lOMoARcPSD| 58507440
CHƯƠNG 3: ĐỊA CHẤT LỊCH SVÀ ĐỊA MẠO
I. Lịch sử phát triển địa chất của vỏ Trái đất
Đất đá có sự phát sinh, phát triển biến đổi trên sở biến đổi của điều kiện tự nhiên,
sự tồn tại phát triển của thế giới sinh vật. Địa sử một khoa học địa chất chuyên nghiên
cứu điều kiện thành tạo, quá trình phát sinh, phát triển và biến đổi của các loại đất đá cấu tạo
vỏ Trái đất, thông qua đó mà tạo dựng lại hoàn cảnh cổ địa lý tự nhiên và điều kiện sinh sống
của thế giới sinh vật trong các thời đại địa chất xa xưa.
Địa sử giúp ta xác định được thứ tự sắp xếp, nguồn gốc thành tạo, điều kiện tồn tại quy
luật phân bố của các loại đất đá, cũng như thời gian và điều kiện hoạt động của các hiện tượng
địa chất tự nhiên và mối quan hệ giữa chúng với đất đá vây quanh. Những vấn đề đó sẽ là cơ
sở cho việc đánh giá đất đá dùng làm nền, m môi trường xây dựng vật liệu xây dựng
được xác thực hơn. Đá càng cổ thì mức độ biến đổi về thành phần, kiến trúc, cấu tạo thế
nằm càng mãnh liệt. Đất đá trải qua nhiều giai đoạn vận động kiến tạo thì mức độ nứt nẻ, vỡ
vụn tăng lên, cường độ giảm, thấm nước tăng.
Do vậy địa chất lịch sử có các nhiệm vụ sau:
- Xác định tuổi của đá.
- Xác lập lại các giai đoạn phát triển của vỏ Trái đất, lịch sử qui luật hình thành
các dạng kiến trúc địa chất trên vỏ Trái đất.
- Xác lập niên biểu địa chất và thang địa tầng.
II. Tuổi địa chất và phương pháp xác định tuổi
1. Tuổi của đất đá:
Là khoảng thời gian từ khi đất đá được hình thành cho đến ngày nay.
Tuổi của đá macma bằng tuổi của khoáng vật tạo đá được tính từ khi dung nham
nguội lạnh đong cứng lại. Tuổi của đá trầm tích được tính từ khi các hạt vật chất bắt đầu
lắng đọng, vì vậy đá trầm tích thườngtuổi trẻ hơn thành phần khoáng vật tạo nên. Đối
với đá biến chất thì tuổi được tính từ khi các nhân tố gây biến chất bắt đầu tác dụng.
Tuổi của đất đá được chia làm hai loại: tuổi tuyệt đối và tuổi tương đối. Tuổi tuyệt
đối là tuổi mà người ta tính được bằng đơn vị thời gian kể từ khi thành tạo đất đá cho tới
lOMoARcPSD| 58507440
bây giờ, đơn vị thời gian có thể hàng triệu năm. Còn tuổi tương đối là tuổi mà người ta so
sánh và xem xét mối quan hệ giữa các loại đất đá với nhau, xác định loại nào già hơn, loại
nào trẻ hơn hoặc cùng thành tạo,…giữa các tầng đá, các hiện tượng địa chất.
2. Các phương pháp xác định tuổi đất đá
Xác định tuổi tuyệt đối: Phương pháp đồng vị phóng xạ
Là phương pháp chính xác nhất để xác định tuổi tuyệt đối của đất đá. nguyên tắc của phương
pháp này là dựa vào sự có mặt của các nguyên tố phóng xạ và các đồng vị tương ứng của nó
trong đất đá tính tuổi tuyệt đối. Hiện nay người ta hay dùng phương pháp đồng vị Chì
(Pb), đồng vị Acgon (khí hiếm Ar), đồng vị Cacbon.
Để xác định tuổi của các đá cổ, người ta chú ý tới các nguyên tố như: Th (Thori kim loại
phóng xạ), U (kim loại phóng xạ Urani); còn các đá trẻ là nguyên tố có chu kỳ bán hủy ngắn
hơn như cacbon phóng xạ (C
14
)
t Pb206 Pb203 7,4.10
9
U 0,38Th năm
Trong đó
t là thời gian tính bằng năm
U, Th, Pb hàm lượng các nguyên tố tương ứng trong đất đá.
Hiện nay trên thế giới ba loại kỹ thuật để xác định niên đại bằng cacbon phóng xạ.
Đó là phương pháp đo khí phóng xạ; phương pháp tổng hợp benzen và hệ đo nhấp nháy lỏng
siêu sạch; phương pháp phổ kế gia tốc khối lượng. Trong đó phương pháp phổ kế gia tốc khối
lượng được coi hiện đại nhất, có đnhạy phân tích cao và kết quả tốt. Hiện nay nước ta
chỉ mới đầu một phòng thí nghiệm xác định tuổi tuyệt đối bằng phương pháp tổng hợp
benzen và hệ đo nhấp nháy lỏng siêu sạch. Hệ đo này có khả năng xác định niên đại tuyệt đối
cho các mẫu vật có độ tuổi cách nay khoảng 50.000 năm. Xác định tuổi tương đối
- Phương pháp thạch học
phương pháp dựa trên cơ sở so sánh thành phần thạch học ở các khu vực khác nhau.
Nếu các khu vực có đất đá giống nhau về thành phần, kiến trúc, cấu tạo, sự sắp xếp và các đặc
điểm khác thì có thể cùng một tuổi.
lOMoARcPSD| 58507440
Phương pháp thạch học thể áp dụng cho tất cả các loại đá, nhưng thường sử dụng
cho đá macma biến chất. khi dùng phương pháp thạch học thường phải xác lập một tầng
đá chuẩn gọi là tầng đánh dấu, rồi dựa trên cơ sở đó mà so sánh với các tầng đá khác.
- Phương pháp địa tầng
Là phương pháp dựa trên cơ sở phân tích thứ tự sắp xếp trên dưới của các lớp đá trầm
tích hoặc mối quan hệ tiếp xúc giữa khối đá macma với các đá vây quanh mà xác định thứ tự
thành tạo của mỗi loại.Đối với đá trầm tích chưa bị đảo lộn thế nằm, thì các tầng đá thành tạo
trước nằm dưới, các tầng đá thành tạo sau nằm trên.
Đối với đá macma đá biến chất, đá bị xâm nhập thì cổ hơn đá xâm nhập vào trong
điều kiện. Đá xâm nhập làm biến đổi sâu sắc đá bị xâm nhập tại chổ tiếp xúc.
Đá bị biến chất thì cổ hơn đá gây biến chất.
Lớp phủ phun trào ở trên thì trẻ hơn đá móng bị phủ.
- Phương pháp cổ sinh
phương pháp xác định tuổi tương đối của đất đá thông qua việc xác định tuổi của
sinh vật cùng tồn tại trong lúc thành tạo đất đá.
Người ta dựa vào những di tích sinh vật còn để lại trong đất đá gọi là hóa thạch mà xác
định tuổi của đất đá, trên cơ sở thuyết tiến hóa một chiều của sinh vật thì đất đá càng cổ chứa
những sinh vật càng đơn giản hoặc không có xác sinh vật.
Phương pháp cổ sinh vật thực tế hay dùng, kết quả chính xác, nhanh chóng, rẻ tiền,
nhưng chỉ áp dụng cho đá trầm tích chứa sinh vật.
* Ý nghĩa của việc nghiên cứu tuổi của đất đá:
Khôi phục lịch sử phát triển địa chất của vỏ Trái đất.
Xác lập địa tầng.
Định hướng cho việc tìm kiếm khoáng sản
3. Tuổi của các hiện tượng địa chất kiến tạo
Tuổi của các hiện tượng địa chất kiến tạo được tính từ khi các hiện tượng địa chất kiến
tạo gây tác dụng vào đất đá bị phá hủy hoặc biến đổi.
lOMoARcPSD| 58507440
Thông qua các mặt cắt địa chất phân tích mối quan hệ giữa các hiện ợng địa chất kiến
tạo với các tầng đất đá, ta có thể xác định được giới hạn tuổi của các hiện tượng địa chất kiến
tạo cũng như thứ tự hình thành chúng trong tự nhiên. a. Đối với uốn nếp
- Tiếp xúc chỉnh hợp: các tầng đá nằm song song với nhau, quá trình thành tạo đá diễn
ra liên tục.
- Tiếp xúc chỉnh hợp giả: các lớp đất đá vẫn nằm song song với nhau, nhưng mặt tiếp
xúc giưa chúng có dấu vết bóc mòn như cuội cơ sở, rãnh xói, dấu vết giọt nước mưa cổ, mặt
phong hóa cổ hoặc không có dấu vết gì mà có sự gián đoạn lắng đọng vật liệu.
- Tiếp xúc bất chỉnh hợp: do hoạt động kiến tạo của vỏ trái đất, các tầng đá bị đảo lộn
thế nằm ban đầu tạo ra mặt tiếp xúc không cùng dạng thế nằm. b. Đi với khe nứt, đứt gẫy.
Xét mối quan hệ giữa khe nứt, đứt gẫy với đất đá vây quanh nó. Nếu khe nứt, đứt gẫy cắt qua
tầng đất đá, thì khe nứt, đứt gẫy trẻ hơn tầng đất đá và ngược lại.
