






Preview text:
1. Cảm giác là gì? Đặc điểm, vai trò và phân loại cảm giác? ● Khái niệm:
Cảm giác là một quá trình tâm lý phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật và
hiện tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của ta. ● Đặc điểm:
– Cảm giác là một quá trình tâm lý, nghĩa là nó có nảy sinh, diễn biến và kết thúc. Kích
thích gây ra cảm giác là chính các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan và chính
các trạng thái sinh lý của bản thân ta.
– Cảm giác chỉ phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng chứ không phản
ánh được trọn vẹn các thuộc tính của sự vật, hiện tượng.
– Cảm giác phản ánh hiện thực khách quan một cách trực tiếp, tức là sự vật, hiện tượng
phải trực tiếp tác động vào giác quan của ta thì mới tạo ra được cảm giác. ● Vai trò:
Trong cuộc sống nói chung và trong hoạt động nhận thức nói riêng của con người,
cảm giác giữ những vai trò quan trọng như sau:
+ Cảm giác là hình thức định hướng đầu tiên của con người (và con vật) trong hiện thực khách quan.
+ Cảm giác là nguồn cung cấp những nguyên vật liệu cho chính các hình thức nhận thức cao hơn.
+ Cảm giác là điều kiện quan trọng để bảo đảm trạng thái hoạt động (trạng thái hoạt
hóa) của vỏ não, nhờ đó đảm bảo hoạt động tinh thần của con người được bình thường.
+ Cảm giác là con đường nhận thức hiện thực khách quan đặc biệt quan trọng đối với
những người bị khuyết tật. Những người câm, mù, điếc đã nhận ra những người thân
và hàng loạt sự vật nhờ cảm giác, đặc biệt nhờ xúc giác. ● Phân loại:
Căn cứ vào vị trí của nguồn kích thích gây ra cảm giác nằm ở ngoài hay trong cơ
thể, cảm giác được chia thành hai loại: cảm giác bên ngoài (do kích thích nằm ngoài cơ thể
gây nên) và cảm giác bên trong (do kích thích nằm trong cơ thể gây nên).
a. Những cảm giác bên ngoài
– Cảm giác nhìn (thị giác)
– Cảm giác nghe (thính giác)
– Cảm giác ngửi (khứu giác)
– Cảm giác nếm (vị giác)
– Cảm giác da (mạc giác)
b. Những cảm giác bên trong
– Cảm giác vận động và cảm giác sờ mó – Cảm giác thăng bằng – Cảm giác rung – Cảm giác cơ thể
2. Các quy luật của cảm giác và ý nghĩa của chúng trong dạy học và giáo dục?
Cảm giác ở người diễn ra theo những quy luật nhất định. Những quy luật này rất
quan trọng đối với đời sống và công tác, kể cả công tác giáo dục và dạy học.
a. Quy luật ngưỡng cảm giác
Muốn có cảm giác thì phải có sự kích thích vào các giác quan và kích thích đó phải
đạt tới một giới hạn nhất định. Giới hạn mà ở đó kích thích gây được cảm giác gọi là ngưỡng cảm giác.
Cảm giác có hai ngưỡng. Ngưỡng cảm giác phía dưới và ngưỡng cảm giác phía trên.
Ngưỡng cảm giác phía dưới là cường độ kích thích tối thiểu đủ để gây được cảm
giác. Ngưỡng cảm giác phía dưới còn gọi là ngưỡng tuyệt đối.
Ngưỡng cảm giác phía trên là cường độ kích thích tối đa vốn còn gây được cảm
giác. Phạmvigiữahaingưỡngcảmgiácnêutrênlàvùngcảmgiácđược,trongđócómột
vùng phản ánh tốt nhất.
Mỗi giác quan thích ứng với một loại kích thích nhất định và có những ngưỡng xác
định. Thí dụ, ngưỡng phía dưới của cảm giác nhìn ở người là những sóng ánh sáng có
bước sáng 360um, ngưỡng phía trên là 780um: có vùng phản ánh tốt nhất của ánh sáng là
những sóng ánh sáng có bước sóng 565um.
Cảm giác còn phản ánh sự khác nhau giữa các kích thích. Những kích thích phải có
một tỷ lệ chênh lệch tối thiểu về cường độ hay về tính chất thì ta mới cảm thấy có sự khác
nhau giữa hai kích thích. Mức độ chênh lệch tối thiểu về cường độ hoặc tính chất của hai
kích thích đủ để phân biệt sự khác nhau giữa chúng gọi là ngưỡng sai biệt.
