lOMoARcPSD| 58583460
QUY PHẠM PHÁP LUT VÀ QUAN HỆ PHÁP LUẬT
I. Quy phạm pháp luật.
1. Khái niệm, đặc điểm.
1.1 Khái niệm quy phạm pháp luật
Trong đời sống xã hội, mỗi người luôn phải tuân theo những quy tắc chung nhất định trong các quan hệ
giữa con người với nhau. Khoa học pháp lý gọi quy tắc xử sự chung đó là các quy phạm. Các quy phạm đó
có thể là: quy phạm đạo đức, quy phạm tôn giáo, quy phạm của một tổ chức xã hội, quy phạm pháp luật.
Do vậy, quy phạm pháp luật là một trong số những quy phạm xã hội. Từ đó có thể đưa ra khái niệm về quy
phạm pháp luật.
Quy phạm pháp luật quy tắc xử sự chung do nhà ớc ban hành và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh
quan hệ xã hội theo những định hướng và nhằm đạt được những mục đíc h nhất định.
Pháp luật của một nhà nước sự thống nhất của một hệ thống các quy phạm pháp luật. Mỗi quy phm
có thể xem như một “đơn vị pháp luật, một tế bào của một cơ thể thng nhất là toàn bộ nền pháp luật
nói chung.
1.2. Đặc điểm quy phạm pháp luật
Quy phạm pháp luật là mt loại quy phạm xã hội. Vì vậy nó vừa mang đầy đủ những thuộc nh chung của
các quy phạm xã hội vừa có những thuộc nh của riêng mình. Quy phạm pháp luật có những đặc điểm cơ
bản sau đây:
- Quy phạm pháp luật quy tắc xử sự. Với tư cách là quy tắc xử sự, quy phạm pháp luật luôn là khuônmẫu
cho hành vi con người, chỉ dẫn cho mọi người cách xử sự (nên hay không nên làm hoặc làm như
thế nào) trong những hoàn cảnh, điều kiện nhất định. Điều này cũng có nghĩa là quy phạm pháp luật đã
chra cách xử sự và xác định các phạm vi xử sự của con người, cũng như những hậu quả bất lợi nếu
như không thực hiện đúng hoặc vi phạm chúng.
- Quy phạm pháp luật là êu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá hành vi con người.
Không chỉ là khuôn mẫu cho hành vi, quy phạm pháp luật còn là êu chuẩn để xác định giới hạn và đánh
giá hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ mà nó điều chỉnh.
Thông qua quy phạm pháp luật mới biết được hoạt động nào của các chủ thý nghĩa pháp , hoạt
động nào không có ý nghĩa pháp lý, hoạt động nào phù hợp với pháp luật, hoạt động nào trái pháp luật…
Chẳng hạn, để biết được đâu là hoạt động nh cảm, đâu là hoạt động pháp luật của nhân chúng ta phải
căn cứ vào các quy phạm pháp luật hay để đánh giá hành vi nào là vi phạm hành chính, hành vi nào là vi
phạm hình sự (tội phạm) thì phải căn cứ vào các quy phạm của pháp luật hành chính pháp luật hình sự.
lOMoARcPSD| 58583460
- Quy phạm pháp luật do các quan nớc ban hành bảo đảm thực hiện. Quy phạm pháp luật
docác cơ quan nhà nước có thẩm quyền đặt ra, thừa nhận hoặc phê chuẩn, do vậy bản chất của chúng
trùng với bản chất của pháp luật. Quy phạm pháp luật thể hiện ý chí nhà nước, chúng chứa đựng trong
mình những tư tưởng, quan điểm chính trị - pháp lý của nhà nước, của lực lượng cầm quyền trong việc
điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nhà nước áp đặt ý chí của mình trong quy phạm pháp luật bằng cách xác
định những đối tượng (tchức, nhân) nào? trong những hoàn cảnh, điều kiện nào thì phải chịu sự tác
động của quy phạm pháp luật, những quyền nghĩa vụ pháp họ những biện pháp cưỡng
chế nào? họ buộc phải gánh chịu. Thuộc nh do các quan nhà nước ban hành và bảo đảm thực
hiện thuộc nh thể hiện sự khác biệt bản giữa quy phạm pháp luật với các loại quy phạm hi
khác.
- Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung. Quy phạm pháp luật được ban hành không phải cho mộổ
chức hay cá nhân cthmà cho tất cả các tchức và cá nhân tham gia quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh.
Mọi tổ chức, cá nhân ở vào những hoàn cảnh, điều kiện mà quy phạm pháp luật đã quy định đều xử sự
thống nhất như nhau. Tuy nhiên, nh chất chung của các quy phạm pháp luật khác nhau thì khác nhau.
Ví dụ, quy phạm pháp luật Hiến pháp thì có liên quan đến mọi tổ chức và cá nhân trong đất nước, nhưng
quy phạm pháp luật hình sự thì chỉ liên quan đến những người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự
thôi.
- Quy phạm pháp luật công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội, mà nội dung của nó thường thhiện hai mặtlà
cho phép và bắt buộc, nghĩa là, quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự trong đó chỉ ra các quyền và nghĩa
vụ pháp lý của các bên tham gia quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh.