III. Phân chia các niên đại địa chất trong lịch sử 1. Cơ sở phân chia các thời đại địa
chất trong lịch sử
Từ các tài liệu đã thu thập được về lịch sử phát triển địa chất từ khi hình thành vỏ trái
đất cho đến nay, lịch sử địa chất phụ thuộc khá nhiều vào: hoàn cảnh địa tự nhiên, đời sống
của sinh vật, các hoạt động địa chất tự nhiên đã gây ra sự biến động dữ dội cấu trúc bên trong
và hình thức bên ngoài của vỏ quả đất sự biến đổi hoàn cảnh cổ địa lý, cổ sinh vật cũng như
các biến động của vỏ quả đất trong mỗi giai đoạn rất khác nhau, đã cho phép ta có cơ sở khoa
học để phân chia các thời đại địa chất trong lịch sử.
2. Thang địa tầng và thang thời gian
Khi nghiên cứu địa chất người ta đã chia ra các loại tầng đá thành phần, tính chất,
kiến trúc, cấu tạo khác nhau, điều đó chứng tỏ rằng mỗi loại đất đá được thành tạo trong một
hoàn cảnh địa nhất định, những đặc điểm về thế giới sinh vật nhất định những biến
động của vỏ trái đất nhất định. Người ta gọi mỗi loại đất đá đó một đơn vị địa tầng. Ứng
với một đơn vị địa tầng phải có một khoảng thời gian nào đó để thành tạo một khối lượng đất
đá của đơn vị địa tầng ấy gọi là một đơn vị thời gian.
Các đơn vị địa tầng và các đơn vị thời gian được lập thành bảng gọi là thang địa tầng thang
thời gian được gọi tắt niên biểu địa chất. Theo niên biểu địa chất thì lịch sử phát triển địa
lOMoARcPSD| 58507440
chất của vỏ trái đất được chia ra 05 nguyên đại: thái cổ đại, nguyên sinh đại, cổ sinh đại, trung
sinh đại, và tân sinh đại.
Trong mỗi nguyên đại lại chia ra c kỷ, trong mỗi kỷ lại chia ra thành các thế. Các tập
đá được thành tạo tương ứng với các nguyên đại, kỷ, thế,…là các giới, hệ , thống,…
Bảng 3.1 : Niên biểu địa chất thế giới
lOMoARcPSD| 58507440
Đại (giới)
Kỷ (hệ)
Thế (thống)
Thời gian
(triệu năm)
Tân Sinh
(Kainozoi - Kz)
Đệ tứ (Q)
Antro -
Pogen
Q
4
(Holocene)
Q3
Q2
Q1
1
Neogen (N)
Neogen thượng (Plioxen) N
2
Neogen hạ (Mioxen) N
1
25
Paleogen
(Pg)
Paleogen thượng (Oligoxen) Pg
3
Paleogen trung (Eoxen) Pg
2
Paleogen hạ (Paleoxen) Pg
1
41
Trung sinh
(Mezozoi-Mz)
Kreta (Cr)
Kreta thượng K
2
Kreta hạ K
1
70
Jura (J)
Jura thượng J
3
Jura
trung J
2
Jura hạ
J
1
55 - 58
Trias (T)
Trias thượng T
3
Trias trung T
2
Trias hạ T
1
40 - 45
Cổ sinh
(Paleozoi - Pz)
Pecmi (P)
Pecmi thượng P
2
Pecmi hạ P
1
45
Cacbon (C)
Cacbon thượng C
3
Cacbon trung C
2
Cacbon
hạ C
1
55 - 70
Devon
Devon thượng D
3
Devon trung D
2
Devon hạ D
1
55 - 60
Silua (S)
Silua thượng S
2
Silua hạ S
1
30 - 35
Ođovic (O)
Ođovic thượng O
3
Ođovic trung O
2
Ođovic
hạ O
1
60 - 70
lOMoARcPSD| 58507440
Cambri
(Cm)
Cambri thượng Cm
3
Cambri trung Cm
2
Cambri
hạ Cm
1
70 - 80
Tiền
Cambri
Nguyên sinh
(Pt)
2000
Thái cổ
ACKEO-ZOIAR
3000
Trong niên đại địa chất tương đối,các trầm tích phần trên của vỏ trái đất được chia ra làm
năm giới, ứng với cúng có năm đại:
Trầm tích (giới)
Thời gian địa chất (đại)
Tân sinh
Đại của sự sống mới, hiện đại
Trung sinh
Đại của sự sống trung gian
Cổ sinh
Đại của sự sống xưa
Nguyên sinh
Đại của sự sống nguyên thủy
Thái cổ
Đại của sự sống rất xưa, rất nguyên thủy
Tên gọi các nguyên đại theo giai đoạn phát triển của thế giới sinh vật, còn tên các kỷ theo
tên địa phương lần đầu tiên nghiên cứu tầng đá đó (Cambri, Đevon, Pecmi, Jura,…) hoặc tên đá
đặc trưng nhất cho kỷ đó (Cacbon…).
Ngoài thang địa tầng quốc tế, còn các thang địa tầng địa phương thang địa tầng tự
do để thể hiện tỉ mỉ hơn địa tầng của một khu vực, một nước nào đó có tính chất cục bộ.
IV. Sơ lược về lịch sử phát triển của vỏ Trái đất
Theo các tài liệu đã thu được thì vỏ quả đất có lịch sử phát triển rất phức tạp, nó đã trải qua năm
chìm bảy nổi để hình thành nên cấu trúc hiện nay. Các biến động lớn của quả đất qua các thời đại
địa chất diễn ra như sau:
1. Đại Thái cổ (Ackeozoi – AR) là đại cổ nhất, kéo dài khoảng 3000 triệu năm. Thời kỳ này
vỏ quả đất hoạt động mãnh liệt. Đất đá cho đến nay đã bị biến chất sâu sắc hiện còn gặp một
số nơi là gownai, đá phiến kết tinh, amfibolit. Hiếm hơn có đá hoa, quaczit…. Cũng vì vậy, việc
lOMoARcPSD| 58507440
tìm hiểu đại này rất khó khăn. Sự có mặt các lớp đá hoa, cacbon dạng grafit cho phép nghỉ rằng
Thái cổ, sự sống đã xuất hiện.
2. Đại Nguyên sinh (Proterozoi – PR) là đại của sự sống đơn giản đầu tiên kéo dài gần 2000
triệu năm. Có mặt các sinh vật đẳng: vi khuẩn, tảo. Đến cuối đại xuất hiện loại bộ khung
cứng. Đất đá đến nay đã bị biến chất, chủ yếu là đá phiến kết tinh, đá hoa, quaczit, granit, gơnai,
mức độ biến chất kém hơn đá Thái cổ.
Trong suốt đại này, vỏ quả đất ở vào tình trạng không ổn định, có các quá trình tạo núi kèm theo
sự chia cắt lục địa. Phun trào theo hệ thống các khe nứt chia cắt đó. cuối đại, vỏ quả đất chuyển
sang trạng thái ổn định hơn. Các vùng vững chắc, ổn định gọi nền (nền Canada, nền Braxin,
nền Nga, nền Xibêri, nền Đông Trung Quốc, nền Tarim, nền Ấn Độ, nền Úc, …), còn các vùng
hoạt động bao quanh vùng nền là địa máng (hay địa tào).
3. Đại Cổ sinh (Paleozoi – PZ) kéo dài 345 triệu năm. Địa máng hoạt động rộng khắp với 2
chu kỳ hoạt động lớn là Calêđoni và Hecxini, làm thay đổi nhiều lần lục địa và đại dương. Động
vật không xương sống phát triển mạnh, phát triển thực vật lộ trần. Ứng với hai giai đoạn uốn nếp
lớn, người ta chia hai phụ đại là Cổ sinh hạ (PZ1) và Cổ sinh thượng (PZ2).
- Ở Cổ sinh hạ, bao gồm các kỷ Cambri (Cm), Ođovic (O), Silua(S), có hoạt động uốn nếp
Calêđoni sau này thành các nền cổ sinh hạ. Hầu hết quá trình này xảy ra vùng gần kề với
nền nguyên sinh. Về thực vật loại cấp thấp sống ở môi trường ớc; cuối Silua xuất hiện thực
vật trên cạn đầu tiên. Động vật phổ biến bọ ba thùy (trilobita), tay cuộn (Brachiopada), chén
cổ (Archacocyatha)… xuất hiện những động vật trên cạn đầu tiên.
- Ở Cổ sinh thượng, bao gồm các kỷ Đevon (D), Cacbon (C), Pecmi (P), có hoạt động uốn
nếp Hecxini, mở rộng miền nền đã được thành tạo trước đây (vào tiền Cambri và Calêđoni )
hợp nhất nền Nga, Xi ri, Tarim, thành nền Âu Á khổng lồ. Nền Canada nền nhỏ Cao
nguyên Côlôrađô (Bắc Mỹ) cũng liên kế với nhau. Trong cổ sinh thượng phát triển thực vật lộ
trần (Psilophyta), quyết thực vật (Lepidophyta, Sphenopsiđa, Pteridodpermae…). Cuối Pecmi
thực vật hoa hạt trần thay thế vai trò quyết thực vật. Về động vật tiếp tục phát triển ruột
khoang, tay cuộn khớp; phát triển Fusulinida của trùng lỗ (Foranlinifera), Goniaties của lớp
lOMoARcPSD| 58507440
chân đầu. Động vật có xương sống sống trên cạn như lưỡng cư cổ (Stegocephalia), bò sát khổng
lồ bắt đầu xuất hiện
4. Đại Trung sinh (Mezozoi - MZ), gồm ba kỷ là Triat (T), Jura (J) và Kreta (K), kéo dài khoảng
45 triệu m. Kết quả của hoạt động địa máng ở Trung sinh là tạo nên các nền bằng Trung sinh
theo kiểu thừa kế. Những núi thừa kế của dãy Mezozoit có thể kể là dãy Alaska,
Nham Sơn, quần đảo Indonesia,… Các miền nền Trung sinh ăn khớp với các nền cổ hơn. Tác
dụng tạo núi Trung sinh đã nối liền hai nền bằng ngyên sinh Ocđot và Đông Trung quốc với nền
Âu Á.
