Chương 2 : Thực trạng kinh tế Hải Phòng dựa trên 3 trụ cột chính
2.1.Trụ cột 1- Thực trạng hạ tầng công nghiệp công nghệ
2.1.1 Đặc điểm kinh tế - hội điều kiện phát triển công nghiệp công nghệ
Hải Phòng
2.1.1.1 Điều kiện bản cho phát triển công nghiệp-công nghệ Hải Phòng
- : Thành phố Hải Phòng một trong 5 thành phố trực thuộc TrungVị trí địa
ương, một cực tăng trưởng của tam giác kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, trung tâm
Vùng duyên hải Bắc Bộ, cửa ngõ ra biển của miền Bắc vị trí quan trọng
về quốc phòng, an ninh. Đặc biệt, thành phố Hải Phòng còn giữ vị trí trọng yếu
trong hợp tác “Hai hành lang - Một vành đai kinh tế” giữa Việt Nam Trung
vùng Đông Á Đông Nam Á. Với vị trí chiến ợc tiềm năng nổi trội, đây
chính một trong những kiều kiện thuận lợi cho Thành Phố dễ dàng phát triển ,
giao lưu hợp tác với các khu vực trên thế giới . Hải Phòng một trong
những địa phương phát triển công nghiệp sớm của cả nước. Sau ngày giải
phóng Hải Phòng (13-5-1955), cùng miền Bắc xây dựng chủ nghĩa hội, địa
phương đã rất nổi danh với các nhà máy Xi-măng Hải Phòng, Nhựa Tiền Phong,
sợi, Khóa 1-12, Sắt tráng men - Nhôm, Thủy tinh,... cùng các nhà máy đóng
Duyên Hải, khí Kiến Thiết, khí 1-5, khí 19-8,... Màu áo xanh người
thợ trở thành biểu tượng của “thành phố Cảng”, đi vào thơ ca, nhạc họa
niềm tự hào của người dân thành phố. Trong những năm đầu của thế kỷ XX,
những nhà máy sản xuất sợi, xi-măng, phòng, thủy tinh, gốm sứ,...
những minh chứng nhất cho thấy hình ảnh của công nghiệp Hải Phòng thời
kỳ đó. Giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới, Hải Phòng địa phương đi đầu trong
thu hút vốn đầu trực tiếp nước ngoài (FDI), với khu công nghiệp (KCN)
Nomura được xây dựng trong giai đoạn 1992 - 1994. Với những thế mạnh về vị
trí địa đã tạo điều kiện cho công nghiệp Hải Phòng phát triển vững mạnh ,
hội hợp tác , kinh doanh , phát triển kinh tế với các vùng lân cận đồng
thời cũng là tiềm lực phát triển kinh tế trọng điểm của cả nước , làm cho đất
nước ngày càng phát triển .
trò quan trọng trong việc thu hút đầu tư, đặc biệt đầu nước ngoài. Hiện nay,
trên địa bàn thành phố 12 KCN 5 cụm công nghiệp đang hoạt động. Tỷ lệ
lấp đầy của các khu, cụm công nghiệp khá cao, một số khu, cụm công nghiệp đã
bản đạt 100 tỷ lệ lấp đầy, như KCN Nomura, KCN Tràng Duệ( 1 2), KCN
Đình Vũ( 1 2), KCN Đồ Sơn; cụm công nghiệp Vĩnh Niệm, cụm công nghiệp
Tân Liên, cụm công nghiệp An Lão. Tính đến nay, các KCN, khu kinh tế đã thu
hút được 464 dự án FDI với tổng vốn đầu 20,8 tỷ USD 2,19 tỷ USD mua
vốn góp, cổ phần; 202 dự án đầu trong nước với tổng vốn đầu 294.722 t
đồng; thu hút194.778 lao động đóng góp trên 70 giá trị sản xuất công nghiệp
của thành phố. (1)
Các doanh nghiệp trong các KCN, khu kinh tế bước đầu hình thành các chuỗi
liên kết đa dạng, trong đó liên kết nổi trội nhất lẽ phải kể đến đó là kiên kết
Hợp tác sản xuất với các doanh nghiệp FDI bước đầu phát triển, đã thu hút được
FDI chuyển mạnh từ chiều rộng sang chiều sâu bằng việc tập trung vào các dự
tiến, thân thiện với môi trường, sản phẩm tạo ra giá trị gia tăng cao, tăng
năng suất lao động, tiết kiệm sức lao động chân tay đặc biệt những sản phẩm
được tạo ra nằm trong chuỗi sản phẩm toàn cầu của các tập đoàn kinh tế lớn.
Nổi bật dự án Tổ hợp Nhà máy sản xuất ô- Vinfast, với tổng vốn đầu
tư175.000 tỷ đồng; Tập đoàn LG( Hàn Quốc) với 7 dự án, chủ yếu sản xuất sản
phẩm điện tử, với tổng vốn đầu tư gần 7,3 tỷ USD; Tập đoàn Bridgestone( Nhật
Bản) với Dự án sản xuất lốp xe ô- tô, vốn đầu 1,224 tỷ USD; Dự án may mặc
cao cấp Regina Miracle( Hồng Kông, Trung Quốc) vốn đầu 1 tỷ USD; Dự án
sản xuất dược phẩm của Nipro Pharma( Nhật Bản) vốn đầu 250 triệu USD,.
(1),(2) Các dự án này sử dụng thiết bị, công nghệ hiện đại, giá trị gia tăng cao
khả năng thu hút các dự án vệ tinh khác tiếp tục đầu tư vào thành phố,
bước đầu hình thành các cụm sản xuất, sản xuất theo chuỗi. Kết cấu sở vững
chẳng 1 công ty hay doanh nghiệp ớc ngoài nào muốn đầu vào một
Thành Phố nếu sở hạ tầng không ổn định, không tiềm lực phát triển kinh
tế.
Trong thời gian qua, hệ thống giao thông kết nối bên ngoài các KCN, cụm công
nghiệp đã được quan tâm đầu tư, xây dựng cải thiện hơn rất nhiều từ đó góp
phần phát huy hiệu quả hoạt động của các khu, cụm công nghiệp, tạo ra hệ
thống công trình kết cấu hạ tầng giá trị lâu dài, đóng góp vào sự phát triển
hoạt động xúc tiến thương mại.
- Các nguồn tài nguyên phục vụ cho sự phát triển của ngành công
nghiệp :
Nguyên liệu từ khoáng sản : với nguồn nguyên liệu chủ yếu đá vôi , tập
trung nhiều Tràng Kênh , Thủy Nguyên , Cát với trữ lượng khoảng hơn
200 triệu tấn , chất lượng tốt để sản xuất xi măng , đất đèn …Đây một
trong những nguồn nguyên liệu cùng phong phú đa dạng phục vụ cho
Thành phố trong việc khai thác phát triển các ngành công nghiệp liên
quan đến khoáng sản .
