nhau (ví dụ dữ liệu
thổng điều tra dân số được tổ chức ở các nước phát triển 10 năm một lần và ở các nước đang
phát triển 20 năm hoặc 25 năm một lần hoặc hoàn toàn không được tiến hành).
lOMoARcPSD| 58794847
Độ chính xác của dữ liệu hạn chế do những khó khăn trong đo lường đặc điểm
kinh tế hoặc văn hóa cụ thể của các quốc gia khác nhau.
Độ chính xác của dữ liệu hạn chế do thông tin thu được thu thập cho các mục
đích khác không phù hợp mục tiêu nghiên cứu vấn đnghiên cứu hiện tại doanh
nghiệp đang quan tâm.
Hiệu lực hạn chế do khoảng thời gian giữa thu thập dữ liệu và công bố dữ liệu.
Độ tin cậy của thông tin hạn chế, đặc biệt các thông tin được công bố trên
báo chí với phục vụ mục đích tạo hình ảnh tích cực cho doanh nghiệp.
c) Dữ liệu sơ cấp (Primary Data)
Trường hợp dữ liệu thứ cấp không cung cấp đầy đủ thông tin đầu vào cho việc ra quyết
định, việc thu thập dữ liệu cấp cần thiết. Việc thu thập dữ liệu cấp thường đòi hỏi
chi phí cao hơn. Những khó khăn trong nghiên cứu marketing quốc tế và thiếu kinh nghiệm
ở thị trường nước ngoài sẽ khiến dữ liệu cần thu thập sẽ nhiều hơn, độ chính xác và tin cậy
cũng kém hơn so với các nghiên cứu tiến hành trong nước.
Việc thu thập dữ liệu cấp rất quan trọng đối với nhiều quyết định marketing chiến
lược chiến thuật. rất cần thiết trong thử nghiệm các sản phẩm mới hoặc khái niệm
mới, đánh giá quảng cáo hay độ nhạy cảm về giá. Dữ liệu cấp thể được thu thập bởi
các kỹ thuật định nh như nhóm tập trung hoặc phỏng vấn sâu với yêu cầu cỡ mẫu nhỏ hoặc
các kỹ thuật điều tra đòi hỏi cỡ mẫu lớn.
Các kỹ thuật thu thập dữ liệu định tính rất hữu ích trong các giai đoạn nghiên cứu ban
đầu để xác định cấu trúc, định nghĩa loại sản phẩm hoặc thái độ hành vi liên quan sẽ được
kiểm tra trong các giai đoạn nghiên cứu tiếp sau. Trong nghiên cứu marketing quốc tế, điều
này thuận lợi cho nhà nghiên cứu không quen thuộc với thị trường.
Các phương pháp nghiên cứu phổ biến Quan sát (Observation), Nghiên cứu thực
nghiệm (Experimentation) và Điều tra khảo sát (Survey).
Nghiên cứu khảo sát phương pháp thu thập dữ liệu được sử dụng phổ biến nhất trong
nghiên cứu marketing quốc tế. Lợi thế của dữ liệu được thu thập xử từ các mẫu
lớn. Việc sử dụng khảo sát trong nghiên cứu marketing quốc tế gặp nhiều khó khăn, phát
sinh từ việc thu thập dữ liệu trong nhiều môi trường văn hóa hội ngôn ngữ đa dạng.
Do đó cần hết sức thận trọng trong việc thiết kế câu hỏi để tránh những hiểu nhầm của người
trả lời, đặc biệt là những người có trình độ học vấn thấp. Kích cỡ mẫu và quy trình khảo sát
cũng cần được thiết kết cẩn thận để tránh các sai lệch phát sinh từ việc không phản hồi hoặc
không tương tác giữa người phỏng vấn và người trả lời.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58794847 Chương 2
MÔI TRƯỜNG VÀ NGHIÊN CỨU MARKETING QUỐC TẾ
TÓM TẮT KIẾN THỨC CHƯƠNG
Nội dung chương 2 đề cập đến các ảnh hưởng của các yếu tố môi trường đến hoạt động
marketing quốc tế. Từ đó cho thấy việc nghiên cứu marketing quốc tế có ý nghĩa vô cùng
quan trọng trong quá trình hoạch định và đề ra các quyết định marketing tại thị trường nước ngoài.
Chương 2 nêu ra một số khác biệt của môi trường marketing quốc tế và một số lưu ý
khi thu thập số liệu và thực hiện quá trình nghiên cứu marketing tại thị trường nước ngoài.
2.1. MÔI TRƯỜNG MARKETING QUỐC TẾ
Sự khác biệt cơ bản giữa marketing trong nước và marketing trên phạm vi quốc tế là
tính đa chiều và phức tạp của các thị trường nước ngoài mà doanh nghiệp đang hoạt động.
Khi kinh doanh trên phạm vi quốc tế, doanh nghiệp chịu sự tác động của các yếu tố môi
trường quốc gia và quốc tế. So với môi trường nội địa, các yếu tố môi trường mà doanh
nghiệp phải đương đầu trong kinh doanh quốc tế rất rộng lớn và đa chiều. Bởi vì mỗi quốc
gia đều có hệ thống luật pháp, văn hóa, ngôn ngữ, điều kiện khí hậu địa hình… khác biệt.
Các yếu tố môi trường marketing tác động đến doanh nghiệp bao gồm cả các yếu tố doanh
nghiệp có thể kiểm soát được và không kiểm soát được.
Các yếu tố môi trường mà doanh nghiệp kiểm soát được là các yếu tố cơ bản của
marketing - mix, là kết quả hoạt động sáng tạo của các yếu tố nội tại như con người, công
nghệ… Các yếu tố bên ngoài không kiểm soát được bao gồm các yếu tố môi trường quốc gia
và yếu tố môi trường quốc tế doanh nghiệp không kiểm soát được bao gồm các yếu tố như:
• Môi trường nhân khẩu học (Demographic environment)
• Môi trường kinh tế (Economic environment)
• Môi trường tự nhiên (Natural environment)
• Môi trường văn hóa (Cultural environment)
• Môi trường chính trị - pháp luật (Political& Legal environment)
• Môi trường công nghệ (Technological environment)
2.1.1. Môi trường nhân khẩu học
Môi trường nhân khẩu học mô tả những đặc trưng cơ bản nhất liên quan đến con người
ở mỗi quốc gia. Sự khác biệt của các yếu tố nhân khẩu học sẽ dẫn tới sự khác biệt về quy
mô, cơ cấu hàng hóa tiêu thụ, chủng loại, khối lượng hàng hóa được đóng gói, tiêu thụ trên lOMoAR cPSD| 58794847
mỗi khu vực. Nhân khẩu học là khoa học nghiên cứu về con người trên các khía cạnh như
quy mô dân số và sự chuyển dịch dân cư, cơ cấu theo độ tuổi, giới tính, quy mô cơ cấu hộ
gia đình, hình dáng tầm vóc người tiêu dùng, xu hướng kết hôn và ly hôn... Đây chính là
những chỉ dẫn quan trọng trong việc đánh giá thị trường tiêu dùng tiềm năng. Những thay
đổi về nhân khẩu học của các thị trường trên thế giới sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến nhu cầu tiêu dùng trong tương lai.
• Quy mô dân số và sự chuyển dịch dân cư
Ước tính dân số hiện tại toàn thế giới là trên 8 tỷ người, trong đó 85% tập trung ở các
khu vực kém phát triển. Hơn 1,2 tỷ việc làm mới phải được tạo ra để đáp ứng cho lực lượng
lao động tăng thêm, nhất là khu vực đô thị, nơi hầu hết dân số sẽ cư trú.
Di cư từ nông thôn ra thành thị, bao gồm cả di cư nội địa và quốc tế, chủ yếu là kết quả
của một ham muốn tiếp cận nhiều hơn với các nguồn giao dục, y tế và các cơ hội cải thiện
công việc. Đầu những năm 1800, chỉ có dưới 3,5% dân số thế giới sống tại các thành phố có
20.000 cứ dân hoặc nhiều hơn. Ngày nay, 40% dân số thế giới là dân thành thị và xu hướng
này ngày càng gia tăng. Đến năm 2030, ước tính sẽ có 61% dân số thế giới sẽ sống ở các khu
vực đô thị, ít nhất 27 thành phố có dân số là 10 triệu người trở lên, 23 trong số đó ở khu vực
các nước kém phát triển. Sự chuyển dịch dân số này sẽ dẫn đến sự thay đổi vị trí, nhu cầu
cũng như thứ tự các sản phẩm ưu tiên khi mua hàng tại các thị trường.