- Về thực vật phát triển như thông, tuế, tùng bách, dương xỉ. Đến cuối kỷ Kreta xuất
hiện thực vật hạt kín. Động vật các loại: cúc đá, tên đá, cá xương, đặc biệt là bò sát và bò sát
khổng lồ phát triển mạnh.
5. Đại tân sinh (Kainozoi - KZ) kéo dài gần 70 triệu năm bao gồm các kỷ Paleogen (P
x
),
Neogen (N), và Đệ tứ hay Nhân sinh (Q).
Hình 3.1: Các mảng thạch quyển chính với hướng di chuyển và các kiểu ranh giới .
lOMoARcPSD| 58507440
Đại Tân sinh hoạt động tạo núi Anpi, dựng lên nhiều dãy núi hiện đại như các núi
nam Alaska, các núi trên bán đảo Bankan, Dãy Hymalaya, các núi ở Tây bắc Đông dương, quần
đảo Indonesia,…được tất cả các dãy núi uốn nếp Anpi hiện nay vẫn còn tiếp tục ng cao, chưa
chuyển thành vùng nền.
Trong kỷ Paleogen Neogen phát triển các loài có vú cao đẳng, chim, xương, thân mềm, gần
giống hiện đại. Trong giới thực vật phát triển loại hạt kín đến Neogen đã bắt đầu thấy loài khỉ
dạng người.
Đến kỷ Đệ Tứ thì động vật, thực vật có thể nói gần giống như hiện nay. Trong các tầng đá
thuộc phần dưới của kỷ này đã tìm thấy di tích của loài người cùng với các vết tích văn hóa của
họ. Có lẽ hiện tượng băng xâm lấn đã làm cho hàng loạt động thực vật bị tiêu diệt, kèm theo
là sự phân chia thực vật theo đới khí hậu như hiện nay. Qtrình tách giãn các mãng lục địa để
hình thành nên các châu lục và đại dương như hiện nay, xảy ra từ cuối kỷ Jura được thể hiện như
hình 3.1 V. Đôi nét về lịch sử địa chất Việt Nam
Lãnh thổ nước ta cũng đã trải qua một lịch sử phát triển địa chất lâu dài phức tạp với
nhiều giai đoạn vận động uốn nếp, đứt gẫy,..Hiện nay chúng ta đã thành lập xong bản đồ
địa chất 1: 500.000 và đang thành lập bản đồ có tỷ lệ lớn hơn.
Từ đầu Đệ Tứ, hai ng sụp võng hình thành châu thổ sông Cửu Long- Đồng Nai
miền Nam sông Hồng miền Bắc. châu thổ sông Cửu Long- Đồng Nai biên độ sụp võng
dựa theo bề dày trầm tích Đệ Tứ ở gần sông Sài Gòn không ít hơn 200m và có thể đạt tới 400m.
Ở sông Hồng biên độ sụp lún đạt tới 200 - 300m. Trong thành phần trầm tích Đệ Tứ ở đây có sự
xen kẽ giữa trầm tích lục địa và trầm tích biển.
Trong Holocene trên lãnh thổ Đông Dương vẫn tiếp tục mạnh mẽ hoạt động kiến tạo. lẽ nhiều
đứt gãy vẫn tiếp tục hoạt động. Bên cạnh đó ảnh hưởng của hoạt động macma dưới sâu thể
hiện ở sự hình thành nhiều suối nước nóng ở rải rác nhiều địa phương khắp Đông Dương.
Theo tài liệu Bá Thảo, địa hình Đông Nam Bộ cao hơi lượn sóng ngày càng thấp dần
về đồng bằng sông Cửu Long. Nền địa chất bên dưới nền rìa của khối đá granite Tờng Sơn
lOMoARcPSD| 58507440
Nam, được bao phủ bởi lớp đá trầm tích tuổi trẻ hơn, bên trên lớp phù sa cổ trải rộng ra khắp
bề mặt của vùng, được gọi là dải đất xám.
Sự xuất hiện của phù sa cổ dưới dạng sét loang lổ, với hàm lượng hạt sét đáng kể được
cho là bậc thềm phù sa cổ ở vùng đồng bằng do sông Cửu long ngày trước đã chảy qua vòng này
nhân tố chính tạo bậc thềm này. Về sau, ng Đông Nam Bđược nâng lên trong thời kỳ đệ
tứ cùng với sự sụt lún của vịnh biển Sông Cửu Long trượt dần xuống phía
Nam và chia nhánh ra biển Đông (sông Vàm cỏ Đông- Vàm cỏ Tây ).
Châu thổ sông cửu Long thành tạo nằm ở hạ lưu của sông MeKong, một trong các con sông dài
trên thế giới (4220km) chảy qua nhiều nước gồm Trung Quốc, Lào, Myanmar, Thái Lan,
Campuchia. Đồng bằng châu thổ sông Cửu Long vùng đồng bằng thấp đồng bằng ngập
nước, nằm hoàn toàn trong lãnh thổ Việt Nam. được giới hạn trong phạm vi các dòng sông,
kênh, rạch, tự nhiên hoặc nhân tạo chảy trong lãnh thổ Việt Nam, nhận nước từ 2 dòng chính
sông Mekong (từ sông Hậu Giangsông Tiền Giang), đổ ra biển Đông và vịnh Thái Lan (cũng
là một phần của biển Đông).
Vào thời kỳ vận động kiến tạo núi Hymalaya, toàn bộ n đảo Đông Dương được nâng lên làm
cho sông cửu Long thượng lưu trung lưu tăng cường sức m thực của chúng. Sông vận
chuyển khối lượng phù sa khổng lồ phối hợp các hiện tượng trầm tích sông hồ, lấp dần vịnh
biển được nâng lên biểu hiện sự bồi tụ mạnh mẽ. Qúa trình tích tụ trầm tích Holocene xảy ra
không đồng đều trên bmặt châu thổ, bề mặt châu thổ nổi dần lên trên mực nước, sự tiếp tế
của phù sa sông khối lượng lớn, tiến nhanh ra phía biển và để lại phía đằng sau nhiều vùng trũng
rộng lớn (Đồng tháp ời, Tứ Giác Long Xuyên). Chiều dày của phù sa mới càng ra phía biển
càng lớn, ở phía Nam châu thổ dày hơn ở phía Bắc, có thành phần chủ yếu cát, bột, sét màu xám
đen-xám xanh xen cát hạt mịn có chiều dày lớn, biến đổi phức tạp và tập trung vào đất sét yếu.
VI. Địa mạo
Địa mạo là hình dạng mặt đất có xem xét đến nguyên nhân hình thành và xu thế phát triển
của nó. Địa mạo là một yếu tố bản của một môi trường địa chất nói chung và địa kinh tế, địa
quân sự, địa chính trị,.. nói riêng. Do cấu tạo địa chất bên trong, do điều kiện sinh thành và lịch
lOMoARcPSD| 58507440
sử biến đổi không giống nhau đặc trưng địa mạo mỗi nơi mỗi khác. Để khai thác địa mạo,
với bất kỳ mục đích nào, cần nghiên cứu phân loại chúng trên cơ sở phân tích nguyên nhân hình
thành và xu thế phát triển của nó.
1. Phân loại địa hình theo nguyên nhân hình thành
Theo nguyên nhân hình thành thể chia ra địa hình kiến tạo, địa hình xâm thực bóc mòn, địa
hình bồi tụ,… hình thái bên ngoài thường phản ánh trung thành cấu tạo bên trong và lịch sử
tồn tại của địa hình đó.
- Địa hình kiến tạo nh thành do sự vận động kiến tạo, phản ánh đầy đủ đặc điểm kiến trúc
và địa chất dưới sâu. Thông thường thì đây là dạng địa mạo cơ bản hình thành địa mạo hiện đại.
Hình dạng điạ mạo có liên quan chặt chẽ với các đứt gẫy, các nếp uốn, thành phần tính chất
đất đá phân bố ở khu vực.
- Địa hình xâm thực bóc mòn liên quan đến hoạt động phá hoại của dòng chảy (nước mua,
nước sông, nước ngầm…). Những hoạt động này làm biến đổi rất mãnh liệt hình thái địa mạo
theo thời gian.
- Địa hình bồi tụ (thềm sông, bãi bồi,…) kết quả lắng đọng của các sản phẩm do dòng
nước, do gió đem tới.
Theo độ cao, hình dáng thể chia ra hai nhóm địa mạo: địa mạo dương (rặng núi, dãy
núi, núi, đỉnh, sơn nguyên, cao nguyên, dãy đồi, đồi,..) dạng lồi lên so với mặt phẳng nằm
ngang, được bao quanh bởi các yếu tố địa mạo thấp hơn địa mạo âm ( Lòng chảo, khe hẻm,
mương xói,…) có dạng lõm xuống, được bao quanh bởi các khu vực địa mạo nâng cao.