Nguyên liệu từ nông nghiệp : Đất nông nghiệp của Hải Phòng không
nhiều chỉ khoảng trên 60000 ha , khả năng khai hoang lấn biển hạn chế
hiện nay Hải Phòng cũng đang tiếp tục phát triển mở rộng các khu công
nghiệp , đô thị , giao thông , tiến tới hoàn thiện xây dựng Thành Phố công
nghiệp hóa hiện đại hóa vào năm 2030 nên đất nông nghiệp tiếp tục xu
hướng ngày cảng giảm . vậy , Hải Phòng chỉ thể đi vào sản xuất 1 số
cây lương thực cho địa phương , trồng trọt 1 số loại cây công nghiệp ngắn
ngày đặc biệt các loại rau ,củ , quả . Tuy nhiên , vùng Đồng Bằng Sông
Hồng khả năng phát triển lớn các cây công nghiệp ngắn ngày đồng
thời Hải Phòng tiếp giáp với trung du , miền núi Bắc Bộ vùng tiềm
năng lớn về diện tích khai hoang vùng đồi nên Hải Phòng hoàn toàn thể
khả năng phát triển ngành công nghiệp chế biến lương thực , thực phẩm .
Bên cạnh phát triển trồng trọt thì không thể không kể đến các ngành công
nghiệp chế biến thịt hộp , thịt đông hay rất nhiều những sản phẩm khác
nguồn gốc từ các loại nguyên liệu gia súc , gia cầm cũng cùng phát
triển
Nguyên liệu từ lâm nghiệp : Nhắc đến lâm nghiệp thì chúng ta sẽ nghĩ ngay
đến gỗ .Một trong những nơi cung cấp gỗ chủ yếu cho ngành công nghiệp
khai thác gỗ của Hải Phòng nằm chủ yếu rừng Bắc Bộ , song rừng Bắc Bộ
hiện nay đã bị khai thác cạn kiệt . Trong mấy năm qua , để bảo vệ , duy trì ổn
định tái sinh rừng thì việc khai thác gỗ rừng Bắc Bộ đã giảm . Thế
nhưng nhu cầu khai thác sử dụng gỗ cho ngành công nghiệp cùng
lớn vậy để thể đáp ứng nhu cầu gỗ cho công nghiệp Hải Phòng đã phải
sử dụng thêm nguồn gỗ từ khu bốn được giảm nguồn nguyên liệu gỗ đó
khiến công nghiệp chế biến gỗ của Hải Phòng thu hẹp trong bốn đến năm
năm qua nhiều doanh nghiệp đã thành công trong việc chuyển hóa sản xuất
gỗ ván ép , ván dán để tận dụng tiết kiệm gỗ đồng thời sử dụng các vật
liệu thay thế gỗ như nhôm , sắt , thép , kính .
Nguyên liệu từ thủy sản Hải Phòng nằm trong vịnh Bắc bộ chiều dài
bờ biển 162 km bằng1/ 5 chiều dài vịnh tiềm năng hải sản rất phong
phú bao gồm trên 100 loại kinh tế trong đó gần 50 loại giá trị
kinh tế cao. Các bài cả chính sản lượng cao ổn định đều phân bố
gần bờ rất thuận lợi cho khai thác. Trong những năm vừa qua, theo số liệu
nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Hải sản trong trường này cho khai thác
khoảng ) (3).17 vạn tấn/ năm( trong đó Hải Phòng khoảng 2 vạn tấn/ năm
Do đó, thể dự báo nguồn lợi hải sản Vịnh Bắc Bộ đã bị khai thác gần
tới mức giới hạn cho phép, mặt khác sản lượng khai thác của Hải Phòng
còn thấp, ngành khai thác hải sản Hải Phòng bị cạnh tranh khốc liệt. Dọc
bờ biển Hải Phòng có10.100 ha bãi triều cao trong đó 4.600 ha đầm
nước lợ 5.500 ha bãi rừng cây nước mặn thể nuôi tôm. Nhìn chung
nguyên liệu từ thuỷ sản đủ phong phú, đa dạng cho công nghiệp chế
biến Hải Phòng để phục vụ nhu cầu trong nước, đặc biệt chế biến
phục vụ xuất khẩu mang lại nguồn thu nhập khổng lồ cho đất nước.
- Nguồn nhân lực Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp Hải
Phòng thì yêu cầu về nguồn nhân lực cùng lớn. Quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế- hội của Hải Phòng đến năm 2025 tầm nhìn tới
năm 2030 đặt ra mục tiêu sẽ lấp đầy 90 diện tích 12 khu công nghiệp.
Đồng thời, mở rộng thêm 15 khu công nghiệp với tổng diện tích hơn
6.400 ha, thu hút vốn FDI đạt từ 12,5 tới 15 tỷ USD. (4) (5)Tương ứng
với quy đó, ước tính Hải Phòng cần số lượng lao động lên tới 300
nghìn người . Trong đó, nhu cầu lao động phổ thông khoảng 50, công
nhân kỹ thuật người lao động đã qua đào tạo khoảng khoảng 40, lao
động quản trình độ bậc trung bao gồm các thợ bậc cao, cử nhân, cao
đẳng nghề, kỹ thực hành khoảng 7 còn lại khoảng hơn 3 lao động
trình độ cao như tiến sỹ, thạc sỹ, kỹ sư, cử nhân kinh nghiệm.
- Khả năng huy động vốn Tiếp nối truyền thống thành phố công nghiệp,
qua 37 năm thực hiện đường lối đổi mới, ngành công nghiệp Hải Phòng
đã đạt được những kết quả khá tích cực. Hiện nay, thành phố Hải Phòng
được xác định trọng điểm của phát triển kinh tế biển, với ngành công
nghiệp đóng tàu tr cột chính, với nhiều dự án đóng mới sửa chữa
tàu biển lớn của Tập đoàn Vinashin. Trong giai đoạn 2010- 2015, hàng
loạt KCN lớn của thành phố Hải Phòng đi vào hoạt động, thu hút các nhà
sản xuất công nghiệp toàn cầu, với các dự án lớn, công nghệ hiện đại, như
các tập đoàn General Electric( GE), Bridgestone, Chevron, Idemitsu
Kosan, LG, Kyocera, Fuji Xerox,. Đặc biệt, giai đoạn 2016- 2020, công
nghiệp thành phố Hải Phòng phát triển nhanh với nhiều sản phẩm công
nghiệp mới, tính cạnh tranh cao, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của
những dự án đầu quy mô lớn trong lĩnh vực điện tử của LG,
Pegatron,. lĩnh vực sản xuất ô- của Vinfast.
Tất cả những điều kiện trên đã phục vụ cho sự phát triển của các ngành
công nghiệp của Thành Phố Hải Phòng. Sự bứt phá của công nghiệp Hải
Phòng được thể hiện qua những con số đầy sức thuyết phục, đặc biệt
trong vài năm gần đây, công nghiệp của thành phố bước phát triển
vượt bậc cả về quy mô, cấu chất lượng. Trước năm 2017, dịch vụ
ngành quy lớn nhất trong tổng sản phẩm trên địa bàn( GRDP), t
năm 2018 đến nay, ngành công nghiệp đã vươn lên, vượt trên ngành dịch
vụ, trở thành ngành quy lớn nhất. Trong đó, ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo giữ vững vai trò ngành chủ đạo trong sản xuất công
nghiệp, với giá trị tăng thêm tăng liên tục từ 26,9 %( năm 2005) lên 43,02
%( năm 2021), 44,9%( năm 2022). Chỉ số sản xuất công nghiệp( IIP) giai
đoạn 2019- 2022 đều tăng cao hơn so với mức trung bình của cả nước,
trong đó năm 2019 tăng 24,29%; năm 2020 tăng 14,58%; năm 2021 tăng
18,15%; năm 2022 tăng 14,56%. (6)
Không chỉ vậy, cấu các ngành công nghiệp chuyển dịch theo hướng
tích cực, hiện đại, giảm dần tỷ trọng các ngành sử dụng nhiều lao động,
nhưng giá trị gia tăng thấp, ngành tiêu thụ nhiều năng lượng, nhiên
liệu, như sản xuất giày dép, đóng tàu, vật liệu xây dựng, sản xuất kim
loại,. tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp công nghệ cao, giá trị
gia tăng lớn, như sản xuất hàng điện tử, điện gia dụng, máy móc, thiết bị,.
Tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghệ cao trong giá trị sản xuất trong
GRDP công nghiệp ngày càng tăng qua các năm. Trong đó, ngành sản
xuất điện tử- barrel học năm 2005 chiếm tỷ trọng 1,17 giá trị sản xuất
công nghiệp toàn thành phố, tăng lên 8,66 trong năm 2015 45,68 trong
năm 2020. (6)
Nhiều ngành công nghiệp đã tăng cường ứng dụng công nghệ cao, công
nghệ tự động hóa trong sản xuất, như sản phẩm điện tử, điện lạnh, xi-
măng, khí, đóng tàu, luyện cán thép, may mặc, hóa chất, cao- su, nhựa,
sản xuất bia,. nhất trong các dự án FDI để từ đó thể đẩy mạnh năng
suất lao động tạo ra nhiều nguồn thu cho Thành Phố. Sản phẩm do công
nghệ cao tạo ra chất lượng, tính năng ợt trội, giá trị gia tăng cao,
thân thiện với môi trường; tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp công
nghệ cao trong công nghiệp chế biến, chế tạo năm 2022 đạt 53,39. (6)
2.1.2 Thực trạng tình hình phát triển công nghiệp công nghệ của Hải
Phòng
Bên cạnh những kết quả đạt được, sản xuất công nghiệp của thành phố Hải
Phòng vẫn còn một số hạn chế, khúc mắc cần được hạn chế khắc phục ngay
để Hải Phòng thể ngày càng phát triển hơn nữa. Thứ nhất, vấn đề thiếu
vốn do đó việc đầu cho phát triển kết cấu hạ tầng các KCN, cụm công nghiệp
còn chậm, chưa KCN công nghệ cao. Công nghiệp tuy tốc độ tăng trưởng
khá cao, nhưng chủ yếu vẫn phụ thuộc vào của các doanh nghiệp FDI, các
doanh nghiệp trong nữa khả năng huy động vốn còn kém. Phần lớn vốn( vốn
tự có, vốn điều lệ.) rất ít, huy động bên ngoài hạn chế, không đủ điều kiện tiếp
cận thị trường vốn, năng lực tự huy động không có. Vốn khó khăn lớn nhất
cũng điểm yếu lớn nhất của ngành, nhất các khoản vay trung hạn, dài hạn
khi vay vốn, nên không đủ khả năng tham gia sản xuất, kinh doanh các ngành
nghề, lĩnh vực đòi hỏi tập trung vốn lớn công nghệ cao Đặc biệt, các khoản
vay bảo lãnh rất hiếm khi dành cho các doanh nghiệp vừa nhỏ; việc đầu
vào khu vực doanh nghiệp vừa nhỏ, do nhận thức chưa thông thoáng, cho
nên bị hạn chế rất nhiều. Các ngành công nghiệp truyền thống sự tham gia
của nhiều doanh nghiệp trong ớc, như sản xuất giày dép, chế biến thực phẩm,
đóng tàu, sản xuất thép, tăng trưởng thấp hoặc suy giảm; công nghiệp hỗ trợ
chậm phát triển, chưa hình thành được các cụm liên kết ngành công nghiệp,
nguồn ngân sách của thành phố còn hạn chế cho những dự án lớn. Điều đó dẫn
đến việc giải tỏa mặt bằng mở rộng các khu công nghiệp sẽ không thể diễn
ra, tiến độ giải phóng mặt bằng thi công tại một số dự án đã được thành phố
thu hút đầu triển khai xây dựng còn chậm, trì trệ làm ảnh hướng đến tiến
độ phát triển của toàn Thành Phố.
Thứ hai, Bên cạnh vấn đề thiếu vốn thì Thành phố Hải Phòng còn gặp vấn
đề trong việc thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong thời đại công
nghiệp hóa hiện đại hóa đặc biệt Việt Nam đang trên đà hội nhập phát
1 trong những điều kiện không thể thiếu để phát triển ngành công nghiệp vững
mạnh, toàn diện. Bởi nếu thiếu đi nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ làm cho
ngành công nghiệp ngành càng xuống cấp đặc biệt không thể tạo ra những
sản phẩm tiên tiến, hiện đại, bắt kịp xu hướng của nền kinh tế hiện nay dễ dẫn
đến bị đào thải nền kinh tế suy giảm. Một quốc gia không thể nào phát triển
được nếu như không nguồn nhân lực chất lượng cao. Mặc chất lượng lao
động chuyển biến, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường về
tay nghề các kỹ năng mềm. Việc giải quyết nhà cho công nhân chưa đáp
ứng được nhu cầu, tỷ l người lao động nhu cầu về nhà được bố trí nhà
còn thấp. Nguồn nhân lực nguồn lực chính quyết định quá trình tăng trưởng
phát triển kinh tế- hội, khai thác, sử dụng, bảo vệ tái tạo các nguồn lực
khác đặc biệt trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội
nhập kinh tế quốc tế, Hải Phòng đang đứng trước thách thức rất lớn về nguồn
nhân lực chất lượng cao. Trong khi lao động phổ thông hay lực lượng lao động
chân tây còn thừa quá nhiều thì nguồn nhân lực chất lượng cao để phục vụ
chủ yếu cho các ngành công nghiệp, phục vụ cho sản xuất kinh doanh thì thiếu
hụt nghiêm trọng. Do đó, việc thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao thể
làm cho ngành công nghiệp phát triển trì trệ, làm giảm năng suất lao động, chất
lượng sản phẩm tạo ra không cao đặc biệt ảnh hưởng trực tiếp đến sự
công nghiệp hóa hiện đại hóa của Thành Phố bởi nguồn nhân lực chất lượng
cao chính một trong những chất xúc tiến cho sự phát triển của những ngành
công nghiệp này.
Thứ ba , sở hạ tầng một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự
phát triển tiến bộ , nhanh chóng của ngành công nghiệp nói riêng của tất
cả các ngành nói chung . Muốn ngành công nghiệp phát triển hiện đại , vững
mạnh thì trước hết sở hạ tầng phải vững mạnh , tạo nền tảng sở vững chắc
nhanh chóng của kinh tế-hội cũng như thể đáp ứng được cho các ngành
công nghiệp , đã tác động trực tiếp đến sự phát triển của toàn bộ ngành công
nghiệp . Đó chính do sao Hải Phòng phải chú trọng đầu phát triển
sở hạ tầng để phát triển đột phá . Bên cạnh đó ,việc đầu phát triển hạ tầng khu
kinh tế, khu công nghiệp cũng còn vướng mắc, chưa khu công nghiệp chuyên
ngành, khu công nghiệp chất lượng cao , công nghệ cao. Hơn thế nữa , hạ tầng
kỹ thuật hội ngoài hàng rào chưa tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các dự án
đầu trực tiếp nước ngoài vốn lớn, công nghệ hiện đại, tác động lan tỏa,
kích thích sự phát triển kinh tế của Hải Phòng . Mặc đã chủ trương, chỉ
đạo sát sao nhưng công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, giao đất thực hiện dự
án đầu xây dựng, phát triển hạ tầng các KCN còn nhiều khó khăn, việc chậm
tiến độ đã trở nên phổ biến, làm mất hội tiếp nhận các dự án FDI tiềm
năng bởi để thể hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài thì cần đáp ứng rất
nhiều yếu tố sở hạ tầng yếu tố chính quyết định một doanh nghiệp nước
ngoài hay 1 tổ chức , công ty nào đó đầu cho Thành Phố ta hay không . Sẽ
không ai đầu vào phát triển 1 thành phố nếu như sở hạ tầng còn kém ,
chưa thể giải quyết được các vấn đề liên quan đến đất đai, nhà hay giải phóng
mặt bằng cho các khu công nghiệp đặc biệt sở hạ tầng để đầu cho các
khu công nghiệp cao , những máy móc hay sự thiếu đi các dây chuyền sản xuất
hiện đại cũng sẽ làm mất đi hội hợp tác với ác doanh nghiệp cùng những dự
án FDI tiềm năng . Việt Nam đang trên đà chuyển mình để hội nhập phát
triển lại thiếu đi các dây chuyền sản xuất công nghệ cao thì chính một
thách thức rất lớn đối với nước ta , cản trở bước tiến cũng như làm trì trệ quá
trình vận động , phát triển hội nhập kinh tế quốc tế với các nước trong khu
vực các nước trên thế giới .