Các doanh nghiệp cần lưu ý đến xu hướng này khi thâm nhập các thị trường nước ngoài. • Sự già hóa dân số
Trong khi thế giới đang phải đối mặt với dân số ngày càng tăng nhanh thì dân số của
các nước công nghiệp đang suy giảm nhanh chóng và già hóa. Tăng trưởng dân số ở nhiều
nước phát triển đã giảm xuống dưới mức cần thiết để duy trì mức độ dân số hiện tại. Ngoài
ra, dân số hiện nay đang có xu hướng già hóa. Liên hợp quốc dự kiến vào năm 2050 số lượng
người trong độ tuổi 65-84 trên toàn thế giới sẽ tăng lên gấp ba, số người từ 85 tuổi trở lên sẽ
tăng lên gấp 6 lần hiện tại. Các quốc gia có dân số già đang phải đối mặt với chi phí cao về
lương hưu và chăm sóc y tế cho người già. Sự già hóa của đội ngũ lao động cũng kéo theo
sự suy giảm của công nhân có tay nghề cao. Nhiều quốc gia phải kéo dài độ tuổi của người
lao động hay thay đổi pháp luật hiện hành nhằm ổn định tỷ lệ lao động. Tuy nhiên, dân số
già hóa lại là tin vui cho một số ngành như dịch vụ chăm sóc sức khỏe, dịch vụ tài chính, du lịch và giải trí…
• Sự khác biệt giữa các thế hệ:
Thế giới ngày càng phát triển, sự thay đổi giữa các thế hệ ngày càng rõ ràng, nhất là
với các nhóm như thế hệ X, thế hệ Y và thế hệ Z. Và chính sự khác biệt này đã tạo ra những
tác động khác nhau của họ với các chiến lược marketing hiện tại. lOMoAR cPSD| 58794847
• Sự thay đổi trong cấu trúc gia đình
Gia đình là một đơn vị cơ bản làm nền tảng cho hành vi xã hội và kinh tế trong hầu hết
các quốc gia. Do đó, các nhà làm marketing cần hiểu các dạng cấu trúc gia đình tại mỗi quốc
gia, để từ đó xây dựng chiến lược marketing phù hợp với thị trường mục tiêu hướng đến.
Thực tế hiện nay trên thế giới cũng như ở Việt Nam, ngày càng nhiều người trẻ không muốn
kết hôn, số lượng mẹ đơn thân, bố đơn thân ngày càng gia tăng. Thêm vào đó, tỷ lệ ly hôn,
ly thân có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây. Theo đó, khi xã hội ngày càng phát
triển, người phụ nữ tham gia rất nhiều công việc, có vị thế ngày càng cao trong xã hội, họ có
xu hướng tự chủ hơn và ít bị ràng buộc bởi những mối quan hệ hôn nhân gia đình. Thực
trạng này tác động mạnh mẽ đến hành vi tiêu dùng sản phẩm, gia tăng các sản phẩm phục vụ
cho các gia đình quy mô nhỏ thay cho các sản phẩm phục vụ gia đình lớn trước đây.
2.1.2. Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế liên quan đến tất cả các yếu tố góp phần tạo nên sức hấp dẫn của
thị trường mục tiêu. Bản chất của việc đánh giá môi trường kinh tế của một quốc gia là xác
định quy mô và tiềm năng thị trường của nó. Các yếu tố chủ chốt trong môi trường kinh tế
của một quốc gia mà doanh nghiệp thường quan tâm là tốc độ phát triển kinh tế, tỷ lệ lạm
phát, tỷ giá hối đoái, mức sống dân cư, cơ sở hạ tầng và tốc độ đô thị hóa.
 Tốc độ phát triển kinh tế của quốc gia
Quy mô của một nền kinh tế thể hiện bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng
sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc tổng sản phẩm bình quân đầu người hoặc thu nhập bình quân
đầu người. Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng GDP hoặc GNP hoặc thu nhập bình quân đầu
người trong một thời gian nhất định.
Tăng trưởng kinh tế ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ hàng hóa của thị trường. Khi một
quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao, khả năng tiêu thụ hàng hóa trên thị trường tăng lên, nhu
cầu nhập khẩu và khả năng trao đổi hàng hóa cũng lớn hơn. Khi thị trường có tốc độ tăng
trưởng kinh tế giảm, lạm phát ra tăng, người tiêu dùng trên thị trường đó sẽ hạn chế mua sắm
các sản phẩm xa xỉ, thắt chặt chi tiêu, tăng cường tiết kiệm. Điều đó sẽ dẫn đến tình trạng
người tiêu dùng trên thị trường tăng cường tích lũy, gia tăng mua hàng hóa có giá rẻ. Một số
người tiêu dùng gác lại việc mua hàng hóa tiêu dùng lâu bền, một số khác lại tăng cường
mua sắm vì sợ rằng thời gian tới giá tăng lên. Yếu tố này tác động làm cho thị trường biến
động bất ổn, giảm khả năng an toàn trong kinh doanh của các doanh nghiệp.  Lạm phát
Lạm phát là sự gia tăng mức giá chung của hàng hóa và dịch vụ trong một quốc gia,
dẫn đến sự suy giảm sức mua của người tiêu dùng trong nền kinh tế đó. Khi so sánh với các
nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ lOMoAR cPSD| 58794847
khác. Lạm phát là chỉ số quan trọng với các nhà làm marketing quốc tế bởi các lý do: - Lạm
phát ảnh hưởng đến khả năng mua hàng hóa dịch vụ của người tiêu dùng. -
Tỷ lệ lạm phát cao góp phần gây bất ổn chính trị và kinh tế. Một công ty quốc tế
hoạt động tại các thị trường này sẽ gặp khó khăn trong chiến lược định giá và nỗ lực kiểm soát chi phí. -
Lạm phát làm tăng giá cả của các yếu tố sản xuất trên thị trường có liên quan.
Lạm phát cao làm cho giá trị doanh thu tính bằng đồng nội tệ giảm và điều này khiến các
doanh nghiệp gặp rủi ro ngoại hối. Điều tồi tệ hơn khi các doanh nghiệp sản xuất ở quốc gia
có lạm phát cao xong bán sản phẩm cho các quốc gia có lạm phát thấp, vì chi phí đầu vào
tăng lên trong khi doanh thu vẫn ổn định. • Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái đóng vai trò chính trong thương mại quốc tế, nó cho phép so sánh giá
cả của các hàng hóa và dịch vụ sản xuất trên các nước khác nhau. Giá hàng xuất khẩu của
một nước sẽ được tính theo giá của nước nhập khẩu nếu biết tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền
của hai nước. Khi đồng tiền của một nước mất giá, người nước ngoài nhận ra rằng, giá hàng
xuất khẩu của nước này rẻ đi, và người dân trong nước nhận thấy hàng nhập từ nước ngoài
đắt lên. Sự tăng giá có hiệu quả ngược lại: người nước ngoài sẽ phải trả nhiều hơn cho sản
phẩm của nước này, và người dân trong nước phải trả ít hơn cho hàng hóa của nước ngoài.
Chính vì điều này mà tỷ giá hối đoái được sử dụng để điều tiết chính sách khuyến khích xuất
khẩu hay nhập khẩu hàng hóa của một nước. • Mức sống dân cư
Mức sống của người tiêu dùng ở mỗi quốc gia cũng tác động mạnh đến nền kinh tế và
khả năng tham gia vào thương mại quốc tế của quốc gia đó. Nếu căn cứ vào mức sống, có
thể chia các quốc gia trên thế giới thành 5 nhóm: -
Nhóm 1: Các quốc gia có mức sống thấp, phần lớn nền kinh tế trong nước xây
dựng trên cơ sở tự cung tự cấp, các sản phẩm sản xuất đơn giản, trình độ công nghệ lạc hậu. -
Nhóm 2: nhóm các quốc gia có mức sống tương đối thấp, phần lớn hàng hóa tiêu
dùng được sản xuất bởi các doanh nghiệp trong nước. Các quốc gia này có khả năng trao đổi
với bên ngoài hạn chế. -
Nhóm 3: nhóm các quốc gia có mức sống chênh lệch, được đặc trưng bởi tình
hình thị trường khá đặc biệt. Đại bộ phận dân cư có mức sống thấp dựa vào sản xuất nông
nghiệp, tuy nhiên đã hình thanh một bộ phận người tiêu dùng giàu có, có khả năng tiêu dùng hàng nhập khẩu. lOMoAR cPSD| 58794847 -
Nhóm 4: nhóm các quốc gia có mức sống chênh lệch. Trong nền kinh tế tồn tại
tầng lớp giàu có và tầng lớp nghèo khó. Giữa hai tầng lớp này hình thành một tầng lớp người
trung lưu do quá trình công nghiệp hóa mang lại. Quốc gia thuộc nhóm này hình thành thị
trường tiêu dùng tương đối phong phú với tất cả các loại hàng hóa. -
Nhóm 5: nhóm các quốc gia có mức sống cao. Đặc trưng cơ bản của nhóm quốc
gia này là khoảng cách thu nhập ngày càng bị thu hẹp. Tầng lớp trung lưu chiếm vị trí quan
trọng, phổ biến và có thu nhập khá cao. Ở đây hình thành thị trường đa dạng đối với các loại
hàng hóa, đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao.  Cơ sở hạ tầng
Bao gồm các phương tiện thông tin, năng lượng và giao thông vận tải ở một quốc gia.