Các chỉ tiêu trắc lượng hình thái cần chú ý đến là: độ cao tuyệt đối, chiều sâu, mật đchia cắt,
góc nghiêng mặt đất,…Mật độ hoặc cường độ chia cắt ngang xác định bằng chiều dài mạng lưới
xâm thực (tính bằng km / 1km
2
). Độ sâu chia cắt hoặc cường độ chia cắt đứng xác định bằng trị
số cao tương đối.
lOMoARcPSD| 58507440
2 . Các nhân tố hình thành địa mạo
Địa mạo yếu tố quan trọng nhất của thể tổng hợp địa tự nhiên, bởi trên mặt địa mạo
mới có sự tiếp xúc chặt chẽ của tất cả các thành phần và nhân tố tham gia cấu tạo nên hoàn cảnh
tự nhiên: đất đá, không khí, nước, thổ nhưỡng, sinh vật, bức xạ mặt trời, lực kiến tạo,…
Trong sự hình thành địa mạo nội lực và ngoại lực luôn luôn cùng tác động. Trong những trường
hợp cụ thể, tùy lúc và tùy nơi, tác dụng nội lực chiếm ưu thế hơn tác dụng ngoại lực, hay ngược
lại. Nhưng không bao giờ chỉ nội lực này không nội lực kia. Không phải đợi cho nội
lực làm xong công việc của rồi ngoại lực mới bắt đầu xuất hiện. Chuyển động kiến tạo cũng
diễn ra từ từ, lâu dài, trừ các pha cao độ của nó. Có khi một chuyển động kiến tạo không dẫn đến
một địa mạo đáng kể, vì rằng mặt đất nâng lên đến đâu bị xâm thực bóc đi đến đấy. Dưới đây ta
lần lượt xét ảnh hưởng của nhân tố kiến tạo, đất đá, khí hậu đến hình thành địa mạo: Nhân tố
kiến tạo
Sự tương phản xu hướng chủ yếu phát triển của các loại địa mạo (núi, đồi, đồng bằng )
kết quả chủ yếu của các chuyển động kiến tạo trên các đơn vị cấu tạo cơ sở.
Sự uốn nếp tạo núi thường xảy ra trong vùng địa máng. Các thành phần chuyển động theo chiều
thẳng đứng với những khu vực nâng lên và sụt xuống đã dẫn đến độ cao của mặt đất chênh lệch
nhau khá lớn. Các khu vực nâng lên hình thành các vùng núi uốn nếp; độ cao các khu vực này
thường thay đổi, cao nhất hiện nay là đỉnh Chômôlungma dải Hymalaya, tới 8882m. Các khu
vực sụt xuống tạo nên các vùng biển, đại dương, nơi sâu nhất hiện nay là hố Marian ở Thái Bình
Dương, trên 11km. Độ cao địa mạo chênh lệch thúc đẩy hoạt động xâm thực, bồi tích tác dụng
trực tiếp đến sự biến đổi địa mạo hiện tại.
Đặc biệt các vận động kiến tạo đã hướng dẫn mạng lưới thủy văn hiện tại cũng như tăng ờng
mạnh mẽ sức đào sẻ của sông ngòi. Mạng ới thủy văn thường phát triển dọc theo các đới p
hủy kiến tạo. Ở đó ờng độ của đất đá giảm, thuận lợi cho khả năng đào sâu của dòng chảy trên
mặt. Sông Hồng nằm trong trường hợp đó: thung ng sông gần như thẳng tắp theo hướng phát
triển của đứt gãy. Việt Nam hầu hết sông ngòi đều bị chi phối bởi kiến tạo địa chất, hầu hết các
sông đều có hướng Tây bắc – Đông nam hoặc đông bắc – tây nam.
lOMoARcPSD| 58507440
Nhân tố đất đá
Tùy theo sự sắp xếp các tầng đá, tình hình xuất lộ, điều kiện khí hậu … những đất đá có tính chất
khác nhau ảnh hưởng không giống nhau đến sự hình thành phát triển của địa mạo, Việt Nam,
nhìn vào địa mạo có thể biết được là do loại đất đá nào tạo nên.
Các đất đá loại sét dễ bị phá hủy khi có tác dụng của nước thường tạo thành núi hình dạng mềm
mại hoặc đồi bát úp bao bọc từng khoảng thung lũng rộng, đáy bằng.
Các đá nai, granit bị phân hủy dễ n do phong hóa hóa học kết hợp với phong hóa vật lý,
thường tạo nên các núi đỉnh tròn, sườn thoải. Còn các đá pocfirit, riolit tương đối bền vững thì
tạo nên các núi đỉnh hơi nhọn, sườn khá dốc.
Đá vôi dễ bị karst hóa cho ta các địa hình karst rất đặc trưng: đá tai mèo, rừng đá, phễu karst,
hang động, sông ngầm,… ở trên mặt địa hình karst có hình lởm chỡm, vách thành dựng đứng.
Ngoài ra tùy độ thấm nước của đất đá mà thấy ở mỗi nơi sông ngòi có mật độ khác nhau. Do tính
ít thấm nước của phiến đá nhất là đất sét cho nên mật độ sông có những miền rất dày, còn những
miền đất đá thì mật độ thưa hẳn.
Thế nằm của đất đá cũng ảnh hưởng đến dạng địa mạo. Trường hợp tầng đá ở dạng đơn nghiêng
thì dạng địa mạo sẽ không đối xứng mặt đất đây thường thoải hơn theo hướng đổ của tầng
đá.
Nhân tố khí hậu
Khí hậu ảnh hưởng đến địa mạo hoặc trực tiếp - do những hiện tượng khí tượng, thủy văn hoặc
gián tiếp qua thực vật thổ nhưỡng. Chế độ mưa theo mùa đã gây nên xâm thực giới rất
mạnh. Những trận mưa đầu mùa rơi xuống đất đá bị hun nóng, nứt nẻ, làm phát sinh các rãnh
xói, nhất những nơi bị mất hết lớp thực vật. Kèm theo đó là hiện ợng trượt đất, đá lỡ,
bùn…
vùng khí hậu nóng ẩm, thực vật phát triển, phong hóa hóa học chiếm ưu thế; axit hữu
do rễ cây tiết ra đã làm tăng tác dụng hóa học của nước a ngấm vào đất. Núi đồi khi
hình dạng đều đều, mềm mại. Lớp phủ thực vật phát triển dày có tác dụng ngăn cản xâm thực cơ
giới của nhân tố khí tượng. Nó làm giảm sức va đập của hạt mưa, hãm bớt sức gió, giảm bốc hơi
lOMoARcPSD| 58507440
sự chênh lệch nhiệt độ; nước chảy trên mặt không gây xói thành khe rãnh. Vì vậy các khu
vực có lớp phủ thực vật dày, mặt đất khó gây bóc mòn, bảo vệ được hình thái bề mặt.
3 . Địa mạo với các công trình xây dựng
Địa mạo là nhân tố cơ bản của môi trường, vì vậy người ta khai thác địa mạo lãnh thổ dưới nhiều
hình thức khác nhau.
Địa mạo một trong những sở để tiến hành quy hoạch các thành phố, khu công nghiệp,
xây dựng đường sắt, đường ô tô, đập chắn, hồ chứa nước. quyết định rất lớn đến hình dạng,
kết cấu công trình, phương án thi công và giá thành xây dựng.
Khi xây dựng đập, thường chọn nơi lũng sâu, hẹp nhằm làm cho khối lượng công trình
nhỏ nhất. cần chú ý đến khả năng cung cấp trữ nước của hồ: phía thượng lưu vùng
trũng lớn để chứa nước, diện tích lưu vực rộng, sông suối nhiều làm nguồn cung cấp cho hồ.
Cần vtrí btrí các công trình kiến trúc khác như đập tràn, cống, nhà máy thủy điện,
nên mặt cắt tuyến đập cần có bề rộng thích hợp.
Khi xây dựng kênh cần chú ý độ dốc, mức độ phân cắt của địa hình, vì quyết định khối
lượng đào đắp, số công trình phụ, hình thức kênh.
Địa hình phân cắt mạnh làm cho tuyến kênh, đường giao thông phải kéo dài do lượn theo
đường đồng mức địa hình hoặc phải bố trí các công trình vượt như cầu giao thông, cầu máng,
xiphông,…
Các đường hầm giao thông, thủy lợi thường bố trí ở độ sâu đảm bảo cho vòm dường hầm
được ổn định điều kiện thi công thuận lợi. Việc lợi dụng các thung lũng để tạo giếng thi
công sẽ tăng tốc độ xây dựng.
Khi quy hoạch xây dựng thành phố, các khu công nghiệp,… nên lợi dụng địa hình thiên nhiên để
tránh hiện tượng đào đắp quá nhiều. Vị trí các bến cảng, cống lấy nước,…thường tránh nơi dòng
nước tác dụng xâm thực, tích tụ mãnh liệt. Các mỏ vật liệu xây dựng thiên nhiên thuận lợi cho
khai thác thì độ cao thích hợp, phía dưới bãi bằng rộng để chứa vật liệu khai thác, gần các
đường giao thông…
Do đó, nghiên cứu địa hình –địa mạo có các ý nghĩa sau:
lOMoARcPSD| 58507440
Địa hình- địa mạo một trong những điều kiện khi xây dựng công trình, phản ánh
các điều kiện địa chất khác nhau như: thành phần, tính chất, sự phân bố địa chất, điều
kiện thủy văn, các hiện tượng địa chất đã sxảy ra tại khu vực xây dựng => rất cần
cho việc nghiên cứu địa chất công trình tại nơi dự định xây dựng.
Địa hình- địa mạo quyết định trong việc quy hoạch công trình xây dựng.
Địa hình- địa mạo quyết định hình dạng, kết cấu và giá thành của công trình. Địa hình-
địa mạo quyết định phương án thi công công trình, chế độ khai thác công trình.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58507440
CHƯƠNG 3: ĐỊA CHẤT LỊCH SỬ VÀ ĐỊA MẠO
I. Lịch sử phát triển địa chất của vỏ Trái đất
Đất đá có sự phát sinh, phát triển và biến đổi trên cơ sở biến đổi của điều kiện tự nhiên,
sự tồn tại và phát triển của thế giới sinh vật. Địa sử là một khoa học địa chất chuyên nghiên
cứu điều kiện thành tạo, quá trình phát sinh, phát triển và biến đổi của các loại đất đá cấu tạo
vỏ Trái đất, thông qua đó mà tạo dựng lại hoàn cảnh cổ địa lý tự nhiên và điều kiện sinh sống
của thế giới sinh vật trong các thời đại địa chất xa xưa.