- Quy phạm pháp luật có nh hệ thng. Mỗi quy phạm pháp luật được nnước ban hành không tồn tạivà
tác động một cách biệt lập, riêng rẽ giữa chúng luôn có sự liên hệ mật thiết và thống nhất với nhau
tạo nên những chỉnh thể lớn nhỏ khác nhau cùng điều chỉnh các quan hệ hội sự ổn định phát
triển xã hội.
Quy phạm pháp luật của các nhà nước hiện đại chủ yếu quy phạm pháp luật thành văn, chúng đưc
chứa đựng trong các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước. Do nhu cầu điều chỉnh hội số lượng
các quy phạm pháp luật của nhà nước được ban hành ngày một nhiều hơn và phạm vi các đối tượng mà
chúng tác động cũng ngày càng rộng hơn, trật tự ban hành, áp dụng và bảo vệ chúng ngày càng dân chủ
hơn với sự tham gia của các thành viên trong hội. Nội dung các quy phạm pháp luật ngày càng chính
xác, chặt chẽ, rõ ràng thống nhất và có nh khả thi cao.
2. Cấu trúc, phương pháp diễn đạt, vai trò của quy phạm pháp luật.
2.1. Cấu trúc của quy phạm pháp luật.
lOMoARcPSD| 58583460
Cấu trúc của quy phạm pháp luật chính là những thành phần tạo nên quy phạm có liên quan mật thiết với
nhau. Cũng như các quy phạm xã hội khác quy phạm pháp luật chứa trong nó những câu hỏi: Ai (tổ chức,
cá nhân nào)? Trong những nh huống nào (khi nào)? thì sxử sự như thế nào hoặc hậu quả gì cần phải
gánh chịu?
Vì vậy, các quy phạm pháp luật được trình bày theo một cấu nhất định, gồm những bộ phn cấu thành.
Nhìn chung, cấu thành của một quy phạm pháp luật bao gồm 3 bộ phận: Giả định, quy định, chế tài.
2.1.1. Giả định
Là một phần của quy phạm pháp luật trong đó nêu ra những nh huống (hoàn cảnh, điều kiện) có thể xảy
ra trong đời sống xã hội mà quy phạm pháp luật sẽ tác động đối với những chủ th(t chức, cá nhân) nhất
định. Nói cách khác, giả định nêu lên phạm vi tác động của quy phạm pháp luật đối với các nhân hay tổ
chức nào? Trong những hoàn cảnh, điều kiện nào?
dụ: Khoản 1 Điều 102 Bộ luật hình sự Việt Nam quy định: “Người nào thấy người khác đang ở trong nh
trạng nguy hiểm đến nh mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì
bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”. Hoàn cảnh
đây là: bất kỳ “Người nào thấy người khác đang trong nh trạng nguy hiểm đến nh mạng, nhưng
chthchịu sự tác động của quy phạm này không phải tất cả những người trong hoàn cảnh đó chỉ
gồm những người “tuy có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết. Như vậy, trong
cùng một hoàn cảnh nhưng không phải mọi tổ chức hay nhân ở vào hoàn cảnh ấy cũng chịu sự tác động
của quy phạm đó chỉ những chủ thể có liên quan đến phần chỉ dẫn của quy phạm mới chịu sự tác động
của quy phạm (chủ thđược, buộc phải thực hiện quy phạm đó hoặc bị áp dụng quy phạm đó).
Những nh huống (hoàn cảnh, điều kiện) được nêu ra trong phần giả định của quy phạm pháp luật là vô
cùng phong phú. Về hoàn cảnh thể những sự kiện: liên quan đến hành vi của con người (tham gia
giao thông, gây thương ch cho người khác…); liên quan đến sự biến (sự sinh, tử…); liên quan đến thời
gian; liên quan đến không gian (phạm vi lãnh thổ áp dụng như miền núi hay đồng bằng…). Vđiều kiện có
thlà: điều kiện về không gian (địa điểm xảy ra sự kiện như nơi tội phạm xảy ra…); điều kiện về chth
tuổi, giới nh, dân tộc…); rất nhiều những điều kiện khác, tùy theo hoàn cảnh nhà nước quy
định về điều kiện đối với chủ th.
Những hoàn cảnh, điều kiện được dự liệu trong phần giả định của các quy phạm pháp luật là những nh
huống đã, đang hoặc sẽ xảy ra trong cuộc sống.
Như vậy, phần giả định của quy phạm pháp luật trả lời cho câu hỏi: Tchức, nhân nào? Trong những
nh huống (hoàn cảnh, điều kiện) nào? Thông qua phần giả định của quy phạm pháp luật chúng ta biết
được tổ chức tổ chức, nhân nào? khi vào những hoàn cảnh, điều kiện nào? thì chịu sự tác động của
lOMoARcPSD| 58583460
quy phạm pháp luật đó. Việc xác định tổ chức, nhân nào những hoàn cảnh, điều kiện nào để tác
động là phụ thuộc vào ý chí của nhà nước.