Nghiên cứu marketing và hoạt động xúc tiến hoàn toàn phụ thuộc vào chất lượng thông tin
của một quốc gia. Phương tiện truyền thông đại chúng là hệ thống các dịch vụ, điện thoại,
radio, tivi, internet…; sự sẵn có của các phương tiện này thay đổi từ quốc gia này tới các
quốc gia khác. Cần lưu ý không phải tất cả các quốc gia đều cho phép quảng cáo thương mại.
Sự bao phủ của internet và các phương tiện truyền thông thay đổi rất lớn giữa các quốc gia
và ngoài ra còn bị giới hạn bởi các qui định quảng cáo thương mại.
Hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống giao thông vận tải, khả năng giải phóng phương
tiện các sân bay, bến cảng, hệ thống điện nước, năng lượng cung cấp cho kinh doanh, hệ
thống kho bãi, hệ thống bán buôn, bán lẻ… Tất cả đều là những yếu tố rất quan trọng trong
việc ra quyết định có nên lựa chọn thị trường quốc gia đó hay không của một công ty quốc
tế.  Mức độ đô thị hóa
Mức độ đô thị hóa cũng là một nội dung cần được quan tâm. Các nhà marketing quốc
tế thực hiện nhiệm vụ ở những nơi có mức đô thị hóa cao sẽ dễ dàng hơn so với những nơi
mà mức độ đô thị hóa thấp.
Đô thị hóa là sự mở rộng của đô thị, tính theo tỉ lệ phần trăm giữa số dân đô thị hay
diện tích đô thị trên tổng số dân hay diện tích của một vùng hay khu vực. Nó cũng có thể
tính theo tỉ lệ gia tăng của hai yếu tố đó theo thời gian. Nếu tính theo cách đầu tiên thì nó
còn được gọi là mức độ đô thị hóa; còn theo cách thứ hai, nó có tên là tốc độ đô thị hóa.
Đô thị hóa là quá trình phát triển rộng rãi lối sống thị thành thể hiện qua các mặt dân
số, mật độ dân số, chất lượng cuộc sống... Các nước phát triển (như tại châu Âu, Mỹ hay Úc)
thường có mức độ đô thị hóa (trên 80%) cao hơn nhiều so với các nước đang phát triển (như
Việt Nam hay Trung Quốc). Đô thị các nước phát triển phần lớn đã ổn định nên tốc độ đô thị
hóa thấp hơn nhiều so với trường hợp các nước đang phát triển. lOMoAR cPSD| 58794847
Đô thị hóa ảnh hưởng sâu sắc tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tác động mạnh
lên sự phát triển kinh tế xã hội của vùng và cả nước, tạo ra nhiều việc làm và thu nhập cho
người lao động. Các thành phố, thị xã là nơi tiêu thụ sản phẩm hàng hóa lớn và đa dạng, là
nơi sử dụng lực lượng lao động có chất lượng cao, cơ sở kĩ thuật hạ tầng hiện đại có sức hút
đầu tư mạnh trong nước và nước ngoài.
 Mức độ hội nhập quốc gia
Thường các quốc gia trên thế giới có hình thức hội nhập sau đây: khu vực mậu dịch tự
do, liên minh thuế quan, thị trường chung, liên minh kinh tế, hội nhập về chính trị. Mỗi hình
thức hội nhập có các đặc điểm của nó. Người làm marketing quốc tế cần xem xét hình thức
hội nhập của quốc gia thị trường mục tiêu để có chiến lược marketing phù hợp bởi đặc điểm
mỗi hình thức hội nhập sẽ ảnh hưởng đến hoạt động cụ thể của hoạt động marketing ở từng
thị trường. Đặc điểm các hình thức hội nhập được thể hiện tóm tắt ở bảng 2.1 dưới đây.
Bảng 2.1. Các đặc điểm hội nhập quốc tế. Đặc điểm Thị Liên Khu vực trường Liên minh Liên mậu chung minh kinh tế minh dịch tự thuế chính do quan trị x x x x x
Bỏ hàng rào thuế quan chung giữa các quốc gia
Có chính sách thuế quan chung x x x x
Tự do di chuyển vốn, sức lao động x x x x x
Hài hòa chính sách kinh tế, thống nhất tiền tệ Hội nhập chính trị x lOMoAR cPSD| 58794847
Nguồn: Gerald Albaum, Jesper Strandskov, Edwin Duerr (2002)
2.1.3. Môi trường tự nhiên
Địa lý, khí hậu, các nguồn tài nguyên... là những yếu tố thuộc môi trường tự nhiên
không thể kiểm soát được mà tất cả các nhà làm marketing phải đối mặt. Nghiên cứu các tác
động của môi trường tự nhiên đến hoạt động marketing không chỉ nghiên cứu các khía cạnh
như các thực thể độc lập mà cần đặt nó trong sự liên kết với các yếu tố văn hóa, kinh tế xã
hội. Việc nghiên cứu về môi trường tự nhiên là rất quan trọng trong việc đánh giá thị trường
và tác động của môi trường đến hoạt động marketing của doanh nghiệp.
• Vị trí địa lý, địa hình
Vị trí tự nhiên của một quốc gia ảnh hưởng đến những lợi thế tuyệt đối và tương đối
của các quốc gia trong phát triển kinh tế. Ví dụ, Việt Nam có bờ biển dài, khả năng phát triển
vận tải biển quốc tế sẽ có lợi thế hơn một số quốc gia như Lào, Campuchia... khi tham gia thương mại quốc tế.
Bên cạnh vị trí địa lý, đặc điểm về địa hình núi, đại dương, biển, rừng nhiệt đới…và
các đặc điểm địa lý khác có thể gây trở ngại cho sự tăng trưởng kinh tế và thương mại của
một số thị trường nhưng lại có thể là cơ hội cho một số thị trường khác. Địa hình có thể tạo
ra những rào cản cho sự phát triển thương mại và liên lạc giữa các khu vực, ảnh hưởng trực
tiếp đến nền kinh tế, cụ thể là các hoạt động liên quan đến truyền thông và phân phối ở các
thị trường. Ví dụ các quốc gia miền núi sẽ khó khăn trong vận chuyển và phân phối, các quốc
gia không giáp biển như Lào, Zimbabue sẽ ảnh hưởng đến chi phí vận chuyển và khả năng
tiếp cận bằng đường bộ tới các thị trường này. • Khí hậu
Sự đa dạng của tự nhiên tác động mạnh mẽ lên thị trường các quốc gia, ảnh hưởng đến
hành vi cũng như thói quen tiêu dùng của các thị trường khác nhau, buộc các nhà làm
marketing cần phải quan tâm thích ứng. Ở các quốc gia có khí hậu bốn mùa, cơ cấu hàng hóa
mùa vụ tăng cao hơn so với khu vực có khí hậu phân chia thành hai mùa nhưng vòng đời các
sản phẩm mùa vụ lại ngắn hơn. Độ ẩm cao và và khí hậu khắc nghiệt có thể ảnh hưởng đến
chức năng và việc sử dụng của sản phẩm, thiết bị. Các sản phẩm sử dụng tốt trong vùng ôn
đới có thể xấu đi nhanh chóng hoặc yêu cầu những biện pháp làm mát hoặc dầu bôi trơn để
sử dụng tốt ở vùng nhiệt đới. Ngay cả trong thị trường một quốc gia, khí hậu cũng có thể
thay đổi khác nhau đòi hỏi các điều chỉnh lớn cho sản phẩm hàng hóa. Sự khác biệt mùa giữa
bán cầu bắc và nam cũng sẽ ảnh hưởng đến các chiến lược toàn cầu.
• Tài nguyên thiên nhiên lOMoAR cPSD| 58794847
Điều kiện tự nhiên cũng quyết định nguồn tài nguyên thiên nhiên quốc gia, tạo lợi thế
tuyệt đối và lợi thế tương đối giữa các quốc gia này với các quố gia khác. Tài nguyên thiên
nhiên bao gồm các dạng của cái hiện có và tiềm ẩn do thiên nhiên cung cấp, như khoáng sản,
đất đai, nguồn nước, nguồn năng lượng… Chẳng hạn, Việt Nam có nguồn tài nguyên khoáng
sản phong phú, Irac có nguồn dầu mỏ dồi dào nhờ đó có khả năng phát triển kinh tế thông
qua xuất khẩu dầu mỏ, Singapore bốn phía là biển đã trở thành quốc gia có hệ thống kho
hàng và đội tàu vận tải quốc tế mạnh nhất thế giới…
Sự phân bổ các nguồn tài nguyên, nguồn năng lượng cũng tác động đến sức hấp dẫn
của thị trường. Các quốc gia trên thế giới đều được phú cho các nguồn tài nguyên không đều
nhau và không quốc gia nào có thể đáp ứng hoàn toàn nhu cầu nội địa về các tài nguyên cần
thiết. Các nguồn nguyên nhiên vật liệu không có khả năng tái sinh như dầu mỏ, than đá, các
loại khoáng sản khác đang ngày càng cạn kiệt. Ngay cả không khí và nước sạch là nguồn tài
nguyên vô tận cũng đang dần cạn kiệt. Thế giới đang đối mặt với tình trạng thiếu nước sạch
nghiêm trọng. Việc sử dụng quá nhiều hóa chất gây tổn hại tầng ozon, phá hủy sự cân bằng
bầu khí quyển, đe dọa sự tồn tại của loài người trong tương lai.