Địa sử giúp ta xác định được thứ tự sắp xếp, nguồn gốc thành tạo, điều kiện tồn tại và quy
luật phân bố của các loại đất đá, cũng như thời gian và điều kiện hoạt động của các hiện tượng
địa chất tự nhiên và mối quan hệ giữa chúng với đất đá vây quanh. Những vấn đề đó sẽ là cơ
sở cho việc đánh giá đất đá dùng làm nền, làm môi trường xây dựng và vật liệu xây dựng
được xác thực hơn. Đá càng cổ thì mức độ biến đổi về thành phần, kiến trúc, cấu tạo và thế
nằm càng mãnh liệt. Đất đá trải qua nhiều giai đoạn vận động kiến tạo thì mức độ nứt nẻ, vỡ
vụn tăng lên, cường độ giảm, thấm nước tăng.
Do vậy địa chất lịch sử có các nhiệm vụ sau: -
Xác định tuổi của đá. -
Xác lập lại các giai đoạn phát triển của vỏ Trái đất, lịch sử và qui luật hình thành
các dạng kiến trúc địa chất trên vỏ Trái đất. -
Xác lập niên biểu địa chất và thang địa tầng.
II. Tuổi địa chất và phương pháp xác định tuổi
1. Tuổi của đất đá:
Là khoảng thời gian từ khi đất đá được hình thành cho đến ngày nay.
Tuổi của đá macma bằng tuổi của khoáng vật tạo đá và được tính từ khi dung nham
nguội lạnh và đong cứng lại. Tuổi của đá trầm tích được tính từ khi các hạt vật chất bắt đầu
lắng đọng, vì vậy đá trầm tích thường có tuổi trẻ hơn thành phần khoáng vật tạo nên nó. Đối
với đá biến chất thì tuổi được tính từ khi các nhân tố gây biến chất bắt đầu tác dụng.
Tuổi của đất đá được chia làm hai loại: tuổi tuyệt đối và tuổi tương đối. Tuổi tuyệt
đối là tuổi mà người ta tính được bằng đơn vị thời gian kể từ khi thành tạo đất đá cho tới lOMoAR cPSD| 58507440
bây giờ, đơn vị thời gian có thể hàng triệu năm. Còn tuổi tương đối là tuổi mà người ta so
sánh và xem xét mối quan hệ giữa các loại đất đá với nhau, xác định loại nào già hơn, loại
nào trẻ hơn hoặc cùng thành tạo,…giữa các tầng đá, các hiện tượng địa chất.
2. Các phương pháp xác định tuổi đất đá
Xác định tuổi tuyệt đối: Phương pháp đồng vị phóng xạ
Là phương pháp chính xác nhất để xác định tuổi tuyệt đối của đất đá. nguyên tắc của phương
pháp này là dựa vào sự có mặt của các nguyên tố phóng xạ và các đồng vị tương ứng của nó
trong đất đá mà tính tuổi tuyệt đối. Hiện nay người ta hay dùng phương pháp đồng vị Chì
(Pb), đồng vị Acgon (khí hiếm Ar), đồng vị Cacbon.
Để xác định tuổi của các đá cổ, người ta chú ý tới các nguyên tố như: Th (Thori là kim loại
phóng xạ), U (kim loại phóng xạ Urani); còn các đá trẻ là nguyên tố có chu kỳ bán hủy ngắn
hơn như cacbon phóng xạ (C14) t
Pb206 Pb203 7,4.109 U 0,38Th năm Trong đó
t là thời gian tính bằng năm
U, Th, Pb hàm lượng các nguyên tố tương ứng trong đất đá.
Hiện nay trên thế giới có ba loại kỹ thuật để xác định niên đại bằng cacbon phóng xạ.
Đó là phương pháp đo khí phóng xạ; phương pháp tổng hợp benzen và hệ đo nhấp nháy lỏng
siêu sạch; phương pháp phổ kế gia tốc khối lượng. Trong đó phương pháp phổ kế gia tốc khối
lượng được coi là hiện đại nhất, có độ nhạy phân tích cao và kết quả tốt. Hiện nay ở nước ta
chỉ mới đầu tư một phòng thí nghiệm xác định tuổi tuyệt đối bằng phương pháp tổng hợp
benzen và hệ đo nhấp nháy lỏng siêu sạch. Hệ đo này có khả năng xác định niên đại tuyệt đối
cho các mẫu vật có độ tuổi cách nay khoảng 50.000 năm. ❖ Xác định tuổi tương đối
- Phương pháp thạch học
Là phương pháp dựa trên cơ sở so sánh thành phần thạch học ở các khu vực khác nhau.
Nếu các khu vực có đất đá giống nhau về thành phần, kiến trúc, cấu tạo, sự sắp xếp và các đặc
điểm khác thì có thể cùng một tuổi. lOMoAR cPSD| 58507440
Phương pháp thạch học có thể áp dụng cho tất cả các loại đá, nhưng thường sử dụng
cho đá macma và biến chất. khi dùng phương pháp thạch học thường phải xác lập một tầng
đá chuẩn gọi là tầng đánh dấu, rồi dựa trên cơ sở đó mà so sánh với các tầng đá khác.
- Phương pháp địa tầng
Là phương pháp dựa trên cơ sở phân tích thứ tự sắp xếp trên dưới của các lớp đá trầm
tích hoặc mối quan hệ tiếp xúc giữa khối đá macma với các đá vây quanh mà xác định thứ tự
thành tạo của mỗi loại.Đối với đá trầm tích chưa bị đảo lộn thế nằm, thì các tầng đá thành tạo
trước nằm dưới, các tầng đá thành tạo sau nằm trên.
Đối với đá macma và đá biến chất, đá bị xâm nhập thì cổ hơn đá xâm nhập vào trong
điều kiện. Đá xâm nhập làm biến đổi sâu sắc đá bị xâm nhập tại chổ tiếp xúc.
Đá bị biến chất thì cổ hơn đá gây biến chất.
Lớp phủ phun trào ở trên thì trẻ hơn đá móng bị phủ. - Phương pháp cổ sinh
Là phương pháp xác định tuổi tương đối của đất đá thông qua việc xác định tuổi của
sinh vật cùng tồn tại trong lúc thành tạo đất đá.
Người ta dựa vào những di tích sinh vật còn để lại trong đất đá gọi là hóa thạch mà xác
định tuổi của đất đá, trên cơ sở thuyết tiến hóa một chiều của sinh vật thì đất đá càng cổ chứa
những sinh vật càng đơn giản hoặc không có xác sinh vật.
Phương pháp cổ sinh vật thực tế hay dùng, kết quả chính xác, nhanh chóng, rẻ tiền,
nhưng chỉ áp dụng cho đá trầm tích chứa sinh vật.
* Ý nghĩa của việc nghiên cứu tuổi của đất đá: •
Khôi phục lịch sử phát triển địa chất của vỏ Trái đất. • Xác lập địa tầng. •
Định hướng cho việc tìm kiếm khoáng sản
3. Tuổi của các hiện tượng địa chất kiến tạo
Tuổi của các hiện tượng địa chất kiến tạo được tính từ khi các hiện tượng địa chất kiến
tạo gây tác dụng vào đất đá bị phá hủy hoặc biến đổi. lOMoAR cPSD| 58507440
Thông qua các mặt cắt địa chất mà phân tích mối quan hệ giữa các hiện tượng địa chất kiến
tạo với các tầng đất đá, ta có thể xác định được giới hạn tuổi của các hiện tượng địa chất kiến
tạo cũng như thứ tự hình thành chúng trong tự nhiên. a. Đối với uốn nếp -
Tiếp xúc chỉnh hợp: các tầng đá nằm song song với nhau, quá trình thành tạo đá diễn ra liên tục. -
Tiếp xúc chỉnh hợp giả: các lớp đất đá vẫn nằm song song với nhau, nhưng mặt tiếp
xúc giưa chúng có dấu vết bóc mòn như cuội cơ sở, rãnh xói, dấu vết giọt nước mưa cổ, mặt
phong hóa cổ hoặc không có dấu vết gì mà có sự gián đoạn lắng đọng vật liệu. -
Tiếp xúc bất chỉnh hợp: do hoạt động kiến tạo của vỏ trái đất, các tầng đá bị đảo lộn
thế nằm ban đầu tạo ra mặt tiếp xúc không cùng dạng thế nằm. b. Đi với khe nứt, đứt gẫy.
Xét mối quan hệ giữa khe nứt, đứt gẫy với đất đá vây quanh nó. Nếu khe nứt, đứt gẫy cắt qua
tầng đất đá, thì khe nứt, đứt gẫy trẻ hơn tầng đất đá và ngược lại.
III. Phân chia các niên đại địa chất trong lịch sử 1. Cơ sở phân chia các thời đại địa
chất trong lịch sử
Từ các tài liệu đã thu thập được về lịch sử phát triển địa chất từ khi hình thành vỏ trái
đất cho đến nay, lịch sử địa chất phụ thuộc khá nhiều vào: hoàn cảnh địa lý tự nhiên, đời sống
của sinh vật, các hoạt động địa chất tự nhiên đã gây ra sự biến động dữ dội cấu trúc bên trong
và hình thức bên ngoài của vỏ quả đất sự biến đổi hoàn cảnh cổ địa lý, cổ sinh vật cũng như
các biến động của vỏ quả đất trong mỗi giai đoạn rất khác nhau, đã cho phép ta có cơ sở khoa
học để phân chia các thời đại địa chất trong lịch sử.