Thứ , Sản xuất công nghiệp còn tiềm ẩn nguy gây ô nhiễm môi trường
kịp thời khắc phục tình trạng này tiêu biểu như một số dự án về sản xuất
phân bón, nhiệt điện tác động trực tiếp đến ô nhiễm môi trường . Trên địa
bàn thành phố còn nhiều doanh nghiệp sản xuất nằm ngoài khu, cụm công
nghiệp, xen kẽ trong khu dân cư, ảnh hưởng đến môi trường... Vấn đề môi
trường vấn đề cấp bách không thể bỏ qua khi đề cập đến sản xuất công
nghiệp . Hải Phòng địa phương quỹ đất ít với dân số ngày càng tăng, tốc
độ đô thị hóa, công nghiệp cao đã ảnh hưởng trực tiếp đến các nguồn gây ô
nhiễm môi trường đất , môi trường nước hay ô nhiễm không khí .
Việc đầu xây dựng phát triển các KCN những năm trước đây chủ yếu chú
trọng về thu hút đầu tư, cho nên công tác bảo vệ môi trường chưa được quan
động, được lấp đầy nhưng đến nay vẫn chưa hệ thống xử nước thải tập
trung, hay KCN được ngân sách TP đầu xây dựng hạ tầng tương đối đồng bộ,
hệ thống xử nước thải nhưng không kinh phí vận hành do không thoả
thuận được giá dịch vụ với các doanh nghiệp trong KCN. Mặc các KCN đã
thực hiện đầu hệ thống thu gom, xử nước thải chung của KCN, nhưng
chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn theo quy chuẩn VN về nước thải công nghiệp
hiện hành. Nguyên nhân xảy ra tình trạng ô nhiễm tại các khu công nghiêp chủ
yếu do chi phí vận hành quá cao nên các khu công nghiệp sẽ không kinh
phí đầu , nâng cấp vận hành hệ thống xử nước thải , rác thải công
bón DAP, nhà máy nhiệt điện Tam Hưng, chưa giải pháp khắc phục triệt để.
hưởng trực tiếp đến chất lượng đời sống sức khỏe của người dân địa phương
nên các khu công nghiệp cần giải pháp cải thiện vấn dề này
Di dời các sở sản xuất công nghiệp ra khỏi nội thành chỉ đạo chung của
Hải Phòng trong nhiều năm qua. Đến nay, bức xúc về ô nhiễm công nghiệp tuy
phần được kiềm chế nội thành nhưng lại gia tăng tại các vùng nông thôn
ven nội. nghĩa nguồn ô nhiễm không giảm chỉ di chuyển từ nơi này
sang nơi khác. Trên thực tế , các nguồn ô nhiễm này vẫn chưa được giải quyết
chỉ được chuyển từ nơi này đến nơi khác do đó đây không phải giải
pháp lâu dài , chỉ thể áp dụng tạm thời . Dự báo, đến năm 2025 rác thải rắn
tại Hải Phòng sẽ tăng lên khoảng hơn 2.779 tấn/ngày, đến năm 2030 sẽ tăng lên
đến 3.838 tấn/ngày (7)
Tài liệu tham khảo
(1) Tạp chí cộng sản. (n.d.). Tạp Chí Cộng Sản.
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/thuc-tien-kinh-nghiem1/-/
2018/827444/de-hai-phong-som-tro-thanh-thanh-pho-cong-nghiep-theo-
huong-hien-dai.aspx
(2) Báo Nhân Dân điện tử. (2017, September 7). Vingroup khởi công Dự án
tổ hợp sản xuất ô- VINFAST. Báo Nhân Dân Điện Tử.
https://nhandan.vn/vingroup-khoi-cong-du-an-to-hop-san-xuat-o-to-
vinfast-post303068.html
(3)Viện Nghiên cứu Hải sản. (n.d.).
https://www.rimf.org.vn/baibaocn/chitiet/tinid-2049
(4)Hungnm. (2023, December 3). Phê duyệt Quy hoạch thành phố Hải
Phòng thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
https://dangcongsan.vn. https://dangcongsan.vn/kinh-te/phe-duyet-quy-
hoach-thanh-pho-hai-phong-thoi-ky-2021-2030-tam-nhin-den-nam-2050-
654186.html
(5)Thuvienphapluat.Vn. (n.d.). Quyết định 821/QĐ-TTg 2018 Quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế hội Hải Phòng đến 2025. THƯ VIỆN PHÁP
LUẬT. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Thuong-mai/Quyet-dinh-821-
QD-TTg-2018-Quy-hoach-tong-the-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-Hai-Phong-
den-2025-387224.aspx
(6)Tạp chí cộng sản. (n.d.-b). Tạp Chí Cộng Sản.
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/thuc-tien-kinh-nghiem1/-/
2018/827444/de-hai-phong-som-tro-thanh-thanh-pho-cong-nghiep-theo-
huong-hien-dai.aspx
(7)Cường T. Q. (2022, December 29). Hải Phòng “đau đầu” với bài toán xử
chất thải công nghiệp. Nhịp Sống Kinh Tế Việt Nam & Thế Giới.