Chính sách môi trường nghèo nàn, thiên tai, thảm họa tự nhiên như động đất, sóng thần,
hạn hán, dân số tăng, nạn chặt phá rừng bừa bãi...khiến cho một số quốc gia lâm và vào tình
cảnh trì trệ nền kinh tế, nếu không có những chính sách hiệu quả từ chính phủ thì tình trạng
này càng thêm trầm trọng. Các quốc gia chịu nhiều tổn thất nhất từ thiên tai nằm trong số
những quốc gia nghèo nhất thế giới. Nhiều nước không có tiền cũng như khả năng kỹ thuật
để giảm thiểu tác động của các hiện tượng tự nhiên. Khi các nước phát triển thịnh vượng thì
các rào cản tự nhiên được khắc phục. Các đường hầm, kênh rạch, cầu và đập nước… được
xây dựng để thích ứng với khí hậu và địa hình tự nhiên.
Với hầu hết các quốc gia, sự tăng trưởng kinh tế cũng tác động đến môi trường. Ô nhiễm
từ các nguồn khí thải, nước thải và sự cạn kiện các nguồn tài nguyên… đang là vấn đề mà
các quốc gia phải đương đầu. Sự cạn kiệt các nguồn nguyên nhiên vật liệt không có khả năng
tái sinh dẫn đến sự gia tăng giá của các nguồn lực đầu vào. Các nguồn nguyên nhiên vật liệu
có khả năng tái sinh vẫn chưa được tìm ra hoặc khả năng cung cấp còn hạn chế. Trong khi
đó, việc tăng giá sản phẩm đầu ra không phải có được sự chấp nhận dễ dàng của người tiêu dùng.  Bảo vệ môi trường
Bảo vệ môi trường được coi là vấn đề thiết yếu trong phát triển kinh tế quốc gia và hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Các chính phủ và doanh nghiệp hiện nay đều đặc biệt
quan tâm đến vấn đề ngăn chặn ô nhiễm và làm sạch môi trường. Ví dụ như EU, vấn đề quản
lý môi trường rất nghiêm ngặt bằng hệ thống các quy định pháp lý. Khi xuất khẩu hàng hóa lOMoAR cPSD| 58794847
sang EU, ngoài việc xuất trình các chứng chỉ về dịch tễ, an toàn vệ sinh thực phẩm, kiểm
dịch thực vật là các yêu cầu bắt buộc, các doanh nghiệp Việt Nam còn phải tuân thủ các quy
định về môi trường của EU.
Vấn đề bảo vệ môi trường chống ô nhiễm được xem là vấn đề toàn cầu chứ không phải
là của từng quốc gia riêng lẻ. Các chính phủ các nước, các tổ chức và các doanh nghiệp ngày
càng quan tâm đến trách nhiệm xã hội và các vấn đề đạo đức xoay quanh vấn đề duy trì tăng
trưởng kinh tế đồng thời bảo vệ môi trường cho các thế hệ tiếp theo. Nhiều công ty đa quốc
gia lớn như Walmart, Nike... không chỉ làm sạch các quá trình hoạt động của họ trên thế giới
mà còn thúc đẩy các nhà cung cấp của họ thực hiện tương tự. Phát triển bền vững là cách
tiếp cận chung giữa các chính phủ, các doanh nghiệp, các nhà môi trường, và người tiêu
dùng. Chính phủ và doanh nghiệp cần quan tâm tới việc quản lý nguồn lực thông minh, phân
phối lợi ích công bằng và giảm những ảnh hưởng tiêu cực đến con người và môi trường từ
quá trình tăng trưởng kinh tế. Phát triển bền vững không phải là vấn đề môi trường, kinh tế
hay xã hội, đó là sự cân bằng lâu dài giữa các yếu tố đó. Trách nhiệm bảo vệ môi trường
không là việc riêng của chính phủ, doanh nghiệp hay các tổ chức xã hội mà còn là trách
nhiệm của mỗi công dân.
2.1.4. Môi trường kỹ thuật công nghệ
Nghiên cứu môi trường công nghệ có ý nghĩa quan trọng đối với công ty quốc tế. Trình
độ công nghệ quốc gia phản ánh năng lực cạnh tranh giữa quốc gia này so với quốc gia khác.
Trình độ công nghệ quốc gia có thể được xem xét trên các yếu tố: •
Trình độ công nghệ chung của quốc gia thông qua những thành tựu công nghệ
mà nó có được so với các quốc gia khác trên thế giới và khu vực. Vấn đề theo kịp trình độ
công nghệ của các nước phát triển đang là thách thức không nhỏ với doanh nghiệp của các
quốc gia đang và kém phát triển. •
Ngân sách quốc gia dành cho nghiên cứu và phát triển công nghệ: phản ánh mức
độ đầu tư và khả năng phát triển công nghệ của quốc gia đó trong tương lai. Người ta thấy
rằng giữa chi phí nghiên cứu, phát triển và khả năng sinh lời có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Các công ty quốc tế đầu tư cho việc nghiên cứu và phát triển cao thì khả năng sinh lời cũng sẽ cao hơn. •
Chiến lược phát triển công nghệ quốc gia: Công nghệ được coi là chìa khóa của
sự thành công, là ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển của nhiều quốc gia. Chính
chiến lược phát triển công nghệ đã giúp Mỹ vượt qua khủng hoảng và giữ vững địa vị thống
trị kinh tế bằng chuỗi: tiến bộ kỹ thuật - tăng năng suất - tăng trưởng - việc làm - thịnh vượng. •
Số lượng bằng phát minh sáng chế, bí quyết kỹ thuật... là những nguồn lực mang
lại khả năng tìm kiếm lợi nhuận độc quyền cho các quốc gia trong việc khai thác lợi thế của lOMoAR cPSD| 58794847
nó mang lại. Việc áp dụng công nghệ mới giúp các công ty quốc tế tạo ra sản phẩm mới và
làm tăng sức cạnh tranh trên thị trường. •
Mức độ độc quyền công nghệ của một quốc gia: đánh giá qua thời gian mà các
quốc gia khác có thể theo kịp công nghệ của quốc gia đó.
Trong kinh doanh, vấn đề công nghệ được đánh giá trong mối quan hệ với trình độ tiêu
dùng trên mỗi khu vực thị trường tiêu thụ. Việc đánh giá trong mối tương quan này tạo ra sự
phù hợp giữa công nghệ sản xuất sản phẩm với công nghệ tiêu dùng. Tuy nhiên, những thay
đổi về công nghệ không phải lúc nào cũng nhận được sự ủng hộ của người tiêu dùng.
Trong marketing quốc tế, các yếu tố công nghệ là động lực chính trong quá trình hướng
tới một thị trường toàn cầu. Tác động của những tiến bộ công nghệ có thể thấy được trong
tất cả các khía cạnh của quá trình marketing. Khả năng thu thập dữ liệu về thị trường, khả
năng kiểm soát quản lý, khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học trong lĩnh vực truyền thông…
Thông tin và kết nối thông qua truyền thông vệ tinh, internet và wifi đã tạo nên sức mạnh
trong marketing quốc tế. Internet đã tạo ra cuộc cách mạng trong hoạt động marketing quốc
tế. Chỉ cần bằng một nút bấm, các nhà quản trị cũng có thể truy cập thông tin và đưa ra các
quyết định kinh doanh. Thông tin được cung cấp liên tục và cập nhật hàng ngày, hàng giờ.
Hệ thống thông tin di động toàn cầu cho phép các nhà kinh doanh xác định vị trí khách hàng
trên toàn cầu để gửi cho họ các thông điệp quảng cáo phù hợp. Sự phát triển của công nghệ
ngày nay cho phép khách hàng có thể tiếp cận các thông tin về sản phẩm, dịch vụ, đặt hàng
và thanh toán dù đang di chuyển hay ở bất cứ đâu trên thế giới.
2.1.5. Môi trường chính trị, pháp luật a) Chính trị
Môi trường chính trị là một trong những yếu tố tác động mạnh mẽ trong môi trường
marketing quốc tế bởi tính độc lập ở mỗi quốc gia. Mối quan tâm quan trọng nhất đối với
các công ty quốc tế là hệ thống luật pháp, chính trị tại các quốc gia mà họ dự định tiến hành
kinh doanh. Sự ổn định của hệ thống chính trị, tác động của Chính phủ đến môi trường thông
qua hệ thống chính sách có thể kiểm soát và hạn chế hoạt động của các doanh nghiệp.