2. Thang địa tầng và thang thời gian
Khi nghiên cứu địa chất người ta đã chia ra các loại tầng đá có thành phần, tính chất,
kiến trúc, cấu tạo khác nhau, điều đó chứng tỏ rằng mỗi loại đất đá được thành tạo trong một
hoàn cảnh địa lý nhất định, có những đặc điểm về thế giới sinh vật nhất định và những biến
động của vỏ trái đất nhất định. Người ta gọi mỗi loại đất đá đó là một đơn vị địa tầng. Ứng
với một đơn vị địa tầng phải có một khoảng thời gian nào đó để thành tạo một khối lượng đất
đá của đơn vị địa tầng ấy gọi là một đơn vị thời gian.
Các đơn vị địa tầng và các đơn vị thời gian được lập thành bảng gọi là thang địa tầng và thang
thời gian được gọi tắt là niên biểu địa chất. Theo niên biểu địa chất thì lịch sử phát triển địa lOMoAR cPSD| 58507440
chất của vỏ trái đất được chia ra 05 nguyên đại: thái cổ đại, nguyên sinh đại, cổ sinh đại, trung
sinh đại, và tân sinh đại.
Trong mỗi nguyên đại lại chia ra các kỷ, trong mỗi kỷ lại chia ra thành các thế. Các tập
đá được thành tạo tương ứng với các nguyên đại, kỷ, thế,…là các giới, hệ , thống,…
Bảng 3.1 : Niên biểu địa chất thế giới lOMoAR cPSD| 58507440 Đại (giới) Kỷ (hệ) Thế (thống) Thời gian Các chu kỳ kiến tạo lớn (triệu năm) Đệ tứ (Q) Q 4 (Holocene) Antro - Pogen Q3 1 Q2 Tân Sinh Q 1 (Kainozoi - Kz) Neogen (N) 25 Neogen thượng (Plioxen) N 2 Neogen hạ (Mioxen) N Chu kỳ 1 Paleogen Anpi (Pg)
Paleogen thượng (Oligoxen) Pg3 Paleogen trung (Eoxen) Pg 2 41 Paleogen hạ (Paleoxen) Pg1 Kreta (Cr) 70 Kreta thượng K2 Kreta hạ K1 Jura (J) Jura thượng J3 Jura 55 - 58 Trung sinh trung J2 Jura hạ (Mezozoi-Mz) J1 Chu kỳ Trias (T) Trias thượng T3 Kimmeri Trias trung T2 40 - 45 Trias hạ T1 Pecmi (P) 45 Pecmi thượng P 2 Pecmi hạ P1 Cacbon (C) Cacbon thượng C 3 55 - 70 Cacbon trung C2 Cacbon hạ C 1 Devon Devon thượng D 3 Chu kỳ Devon trung D 2 55 - 60 Hexini Cổ sinh Devon hạ D 1 (Paleozoi - Pz) Silua (S) 30 - 35 Silua thượng S 2 Silua hạ S 1 Ođovic (O) Ođovic thượng O 3 60 - 70 Ođovic trung O2 Ođovic hạ O1 lOMoAR cPSD| 58507440 Cambri Chu kỳ (Cm) Cambri thượng Cm 3 Caleđoni 70 - 80 Cambri trung Cm2 Cambri hạ Cm1 Tiền Cambri Nguyên sinh (Pt) 2000 Thái cổ 3000 ACKEO-ZOIAR
Trong niên đại địa chất tương đối,các trầm tích phần trên của vỏ trái đất được chia ra làm
năm giới, ứng với cúng có năm đại: Trầm tích (giới)
Thời gian địa chất (đại) Tân sinh
Đại của sự sống mới, hiện đại Trung sinh
Đại của sự sống trung gian Cổ sinh Đại của sự sống xưa Nguyên sinh
Đại của sự sống nguyên thủy Thái cổ
Đại của sự sống rất xưa, rất nguyên thủy
Tên gọi các nguyên đại theo giai đoạn phát triển của thế giới sinh vật, còn tên các kỷ theo
tên địa phương lần đầu tiên nghiên cứu tầng đá đó (Cambri, Đevon, Pecmi, Jura,…) hoặc tên đá
đặc trưng nhất cho kỷ đó (Cacbon…).
Ngoài thang địa tầng quốc tế, còn có các thang địa tầng địa phương và thang địa tầng tự
do để thể hiện tỉ mỉ hơn địa tầng của một khu vực, một nước nào đó có tính chất cục bộ.
IV. Sơ lược về lịch sử phát triển của vỏ Trái đất
Theo các tài liệu đã thu được thì vỏ quả đất có lịch sử phát triển rất phức tạp, nó đã trải qua năm
chìm bảy nổi để hình thành nên cấu trúc hiện nay. Các biến động lớn của quả đất qua các thời đại
địa chất diễn ra như sau: 1.
Đại Thái cổ (Ackeozoi – AR) là đại cổ nhất, kéo dài khoảng 3000 triệu năm. Thời kỳ này
vỏ quả đất hoạt động mãnh liệt. Đất đá cho đến nay đã bị biến chất sâu sắc hiện còn gặp ở một
số nơi là gownai, đá phiến kết tinh, amfibolit. Hiếm hơn có đá hoa, quaczit…. Cũng vì vậy, việc lOMoAR cPSD| 58507440
tìm hiểu đại này rất khó khăn. Sự có mặt các lớp đá hoa, cacbon ở dạng grafit cho phép nghỉ rằng
ở Thái cổ, sự sống đã xuất hiện. 2.
Đại Nguyên sinh (Proterozoi – PR) là đại của sự sống đơn giản đầu tiên kéo dài gần 2000
triệu năm. Có mặt các sinh vật sơ đẳng: vi khuẩn, tảo. Đến cuối đại xuất hiện loại có bộ khung
cứng. Đất đá đến nay đã bị biến chất, chủ yếu là đá phiến kết tinh, đá hoa, quaczit, granit, gơnai,
mức độ biến chất kém hơn đá Thái cổ.
Trong suốt đại này, vỏ quả đất ở vào tình trạng không ổn định, có các quá trình tạo núi kèm theo
sự chia cắt lục địa. Phun trào theo hệ thống các khe nứt chia cắt đó. Ở cuối đại, vỏ quả đất chuyển
sang trạng thái ổn định hơn. Các vùng vững chắc, ổn định gọi là nền (nền Canada, nền Braxin,
nền Nga, nền Xibêri, nền Đông Trung Quốc, nền Tarim, nền Ấn Độ, nền Úc, …), còn các vùng
hoạt động bao quanh vùng nền là địa máng (hay địa tào). 3.
Đại Cổ sinh (Paleozoi – PZ) kéo dài 345 triệu năm. Địa máng hoạt động rộng khắp với 2
chu kỳ hoạt động lớn là Calêđoni và Hecxini, làm thay đổi nhiều lần lục địa và đại dương. Động
vật không xương sống phát triển mạnh, phát triển thực vật lộ trần. Ứng với hai giai đoạn uốn nếp
lớn, người ta chia hai phụ đại là Cổ sinh hạ (PZ1) và Cổ sinh thượng (PZ2). -
Ở Cổ sinh hạ, bao gồm các kỷ Cambri (Cm), Ođovic (O), Silua(S), có hoạt động uốn nếp
Calêđoni và sau này thành các nền cổ sinh hạ. Hầu hết quá trình này xảy ra ở vùng gần kề với
nền nguyên sinh. Về thực vật có loại cấp thấp sống ở môi trường nước; cuối Silua xuất hiện thực
vật trên cạn đầu tiên. Động vật phổ biến có bọ ba thùy (trilobita), tay cuộn (Brachiopada), chén
cổ (Archacocyatha)… xuất hiện những động vật trên cạn đầu tiên. -
Ở Cổ sinh thượng, bao gồm các kỷ Đevon (D), Cacbon (C), Pecmi (P), có hoạt động uốn
nếp Hecxini, mở rộng miền nền đã được thành tạo trước đây (vào tiền Cambri và Calêđoni ) và
hợp nhất nền Nga, Xi bê ri, Tarim, thành nền Âu – Á khổng lồ. Nền Canada nền nhỏ ở Cao
nguyên Côlôrađô (Bắc Mỹ) cũng liên kế với nhau. Trong cổ sinh thượng phát triển thực vật lộ
trần (Psilophyta), quyết thực vật (Lepidophyta, Sphenopsiđa, Pteridodpermae…). Cuối Pecmi
thực vật có hoa hạt trần thay thế vai trò quyết thực vật. Về động vật tiếp tục phát triển ruột
khoang, tay cuộn có khớp; phát triển Fusulinida của trùng lỗ (Foranlinifera), Goniaties của lớp lOMoAR cPSD| 58507440
chân đầu. Động vật có xương sống sống trên cạn như lưỡng cư cổ (Stegocephalia), bò sát khổng
lồ bắt đầu xuất hiện
4. Đại Trung sinh (Mezozoi - MZ), gồm ba kỷ là Triat (T), Jura (J) và Kreta (K), kéo dài khoảng
45 triệu năm. Kết quả của hoạt động địa máng ở Trung sinh là tạo nên các nền bằng Trung sinh
theo kiểu thừa kế. Những núi thừa kế của dãy Mezozoit có thể kể là dãy Alaska,
Nham Sơn, quần đảo Indonesia,… Các miền nền Trung sinh ăn khớp với các nền cổ hơn. Tác
dụng tạo núi Trung sinh đã nối liền hai nền bằng ngyên sinh Ocđot và Đông Trung quốc với nền Âu –Á. -
Về thực vật phát triển như thông, tuế, tùng bách, dương xỉ. Đến cuối kỷ Kreta xuất
hiện thực vật hạt kín. Động vật có các loại: cúc đá, tên đá, cá xương, đặc biệt là bò sát và bò sát
khổng lồ phát triển mạnh.