Ngưỡng sai biệt của một cảm giác là một hằng số. Thi dụ, đối với cảm giác thị giác
là -1/100, thính giác là -1/10…
Ngưỡng cảm giác phía dưới (ngưỡng tuyệt đối và ngưỡng sai biệt tỷ lệ nghịch với
độ nhạy cảm của cảm giác và với độ nhạy của sai biệt: ngưỡng tuyệt đối của cảm giác
càng nhỏ thì độ nhạy của cảm giác càng cao và ngưỡng sai biệt càng nhỏ thì độ nhạy cảm
sai biệt càng cao. Những ngưỡng này khác nhau ở mỗi loại cảm giác và ở mỗi người khác nhau.
b. Quy luật thích ứng cảm giác
Để phản ánh được tốt nhất và bảo vệ hệ thần kinh, cảm giác của người có khả năng
thích ứng với kích thích. Thích ứng là khả năng thay đổi độ nhạy cảm của cảm giác cho
phù hợp với sự thay đổi của cường độ kích thích, khi cường độ kích thích tăng thì giảm độ
nhạy cảm, khi cường độ kịch kích giảm thì tăng độ nhạy cảm.
Ví dụ, khi đang ở chỗ sáng (cường độ kích thích của ánh sáng mạnh) và chỗ tối
(cường độ kích thích yếu) thì lúc đầu ta không nhìn thấy gì, dần dần mới thấy rõ (thích
ứng). Trường hợp này đã xảy ra hiện tượng tăng độ nhạy cảm của cảm giác nhìn.
Quy luật thích ứng có ở tất cả các loại cảm giác, nhưng mức độ thích ứng khác
nhau. Cảm giác thị giác có khả năng thích ứng cao (trong bóng tối tuyệt đối độ nhạy cảm
với ánh sáng tăng gần 200.000 lần sau 40 phút). Cảm giác đau hầu như không thích ứng.
Khả năng thích ứng của cảm giác có thể phát triển do hoạt động và rèn luyện (công nhân
luyện kim có thể chịu đựng được nhiệt độ cao tới 50–60 độ C trong hàng giờ đồng hồ…)
c. Quy luật tác động lẫn nhau của các cảm giác
Các cảm giác không tồn tại độc lập, mà luôn luôn tác động qua lại với nhau. Trong
sự tác động này, các cảm giác làm thay đổi tính nhạy cảm của nhau và diễn ra theo quy
luật như sau: sự kích thích yếu lên một cơ quan phân tích này sẽ làm tăng lên độ nhạy cảm
của một cơ quan phân tích kia, sự kích thích mạnh lên một cơ quan phân tích này sẽ làm
giảm độ nhạy cảm của một cơ quan phân tích kia.
Sự tác động lẫn nhau của các cảm giác có thể diễn ra đồng thời hay nối liền trên
những cảm giác cùng loại hay khác loại. Có hai loại tương phản: tương phản nối tiếp và
tương phản đồng thời. Ví dụ: thấy tờ giấy trắng trên nền đen trong hơn khi thấy nó trên
nền xám. Đó là tương phản đồng thời. Sau một kịch thích lạnh thì một kích thích ấm sẽ có
vẻ nóng hơn. Đó là tương phản nối tiếp.
Cơ sở sinh lý của quy luật này là các mối liên hệ trên vỏ não của các cơ quan phân
tích và quy luật cảm ứng qua lại giữa hưng phấn và ức chế trên vỏ não.
3. Khái niệm trí giác, đặc điểm, vai trò và phân loại tri giác? ● Khái niệm:
Tri giác là một quá trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của sự
vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của ta. ● Đặc điểm:
Tri giác có những đặc điểm giống với cảm giác như:
– Cũng là một quá trình tâm lý, tức là có nảy sinh, diễn biến và kết thúc.
– Cũng chỉ phản ánh thuộc tính bề ngoài của sự vật, hiện tượng.
– Cũng phản ánh hiện thực khách quan một cách trực tiếp (đang tác động).
Tuy vậy tri giác có những đặc điểm nổi bật sau:
– Tri giác phản ánh sự vật, hiện tượng một cách trọn vẹn. Tính trọn vẹn của tri giác là do
tính trọn vẹn khách quan của bản thân sự vật hiện tượng quy định
– Tri giác phản ánh sự vật hiện tượng theo những cấu trúc nhất định.