2.1.2. Quy định
một phần của quy phạm pháp luật nêu lên những cách xử sự các chủ th thể hoặc buộc phi
thực hiện gắn với những nh huống đã nêu phần giả định của quy phạm pháp luật. Tức là, khi xảy ra
những hoàn cảnh, điều kiện đã nêu phần giả định của quy phạm pháp luật thì nhà nước đưa ra những
chỉ dẫn có nh chất mệnh lệnh (các cách xử sự) để các chủ ththực hiện.
Phần quy định là phần cốt lõi của quy phạm pháp luật, nó thể hin ý chí của nhà nước đối với các tổ chc
hay cá nhân khi xảy ra những nh huống đã được nêu trong phần giả định của quy phạm pháp luật. Phần
quy định của quy phạm pháp luật thường được nêu ở dạng mệnh lệnh như: Cấm, không được, phải, thì,
, được…Thông qua phần quy định của quy phạm pháp luật các chủ thể pháp luật mới biết được là nếu
như họ vào những nh huống đã nêu trong phần giả định của quy phạm pháp luật thì hphải làm gì?
được (không được) làm gì? và thậm chí làm như thế nào?.
dụ: "Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật" (Điều 57 Hiến pháp 1992). Phần
quy định của quy phạm này là: "có quyn tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật".
Hay tại Khoản 3 Điều 141 Luật doanh nghiệp 2005 quy định: "Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một
doanh nghiệp nhân". Phần quy định của quy phạm này là: "chđược quyền thành lập một doanh nghiệp
tư nhân".
Phần quy định của quy phạm pháp luật thường chỉ ra các quyền (lợi ích) mà các chủ thđược hưởng hoặc
các nghĩa vụ pháp lý mà họ phải thực hiện, mặc dù không phải khi nào thuật ngữ quyền và nghĩa vụ pháp
lý cũng trực ếp thể hiện trong lời văn của quy phạm.
Như vậy, những mệnh lệnh của nhà nước được nêu trong phần quy định của quy phạm pháp luật đối với
các chủ thể có thể là:
+ Những cách xử sự (hành vi) mà chủ thđược phép hoặc không được phép thực hiện;
+ Những quyền và lợi ích mà chủ thđược hưởng;
+ Những cách xử sự (hành vi) mà chủ thbuộc phải thực hiện, thậm chí là phải thực hiện như thế nào?
2.1.3. Chế tài
một phần của quy phạm pháp luật chỉ ra các biện pháp mang nh chất trừng phạt các chủ thcó
thẩm quyền áp dụng quy phạm thể áp dụng đối với các chủ th vi phạm pháp luật, không thực hin
đúng những mệnh lệnh đã được nêu trong phần quy định của quy phạm pháp luật. Do đó, chế tài bộ
phận bảo đảm nh cưỡng chế của pháp luật trong thực tế.
lOMoARcPSD| 58583460
Phần chế tài của quy phạm pháp luật thường trlời cho câu hỏi: Các chủ thcó thẩm quyền áp dụng quy
phạm thể áp dụng những biện pháp nào đối với các chủ thđã vi phạm pháp luật, không thực hiện
đúng những mệnh lệnh đã được nêu trong phần quy định của quy phạm pháp luật. Còn đối với c chủ
thđược nêu phần giả định của quy phạm pháp luật thì nhà nước gián ếp thông báo hoặc cảnh báo
cho họ biết nếu như họ vào những nh huống như đã nêu phần giả định của quy phạm pháp luật
thì họ phải chịu những hậu quả bất lợi, bị trừng phạt bằng những biện pháp gì?
Ví dụ: Khoản 1 Điều 100 Bộ luật Hình sự 1999 quy định: “Người nào đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp,
ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình làm người đó tự sát, thì bị phạt từ hai đến bảy năm”.
Phần giả định nêu chủ thchịu sự tác động của quy phạm này là: “Người nào đối xử tàn ác, thường xuyên
ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình làm người đó tự sát”. Phần chế tài được chỉ dẫn
cho chth thẩm quyền áp dụng pháp luật đối với chủ thđã thực hiện hành vi nêu phần giả định
của quy phạm này là: “phạt tù từ hai đến bảy năm”. Còn phần quy định đã không trực ếp thể hiện trong
quy phạm pháp luật này. Tuy nhiên, với quy phạm pháp luật này thì phần quy định được hiểu là: không
được đối xử tàn ác, không được thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình làm
cho người lệ thuộc mình tự sát.
Hay "Người nào điều khiển phương ện giao thông đưng bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông
đường by thiệt hại cho nh mạng hoặc y thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người
khác, thì bị phạt ền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giđến ba năm
hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm". (Điều 202 Bộ luật hình sự 1999). Phần chế tài ở quy phạm này là:
"bphạt ền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt
tù từ sáu tháng đến ba năm".
Theo các ngành luật thì chế tài được chia thành: Chế tài hình sự, chế tài hành chính, chế tài kỷ luật, chế
tài dân sự ...v.v.