Môi trường chính trị lý tưởng cho một doanh nghiệp khi kinh doanh ở thị trường nước
ngoài là sự ổn định, thân thiện của chính phủ ở nước sở tại. Để đánh giá một thị trường
marketing tiềm năng, doanh nghiệp cần xác định và đánh giá những yếu tố liên quan đến bất
ổn chính trị. Những nguyên nhân tiềm năng liên quan đến bất ổn chính trị có thể là: •
Rối loạn xã hội: sự bất ổn xã hội do các điều kiện cơ bản gây ra như khó khăn về
kinh tế, sự chia rẽ và khởi nghĩa nổi dậy trong nước và sự khác nhau về lý tưởng, tôn giáo,
dân tộc và văn hóa. Ví dụ cuộc xung đột giữa phái Hindu và phái Hồi giáo ở Ấn Độ… lOMoAR cPSD| 58794847 •
Thái độ của nhân dân với các doanh nghiệp và công dân nước ngoài: Thái độ
của nhân dân với các doanh nghiệp và công dân nước ngoài có thể không thiện cảm. Nhân
dân nước sở tại có thể cho rằng các doanh nghiệp nước ngoài đang thực hiện các hành động
khai thác, bóc lột và chủ nghĩa thực dân từ đó có thể nảy sinh các thái độ thù địch. •
Thái độ của Chính phủ nước sở tại: Thái độ có thể thay đổi theo thời gian hoặc
theo sự thay đổi trong giới lãnh đạo. Sự thay đổi thái độ chính trị kéo theo sự thay đổi chính
sách tạo ra những vấn đề phức tạp cho các các doanh nghiệp đang kinh doanh ở những nước
đang xung đột với nhau. Những bất đồng về chính trị thường lan sang các hoạt động kinh
doanh. Chẳng hạn, cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine không chỉ ảnh hưởng đến các doanh
nghiệp ở hai nước mà nó còn tác động đến nền kinh tế toàn cầu. Ngoài ra, yếu tố đặc biệt
quan trọng đối với giới kinh doanh cần quan tâm là tính chất của các đảng phái chính trị lớn
trong một đất nước, bởi vì khi bất kỳ đảng nào lên nắm quyền đều có thể làm thay đổi thái
độ của chính phủ và môi trường kinh doanh tổng thể. Sự bất ổn và thay đổi nhanh chóng về
chính trị sẽ tạo ra một môi trường rủi ro cho việc kinh doanh. Một môi trường chính trị tiêu
cực sẽ tạo ra những ảnh hưởng khác nhau đối với công ty trên thị trường nước ngoài. Nó có
thể hạn chế chương trình marketing hay việc bán sản phẩm tại thị trường đó. Nó cũng có thể
gây ra những khó khăn cho việc xin giấy phép hay việc chuyển hồi lợi nhuận về công ty mẹ
và nó cũng có thể tạo nên sự tẩy chay đối với một sản phẩm nào đó. Hơn thế nữa, rủi ro cũng
có thể xảy ra khi có sự chuyển tài sản từ doanh nghiệp sang chính phủ mà không được đền
bù thỏa đáng. Nhà làm marketing quốc tế cần phải nghiên cứu môi trường chính trị như là
một phần thiết yếu trong việc hoạch định marketing. b) Pháp luật
Môi trường pháp luật trong marketing quốc tế rất phức tạp, cùng lúc doanh nghiệp bị
ràng buộc bởi 3 hệ thống luật (i) Luật pháp quốc gia sở tại, (ii) Luật quốc tế (iii) Luật tại
quốc gia mà doanh nghiệp hoạt động.
Hệ thống pháp luật của các quốc gia rất khác nhau và phức tạp. Tất cả các quốc gia đều
ban hành những điều luật điều chỉnh về các hoạt động marketing trong quảng bá, phát triển
sản phẩm, ghi nhãn, giá cả và các kênh phân phối. Kinh doanh trong môi trường quốc tế chịu
tác động trực tiếp của luật chống bán phá giá, luật chi phối trong quảng cáo, khuyến mại,
luật chi phối trong bao bì sản phẩm, quy chế của chính phủ đối với các văn phòng đại diện
và chi nhánh của công ty ở nước ngoài, các thủ tục hải quan, thuế xuất nhập khẩu, qui định
về lương thực, thực phẩm, y tế, an toàn kiểm dịch cần phải đảm bảo khi nhập khẩu… Khi
kinh doanh tại nhiều quốc gia, nhà quản trị marketing cần cảnh giác với các hệ thống pháp
luật khác nhau, thậm chí là mỗi quốc gia lại có những luật khác nhau tác động đến cùng một
hoạt động marketing. Vấn đề này đặc biệt phức tạp khi các nhà marketing xây dựng một kế
hoạch cùng thực hiện ở một số nước. Ví dụ khi thực hiện quảng cáo ở một số thị trường có lOMoAR cPSD| 58794847
thể gặp các hạn chế về phương tiện truyền thông hay khả năng chấp nhận các yêu cầu sáng tạo cụ thể.
Một vài nội dung cơ bản cần lưu ý khi nghiên cứu môi trường pháp luật tại một quốc gia là: •
Hệ thống luật pháp chi phối trực tiếp trong kinh doanh đối với từng quốc gia:
Thực tế kinh doanh tồn tại hai hệ thống luật bao gồm luật thành văn và luật bất thành văn.
Luật bất thành văn (Thông luật – common law) là các quy tắc truyền thống trong quá khứ,
“giải thích pháp luật thông qua việc áp dụng các quyết định của tòa án trước đây đã giải thích
một đạo luật tương tự, hay áp dụng các quy tắc tập quán đã có vào sự việc tương tự”. Luật
thành văn (Dân luật - Code law) dựa trên một hệ thống bao gồm tất cả các văn bản pháp luật
được viết ra. Mỹ và một số quốc gia sử dụng luật dựa trên các tiền lệ pháp lý từ phán quyết
trước đó của tòa án trong khi đa số các quốc gia bao gồm EU và Nhật bản căn cứ trên các
quy định pháp luật được lập thành văn bản. •
Mức độ kiểm soát của chính phủ về xuất nhập khẩu và các mặt có liên quan. Hầu
hết các quốc gia đều coi nhập khẩu là không có lợi, ảnh hưởng đến cán cân thanh toán của
họ nên đều có những biện pháp hạn chế nhập khẩu. Quy định về các sản phẩm nhập khẩu
cũng rất khác nhau ở các quốc gia. Chiến lược sản phẩm của một công ty cũng có thể bị ảnh
hưởng bởi môi trường luật pháp. •
Hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Ví dụ: Singapore có chế độ nhập khẩu rất
mở đối với mặt hàng thực phẩm. Tất cả các loại thực phẩm trừ đồ uống có cồn và thuốc lá
đều được miễn thuế nhập khẩu. Trên thực tế không có những hàng rào phi thuế quan bởi có
quá ít sản phẩm nội địa.
Một vấn đề cần quan tâm trong marketing quốc tế là khi xảy ra tranh chấp thương mại
sẽ giải quyết bằng hệ thống pháp luật của quốc gia nào? Thẩm quyền giải quyết tranh chấp
nhìn chung được quyết định theo một trong ba cách: (i) Trên cơ sở điều khoản quy định thẩm
quyền giải quyết tranh chấp được ghi trong hợp đồng, (ii) Trên cơ sở nơi mà hợp đồng đó ra
đời, hoặc (iii) trên cơ sở nơi mà các điều khoản trong hợp đồng được thực hiện.
2.1.6. Môi trường văn hóa xã hội
Các yếu tố thuộc môi trường văn hóa xã hội là ngôn ngữ, phong tục tập quán, tôn giáo,
giá trị thái độ, giáo dục, dân số, quan niệm về gia đình và xã hội.
Văn hóa ảnh hưởng đến hành vi và thái độ của khách hàng. Vì vậy các chiến lược sản
phẩm, quảng cáo, phân phối…phải xem xét yếu tố văn hóa của quốc gia mà công ty thâm
nhập. Trong marketing quốc tế, mỗi thị trường nước ngoài sẽ có một nền văn hóa và hành vi
khác nhau so với thị trường trong nước của công ty, vì thế các nhiệm vụ và tình huống
marketing cũng sẽ khác nhau. Mỗi quốc gia không chỉ có một nền văn hóa duy nhất, mà hầu lOMoAR cPSD| 58794847
hết còn có các nhánh văn hóa khác nhau, thường dựa trên tín ngưỡng, tôn giáo. Thông
thường, các nhánh văn hóa khác nhau sẽ chỉ ra các phân khúc thị trường khác nhau và yêu
cầu một phương pháp marketing riêng biệt. Sự khác biệt về văn hóa được thể hiện thông qua
các yếu tố như ngôn ngữ, tôn giáo, giá trị, thái độ, giáo dục, tổ chức xã hội... a) Ngôn ngữ
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp trong một nền văn hóa. Ngôn ngữ bao gồm ngôn
ngữ có lời và ngôn ngữ không lời. Ngôn ngữ là tấm gương phản ánh văn hóa của quốc gia.
Ngôn ngữ là công cụ để lưu trữ và truyền đạt thông tin, nhờ đó con người mới xây dựng và
duy trì văn hóa của mình. Ngôn ngữ giúp tạo dựng nhận thức về thế giới và định hình đặc
điểm văn hóa. Ví dụ ở Canada sử dụng hai ngôn ngữ Anh và Pháp nên hình thành hai nền
văn hóa: văn hóa Anh và văn hóa Pháp.