– Tri giác là quá trình tích cực, được gắn liền với hoạt động con người.
→ Những đặc điểm nói trên của tri giác cho thấy, tuy tri giác là mức phản ánh cao hơn của
cảm giác, nhưng vẫn thuộc giai đoạn nhận thức cảm tính, chỉ phản ánh được các thuộc
tính bên ngoài, cá lẻ của sự vật hiện tượng tính trực tiếp tác động vào ta. Để hiểu được
thật sâu sắc tự nhiên, xã hội và bản thân, con người còn phải thực hiện giai đoạn nhận thức lý tính. ● Vai trò:
Tri giác là thành phần chính của nhận thức cảm tính, nhất là ở người trưởng thành. Nó là
một điều kiện quan trọng cho sự định hướng hành vi và hoạt động của con người trong
môi trường xung quanh. Hình ảnh của tri giác (hình tượng) thực hiện chức năng là vật điều
chỉnh các hành động. Đặc biệt, hình thức tri giác cao nhất, quan sát, do những điều kiện xã
hội, chủ yếu là lao động, đã trở thành một mặt tương hỗ độc lập của hoạt động và đã trở
thành một phương pháp nghiên cứu quan trọng của khoa học, cũng như nhận thức thực tiễn. ● Phân loại:
– Căn cứ vào cơ quan phân tích giữ vai trò chính trong quá trình tri giác, ta chia thành 3 loại:+ Trigiácnhìn + Tri giác nghe + Tri giác sờ mó
– Căn cứ vào đối tượng được phản ánh trong tri giác, ta chia tri giác thành 4 loại: + Tri giác không gian + Tri giác thời gian + Tri giác vận động + Tri giác con người
4. Các quy luật của tri giác, ý nghĩa của chúng trong dạy học, giáo dục và cuộc sống?
● Các quy luật của tri giác:
– Quy luật về tính đối tượng của tri giác
– Quy luật về tính lựa chọn của tri giác
– Quy luật về tính có ý nghĩa của tri giác
– Quy luật về tính ổn định của tri giác – Quy luật tổng giác – Ảo giác ● Ý nghĩa:
a,Quy luật về tính đối tượng của tri giác:
Ở một nhận thức cao hơn của cảm giác, tri giác đóng vai trò quan trọng trong nhận
thức cảm tính của con người. Trên cơ sở phản ánh thế giới hiện thực khách quan một cách
trọn vẹn và đầy đủ, quy luật về tính đối tượng giúp con người định hướng và xác định
được chính xác đối tượng mà được ta tri giác.
+Trong học tập: Mỗi ngành nghề có đặc trưng và những yêu cầu, đòi hỏi khác nhau.
Và khả năng, nhu cầu, sở thích và điều kiện của mỗi người cũng khác nhau.Vì vậy, mỗi
người chúng ta cần xác định rõ mục tiêu, đối tượng và cách thức học tập để có thể đạt
được hiệu quả tốt nhất.
Ví dụ: Đối với sinh viên trường Luật thì sinh viên cần những , khả năng , yêu cầu
khác so với sinh viên trường Kinh tế . đối tượng, từ đó, có thể tập trung vào nghiên cứu.
+Trong cuộc sống, chúng ta luôn cần xác định đối tượng trong mọi hoạt động,công
việc. Người họa sĩ vẽ tranh phải xác định được đúng đối tượng,chi tiết chủ đạo mà mình
muốn hướng đến, giúp họ có thể tập trung vào đối tượng đó và làm nổi bật nó trong bức vẽ
của mình, thể hiện được nội dung bức tranh mà anh ta muốn truyền tải. Hay với những
người bán hàng, việc xác định đúng đối tượng khách hàng là điều đặc biệt quan trọng, trên
có sở đối tượng khách hàng đó, họ có thể nghiên cứu kỹ lưỡng về nhu cầu, sở thích, đặc
trưng tâm lý của khách hàng.Biết đối tượng khách hàng đó muốn gì, thích gì, từ đó, xây
dựng những chiến lược kinh doanh hiệu quả.
b, Quy luật về tính chọn lựa:
Như đã được đề cập, sự vật, hiện tượng xung quanh ta không hề tồn tại một cách
độc lập, riêng rẽ mà giữa chúng luôn có sự liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau.Và đôi khi, sự liên
hệ mật thiết ấy khiến cho quá trình nhìn nhận và tư duy của chúng ta trở nên khó khăn,
thiếu sự tập trung và sự kiện nhẫn. vậy nên, quy luật về tính đối tượng được ứng dụng rất rộng rãi.