2.2. Phương pháp diễn đạt quy phạm pháp luật
Để đảm bảo nh logic, chặt chẽ đòi hỏi các quy phạm pháp luật phải được trình bày theo một kết cấu là:
Nếu một tổ chức hay cá nhân nào đó vào những hoàn cảnh, điều kiện nhất định nào đó (giả định); thì
được phép hay buộc phải xử sự theo một cách thức nhất định (quy định); hoặc các chủ ththẩm quyền
có thể sẽ áp dụng những biện pháp cưỡng chế nào đối với các chủ thể vi phạm pháp luật (phần chế tài)
Quy phạm pháp luật được thể hiện thành các điều luật trong các văn bản quy phạm pháp luật, quy phạm
pháp luật nội dung, còn điều luật hình thức biểu hiện của các quy phạm pháp luật. Trong nhiều trường
hợp quy phạm pháp luật trùng với các điều luật. Nhưng cũng không ít trường hợp, trong một điều lut
của văn bản, bao gồm một số quy phạm pháp luật khác nhau cùng điều chỉnh các quan hệ hội trong
lOMoARcPSD| 58583460
một lĩnh vực nhất định. ba phương pháp diễn đạt quy phạm pháp luật thành các điều luật trong các
văn bản quy phạm pháp luật: phương pháp diễn đạt trực ếp; phương pháp diễn đạt tham khảo; phương
pháp diễn đạt theo mẫu.
Phương pháp diễn đạt trực ếp, theo phương pháp này, trong một điều luật trình bày (diễn đạt) một quy
phạm pháp luật trọn vẹn, có đủ các yếu tố: giả định, quy định, chế tài. Phương pháp này có ưu điểm là d
hiểu, dễ vận dụng, phù hợp với trình độ dân trí chưa cao. Nhưng nhược điểm thường lặp đi lặp li
nhiều lần một nội dung nào đó.
Phương pháp diễn đạt tham khảo, theo phương pháp này, tại một điều luật, chỉ trình bày một hoặc hai bộ
phận của quy phạm pháp luật, phần còn lại phải tham khảo một điều luật khác. Ưu điểm của phương
pháp này khắc phục được nhược điểm của phương pháp trên, khắc phục được sự trùng lặp. Nhưng
nhược điểm là khó vận dụng, đòi hỏi trình độ dân trí cao.
Phương pháp diễn đạt theo bản mẫu, phương pháp diễn đạt một điều luật chỉ trình bày một vài bộ
phận của quy phạm như ở phương pháp tham khảo, phần còn lại không giới thiệu ở một điều luật cụ th
nào, mà chỉ đề ra một phương hướng chung để tham khảo ở một luật nào đó đang hiện hành (tham khảo
tại một văn bản quy phạm pháp luật khác).
Qua ba phương pháp diễn đạt trên, phương pháp nào tốt nhất? Mỗi phương pháp đều những ưu
điểm, nhược điểm của nó. Tùy theo nh chất của quan hệ hội do quy phạm pháp luật điều chỉnh, tùy
theo trình độ dân trí của dân cư mà các nhà làm luật chọn phương pháp thích hợp. Tuy nhiên, dù sử dụng
phương pháp nào cũng phải tuân theo một yêu cầu chung là phải diễn đạt chính xác, rõ ràng, dhiểu, dễ
vận dụng. Cần phải diễn đạt sao cho cùng một vấn đề mà mọi người đều hiểu thống nhất, vận dụng thống
nhất. Không thể có một quy định của quy phạm pháp luật mà hiểu nhiều cách khác nhau.
4. Vai trò của quy phạm pháp luật
Quy phạm pháp luật yếu tố đầu ên, bản trong cơ chế điều chỉnh pháp luật y dựng hthống
pháp luật. Không có quy phạm pháp luật, không có thước đo, thì không thể có sự điều chỉnh pháp luật, và
do đó, không chế điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ hội. Thông qua quy phạm pháp luật
nhà nước quản lý xã hội. Quản lý xã hội, theo góc độ pháp , việc nhà nước dùng quy phạm pháp luật
để điều chỉnh hành vi của các thành viên trong xã hội, sao cho khi họ tham gia các quan hệ xã hội phải xử
sự thống nhất theo một quy tắc chung, theo ý chí của nhà nước đã được thể hiện trong quy phạm pháp
luật. Hệ thống pháp luật tổng thể các quy phạm pháp luật. Quy phạm pháp luật được coi “tế bào”
của hệ thống pháp luật, là yếu tốbản để xây dựng hệ thống pháp luật của một nhà nước. Pháp luật của
một nhà nước là hệ thng các quy phạm pháp luật.
lOMoARcPSD| 58583460
Quy phạm pháp luật là cơ sở pháp lý đảm bảo shot động của Bộ máy nhà nước. Các cơ quan nhà nước
đều phải hoạt động trong phạm vi thẩm quyền được quy định cụ thbằng những quy phạm pháp luật.
Các nhà chức trách, các nhân viên nhà nước phải dựa vào quy phạm pháp luật đthực thi công vụ của
mình. Có như vậy họ mới đủ lòng n để thực hiện đúng chức trách một cách có hiệu quả.