5. Đại tân sinh (Kainozoi - KZ) kéo dài gần 70 triệu năm bao gồm các kỷ Paleogen (Px),
Neogen (N), và Đệ tứ hay Nhân sinh (Q).
Hình 3.1: Các mảng thạch quyển chính với hướng di chuyển và các kiểu ranh giới . lOMoAR cPSD| 58507440
Ở Đại Tân sinh có hoạt động tạo núi Anpi, dựng lên nhiều dãy núi hiện đại như các núi
nam Alaska, các núi trên bán đảo Bankan, Dãy Hymalaya, các núi ở Tây bắc Đông dương, quần
đảo Indonesia,…được tất cả các dãy núi uốn nếp Anpi hiện nay vẫn còn tiếp tục dâng cao, chưa chuyển thành vùng nền.
Trong kỷ Paleogen và Neogen phát triển các loài có vú cao đẳng, chim, cá xương, thân mềm, gần
giống hiện đại. Trong giới thực vật phát triển loại hạt kín đến Neogen đã bắt đầu thấy loài khỉ dạng người.
Đến kỷ Đệ Tứ thì động vật, thực vật có thể nói gần giống như hiện nay. Trong các tầng đá
thuộc phần dưới của kỷ này đã tìm thấy di tích của loài người cùng với các vết tích văn hóa của
họ. Có lẽ hiện tượng băng hà xâm lấn đã làm cho hàng loạt động thực vật bị tiêu diệt, kèm theo
là sự phân chia thực vật theo đới khí hậu như hiện nay. Quá trình tách giãn các mãng lục địa để
hình thành nên các châu lục và đại dương như hiện nay, xảy ra từ cuối kỷ Jura được thể hiện như
hình 3.1 V. Đôi nét về lịch sử địa chất Việt Nam
Lãnh thổ nước ta cũng đã trải qua một lịch sử phát triển địa chất lâu dài và phức tạp với
nhiều giai đoạn vận động uốn nếp, đứt gẫy,..Hiện nay chúng ta đã thành lập xong bản đồ
địa chất 1: 500.000 và đang thành lập bản đồ có tỷ lệ lớn hơn.
Từ đầu Đệ Tứ, hai vùng sụp võng hình thành ở châu thổ sông Cửu Long- Đồng Nai ở
miền Nam và sông Hồng ở miền Bắc. Ở châu thổ sông Cửu Long- Đồng Nai biên độ sụp võng
dựa theo bề dày trầm tích Đệ Tứ ở gần sông Sài Gòn không ít hơn 200m và có thể đạt tới 400m.
Ở sông Hồng biên độ sụp lún đạt tới 200 - 300m. Trong thành phần trầm tích Đệ Tứ ở đây có sự
xen kẽ giữa trầm tích lục địa và trầm tích biển.
Trong Holocene trên lãnh thổ Đông Dương vẫn tiếp tục mạnh mẽ hoạt động kiến tạo. Có lẽ nhiều
đứt gãy vẫn tiếp tục hoạt động. Bên cạnh đó là ảnh hưởng của hoạt động macma dưới sâu thể
hiện ở sự hình thành nhiều suối nước nóng ở rải rác nhiều địa phương khắp Đông Dương.
Theo tài liệu Lê Bá Thảo, địa hình Đông Nam Bộ cao hơi lượn sóng ngày càng thấp dần
về đồng bằng sông Cửu Long. Nền địa chất bên dưới là nền rìa của khối đá granite Trường Sơn lOMoAR cPSD| 58507440
Nam, được bao phủ bởi lớp đá trầm tích tuổi trẻ hơn, bên trên là lớp phù sa cổ trải rộng ra khắp
bề mặt của vùng, được gọi là dải đất xám.
Sự xuất hiện của phù sa cổ dưới dạng sét loang lổ, với hàm lượng hạt sét đáng kể được
cho là bậc thềm phù sa cổ ở vùng đồng bằng do sông Cửu long ngày trước đã chảy qua vòng này
là nhân tố chính tạo bậc thềm này. Về sau, vùng Đông Nam Bộ được nâng lên trong thời kỳ đệ
tứ cùng với sự sụt lún của vịnh biển Sông Cửu Long trượt dần xuống phía
Nam và chia nhánh ra biển Đông (sông Vàm cỏ Đông- Vàm cỏ Tây ).
Châu thổ sông cửu Long thành tạo nằm ở hạ lưu của sông MeKong, một trong các con sông dài
trên thế giới (4220km) chảy qua nhiều nước gồm Trung Quốc, Lào, Myanmar, Thái Lan,
Campuchia. Đồng bằng châu thổ sông Cửu Long là vùng đồng bằng thấp và đồng bằng ngập
nước, nằm hoàn toàn trong lãnh thổ Việt Nam. Nó được giới hạn trong phạm vi các dòng sông,
kênh, rạch, tự nhiên hoặc nhân tạo chảy trong lãnh thổ Việt Nam, nhận nước từ 2 dòng chính
sông Mekong (từ sông Hậu Giang và sông Tiền Giang), đổ ra biển Đông và vịnh Thái Lan (cũng
là một phần của biển Đông).
Vào thời kỳ vận động kiến tạo núi Hymalaya, toàn bộ bán đảo Đông Dương được nâng lên làm
cho sông cửu Long ở thượng lưu và trung lưu tăng cường sức xâm thực của chúng. Sông vận
chuyển khối lượng phù sa khổng lồ và phối hợp các hiện tượng trầm tích sông hồ, lấp dần vịnh
biển được nâng lên biểu hiện sự bồi tụ mạnh mẽ. Qúa trình tích tụ trầm tích Holocene xảy ra
không đồng đều trên bề mặt châu thổ, bề mặt châu thổ nổi dần lên trên mực nước, có sự tiếp tế
của phù sa sông khối lượng lớn, tiến nhanh ra phía biển và để lại phía đằng sau nhiều vùng trũng
rộng lớn (Đồng tháp mười, Tứ Giác Long Xuyên). Chiều dày của phù sa mới càng ra phía biển
càng lớn, ở phía Nam châu thổ dày hơn ở phía Bắc, có thành phần chủ yếu cát, bột, sét màu xám
đen-xám xanh xen cát hạt mịn có chiều dày lớn, biến đổi phức tạp và tập trung vào đất sét yếu.
VI. Địa mạo
Địa mạo là hình dạng mặt đất có xem xét đến nguyên nhân hình thành và xu thế phát triển
của nó. Địa mạo là một yếu tố cơ bản của một môi trường địa chất nói chung và địa kinh tế, địa
quân sự, địa chính trị,.. nói riêng. Do cấu tạo địa chất bên trong, do điều kiện sinh thành và lịch lOMoAR cPSD| 58507440
sử biến đổi không giống nhau mà đặc trưng địa mạo mỗi nơi mỗi khác. Để khai thác địa mạo,
với bất kỳ mục đích nào, cần nghiên cứu phân loại chúng trên cơ sở phân tích nguyên nhân hình
thành và xu thế phát triển của nó. 1.
Phân loại địa hình theo nguyên nhân hình thành
Theo nguyên nhân hình thành có thể chia ra địa hình kiến tạo, địa hình xâm thực bóc mòn, địa
hình bồi tụ,… mà hình thái bên ngoài thường phản ánh trung thành cấu tạo bên trong và lịch sử
tồn tại của địa hình đó. -
Địa hình kiến tạo hình thành do sự vận động kiến tạo, phản ánh đầy đủ đặc điểm kiến trúc
và địa chất dưới sâu. Thông thường thì đây là dạng địa mạo cơ bản hình thành địa mạo hiện đại.
Hình dạng điạ mạo có liên quan chặt chẽ với các đứt gẫy, các nếp uốn, thành phần và tính chất
đất đá phân bố ở khu vực. -
Địa hình xâm thực bóc mòn liên quan đến hoạt động phá hoại của dòng chảy (nước mua,
nước sông, nước ngầm…). Những hoạt động này làm biến đổi rất mãnh liệt hình thái địa mạo theo thời gian. -
Địa hình bồi tụ (thềm sông, bãi bồi,…) là kết quả lắng đọng của các sản phẩm do dòng
nước, do gió đem tới.
Theo độ cao, hình dáng có thể chia ra hai nhóm địa mạo: địa mạo dương (rặng núi, dãy
núi, núi, đỉnh, sơn nguyên, cao nguyên, dãy đồi, đồi,..) có dạng lồi lên so với mặt phẳng nằm
ngang, được bao quanh bởi các yếu tố địa mạo thấp hơn và địa mạo âm ( Lòng chảo, khe hẻm,
mương xói,…) có dạng lõm xuống, được bao quanh bởi các khu vực địa mạo nâng cao.