+Trong học tập: Chúng ta phải biết đề ra mục đích , mục tiêu của chính mình, để rồi
từ đó lên kế hoạch hoạt động cho tương lai, điều đó giúp chúng ta chú tâm hơn về một vấn
đề gì đó tránh bị sao nhãng bởi các yếu tố bên ngoài.
Ví Dụ: ngày mai đến hạn nộp bài tiểu luận, chúng ta phải lên kế hoạch học tập sao
cho phù hợp để kịp tiến độ làm bài tập, tránh trường hợp đang làm thì bị tác động bởi các
sự vật sự việc khác như đang làm bài thì bạn bè lại rủ chơi game thế là lại lao vào chơi
game bỏ qua việc học tập, hoặc làm sao nhãng học tập không hiệu quả.
Còn về phía Giáo viên có thể dùng bài giảng kết với tài liệu trực quan sinh động,
yêu cầu học sinh làm các bài tập điển hình, nhấn mạnh những phần quan trọng giúp các
học sinh tiếp thu bài Bên cạnh đó, việc ghi chú kiến thức quan trọng của bài giảng cũng
giúp sinh viên có thể ghi nhớ kiến thức một cách dễ dàng hơn.
+Trong cuộc sống hàng ngày, có vô vàn sự vật sự việc luôn tồn tại, xảy ra xung
quanh chúng ta. Thế nhưng, chúng ta không thể nào quan sát hết, tập chung được vào toàn
bộ các sự việc đó. Mà chúng ta chỉ thể tập chung được vào một vài sự vật sự việc nhất
định, những sự vật sự việc mà mỗi người chúng ta chú ý thường khác nhau điều đó phụ
thuộc vào nhu cầu, sở thích, tính chất công việc,. của mỗi chủ thể. Đó là ứng dụng của
tính chọn lựa trong tư duy vào cuộc sống.
c,Quy luật về tính có ý nghĩa
Quá trình tri giác luôn gắn chặt với tư duy, với sự hiểu biết về bản chất của sự vật.tri giác
sự vật có ý nghĩa. Điều này, có ý nghĩa vô cùng quan trọng và giúp quy luật này được ứng dụng rộng rãi, phổ
+Trong cuộc sống: Mọi sự vật sự việc trong tự nhiên luôn tồn tại ý nghĩa nhất định,
việc tìm hiểu chúng giúp ta cảm nhận cuộc sống một cách sâu sắc, đầy đủ và toàn diện
hơn. Vídụ:việccảmnhậnmộtbônghoakhôngchỉquamàusắc,hìnhdạngmàmắtnhìn
thấy, cảm giác mà tay có thể sờ được, mùi thơm mà mũi có thể cảm nhận.
Bên cạnh đó, quá trình tri giác gắn với tư duy giúp cho việc cảm nhận thế giới một
cách sinh động và có linh hồn, qua một bức tranh nghệ thuật được chiêm ngưỡng, chúng ta
không chỉ thấy được sự hấp dẫn bởi họa tiết, chất liệu, bối cảnh của bức tranh. Mà quá
trình tư duy giúp chúng ta có cảm nhận sâu sắc hơn được linh hồn của tác phẩm nghệ thuật ấy.
Ví dụ : Một bức tranh cổ nếu lướt qua em có thể chỉ thấy nó u ám tẻ nhạt , nhưng
nếu để ý cảm nhận nó em có thể cảm nhận được sự cổ xưa , đằng sau nó có thể chứa
những câu truyện lịch sử chưa từng hé lộ , những sự thật chưa được vén màn, thậm chí
phần nào đó e còn cảm thấy sự tang thương mà thời gian đem lại “ Cảnh còn người mất”.
+ Trong học tập: Tri giác kết hợp với tư duy giúp chúng ta có thể nhận biết thế giới
dễ dàng hơn. Tri giác giúp ta nhận biết về thế giới, về những sự vật xung quanh qua các
giác quan của mình. Nhưng tư duy là lại là bước quan trọng nhất để lưu giữ lại quá trình tri
giác ấy. và cách nhìn nhận sự việc với một ý nghĩa nhất định sẽ giúp chúng ta ghi nhớ nó
dễ dàng hơn. Quy luật có ý nghĩa có ứng dụng đặc biệt quan trong quá trình giáo dục trẻ.