Quy phạm pháp luật sở pháp đối với quyền tự do, quyền dân chủ của công dân, đối với hành vi
hợp pháp của con người trong xã hội. Các quy phạm pháp luật tác động lên con người trong quan hệ
hội trên hai mặt, tác động giáo dục tưởng tác động pháp . Tác động giáo dục tưởng của quy
phạm pháp luật thể hiện tương tự như các biện pháp giáo dục tưởng khác. Khi con người biết được
những quy định của pháp luật về quyền tự do, quyền dân chủ thì trình độ nhận thức, trình độ văn hóa của
họ được nâng cao. Tác động pháp lý của quy phạm pháp luật tạo cho con người sự hiểu biết cần thiết về
pháp luật, đồng thời khẳng định những quyền và nghĩa vụ pháp của họ. Để tạo cho con người kiến
thức pháp luật hiểu biết quyền nghĩa vụ pháp , ngoài việc ến hành trên ý thức, còn phải thông
qua sự điều chỉnh bằng pháp luật đối với quan hệ xã hội. Dựa vào quy phạm pháp luật, nhà nước có khả
năng bảo vệ các quan hệ hội đã , tạo điều kiện cho các quan hệ hội mới phát sinh điều kiện
phát triển, góp phần thanh toán, loại bỏ các quan hệ xã hội đối lập với xã hội mới. II. Quan hệ pháp luật
1. Khái niệm, đặc điểm
1.1. Khái niệm
Nhu cầu tồn tại và phát triển đã buộc con người phải liên kết với nhau thành những cộng đồng. Giữa các
thành viên của cộng đồng luôn nảy sinh những sự liên hệ về vật chất, v nh thần với nhau và những mối
liên hệ này luôn có giới hạn nên người ta gọi chúng là các “quan hệ”. Những quan hệ xuất hiện trong quá
trình sản xuất và phân phối của cải vật chất, trong việc thoả mãn các nhu cầu văn hoá, nh thần cũng như
trong việc bảo vệ lợi ích của xã hội thì được gọi là “quan hệ xã hội”.
Quan hệ xã hội tồn tại khách quan không lệ thuộc vào ý chí của con người. Tính khách quan của chúng thể
hin ch con người sống trong hội không thể tự đặt mình ngoài những mối liên hệ xã hội đang tồn
tại. hội không thtồn tại thiếu con người con người cũng không thtồn tại ngoài xã hội. Tính tổ
chức của đời sống cộng đồng đòi hỏi các quan hệ xã hội phải được điều chỉnh. Điều này có thể thực hiện
được bằng cách đặt ra những quy tắc xử sự buộc mọi người phải tuân theo.
Quan hhội rất đa dạng phong phú. Đó thể quan hgia đình, quan hệ lao động, quan hệ tài
sản…Tính đa dạng của quan hệ xã hội dẫn đến sự phong phú của các hình thức tác động đến chúng. Chúng
có thể là quy phạm pháp luật, quy phạm đạo đức, các n đồ tôn giáo, phong tục tập quán v.v… Tuy nhiên,
hiệu quả tác động của mỗi loại quy phạm xã hội có sự khác nhau rất lớn. Trong hệ thống các quy phạm xã
hội, quy phạm pháp luật vị trí đặc biệt quan trọng. Do vậy, có thể xác định quan hpháp luật là quan
lOMoARcPSD| 58583460
hệ hội được điều chỉnh bằng quy phạm pháp luật, làm cho các bên tham gia quan hđó quyền và
nghĩa vụ pháp lý
Như vậy, quan hệ pháp luật những quan hệ hội được các qui phạm pháp luật điều chỉnh trong đó
quyn và nghĩa vụ của chủ thđược nhà nước quy định và bảo đảm thực hiện.
Quan hệ pháp luật hình thức đặc biệt của quan hệ hội. tồn tại trong hầu hết các lĩnh vực quan
trọng của đời sống xã hội và có liên hệ mật thiết với các loại hình quan hệ xã hội khác.
1.2. Đặc điểm của quan hệ pháp luật
Quan hệ pháp luật có những đặc điểm cơ bản sau đây:
- Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội có ý chí: Quan hệ pháp luật xuất hiện do ý chí của con người.
Cácquan hệ này không ngẫu nhiên hình thành mà phải qua hành vi có ý chí của một hoặc nhiều chủ thể.
những quan hệ pháp luật mà sự hình thành đòi hỏi thhiện ý chí của hai bên tham gia. Chẳng hạn, hợp
đồng lao động (quan hệ giữa người lao động người sử dụng lao động); hợp đồng mua bán tài sản (quan
hệ giữa người bán tài sản và người mua tài sản).
Cũng có những loại quan hệ pháp luật mà sự hình thành trên cơ sở ý chí của nhà nước. Chẳng hạn, quan
hệ pháp luật hình sự hình thành không phải xuất phát từ ý chí của người phạm tội, mà xuất phát từ ý chí
của nhà nước.