https://vneconomy.vn/hai-phong-dau-dau-voi-bai-toan-xu-ly-chat-thai-
cong-nghiep.htm

Preview text:

Chương 2 : Thực trạng kinh tế Hải Phòng dựa trên 3 trụ cột chính
2.1.Trụ cột 1- Thực trạng hạ tầng công nghiệp – công nghệ
2.1.1 Đặc điểm kinh tế - xã hội và điều kiện phát triển công nghiệp – công nghệ Hải Phòng
2.1.1.1 Điều kiện cơ bản cho phát triển công nghiệp-công nghệ ở Hải Phòng
- Vị trí địa lí : Thành phố Hải Phòng là một trong 5 thành phố trực thuộc Trung
ương, là một cực tăng trưởng của tam giác kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, trung tâm
Vùng duyên hải Bắc Bộ, cửa ngõ ra biển của miền Bắc và có vị trí quan trọng
về quốc phòng, an ninh. Đặc biệt, thành phố Hải Phòng còn giữ vị trí trọng yếu
trong hợp tác “Hai hành lang - Một vành đai kinh tế” giữa Việt Nam và Trung
Quốc, là địa bàn có mối quan hệ chiến lược với các cực tăng trưởng lớn trong
vùng Đông Á và Đông Nam Á. Với vị trí chiến lược và tiềm năng nổi trội, đây
chính là một trong những kiều kiện thuận lợi cho Thành Phố dễ dàng phát triển ,
giao lưu và hợp tác với các khu vực trên thế giới . Hải Phòng là một trong
những địa phương phát triển công nghiệp sớm của cả nước. Sau ngày giải
phóng Hải Phòng (13-5-1955), cùng miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, địa
phương đã rất nổi danh với các nhà máy Xi-măng Hải Phòng, Nhựa Tiền Phong,
Mì sợi, Khóa 1-12, Sắt tráng men - Nhôm, Thủy tinh,... cùng các nhà máy đóng
tàu, nhà máy cơ khí, như Cơ khí 23-9, Cơ khí tháng 10, Cơ khí 139, Cơ khí
Duyên Hải, Cơ khí Kiến Thiết, Cơ khí 1-5, Cơ khí 19-8,... Màu áo xanh người
thợ trở thành biểu tượng của “thành phố Cảng”, đi vào thơ ca, nhạc họa và là
niềm tự hào của người dân thành phố. Trong những năm đầu của thế kỷ XX,
những nhà máy sản xuất tơ sợi, xi-măng, xà phòng, thủy tinh, gốm sứ,... là
những minh chứng rõ nhất cho thấy hình ảnh của công nghiệp Hải Phòng thời
kỳ đó. Giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới, Hải Phòng là địa phương đi đầu trong
thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), với khu công nghiệp (KCN)
Nomura được xây dựng trong giai đoạn 1992 - 1994. Với những thế mạnh về vị
trí địa lí đã tạo điều kiện cho công nghiệp ở Hải Phòng phát triển vững mạnh ,
có cơ hội hợp tác , kinh doanh , phát triển kinh tế với các vùng lân cận đồng
thời cũng là tiềm lực phát triển kinh tế trọng điểm của cả nước , làm cho đất
nước ngày càng phát triển .
- Kết cấu hạ tầng các khu, cụm công nghiệp dần hoàn thiện, đồng bộ, đóng vai
trò quan trọng trong việc thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài. Hiện nay,
trên địa bàn thành phố có 12 KCN và 5 cụm công nghiệp đang hoạt động. Tỷ lệ
lấp đầy của các khu, cụm công nghiệp khá cao, một số khu, cụm công nghiệp đã
cơ bản đạt 100 tỷ lệ lấp đầy, như KCN Nomura, KCN Tràng Duệ( 1 2), KCN
Đình Vũ( 1 2), KCN Đồ Sơn; cụm công nghiệp Vĩnh Niệm, cụm công nghiệp
Tân Liên, cụm công nghiệp An Lão. Tính đến nay, các KCN, khu kinh tế đã thu
hút được 464 dự án FDI với tổng vốn đầu tư 20,8 tỷ USD và 2,19 tỷ USD mua
vốn góp, cổ phần; 202 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư 294.722 tỷ
đồng; thu hút194.778 lao động và đóng góp trên 70 giá trị sản xuất công nghiệp của thành phố. (1)
Các doanh nghiệp trong các KCN, khu kinh tế bước đầu hình thành các chuỗi
liên kết đa dạng, trong đó liên kết nổi trội nhất có lẽ phải kể đến đó là kiên kết
sản xuất giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài.
Hợp tác sản xuất với các doanh nghiệp FDI bước đầu phát triển, đã thu hút được
FDI chuyển mạnh từ chiều rộng sang chiều sâu bằng việc tập trung vào các dự
án quy mô lớn, đẩy nhanh tiến độ phát triển, sử dụng công nghệ hiện đại, tiên
tiến, thân thiện với môi trường, sản phẩm tạo ra có giá trị gia tăng cao, tăng
năng suất lao động, tiết kiệm sức lao động chân tay đặc biệt là những sản phẩm
được tạo ra nằm trong chuỗi sản phẩm toàn cầu của các tập đoàn kinh tế lớn.
Nổi bật là dự án Tổ hợp Nhà máy sản xuất ô- tô Vinfast, với tổng vốn đầu
tư175.000 tỷ đồng; Tập đoàn LG( Hàn Quốc) với 7 dự án, chủ yếu sản xuất sản
phẩm điện tử, với tổng vốn đầu tư gần 7,3 tỷ USD; Tập đoàn Bridgestone( Nhật
Bản) với Dự án sản xuất lốp xe ô- tô, vốn đầu tư 1,224 tỷ USD; Dự án may mặc
cao cấp Regina Miracle( Hồng Kông, Trung Quốc) vốn đầu tư 1 tỷ USD; Dự án
sản xuất dược phẩm của Nipro Pharma( Nhật Bản) vốn đầu tư 250 triệu USD,.
(1),(2) Các dự án này sử dụng thiết bị, công nghệ hiện đại, giá trị gia tăng cao
và có khả năng thu hút các dự án vệ tinh khác tiếp tục đầu tư vào thành phố,
bước đầu hình thành các cụm sản xuất, sản xuất theo chuỗi. Kết cấu cơ sở vững
chắc, ngày càng hoàn thiện sẽ là cơ sở để thu hút thêm nhiều nguồn đầu tư. Sẽ
chẳng có 1 công ty hay doanh nghiệp nước ngoài nào muốn đầu tư vào một
Thành Phố nếu cơ sở hạ tầng không ổn định, không có tiềm lực phát triển kinh tế.
Trong thời gian qua, hệ thống giao thông kết nối bên ngoài các KCN, cụm công
nghiệp đã được quan tâm đầu tư, xây dựng và cải thiện hơn rất nhiều từ đó góp
phần phát huy hiệu quả hoạt động của các khu, cụm công nghiệp, tạo ra hệ
thống công trình kết cấu hạ tầng có giá trị lâu dài, đóng góp vào sự phát triển
sản xuất công nghiệp của thành phố, thúc đẩy phát triển dịch vụ logistics và các
hoạt động xúc tiến thương mại.
- Các nguồn tài nguyên phục vụ cho sự phát triển của ngành công nghiệp :
Nguyên liệu từ khoáng sản : với nguồn nguyên liệu chủ yếu là đá vôi , tập
trung nhiều ở Tràng Kênh , Thủy Nguyên , Cát Bà với trữ lượng khoảng hơn
200 triệu tấn , chất lượng tốt để sản xuất xi măng , đất đèn …Đây là một
trong những nguồn nguyên liệu vô cùng phong phú và đa dạng phục vụ cho
Thành phố trong việc khai thác và phát triển các ngành công nghiệp liên quan đến khoáng sản .
Nguyên liệu từ nông nghiệp : Đất nông nghiệp của Hải Phòng không có
nhiều chỉ có khoảng trên 60000 ha , khả năng khai hoang lấn biển hạn chế và
hiện nay Hải Phòng cũng đang tiếp tục phát triển và mở rộng các khu công
nghiệp , đô thị , giao thông , tiến tới hoàn thiện xây dựng Thành Phố công
nghiệp hóa – hiện đại hóa vào năm 2030 nên đất nông nghiệp tiếp tục có xu
hướng ngày cảng giảm . Vì vậy , Hải Phòng chỉ có thể đi vào sản xuất 1 số
cây lương thực cho địa phương , trồng trọt 1 số loại cây công nghiệp ngắn
ngày đặc biệt là các loại rau ,củ , quả . Tuy nhiên , vùng Đồng Bằng Sông
Hồng có khả năng phát triển lớn các cây công nghiệp ngắn ngày và đồng
thời Hải Phòng tiếp giáp với trung du , miền núi Bắc Bộ là vùng có tiềm
năng lớn về diện tích khai hoang vùng đồi nên Hải Phòng hoàn toàn có thể
có khả năng phát triển ngành công nghiệp chế biến lương thực , thực phẩm .