Sự khác biệt về ngôn ngữ có ảnh hưởng đối với nhiều quyết định trong marketing.
Người làm marketing thành công phải đạt đến độ nhuần nhuyễn, thông hiểu về ngôn ngữ.
Người viết quảng cáo cần để ý đến sự khác biệt của ngôn ngữ. Các nhà ngôn ngữ học cho
rằng có ít nhất 3.000 ngôn ngữ trên thế giới, do đó đã tạo nên 3.000 nền văn hóa khác nhau.
Riêng ở Indonesia đã có tới 250 ngôn ngữ, còn ở Trung Quốc, chữ viết thống nhất nhưng lại
có tới hàng ngàn loại tiếng của các địa phương.
Sự đa dạng của ngôn ngữ chi phối các nỗ lực marketing quốc tế. Việc lựa chọn nhãn
hiệu, khẩu hiệu, những thông điệp quảng cáo đều thông qua ngôn ngữ. Một trong những khó
khăn nhất của người làm marketing quốc tế là nắm bắt được những sắc thái ngôn ngữ khác
nhau của các nước. Mỗi quốc gia có bản sắc văn hóa riêng quyết định mạnh mẽ đến hành vi,
thái độ, tâm lý, sở thích… của người tiêu dùng ở quốc gia đó. Cũng như từ ngữ, ngôn ngữ
cử chỉ cũng truyền tải nhiều ý nghĩa khác nhau. Ví dụ, vòng ngón tay cái và ngón trỏ thành
một vòng tròn có rất nhiều ý nghĩa. Nó là được, là tốt với người Mỹ và hầu hết các nước
Châu Âu, với người Nhật nó có nghĩa là tiền, là khiếm nhã đối với người Braxin, trong khi
với các nước Châu Mỹ Latinh nó có nghĩa là một cử chỉ thô tục. b) Tôn giáo
Tôn giáo là động cơ của hành vi và là cơ sở cho hầu hết các giá trị và thái độ của khách
hàng. Nhà marketing quốc tế cần một số kiến thức về truyền thống tôn giáo của quốc gia để
hiểu được hành vi của người tiêu dùng ở đó. Tôn giáo cũng là một nhân tố ảnh hưởng khá
mạnh đến thái độ của mọi người đối với việc mua sắm và cách thức tiêu dùng. Nếu hiểu theo
mức độ thấp thì điều này có nghĩa là việc tiêu thụ thực phẩm nhiều hay ít, mua sắm… có liên
quan đến các ngày lễ tôn giáo. Ví dụ các giai đoạn ăn kiêng (tháng ăn kiêng Ramadann của
người đạo Hồi), việc tránh ăn những loại thực phẩm (người đạo Hồi tránh ăn thịt heo, người
theo đạo Hindu tránh ăn thịt bò), lễ Giáng sinh và lễ Phục sinh… lOMoAR cPSD| 58794847
Hoạt động marketing trên toàn thế giới đều bị ảnh hưởng bởi các đức tin tôn giáo.
Không một ấn phẩm nào ở Arab được phép in hình một cô gái lên đó. Váy áo không có tay
được coi là sự xúc phạm đối với các quy định của đạo Hồi, và vì thế tất cả các quảng cáo có
hình ảnh tương tự đều bị cấm ngặt ở Malaysia.
Người làm marketing nếu hiểu ít hoặc không am hiểu về tôn giáo có thể vô tình xúc
phạm đến tín ngưỡng của một nhóm người. Thương hiệu thời trang Chanel của Pháp đã vô
tình báng bổ kinh Koran bằng việc thêu một số câu từ thiêng liêng của Hồi giáo lên một số
mẫu váy trong bộ sưu tập mùa hè của họ. Nhà thiết kế nói rằng ông ấy đã sử dụng mẫu thiết
kế mà ông thấy đẹp về mặt thẩm mỹ từ một cuốn sách ở đền thời Taj Mahal ở Ấn Độ và ông
ấy không biết gì về ý nghĩa của nó. Điều này đã khiến người Hồi giáo cảm thấy bất bình. c) Giá trị, thái độ
Giữa các quốc gia cũng có sự khác biệt về thái độ và giá trị. Chẳng hạn, trong xã hội
Mỹ người nông dân luôn được kính trọng nhưng ở rất nhiều nước thì nông dân chỉ được coi
là thiếu giáo dục và không tinh tế. Do những suy nghĩ khác nhau về văn hóa đó nên chiến
dịch quảng cáo của một công ty sản xuất thiết bị nông nghiệp dựa vào sự khẳng định chất
lượng của những tiểu nông gây ra những khó chịu cho khách hàng Châu Âu.
Quan niệm về thời gian và tiền bạc cũng rất khác nhau ở các quốc gia. Người Mỹ có
xu hướng coi trọng thời gian- kể cả thời gian làm việc và thời gian nghỉ ngơi, bởi vì họ quan
niệm “thời gian là vàng bạc”. Họ thường cho rằng mọi việc cần được giải quyết hoàn thành
càng nhanh càng tốt và không có thời gian để lãng phí hay để dành. Ngược lại, một số nước
thuộc Đông Âu lại có cả những lớp huấn luyện cho việc trả giá và đánh cờ. Họ kiên nhẫn và
thận trọng trước khi hành động và thường bỏ thêm thời gian chỉ đạt được chút ưu thế trong
toàn bộ quá trình đàm phán. Nói chung, người Châu Á thường không đúng giờ nhưng lại rất
coi trọng thời gian trong một số khía cạnh, thường quan tâm đến “giờ tốt, ngày tốt” khi bắt
đầu hay thực hiện các việc quan trọng.
Màu sắc cũng có ý nghĩa riêng và sở thích về màu sắc được quy định tùy vào từng nền
văn hóa. Do tập quán và sự cấm đoán, một số màu sắc bị cho là mang ý nghĩa xấu. Một số
loại màu được cho là tốt và chấp nhận được ở một nền văn hóa lại có thể không phù hợp ở
nền văn hóa khác. Ví dụ, ở Châu Phi, màu vàng có nghĩa là bệnh tật; Màu đỏ với người Trung
quốc là may mắn trong khi người Mỹ và Nhật lại không thích màu đỏ. Các nhà quản trị
Marketig nên cẩn trọng trong việc sử dụng màu thích hợp với các sản phẩm của mình vì việc
sử dụng màu sắc không đúng có thể tạo ra hoặc phá vỡ một hợp đồng. Ví dụ, bút màu trắng
của Parker không được ưa chuộng ở Trung Quốc nơi mà màu trắng là màu của đám tang.
Sản phẩm bút màu xanh lá cũng gặp phải sự thất bại ở Ấn độ, nơi mà màu này đồng nghĩa với sự không may mắn. lOMoAR cPSD| 58794847 d) Giáo dục
Tài nguyên vô tận của mỗi quốc gia không phải là tài nguyên thiên nhiên mà là tài
nguyên nhân lực. Đối với các quốc gia, giáo dục đóng vai trò quan trọng trong việc vượt qua
và chia sẻ những trở ngại về văn hóa. Trình độ văn hóa của mỗi quốc gia có thể đánh giá qua
tỷ lệ người biết đọc, biết viết, tỷ lệ tốt nghiệp trung học, cao đẳng, đại học… Chất lượng giáo
dục ảnh hưởng nhiều đến việc áp dụng trang thiết bị hiện đại vào quảng cáo và lựa chọn sản
phẩm thâm nhập thị trường. Trên thị trường có tỷ lệ người mù chữ cao thì hoạt động quảng
cáo cần tăng cường sử dụng các phương tiện nghe nhìn hơn các phương tiện in ấn. e) Gia đình
Trong các nền văn hóa khác nhau, vai trò gia đình và các thành viên trong gia đình cũng
khác nhau. Chúng ta có thể thấy sự khác biệt về độ lớn của gia đình, vai trò người phụ nữ và
nhiều nhân tố khác mà chúng ta cần quan tâm. Đặc biệt khi gia đình là nhóm đối chiếu căn
bản và được xem là chỉ số quan trọng cho tính cách tiêu thụ, sự khác biệt này càng trở nên quan trọng.
Vì gia đình đóng vai trò quan trọng như là một đơn vị tiêu thụ, nhà nghiên cứu
marketing cần hiểu biết về vai trò và cấu trúc của chúng thay đổi theo quốc gia. Ở Mỹ, từ
“family” mang nghĩa hẹp nhất khi nó bao gồm người chồng, người vợ và con của họ (nếu
có). Ở những quốc gia khác, từ này mang nghĩa rộng hơn vì nó mang nghĩa một đại gia đình
hay gia đình có mối quan hệ máu mủ ruột thịt, một gia đình có thể bao gồm nhiều thế hệ
hoặc cũng có thể bao gồm tất cả các thành viên trong gia đình như chú, dì, anh em họ…
Ngoài ra, còn cần chú ý đến vai trò từng cá nhân trong gia đình, sự tương tác giữa các
thành viên và vai trò xã hội của họ. Mỗi thành viên hoạt động vừa như một người cố vấn vừa
như người cung cấp thông tin. Mỗi thành viên là một đơn vị tiêu dùng nhỏ nghĩa là mỗi thành
viên chia sẻ tổng số các sản phẩm, đặc biệt là những sản phẩm lâu bền hoặc những sản phẩm
ảnh hưởng tới ngân sách gia đình. Những hiểu biết như vậy rất cần thiết cho việc marketing
sản phẩm tiêu dùng và có tác động đến chính sách truyền thông lẫn chính sách sản phẩm.