- Quan hệ pháp luật xuất hiện trên cơ sở các quy phạm pháp luật: Pháp luật điều chỉnh các quan h
xãhội, các quan hệ sản xuất bằng việc tác động trực ếp vào quan hý chí, biến các quan hệ ý chí đó thành
các quan hệ pháp luật, buộc các bên trong quan hý chí đó có cách xử sự phù hợp với ý chí của của giai
cấp thống trị thhiện trong pháp luật. Do đó, việc lựa chọn quan hệ xã hội nào để điều chỉnh bằng pháp
luật phụ thuộc vào ý chí nhà nước.
dụ: Hành vi tạo ra, lan truyền phát tán các chương trình virus n học nhưng nếu như hành vi đó được
thực hiện trước khi Bộ luật hình sự 1999 hiệu lực (trước 1/7/2000) thì không bị coi là tội phạm. Nhưng
cũng chính hành vi đó thực hiện sau ngày Bộ luật hình s1999 hiệu lực (từ 1/7/2000) thì hành vi
đó bị xem là phạm vào tội "tạo ra, lan truyền và phát tán các chương trình virus n học " được quy định
tại Điều 224 Bộ luật hình sự 1999. Do đó, hành vi đó bị xem là tội phạm khi nó được điều chỉnh bởi quy
phạm pháp luật như đã nêu.
Một dkhác, ớc ta hoạt động mại dâm bị pháp luật nghiêm cấm, mọi hành vi vi phạm đều bị nghiêm
trị. Tuy nhiên, một số ớc bản (Thái Lan, Lan…) hoạt động này được xem như một nghề đưc
pháp luật công nhận và bảo vệ. Hay quan hệ gia hai người đàn ông cùng chung sống với nhau, cùng sinh
hoạt bằng những thu nhập có được là một dạng quan hệ bạn bè, thuộc phạm trù đạo đức. Nhưng ở một
lOMoARcPSD| 58583460
số ớc tư bản, khi pháp luật cho phép có hôn nhân giữa người cùng giới nh thì quan hệ như vậy lại tr
thành quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình.
- Nội dung của quan hệ pháp luật luôn được cấu thành bởi các quyền nghĩa vụ pháp của các
bêntham gia quan hệ pháp luật. Các quyền nghĩa vụ pháp của các bên tham gia quan hệ pháp luật
có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Thông thường, quyền của bên này lại là nghĩa vụ của mỗi bên khác và
ngược lại. Vì vậy, việc thực hiện nghĩa vụ của một bên sự đảm bảo cho việc thực hiện quyền của một
bên khác.
dụ: Trong quan hhợp đồng mua bán tài sản bên bán nghĩa vchuyển giao tài sản quyền
nhận một khoản ền theo sự thoả thuận, còn bên mua có nghĩa vụ chuyển giao khoản ền nói trên và có
quyn được nhận tài sản. Trong mối quan hệ này, chúng ta thấy việc thực hiện nghĩa vụ của một bên
việc thực hiện quyền của bên khác và ngược lại.
- Việc thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp của các bên tham gia quan hệ pháp luật được đảm bảo
bằngsự ỡng chế nhà nước. Đặc điểm này thể hin chỗ nếu các bên tham gia quan hệ pháp luật không
tự giác thực hiện nghĩa vụ của mình Nhà nước có thể dùng biện pháp cưỡng chế thực hiện. Các cá nhân
hay tổ chức vi phạm pháp luật thì phải gánh chịu các trách nhiệm pháp lý thể hiện trong các chế tài pháp
luật.
2. Phân loại quan hệ pháp luật
Sự đa dạng và phong phú của quan hệ xã hội cũng như các quy phạm pháp luật điều chỉnh chúng dẫn đến
sự hình thành các quan hệ pháp luật khác nhau. Việc phân loại các quan hệ pháp luật được ến hành dựa
theo nhiều căn cứ khác nhau.
- Căn cứ vào đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh, chúng ta có thể phân chia các quan
hệpháp luật theo các ngành luật thành quan hệ pháp luật hình sự, quan hpháp luật dân sự, quan hệ
pháp luật hành chính, quan hpháp luật kinh tế…cách phân loại này phổ biến được thừa nhận rộng
rãi. - Căn cứ vào nh chất độc lập của các quyền của chủ ththam gia quan hệ pháp luật ta có thể phân
chia các quan hệ pháp luật thành quan hệ pháp luật tuyệt đối và quan hệ pháp luật tương đối
- Căn cứ vào việc thực hiện nghĩa vụ trong quan hệ pháp luật đơn phương hay song phương người
tacó chia quan hệ pháp luật thành quan hệ pháp luật đơn vụ và pháp luật song vụ
- Căn cứ vào nh chất tác động của quy phạm pháp luật trong mỗi quan hệ pháp luật người ta chia
quanhệ pháp luật thành quan hệ pháp luật điều chỉnh và quan hệ pháp luật bảo vệ.
2. Các yếu tố cấu thành của quan hệ pháp luật.
Mỗi quan hệ pháp luật được cấu thành bởi 3 yếu tố đó là:
- Chth,
lOMoARcPSD| 58583460
- Khách thể
- Nội dung của quan hệ pháp luật.