Bên cạnh phát triển trồng trọt thì không thể không kể đến các ngành công
nghiệp chế biến thịt hộp , thịt đông hay rất nhiều những sản phẩm khác có
nguồn gốc từ các loại nguyên liệu là gia súc , gia cầm cũng vô cùng phát triển
Nguyên liệu từ lâm nghiệp : Nhắc đến lâm nghiệp thì chúng ta sẽ nghĩ ngay
đến gỗ .Một trong những nơi cung cấp gỗ chủ yếu cho ngành công nghiệp
khai thác gỗ của Hải Phòng nằm chủ yếu ở rừng Bắc Bộ , song rừng Bắc Bộ
hiện nay đã bị khai thác cạn kiệt . Trong mấy năm qua , để bảo vệ , duy trì ổn
định và tái sinh rừng thì việc khai thác gỗ ở rừng Bắc Bộ đã giảm . Thế
nhưng nhu cầu khai thác và sử dụng gỗ cho ngành công nghiệp là vô cùng
lớn vì vậy để có thể đáp ứng nhu cầu gỗ cho công nghiệp Hải Phòng đã phải
sử dụng thêm nguồn gỗ từ khu bốn cũ được giảm nguồn nguyên liệu gỗ đó
khiến công nghiệp chế biến gỗ của Hải Phòng thu hẹp trong bốn đến năm
năm qua nhiều doanh nghiệp đã thành công trong việc chuyển hóa sản xuất
gỗ ván ép , ván dán để tận dụng và tiết kiệm gỗ đồng thời sử dụng các vật
liệu thay thế gỗ như nhôm , sắt , thép , kính .
Nguyên liệu từ thủy sản Hải Phòng nằm trong vịnh Bắc bộ có chiều dài
bờ biển là 162 km bằng1/ 5 chiều dài vịnh tiềm năng hải sản rất phong
phú bao gồm trên 100 loại cá kinh tế trong đó có gần 50 loại có giá trị
kinh tế cao. Các bài cả chính có sản lượng cao và ổn định đều phân bố ở
gần bờ rất thuận lợi cho khai thác. Trong những năm vừa qua, theo số liệu
nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Hải sản trong trường này cho khai thác
khoảng 17 vạn tấn/ năm( trong đó Hải Phòng khoảng 2 vạn tấn/ năm) (3).
Do đó, có thể dự báo nguồn lợi hải sản ở Vịnh Bắc Bộ đã bị khai thác gần
tới mức giới hạn cho phép, mặt khác sản lượng khai thác của Hải Phòng
còn thấp, ngành khai thác hải sản Hải Phòng bị cạnh tranh khốc liệt. Dọc
bờ biển Hải Phòng có10.100 ha bãi triều cao trong đó có 4.600 ha đầm
nước lợ và 5.500 ha bãi rừng cây nước mặn có thể nuôi tôm. Nhìn chung
nguyên liệu từ thuỷ sản có đủ phong phú, đa dạng cho công nghiệp chế
biến ở Hải Phòng để phục vụ nhu cầu trong nước, đặc biệt là chế biến
phục vụ xuất khẩu mang lại nguồn thu nhập khổng lồ cho đất nước.
- Nguồn nhân lực Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp ở Hải
Phòng thì yêu cầu về nguồn nhân lực là vô cùng lớn. Quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế- xã hội của Hải Phòng đến năm 2025 và tầm nhìn tới
năm 2030 đặt ra mục tiêu sẽ lấp đầy 90 diện tích 12 khu công nghiệp.
Đồng thời, mở rộng thêm 15 khu công nghiệp với tổng diện tích hơn
6.400 ha, thu hút vốn FDI đạt từ 12,5 tới 15 tỷ USD. (4) (5)Tương ứng
với quy mô đó, ước tính Hải Phòng cần có số lượng lao động lên tới 300
nghìn người . Trong đó, nhu cầu lao động phổ thông khoảng 50, công
nhân kỹ thuật và người lao động đã qua đào tạo khoảng khoảng 40, lao
động quản lý có trình độ bậc trung bao gồm các thợ bậc cao, cử nhân, cao
đẳng nghề, kỹ sư thực hành khoảng 7 còn lại khoảng hơn 3 là lao động có
trình độ cao như tiến sỹ, thạc sỹ, kỹ sư, cử nhân có kinh nghiệm.
- Khả năng huy động vốn Tiếp nối truyền thống thành phố công nghiệp,
qua 37 năm thực hiện đường lối đổi mới, ngành công nghiệp Hải Phòng
đã đạt được những kết quả khá tích cực. Hiện nay, thành phố Hải Phòng
được xác định là trọng điểm của phát triển kinh tế biển, với ngành công
nghiệp đóng tàu là trụ cột chính, với nhiều dự án đóng mới và sửa chữa
tàu biển lớn của Tập đoàn Vinashin. Trong giai đoạn 2010- 2015, hàng
loạt KCN lớn của thành phố Hải Phòng đi vào hoạt động, thu hút các nhà
sản xuất công nghiệp toàn cầu, với các dự án lớn, công nghệ hiện đại, như
các tập đoàn General Electric( GE), Bridgestone, Chevron, Idemitsu
Kosan, LG, Kyocera, Fuji Xerox,. Đặc biệt, giai đoạn 2016- 2020, công
nghiệp thành phố Hải Phòng phát triển nhanh với nhiều sản phẩm công
nghiệp mới, có tính cạnh tranh cao, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của
những dự án đầu tư có quy mô lớn trong lĩnh vực điện tử của LG,
Pegatron,. và lĩnh vực sản xuất ô- tô của Vinfast.
Tất cả những điều kiện trên đã phục vụ cho sự phát triển của các ngành
công nghiệp của Thành Phố Hải Phòng. Sự bứt phá của công nghiệp Hải
Phòng được thể hiện qua những con số đầy sức thuyết phục, đặc biệt là
trong vài năm gần đây, công nghiệp của thành phố có bước phát triển
vượt bậc cả về quy mô, cơ cấu và chất lượng. Trước năm 2017, dịch vụ là
ngành có quy mô lớn nhất trong tổng sản phẩm trên địa bàn( GRDP), từ
năm 2018 đến nay, ngành công nghiệp đã vươn lên, vượt trên ngành dịch
vụ, trở thành ngành có quy mô lớn nhất. Trong đó, ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo giữ vững vai trò là ngành chủ đạo trong sản xuất công
nghiệp, với giá trị tăng thêm tăng liên tục từ 26,9 %( năm 2005) lên 43,02
%( năm 2021), 44,9%( năm 2022). Chỉ số sản xuất công nghiệp( IIP) giai
đoạn 2019- 2022 đều tăng cao hơn so với mức trung bình của cả nước,
trong đó năm 2019 tăng 24,29%; năm 2020 tăng 14,58%; năm 2021 tăng
18,15%; năm 2022 tăng 14,56%. (6)
Không chỉ vậy, cơ cấu các ngành công nghiệp chuyển dịch theo hướng
tích cực, hiện đại, giảm dần tỷ trọng các ngành sử dụng nhiều lao động,
nhưng có giá trị gia tăng thấp, ngành tiêu thụ nhiều năng lượng, nhiên
liệu, như sản xuất giày dép, đóng tàu, vật liệu xây dựng, sản xuất kim
loại,. tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp công nghệ cao, có giá trị
gia tăng lớn, như sản xuất hàng điện tử, điện gia dụng, máy móc, thiết bị,.
Tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghệ cao trong giá trị sản xuất và trong
GRDP công nghiệp ngày càng tăng qua các năm. Trong đó, ngành sản
xuất điện tử- barrel học năm 2005 chiếm tỷ trọng 1,17 giá trị sản xuất
công nghiệp toàn thành phố, tăng lên 8,66 trong năm 2015 và 45,68 trong năm 2020. (6)
Nhiều ngành công nghiệp đã tăng cường ứng dụng công nghệ cao, công
nghệ tự động hóa trong sản xuất, như sản phẩm điện tử, điện lạnh, xi-
măng, cơ khí, đóng tàu, luyện cán thép, may mặc, hóa chất, cao- su, nhựa,
sản xuất bia,. nhất là trong các dự án FDI để từ đó có thể đẩy mạnh năng
suất lao động tạo ra nhiều nguồn thu cho Thành Phố. Sản phẩm do công
nghệ cao tạo ra có chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao,
thân thiện với môi trường; tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp công
nghệ cao trong công nghiệp chế biến, chế tạo năm 2022 đạt 53,39. (6)
2.1.2 Thực trạng tình hình phát triển công nghiệp – công nghệ của Hải Phòng
Bên cạnh những kết quả đạt được, sản xuất công nghiệp của thành phố Hải
Phòng vẫn còn một số hạn chế, khúc mắc cần được hạn chế và khắc phục ngay
để Hải Phòng có thể ngày càng phát triển hơn nữa. Thứ nhất, là vấn đề thiếu
vốn
do đó việc đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng các KCN, cụm công nghiệp
còn chậm, chưa có KCN công nghệ cao. Công nghiệp tuy có tốc độ tăng trưởng
khá cao, nhưng chủ yếu vẫn là phụ thuộc vào của các doanh nghiệp FDI, các
doanh nghiệp trong nữa khả năng huy động vốn còn kém. Phần lớn có vốn( vốn
tự có, vốn điều lệ.) rất ít, huy động bên ngoài hạn chế, không đủ điều kiện tiếp
cận thị trường vốn, năng lực tự huy động không có. Vốn là khó khăn lớn nhất và
cũng là điểm yếu lớn nhất của ngành, nhất là các khoản vay trung hạn, dài hạn
từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác do không có các tài sản thế chấp
khi vay vốn, nên không đủ khả năng tham gia sản xuất, kinh doanh ở các ngành
nghề, lĩnh vực đòi hỏi tập trung vốn lớn và công nghệ cao Đặc biệt, các khoản
vay có bảo lãnh rất hiếm khi dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ; việc đầu tư
vào khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, do nhận thức chưa thông thoáng, cho
nên bị hạn chế rất nhiều. Các ngành công nghiệp truyền thống có sự tham gia
của nhiều doanh nghiệp trong nước, như sản xuất giày dép, chế biến thực phẩm,
đóng tàu, sản xuất thép, tăng trưởng thấp hoặc suy giảm; công nghiệp hỗ trợ
chậm phát triển, chưa hình thành được các cụm liên kết ngành công nghiệp,
nguồn ngân sách của thành phố còn hạn chế cho những dự án lớn. Điều đó dẫn
đến việc giải tỏa mặt bằng và mở rộng các khu công nghiệp sẽ không thể diễn
ra, tiến độ giải phóng mặt bằng và thi công tại một số dự án đã được thành phố
thu hút đầu tư và triển khai xây dựng còn chậm, trì trệ làm ảnh hướng đến tiến
độ phát triển của toàn Thành Phố.
Thứ hai, Bên cạnh vấn đề thiếu vốn thì Thành phố Hải Phòng còn gặp vấn
đề trong việc thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao
. Trong thời đại công
nghiệp hóa – hiện đại hóa và đặc biệt là Việt Nam đang trên đà hội nhập phát
triển kinh tế, quốc tế thì nguồn nhân lực chất lượng cao là vô cùng quan trong –
1 trong những điều kiện không thể thiếu để phát triển ngành công nghiệp vững
mạnh, toàn diện. Bởi nếu thiếu đi nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ làm cho
ngành công nghiệp ngành càng xuống cấp đặc biệt là không thể tạo ra những
sản phẩm tiên tiến, hiện đại, bắt kịp xu hướng của nền kinh tế hiện nay dễ dẫn
đến bị đào thải nền kinh tế suy giảm. Một quốc gia không thể nào phát triển
được nếu như không có nguồn nhân lực chất lượng cao. Mặc dù chất lượng lao
động có chuyển biến, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường về
tay nghề và các kỹ năng mềm. Việc giải quyết nhà ở cho công nhân chưa đáp
ứng được nhu cầu, tỷ lệ người lao động có nhu cầu về nhà ở được bố trí nhà ở
còn thấp. Nguồn nhân lực là nguồn lực chính quyết định quá trình tăng trưởng
và phát triển kinh tế- xã hội, khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực
khác đặc biệt là trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế, Hải Phòng đang đứng trước thách thức rất lớn về nguồn
nhân lực chất lượng cao. Trong khi lao động phổ thông hay lực lượng lao động
chân tây còn dư thừa quá nhiều thì nguồn nhân lực chất lượng cao để phục vụ
chủ yếu cho các ngành công nghiệp, phục vụ cho sản xuất kinh doanh thì thiếu
hụt nghiêm trọng. Do đó, việc thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao có thể
làm cho ngành công nghiệp phát triển trì trệ, làm giảm năng suất lao động, chất
lượng sản phẩm tạo ra không cao và đặc biệt là nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự
công nghiệp hóa – hiện đại hóa của Thành Phố bởi nguồn nhân lực chất lượng
cao chính là một trong những chất xúc tiến cho sự phát triển của những ngành công nghiệp này.