Một nhà hoạt động marketing phải xác định hình thức ra quyết định liên quan đến sản phẩm.
Cụ thể là, nhà quản trị marketing có thể đưa ra nỗ lực xúc tiến về phía ra quyết định mua
hàng. Bởi vậy, cân nhắc và đánh giá mức ảnh hưởng tương đối của vợ hay chồng trong quá
trình ra quyết định là hữu ích. f) Tổ chức xã hội
Tổ chức xã hội có liên quan đến các vai trò được thực hiện bởi các cá nhân và các nhóm
trong một xã hội và các mối quan hệ giữa các cá nhân và các nhóm. Có nhiều loại nhóm
trong một quốc gia mà họ là mối quan tâm của nhà marketing quốc tế, như là: gia đình, bộ lOMoAR cPSD| 58794847
tộc, (hoặc là) những nhóm chủng tộc khác, tầng lớp hay giai cấp. Cũng có những nhóm cần
quan tâm đặc biệt như hiệp hội, nhóm người tiêu dùng, câu lạc bộ và hội phụ nữ.
Trong tổ chức xã hội, có một số cá nhân có thể tạo ra ảnh hưởng đáng kể đến các thành
viên khác để gây ảnh hưởng tới suy nghĩ và hành vi theo một hướng mong muốn. Những cá
nhân này được biết đến như người lãnh đạo ý kiến. Trong hoạt động marketing quốc tế, các
công ty đa quốc gia cố gắng kêu gọi người lãnh dạo ý kiến bởi ý kiến của họ có ảnh hưởng
lớn tới ý kiến của những người khác. Chẳng hạn hãng BMW bán xe hơi của mình có chiết
khấu cho các nhà ngoại giao, vì họ tin rằng những người này sẽ tạo ra sự chú ý về loại xe hơi
mà họ lái đang chiếm lĩnh thị trường.
2.2. Nghiên cứu marketing quốc tế
2.2.1. Các vấn đề cơ bản trong nghiên cứu marketing quốc tế
Sự phức tạp của môi trường kinh doanh quốc tế cùng với việc thiếu kiến thức, thiếu
thông tin của thị trường nước ngoài khiến cho hoạt động marketing quốc tế gặp nhiều khó
khăn, phức tạp hơn nhiều so với marketing tại thị trường trong nước. Điều này nhấn mạnh
tầm quan trọng của việc tiến hành nghiên cứu trước khi đưa ra quyết định và đưa ra chiến
lược marketing quốc tế.
Nghiên cứu marketing quốc tế là công cụ giúp giảm thiểu rủi ro trong quá trình ra
quyết định, dù là quyết định gia nhập thị trường ban đầu, định vị sản phẩm hoặc xây dựng
chương trình marketing mix hay các chiến lược mở rộng sau đó. Nghiên cứu marketing là
cần thiết để tránh những sai lầm do chiến lược không phù hợp và tránh khả năng đánh mất
cơ hội trên thị trường quốc tế. Nghiên cứu marketing là cần thiết để xác định mức độ phối
hợp giữa các hoạt động quốc tế giữa các quốc gia để tận dụng các sức mạnh tổng hợp phát
sinh từ hoạt động marketing trong môi trường toàn cầu.
Nghiên cứu marketing quốc tế có thể được định nghĩa là một quá trình thu thập, xử lý
và diễn giải thông tin thường xuyên và khách quan, cần thiết để đưa ra các quyết định
marketing trên thị trường quốc tế.
Nghiên cứu marketing quốc tế không phải là sự mở rộng của nghiên cứu trong nước ở
thị trường mục tiêu ở nước ngoài. Việc ứng dụng marketing quốc tế đòi phải có sự tìm hiểu
chính xác nhu cầu, đặc tính người tiêu dùng và đặc điểm hành vi của họ. Nghiên cứu
marketing quốc tế là phương tiện để các doanh nghiệp có thể thu thập, xử lý thông tin và dữ
liệu thị trường để xây dựng các chiến lược, chương trình và các quyết định phù hợp với từng thị trường mục tiêu.
Phạm vi hoạt động của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế và mức độ mạo hiểm của
doanh nghiệp sẽ quyết định quy mô nghiên cứu marketing của nó. Nghiên cứu marketing
quốc tế là cần thiết để quyết định những thị trường nước ngoài nào cần thâm nhập và đối với lOMoAR cPSD| 58794847
từng thị trường thì phương thức xâm nhập nào là tốt nhất. Nghiên cứu marketing quốc tế
giúp ích cho việc xác định các cơ hội cũng như vấn đề nảy sinh. Sự khác biệt căn bản giữa
nghiên cứu marketing quốc tế và trong nước là phạm vi nghiên cứu rộng hơn và tính không ổn định cao hơn.
Marketing quốc tế có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Xét về loại hình
cơ bản của dự án nghiên cứu, nghiên cứu marketing quốc tế được phân thành: •
Nghiên cứu so sánh (Comparative research): bao gồm so sánh các hiện tượng và
quá trình nghiên cứu, cũng như các điều kiện xảy ra ở các quốc gia khác nhau để từ đó xác
định những điểm khác biệt và tương đồng giữa chúng. Sự khác biệt giữa các thị trường có
thể xuất phát từ sự khác biệt của các yếu tố môi trường chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và
công nghệ, cũng có thể từ sự khác biệt trong hành vi của người tiêu dùng và các tổ chức. Khi
nghiên cứu so sánh cần chú ý đến tính đồng bộ tức là cùng thời điểm hoặc cùng khoảng thời gian nghiên cứu. •
Nghiên cứu tương tác (Interactive research): tập trung vào nghiên cứu sự tác động
giữa các cá nhân cũng như các nhóm từ các quốc gia (nền văn hóa) khác nhau. Nghiên cứu
này liên quan đến các tương tác thông thường giữa con người, tổ chức, người mua và người
bán, người lao động và người quản lý ở các quốc gia và nền văn hóa khác nhau.
2.2.2. Nguồn thông tin nghiên cứu trong marketing quốc tế
a) Thông tin nghiên cứu trong marketing quốc tế
Nhu cầu thông tin trong nghiên cứu marketing quốc tế tùy thuộc vào kinh nghiệm của
doanh nghiệp và mức độ tham gia vào thị trường quốc tế. Trong giai đoạn đầu xâm nhập thị
trường, cần có các thông tin để đánh giá các cơ hội và rủi ro ở các quốc gia khác nhau trên
thế giới và lập kế hoạch thâm nhập thị trường quốc tế cũng như phương thức hoạt động. Sau
khi các quyết định gia nhập được đưa ra, sự chú ý sẽ chuyển sang các vấn đề liên quan đến
các quyết định marketing hỗn hợp như phát triển sản phẩm mới, nội dung quảng cáo và
nghiên cứu phương tiện truyền thông, độ nhạy cảm về giá. Khi kinh nghiệm trên thị trường
phát triển và các hoạt động trở nên phổ biến hơn, doanh nghiệp sẽ chú trọng đến xây dựng
hệ thống thông tin toàn cầu để phân bổ nguồn lực giữa các thị trường và các quốc gia, tận
dụng lợi thế thông qua hội nhập và phối hợp chiến lược quốc tế.
 Thông tin thâm nhập thị trường quốc tế
Khi thu thập thông tin cho các quyết định gia nhập thị trường, người nghiên cứu sẽ cần
dữ liệu ở hai cấp độ:
(1) Thông tin liên quan đến môi trường kinh doanh chung ở một quốc gia hoặc khu
vực. Ví dụ như tình hình chính trị, môi trường pháp lý, quy mô tăng trưởng thị trường, cơ sở lOMoAR cPSD| 58794847
hạ tầng thị trường… Đây là các thông tin hết sức quan trọng để xác định sự hấp dẫn của thị
trường và phương thức gia nhập hoặc hoạt động phù hợp trên thị trường.
(2) Thông tin liên quan đến thị trường sản phẩm hoặc ngành dịch vụ cụ thể mà công
ty dự định tham gia, bao gồm tiềm năng bán hàng, tốc độ tăng trưởng thị trường, cấu trúc thị
trường sản phẩm, nguồn cạnh tranh trực tiếp và gián tiếp, tình hình cạnh tranh…
Sau khi thu thập thông tin, các nhà nghiên cứu tiến hành phân tích, đánh giá mức độ
hấp dẫn và ước lượng mức cầu thị trường.