2.1. Chủ thể của quan hệ pháp luật.
2.1.1. Khái niệm chủ thquan hệ pháp luật.
Chthquan hệ pháp luật là những cá nhân hay tổ chức dựa trên cơ sở của các quy phạm pháp luật mà
tham gia vào các quan hệ pháp luật, trở thành người mang các quyền và nghĩa vpháp lý cụ thể. Các tổ
chức, cá nhân hoặc các chủ thể khác thỏa mãn những điều kiện theo quy định của pháp luật cho mỗi loại
quan hệ thì thể trthành chủ thcủa quan hệ pháp luật đó. Khi các chủ thđủ những điều kiện
theo quy định của pháp luật cho mỗi loại quan hệ thì được coi năng lực chủ th(tư cách chủ thể).
Năng lực chủ thể bao gồm: Năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
Năng lực pháp luật là khả năng có quyền và nghĩa vụ pháp lý được nhà nước quy định cho các tchức, cá
nhân nhất định. Năng lực pháp luật có thể được coi là phần tối thiểu trong năng lực chủ thcủa cá nhân
và pháp nhân.
Với năng lực pháp luật, các chủ thchỉ tham gia thụ động vào các quan hệ pháp luật hoặc được pháp luật
bảo vệ trong các quan hệ nhất định. Tính thụ động của chủ thch không tự tạo ra được cho mình
các quyền và nghĩa vụ pháp lý. Các quyền nghĩa vụ pháp lý mà họ có được trong mối quan hệ pháp lut
cụ thlà do ý chí của nhà nước, ý chí của người thứ ba.
Ví dụ: Một đứa trẻ được thừa kế khi bố, mẹ chết. Quan hệ thừa kế này phát sinh do ý chí của người để lại
thừa kế (nếu có di chúc) hoặc theo ý chí của nhà nước (nếu không có di cc). Trong quan hệ thừa kế này
thì đứa trẻ là chủ thể có năng lực pháp luật và nhà nước bảo vệ các quyền hợp pháp của đứa trẻ này.
Năng lực hành vi là khả năng mà nhà nước thừa nhận cho tổ chức, cá nhân bằng những hành vi của chính
bản thân mình có thể xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp . Đây được coi là phần quan trọng
đối với các hoạt động ch cực của chủ thquan hệ pháp luật. Tchức hoặc cá nhân có năng lực hành vi
sẽ được tham gia với tư cách là chủ thể quan hệ pháp luật, bằng hành vi của mình có thể độc lập xác lập
và thực hiện các quyn, nghĩa vụ pháp lý cũng như độc lập chịu trách nhiệm về những hành vi của mình.
Năng lực pháp luật và năng lực hành vi là những thuộc nh không tách rời của mỗi cá nhân nhưng không
phải là những thuộc nh tự nhiên, không phải sẵn có khi người đó sinh ra mà là những thuộc nh pháp lý.
Chúng đều do nhà nước thừa nhận cho mỗi tổ chức hoặc nhân. Chỉ thông qua quy phạm pháp luật mới
biết được tổ chức, cá nhân nào có năng lực chủ thpháp luật để tham gia vào những quan hệ pháp luật
nhất định.
Đối với cá nhân, năng lực pháp luật xuất hiện ktừ cá nhân sinh ra và chỉ mất đi khi người đó chết. Trong
một số lĩnh vực, năng lực pháp luật được mở rộng dần từng bước phụ thuộc vào sự phát triển về thlực
lOMoARcPSD| 58583460
trí lực của nhân. Sự mở rộng dần năng lực pháp luật của chủ thcăn cứ vào độ tui. Dĩ nhiên, độ
tuổi không phải là êu chuẩn chính xác tuyệt đối đxác định lý trí, khả năng nhận thức của chủ thể. Song
sao độ tui phản ánh một mức độ cao những điều kiện tâm - sinh của chủ thể. vậy pháp luật
ớc ta cũng như pháp luật của các nước lấy độ tui làm êu chí xác định năng lực pháp luật và năng lực
hành vi. Trẻ em ít tuổi, những người mất trí không được nhà nước cho phép tham gia vào những quan hệ
pháp luật quan trọng.
Trong một số trường hợp, thông qua các quan thẩm quyền nhà ớc thể ớc quyền tham gia
vào một số quan hệ pháp luật, hạn chế năng lực pháp luật của một tổ chức, cá nhân nào đó.
Khác với năng lực pháp luật, năng lực hành vi chỉ xuất hiện khi nhân đã đến độ tuổi nhất định và đạt
được những điều kiện nhất định. Phần lớn pháp luật các nước đều lấy độ tuổi 18 và êu chuẩn lý trí (khả
năng nhận thức được hậu quả của việc mình làm) làm điều kiện công nhận năng lực hành vi cho chủ th
của đa số các nhóm quan hệ pháp luật. Tuy nhiên, đó không phải những điều kiện duy nhất thống
nhất cho tất cả các loại quan hệ pháp luật. Mặt khác, năng lực hành vi ở mỗi nhóm quan hệ pháp luật khác
nhau xuất hiện ở công dân ở những độ tuổi khác nhau.