Nó kích thích quá trình ham học hỏi và sự ghi nhớ hiệu quả khi đặt sự vật, hiện tượng luôn
trong những mối quan hệ và ý nghĩa nhất định.
d,Quy luật về tính ổn định của tri giác
Thế giới xung quanh luôn biến động và luôn đưa ra những góc nhìn đa dạng về sự
vật, hiện tượng của cuộc sống. Nhờ có tính ổn định, con người khi tri giác một sự vật, hiện
tượng luôn nhìn nhận được nhận những thuộc tính căn bản của sự vật, hiện tượng. Từ đó
tạo tiền đề vững chắc cho hoạt động tư duy. Nhờ tri giác luôn ổn định con người dễ dàng
tạo dựng được những mối liên kết giữa sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác.
Từ đó, phát minh, phát hiện hết sức thú vị. Niu-tơn từ việc nhìn thấy quả táo rụng xuống
đất mà phát hiện ra định luật vạn vật hấp dẫn. Hay vận dụng quy luật về tính ổn định,
người ta đã tạo ra các loại kính chiếu hậu cho phương tiện giao thông. Nhờ vào chiếc kính,
người điều khiển phương tiện có thể quan sát đằng sau một cách dễ dàng. Tuy hình ảnh
phản chiếu qua chiếc gương chiếu hậu có khác về kích cỡ so với con người thật nhưng nó
không làm thay đổi tư duy con người trên thực tế. Hơn thế nữa, quy luật này có vai trò đặc
biệt quan trọng đối với các nhà quản lý lãnh đạo, nó nhắc nhở họ phải nhìn sự vật,hiện
tượng một cách ổn định, không bị tác động bởi các yếu tố xung quanh, có cái nhìn bao
quát và toàn diện. Tuy nhiên, điều đó đôi khi lại dẫn đến cái nhìn phiến diện, độc đoán,
trong suy nghĩ hành động của con người nhất là những có vốn kiến thức còn hạn hẹp.
e,Quy luật về tính tổng quan của tri giác:
Quy luật tổng quan của tri giác có vai trò to lớn trong cuộc sống cũng như trong quá
trình học tập. Vì vậy, nó được ứng dụng một cách rộng rãi.
+Trong cuộc sống: Tính tổng quan của tri giác giúp con người có thể tác động vào
quá trình tri giác, tư duy, tâm trạng của chủ thể. Từ đó, có vai trò rất lớn. con người vận
dụng nó để làm tăng sự hứng thú, niềm đam mê trong công việc bằng cách luôn tạo ra môi
trường năng động, thoải mái, ưu tiên cá nhận và mọi người giữ tâm trạng vui tươi, sự nhiệt
huyết. đam mê với công việc. giúp thúc đẩy quá trình làm việc hiệu quả. Trong giao tiếp:
hình dáng, phong cách, nét mặt, ánh mắt, cách trang điểm, quần áo, lời nói, nụ cười…ít
nhiều cũng ảnh hưởng đến tri giác, những hiểu biết về trình độ văn hóa, nhân cách, tình
cảm dành cho nhau. Từ đó, giúp con người có ý thức trong việc xây dựng hình tượng cá
nhân mình. Hoàn thiện để trở nên hoàn hảo hơn.
+Trong học tập: Trẻ nhỏ khi được giáo dục trong môi trường tốt, được xây dựng
nhân cách tốt, có điều kiện để phát triển lành mạnh. Như vậy dù đứng trước những mặt trái
của xã hội, trước những tệ nạn như nghiện hút, tiêm chích hay cướp giật,chúng mới có thể
nhận thực được đâu là điều xấu, đâu là điều sai. Một đứa trẻ bình thường, nó có mắt để
biết được trước mắt là bọn lưu manh, côn đồ; nó có tai để nghe những điều sằng bậy.
Nhưng chỉ với một nền tảng nhân cách tốt, lối sống lành mạnh, mới có thể giúp trẻ tránh
khỏi những cạm bẫy xấu xa.
Document Outline
- 1.Cảm giác là gì? Đặc điểm, vai trò và phân loại cảm
- 2.Các quy luật của cảm giác và ý nghĩa của chúng tro
- 3.Khái niệm trí giác, đặc điểm, vai trò và phân loại
- 4.Các quy luật của tri giác, ý nghĩa của chúng trong