 Thông tin để lập kế hoạch thị trường
Trong giai đoạn này, tập trung nghiên cứu các thông tin đánh giá các yếu tố marketing hỗn hợp. -
Đánh giá mức độ cần thay đổi của sản phẩm và định vị cho phù hợp thị
trường nước ngoài. Các sản phẩm có thể thu hút các phân khúc khách hàng khác nhau
và các lợi ích cũng như sở thích mong muốn của khách hàng có thể khác nhau giữa các
quốc gia. Sự thay đổi về sản phẩm và định vị có khả năng làm tăng doanh số như thế
nào, cũng như mức độ mở rộng khách hàng hay tăng cường thâm nhập thị trường. -
Thử nghiệm và đánh giá hiệu quả của quảng cáo tại các thị trường địa phương. -
Đánh giá độ nhạy cảm về giá. Giữa các quốc gia khác nhau sẽ có sự khác biệt về
thu nhập, phân khúc khách hàng, sản phẩm cạnh tranh và thay thế, nhận thức về giá nên phản
ứng với từng mức giá sản phẩm sẽ khác nhau. -
Xác định kênh phân phối phù hợp: đánh giá mức độ quan tâm đến dịch
vụ, giao hàng, sự thuận tiện, sở thích đối với các phương thức phân phối khác nhau..sẽ
khác nhau giữa các quốc gia và ảnh hưởng đến hiệu quả và khả năng tiếp cận của các kênh phân phối. -
Đánh giá cơ hội cho các sản phẩm và dịch vụ mới.  Thông tin toàn cầu
Trong giai đoạn này, người nghiên cứu quan tâm đến sự phối hợp và tích hợp chiến lược
giữa các quốc gia, đòi hỏi phải thu thập thông tin trên cơ sở toàn cầu. Thông tin về thị hiếu,
sở thích của người tiêu dùng được thu thập ở từng quốc gia cần được tổng hợp để xác định
những điểm chung giữa các quốc gia cũng như các xu thế mới. Điều này cung cấp cơ sở để
lập kế hoạch marketing toàn cầu. Đồng thời, cần có cơ chế chuyển giao thông tin, kinh
nghiệm và ý tưởng từ thị trường này sang thị trường khác, điều phối thông tin giữa các quốc lOMoAR cPSD| 58794847
gia. Nhu cầu tích hợp dữ liệu từ các nguồn bên trong và bên ngoài đặt ra vấn đề phải có hệ
thống thông tin toàn cầu để theo dõi và xác định cách tốt nhất để phân bổ nguồn lực toàn cầu.
b) Dữ liệu thứ cấp (Secondary data)
Dữ liệu thứ cấp là dữ liệu sẵn có, được thu thập từ trước cho các mục đích khác.
Trong marketing quốc tế, nguồn dữ liệu thứ cấp được chia thành các loại sau: •
Nguồn dữ liệu nội bộ: có sẵn trong công ty, trong quá trình hoạt động trên thị
trường quốc tế. Đó là dữ liệu về kết quả kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty vào một
quốc gia nào đó, thông tin về hình hình tiêu thụ sản phẩm theo thị trường, các thị trường
thâm nhập, tình hình tồn kho… Dữ liệu về các khía cạnh khác nhau của hoạt động kinh doanh
được thu thập trong khoảng thời gian không gian xác định, đối tượng cụ thể (theo phân khúc
khách hàng và phân khúc sản phẩm). •
Nguồn dữ liệu bên ngoài từ trong nước: thu thập được từ các tổ chức hành chính
và kinh tế, các hiệp hội, viện nghiên cứu, các cơ quan thống kê, các trung tâm nghiên cứu khoa học… •
Nguồn dữ liệu thu thập được từ nước ngoài: Bao gồm dữ liệu từ các tổ chức, cơ
quan thống kê quốc tế; số liệu thống kê chính thức của quốc gia; tài liệu thông tin nước ngoài
được xuất bản bởi các tổ chức chuyên gia (ví dụ: phòng thương mại, hiệp hội thương mại và
tổ chức thương mại, viện nghiên cứu kinh tế và giá cả, cơ quan nghiên cứu); và các ấn phẩm
khác (ví dụ: sách chuyên khảo thị trường, báo chí chuyên ngành, tạp chí tổng hợp).
Khi tiến hành nghiên cứu về hành vi thị trường, nhà nghiên cứu marketing quốc tế
thường bắt đầu từ các dữ liệu thứ cấp, ưu điểm của những dữ liệu này là lượng thông
tin phong phú, phạm vi bao quát. Trong một số trường hợp, dữ liệu thứ cấp sau khi
được xử lý có thể đủ dùng để ra các quyết định marketing. Tuy nhiên, khi sử dụng dữ
liệu thứ cấp cần phải đánh giá cẩn thận về độ tin cậy của nguồn tin, độ chính xác,
tính sẵn có và khả năng so sánh của dữ liệu.
Sử dụng nguồn dữ liệu thứ cấp có thể gặp một số hạn chế sau: •
Sự giới hạn hay thiếu hụt một số loại thông tin, đặc biệt với các nước đang phát
triển, nơi có thể gặp những khó khăn khi thu thập thông tin về mức thu nhập của người dân,
giá bán lẻ, cơ sở hạ tầng thương mại… •
Khả năng so sánh hạn chế do các phương pháp thu thập, tổng hợp và phân loại
dữ liệu khác nhau, cũng như tần suất thực hiện các loại nghiên cứu khác nhau (ví dụ dữ liệu
thổng điều tra dân số được tổ chức ở các nước phát triển 10 năm một lần và ở các nước đang
phát triển 20 năm hoặc 25 năm một lần hoặc hoàn toàn không được tiến hành). lOMoAR cPSD| 58794847 •
Độ chính xác của dữ liệu hạn chế do những khó khăn trong đo lường và đặc điểm
kinh tế hoặc văn hóa cụ thể của các quốc gia khác nhau. •
Độ chính xác của dữ liệu hạn chế do thông tin thu được thu thập cho các mục
đích khác và không phù hợp mục tiêu nghiên cứu và vấn đề nghiên cứu hiện tại mà doanh nghiệp đang quan tâm. •
Hiệu lực hạn chế do khoảng thời gian giữa thu thập dữ liệu và công bố dữ liệu. •
Độ tin cậy của thông tin là hạn chế, đặc biệt là các thông tin được công bố trên
báo chí với phục vụ mục đích tạo hình ảnh tích cực cho doanh nghiệp.
c) Dữ liệu sơ cấp (Primary Data)
Trường hợp dữ liệu thứ cấp không cung cấp đầy đủ thông tin đầu vào cho việc ra quyết
định, việc thu thập dữ liệu sơ cấp là cần thiết. Việc thu thập dữ liệu sơ cấp thường đòi hỏi
chi phí cao hơn. Những khó khăn trong nghiên cứu marketing quốc tế và thiếu kinh nghiệm
ở thị trường nước ngoài sẽ khiến dữ liệu cần thu thập sẽ nhiều hơn, độ chính xác và tin cậy
cũng kém hơn so với các nghiên cứu tiến hành trong nước.
Việc thu thập dữ liệu sơ cấp rất quan trọng đối với nhiều quyết định marketing chiến
lược và chiến thuật. Nó rất cần thiết trong thử nghiệm các sản phẩm mới hoặc khái niệm
mới, đánh giá quảng cáo hay độ nhạy cảm về giá. Dữ liệu sơ cấp có thể được thu thập bởi
các kỹ thuật định tính như nhóm tập trung hoặc phỏng vấn sâu với yêu cầu cỡ mẫu nhỏ hoặc
các kỹ thuật điều tra đòi hỏi cỡ mẫu lớn.
Các kỹ thuật thu thập dữ liệu định tính rất hữu ích trong các giai đoạn nghiên cứu ban
đầu để xác định cấu trúc, định nghĩa loại sản phẩm hoặc thái độ hành vi liên quan sẽ được
kiểm tra trong các giai đoạn nghiên cứu tiếp sau. Trong nghiên cứu marketing quốc tế, điều
này thuận lợi cho nhà nghiên cứu không quen thuộc với thị trường.
Các phương pháp nghiên cứu phổ biến là Quan sát (Observation), Nghiên cứu thực
nghiệm (Experimentation) và Điều tra khảo sát (Survey).
Nghiên cứu khảo sát là phương pháp thu thập dữ liệu được sử dụng phổ biến nhất trong
nghiên cứu marketing quốc tế. Lợi thế của nó là dữ liệu được thu thập và xử lý từ các mẫu
lớn. Việc sử dụng khảo sát trong nghiên cứu marketing quốc tế gặp nhiều khó khăn, phát
sinh từ việc thu thập dữ liệu trong nhiều môi trường văn hóa xã hội và ngôn ngữ đa dạng.
Do đó cần hết sức thận trọng trong việc thiết kế câu hỏi để tránh những hiểu nhầm của người
trả lời, đặc biệt là những người có trình độ học vấn thấp. Kích cỡ mẫu và quy trình khảo sát
cũng cần được thiết kết cẩn thận để tránh các sai lệch phát sinh từ việc không phản hồi hoặc
không tương tác giữa người phỏng vấn và người trả lời.