Thứ ba , cơ sở hạ tầng là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự
phát triển tiến bộ , nhanh chóng của ngành công nghiệp nói riêng và của tất
cả các ngành nói chung
. Muốn ngành công nghiệp phát triển hiện đại , vững
mạnh thì trước hết cơ sở hạ tầng phải vững mạnh , tạo nền tảng cơ sở vững chắc
cho sự phát triển vượt bậc của ngành công nghiệp . Tuy nhiên , do cơ sở hạ tầng
của thành phố còn kém chưa đủ để thích ứng kịp thời với tốc độ phát triển
nhanh chóng của kinh tế-xã hội cũng như là có thể đáp ứng được cho các ngành
công nghiệp , đã tác động trực tiếp đến sự phát triển của toàn bộ ngành công
nghiệp . Đó chính là lí do vì sao Hải Phòng phải chú trọng đầu tư phát triển cơ
sở hạ tầng để phát triển đột phá . Bên cạnh đó ,việc đầu tư phát triển hạ tầng khu
kinh tế, khu công nghiệp cũng còn vướng mắc, chưa có khu công nghiệp chuyên
ngành, khu công nghiệp chất lượng cao , công nghệ cao. Hơn thế nữa , hạ tầng
kỹ thuật xã hội ngoài hàng rào chưa tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các dự án
đầu tư trực tiếp nước ngoài có vốn lớn, công nghệ hiện đại, có tác động lan tỏa,
kích thích sự phát triển kinh tế của Hải Phòng . Mặc dù đã có chủ trương, có chỉ
đạo sát sao nhưng công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, giao đất thực hiện dự
án đầu tư xây dựng, phát triển hạ tầng các KCN còn nhiều khó khăn, việc chậm
tiến độ đã trở nên phổ biến, làm mất cơ hội tiếp nhận các dự án FDI có tiềm
năng bởi để có thể hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài thì cần đáp ứng rất
nhiều yếu tố và cơ sở hạ tầng là yếu tố chính quyết định một doanh nghiệp nước
ngoài hay 1 tổ chức , công ty nào đó có đầu tư cho Thành Phố ta hay không . Sẽ
không có ai đầu tư vào phát triển 1 thành phố nếu như cơ sở hạ tầng còn kém ,
chưa thể giải quyết được các vấn đề liên quan đến đất đai, nhà ở hay giải phóng
mặt bằng cho các khu công nghiệp và đặc biệt là cơ sở hạ tầng để đầu tư cho các
khu công nghiệp cao , những máy móc hay sự thiếu đi các dây chuyền sản xuất
hiện đại cũng sẽ làm mất đi cơ hội hợp tác với ác doanh nghiệp cùng những dự
án FDI tiềm năng . Việt Nam đang trên đà chuyển mình để hội nhập và phát
triển mà lại thiếu đi các dây chuyền sản xuất công nghệ cao thì chính là một
thách thức rất lớn đối với nước ta , cản trở bước tiến cũng như làm trì trệ quá
trình vận động , phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế với các nước trong khu
vực và các nước trên thế giới .
Thứ tư , Sản xuất công nghiệp còn tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường
nếu như chúng ta không có các dây chuyền xử lí rác thải hay các biện pháp
kịp thời khắc phục tình trạng này tiêu biểu như một số dự án về sản xuất
phân bón, nhiệt điện tác động trực tiếp đến ô nhiễm môi trường
. Trên địa
bàn thành phố còn nhiều doanh nghiệp sản xuất nằm ngoài khu, cụm công
nghiệp, xen kẽ trong khu dân cư, ảnh hưởng đến môi trường... Vấn đề môi
trường là vấn đề cấp bách không thể bỏ qua khi đề cập đến sản xuất công
nghiệp . Hải Phòng là địa phương có quỹ đất ít với dân số ngày càng tăng, tốc
độ đô thị hóa, công nghiệp cao đã ảnh hưởng trực tiếp đến các nguồn gây ô
nhiễm môi trường đất , môi trường nước hay ô nhiễm không khí .
Việc đầu tư xây dựng và phát triển các KCN những năm trước đây chủ yếu chú
trọng về thu hút đầu tư, cho nên công tác bảo vệ môi trường chưa được quan
tâm đúng mức, chưa được xử lí kịp thời thậm trí là một số KCN đã đi vào hoạt
động, được lấp đầy nhưng đến nay vẫn chưa có hệ thống xử lý nước thải tập
trung, hay KCN được ngân sách TP đầu tư xây dựng hạ tầng tương đối đồng bộ,
có hệ thống xử lý nước thải nhưng không có kinh phí vận hành do không thoả
thuận được giá dịch vụ với các doanh nghiệp trong KCN. Mặc dù các KCN đã
thực hiện đầu tư hệ thống thu gom, xử lý nước thải chung của KCN, nhưng
chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn theo quy chuẩn VN về nước thải công nghiệp
hiện hành. Nguyên nhân xảy ra tình trạng ô nhiễm tại các khu công nghiêp chủ
yếu là do chi phí vận hành quá cao nên các khu công nghiệp sẽ không có kinh
phí đầu tư , nâng cấp và vận hành hệ thống xử lý nước thải , rác thải công
nghiệp . Môi trường trong KCN tiểm ẩn nguy cơ ô nhiễm lớn do rác thải tập
trung vào bãi rác đang bố trí trên địa bàn hoạt động của nhà máy sản xuất phân
bón DAP, nhà máy nhiệt điện Tam Hưng, chưa có giải pháp khắc phục triệt để.
Vấn đề môi trường sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến Thành Phố và trên hết là nó ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng đời sống và sức khỏe của người dân địa phương
nên các khu công nghiệp cần có giải pháp cải thiện vấn dề này
Di dời các cơ sở sản xuất công nghiệp ra khỏi nội thành là chỉ đạo chung của
Hải Phòng trong nhiều năm qua. Đến nay, bức xúc về ô nhiễm công nghiệp tuy
có phần được kiềm chế ở nội thành nhưng lại gia tăng tại các vùng nông thôn
ven nội. Có nghĩa là nguồn ô nhiễm không giảm mà chỉ di chuyển từ nơi này
sang nơi khác. Trên thực tế , các nguồn ô nhiễm này vẫn chưa được giải quyết
và nó chỉ được chuyển từ nơi này đến nơi khác do đó đây không phải là giải
pháp lâu dài , chỉ có thể áp dụng tạm thời . Dự báo, đến năm 2025 rác thải rắn
tại Hải Phòng sẽ tăng lên khoảng hơn 2.779 tấn/ngày, đến năm 2030 sẽ tăng lên đến 3.838 tấn/ngày (7) Tài liệu tham khảo (1)
Tạp chí cộng sản. (n.d.). Tạp Chí Cộng Sản.
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/thuc-tien-kinh-nghiem1/-/
2018/827444/de-hai-phong-som-tro-thanh-thanh-pho-cong-nghiep-theo- huong-hien-dai.aspx
(2) Báo Nhân Dân điện tử. (2017, September 7). Vingroup khởi công Dự án
tổ hợp sản xuất ô-tô VINFAST. Báo Nhân Dân Điện Tử.
https://nhandan.vn/vingroup-khoi-cong-du-an-to-hop-san-xuat-o-to- vinfast-post303068.html (3) Viện Nghiên cứu Hải sản. (n.d.).
https://www.rimf.org.vn/baibaocn/chitiet/tinid-2049
(4) Hungnm. (2023, December 3). Phê duyệt Quy hoạch thành phố Hải
Phòng thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. https://dangcongsan.vn.
https://dangcongsan.vn/kinh-te/phe-duyet-quy-
hoach-thanh-pho-hai-phong-thoi-ky-2021-2030-tam-nhin-den-nam-2050- 654186.html
(5) Thuvienphapluat.Vn. (n.d.). Quyết định 821/QĐ-TTg 2018 Quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế xã hội Hải Phòng đến 2025. THƯ VIỆN PHÁP
LUẬT. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Thuong-mai/Quyet-dinh-821-
QD-TTg-2018-Quy-hoach-tong-the-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-Hai-Phong- den-2025-387224.aspx
(6) Tạp chí cộng sản. (n.d.-b). Tạp Chí Cộng Sản.
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/thuc-tien-kinh-nghiem1/-/
2018/827444/de-hai-phong-som-tro-thanh-thanh-pho-cong-nghiep-theo- huong-hien-dai.aspx
(7) Cường T. Q. (2022, December 29). Hải Phòng “đau đầu” với bài toán xử
lý chất thải công nghiệp. Nhịp Sống Kinh Tế Việt Nam & Thế Giới.
https://vneconomy.vn/hai-phong-dau-dau-voi-bai-toan-xu-ly-chat-thai- cong-nghiep.htm