Các chỉ tiêu trắc lượng hình thái cần chú ý đến là: độ cao tuyệt đối, chiều sâu, mật độ chia cắt,
góc nghiêng mặt đất,…Mật độ hoặc cường độ chia cắt ngang xác định bằng chiều dài mạng lưới
xâm thực (tính bằng km / 1km2). Độ sâu chia cắt hoặc cường độ chia cắt đứng xác định bằng trị
số cao tương đối. lOMoAR cPSD| 58507440
2 . Các nhân tố hình thành địa mạo
Địa mạo là yếu tố quan trọng nhất của thể tổng hợp địa lý tự nhiên, bởi vì ở trên mặt địa mạo
mới có sự tiếp xúc chặt chẽ của tất cả các thành phần và nhân tố tham gia cấu tạo nên hoàn cảnh
tự nhiên: đất đá, không khí, nước, thổ nhưỡng, sinh vật, bức xạ mặt trời, lực kiến tạo,…
Trong sự hình thành địa mạo nội lực và ngoại lực luôn luôn cùng tác động. Trong những trường
hợp cụ thể, tùy lúc và tùy nơi, tác dụng nội lực chiếm ưu thế hơn tác dụng ngoại lực, hay ngược
lại. Nhưng không bao giờ chỉ có nội lực này mà không có nội lực kia. Không phải đợi cho nội
lực làm xong công việc của nó rồi ngoại lực mới bắt đầu xuất hiện. Chuyển động kiến tạo cũng
diễn ra từ từ, lâu dài, trừ các pha cao độ của nó. Có khi một chuyển động kiến tạo không dẫn đến
một địa mạo đáng kể, vì rằng mặt đất nâng lên đến đâu bị xâm thực bóc đi đến đấy. Dưới đây ta
lần lượt xét ảnh hưởng của nhân tố kiến tạo, đất đá, khí hậu đến hình thành địa mạo: ❖ Nhân tố kiến tạo
Sự tương phản và xu hướng chủ yếu phát triển của các loại địa mạo (núi, đồi, đồng bằng …) là
kết quả chủ yếu của các chuyển động kiến tạo trên các đơn vị cấu tạo cơ sở.
Sự uốn nếp tạo núi thường xảy ra ở trong vùng địa máng. Các thành phần chuyển động theo chiều
thẳng đứng với những khu vực nâng lên và sụt xuống đã dẫn đến độ cao của mặt đất chênh lệch
nhau khá lớn. Các khu vực nâng lên hình thành các vùng núi uốn nếp; độ cao các khu vực này
thường thay đổi, cao nhất hiện nay là đỉnh Chômôlungma ở dải Hymalaya, tới 8882m. Các khu
vực sụt xuống tạo nên các vùng biển, đại dương, nơi sâu nhất hiện nay là hố Marian ở Thái Bình
Dương, trên 11km. Độ cao địa mạo chênh lệch thúc đẩy hoạt động xâm thực, bồi tích tác dụng
trực tiếp đến sự biến đổi địa mạo hiện tại.
Đặc biệt các vận động kiến tạo đã hướng dẫn mạng lưới thủy văn hiện tại cũng như tăng cường
mạnh mẽ sức đào sẻ của sông ngòi. Mạng lưới thủy văn thường phát triển dọc theo các đới phá
hủy kiến tạo. Ở đó cường độ của đất đá giảm, thuận lợi cho khả năng đào sâu của dòng chảy trên
mặt. Sông Hồng nằm trong trường hợp đó: thung lũng sông gần như thẳng tắp theo hướng phát
triển của đứt gãy. Ở Việt Nam hầu hết sông ngòi đều bị chi phối bởi kiến tạo địa chất, hầu hết các
sông đều có hướng Tây bắc – Đông nam hoặc đông bắc – tây nam. lOMoAR cPSD| 58507440 ❖
Nhân tố đất đá
Tùy theo sự sắp xếp các tầng đá, tình hình xuất lộ, điều kiện khí hậu … những đất đá có tính chất
khác nhau ảnh hưởng không giống nhau đến sự hình thành và phát triển của địa mạo, ở Việt Nam,
nhìn vào địa mạo có thể biết được là do loại đất đá nào tạo nên.
Các đất đá loại sét dễ bị phá hủy khi có tác dụng của nước thường tạo thành núi hình dạng mềm
mại hoặc đồi bát úp bao bọc từng khoảng thung lũng rộng, đáy bằng.
Các đá gơnai, granit bị phân hủy dễ hơn do phong hóa hóa học kết hợp với phong hóa vật lý,
thường tạo nên các núi đỉnh tròn, sườn thoải. Còn các đá pocfirit, riolit tương đối bền vững thì
tạo nên các núi đỉnh hơi nhọn, sườn khá dốc.
Đá vôi dễ bị karst hóa cho ta các địa hình karst rất đặc trưng: đá tai mèo, rừng đá, phễu karst,
hang động, sông ngầm,… ở trên mặt địa hình karst có hình lởm chỡm, vách thành dựng đứng.
Ngoài ra tùy độ thấm nước của đất đá mà thấy ở mỗi nơi sông ngòi có mật độ khác nhau. Do tính
ít thấm nước của phiến đá nhất là đất sét cho nên mật độ sông có những miền rất dày, còn những
miền đất đá thì mật độ thưa hẳn.
Thế nằm của đất đá cũng ảnh hưởng đến dạng địa mạo. Trường hợp tầng đá ở dạng đơn nghiêng
thì dạng địa mạo sẽ không đối xứng và mặt đất ở đây thường thoải hơn theo hướng đổ của tầng đá. ❖
Nhân tố khí hậu
Khí hậu ảnh hưởng đến địa mạo hoặc trực tiếp - do những hiện tượng khí tượng, thủy văn hoặc
gián tiếp qua thực vật và thổ nhưỡng. Chế độ mưa theo mùa đã gây nên xâm thực cơ giới rất
mạnh. Những trận mưa đầu mùa rơi xuống đất đá bị hun nóng, nứt nẻ, làm phát sinh các rãnh
xói, nhất là ở những nơi bị mất hết lớp thực vật. Kèm theo đó là hiện tượng trượt đất, đá lỡ, lũ bùn…
Ở vùng khí hậu nóng và ẩm, thực vật phát triển, phong hóa hóa học chiếm ưu thế; axit hữu
cơ do rễ cây tiết ra đã làm tăng tác dụng hóa học của nước mưa ngấm vào đất. Núi đồi khi có
hình dạng đều đều, mềm mại. Lớp phủ thực vật phát triển dày có tác dụng ngăn cản xâm thực cơ
giới của nhân tố khí tượng. Nó làm giảm sức va đập của hạt mưa, hãm bớt sức gió, giảm bốc hơi lOMoAR cPSD| 58507440
và sự chênh lệch nhiệt độ; nước chảy trên mặt không gây xói thành khe rãnh. Vì vậy ở các khu
vực có lớp phủ thực vật dày, mặt đất khó gây bóc mòn, bảo vệ được hình thái bề mặt.
3 . Địa mạo với các công trình xây dựng
Địa mạo là nhân tố cơ bản của môi trường, vì vậy người ta khai thác địa mạo lãnh thổ dưới nhiều hình thức khác nhau.
Địa mạo là một trong những cơ sở để tiến hành quy hoạch các thành phố, khu công nghiệp,
xây dựng đường sắt, đường ô tô, đập chắn, hồ chứa nước. Nó quyết định rất lớn đến hình dạng,
kết cấu công trình, phương án thi công và giá thành xây dựng.
Khi xây dựng đập, thường chọn nơi có lũng sâu, hẹp nhằm làm cho khối lượng công trình
là nhỏ nhất. Và cần chú ý đến khả năng cung cấp và trữ nước của hồ: phía thượng lưu có vùng
trũng lớn để chứa nước, diện tích lưu vực rộng, sông suối nhiều làm nguồn cung cấp cho hồ.
Cần có vị trí bố trí các công trình kiến trúc khác như đập tràn, cống, nhà máy thủy điện,
nên mặt cắt tuyến đập cần có bề rộng thích hợp.
Khi xây dựng kênh cần chú ý độ dốc, mức độ phân cắt của địa hình, vì nó quyết định khối
lượng đào đắp, số công trình phụ, hình thức kênh.
Địa hình phân cắt mạnh làm cho tuyến kênh, đường giao thông phải kéo dài do lượn theo
đường đồng mức địa hình hoặc phải bố trí các công trình vượt như cầu giao thông, cầu máng, xiphông,…
Các đường hầm giao thông, thủy lợi thường bố trí ở độ sâu đảm bảo cho vòm dường hầm
được ổn định và có điều kiện thi công thuận lợi. Việc lợi dụng các thung lũng để tạo giếng thi
công sẽ tăng tốc độ xây dựng.
Khi quy hoạch xây dựng thành phố, các khu công nghiệp,… nên lợi dụng địa hình thiên nhiên để
tránh hiện tượng đào đắp quá nhiều. Vị trí các bến cảng, cống lấy nước,…thường tránh nơi dòng
nước có tác dụng xâm thực, tích tụ mãnh liệt. Các mỏ vật liệu xây dựng thiên nhiên thuận lợi cho
khai thác thì ở độ cao thích hợp, phía dưới có bãi bằng rộng để chứa vật liệu khai thác, gần các đường giao thông…
Do đó, nghiên cứu địa hình –địa mạo có các ý nghĩa sau: lOMoAR cPSD| 58507440 ▪
Địa hình- địa mạo là một trong những điều kiện khi xây dựng công trình, nó phản ánh
các điều kiện địa chất khác nhau như: thành phần, tính chất, sự phân bố địa chất, điều
kiện thủy văn, các hiện tượng địa chất đã và sẽ xảy ra tại khu vực xây dựng => rất cần
cho việc nghiên cứu địa chất công trình tại nơi dự định xây dựng. ▪
Địa hình- địa mạo quyết định trong việc quy hoạch công trình xây dựng. ▪
Địa hình- địa mạo quyết định hình dạng, kết cấu và giá thành của công trình. ▪ Địa hình-
địa mạo quyết định phương án thi công công trình, chế độ khai thác công trình.