Ví dụ, ớc ta, năng lực kết hôn được pháp luật quy định là 20 tuổi (đối với nam), 18 tuổi (đối với nữ);
năng lực bầu cử (18 tuổi tròn). Nhưng năng lực hành vi trong quan hpháp luật lao động lại xuất hiện
sớm hơn (tuổi 16). Năng lực pháp luật hình sự cũng xuất hin nhân vào độ tuổi 16. Việc xuất hiện
năng lực hành vi các chủ thcủa mỗi loại quan hệ pháp luật khác nhau phụ thuộc vào nh chất và đặc
điểm của loại quan hệ xã hội mà pháp luật điều chỉnh.
Năng lực pháp luật và năng lực hành vi tạo thành năng lực chủ thể pháp luật. Vì thế, chúng có mối liên hệ
chặt chẽ vi nhau. Một chủ thể pháp luật chỉ đơn thuần có năng lực pháp luật thì không thể tham gia ch
cực vào các quan hệ pháp luật, tức không thể tự mình thực hiện các quyền nghĩa vchthể. Ngược
lại, năng lực pháp luật là ền đề của năng lực hành vi. Không thcó chủ thquan hệ pháp luật không
năng lực pháp luật mà lại có năng lực hành vi. Giữa năng lực pháp luật và năng lực hành vi có giới hạn
nét khi chủ thquan hệ pháp luật cá nhân trong trường hợp này sự xuất hiện năng lực hành vi của
chthxảy ra muộn hơn so với năng lực pháp luật. Còn đối với chủ thể quan hệ pháp luật là pháp nhân
thì ranh giới này khó nhận thấy nếu không phân ch sâu sắc hoạt động của chủ thể. Năng lực pháp luật và
năng lực hành vi của pháp nhân xuất hiện cùng lúc, từ khi pháp nhân ra đời.
Năng lực hành vi của chủ thquan hệ pháp luật những biến dạng nhất định tùy theo nh chất của quan
hệ pháp luật mà chủ thể tham gia. Trong một số quan hệ pháp luật chthể có năng lực hành vi hạn chế
còn những quan hệ pháp luật khác thì chủ thlại có năng lực hành vi từng phần. Năng lực hành vi đầy
đủ chỉ có ở những chủ thể đáp ứng đầy đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Việc xác định chủ thể nào
lOMoARcPSD| 58583460
năng lực hành vi đầy đủ, năng lực hành vi hạn chế hay năng lực hành vi từng phần không thể thống
nhất cho mọi quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh. Điều này hoàn toàn tùy thuộc vào các đặc điểm
của mỗi ngành luật, chế định luật.
dụ, Điều 22 Bộ luật dân sự Việt Nam quy định về mất năng lực hành vi dân sự của một nhân: "Khi
một người bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi
của mình thì theo yêu cầu của người có quyền lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố mất năng
lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định". Và Điều 23 quy định về hạn chế năng lc
hành vi dân sự cá nhân thì:"Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản
của gia đình thì theo u cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thra quyết định tuyên bố
là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự".
Năng lực chủ thể pháp luật là hình thức thể hiện địa vị pháp lý của cá nhân và tổ chức trong xã hội.
2.1.2. Chủ thể là cá nhân
Chthể là cá nhân gồm có công dân, người nước ngoài và người không quốc tịch.
Công dân là chủ thể cá nhân phổ biến và chủ yếu của các quan hệ pháp luật. Công dân là chủ thể của quan
hệ pháp luật khi theo quy định của pháp luật họ có năng lực chủ thể (năng lực pháp luật và năng lực hành
vi). Không ai ngoài những quan nhà nước thẩm quyền và trong những điều kiện, trình tự nghiêm
ngặt do pháp luật quy định, mới thể hạn chế năng lực chủ thcủa công dân. Công dân chthcủa
hầu hết các ngành luật.
Người nước ngoài và người không quốc tịch thể trthành chthquan hệ pháp luật theo các điều kiện
áp dụng đối với công dân. Tuy nhiên, trong một số lĩnh vực nhất định, năng lực chthcủa người nước
ngoài và người không quốc tịch bị hạn chế.
2.1.3. Chủ thể là pháp nhân
Pháp nhân là tổ chức được nhà nước thừa nhận là chủ thể của quan hệ pháp luật. Pháp nhân là một thực
thnhân tạo được các cá nhân hoặc nhà nước dựng lên. Dù được thành lập bởi các cá nhân hay bởi nhà
ớc, pháp nhân vẫn tồn tại độc lập đối với những thực thể lập ra nó.
Trong đời sống pháp lý, kinh tế, pháp nhân đóng vai trò khá quan trọng. Chế định pháp nhân là hình thức
pháp chủ yếu của các hoạt động chung mà con người ến hành: kinh doanh, quản lý; hoạt động công
ích; hoạt động nghiên cứu.v.v…
Pháp nhân chỉ xuất hiện khi được nhà nước cho phép, tức được nhà nước thừa nhận hoặc thành lập.
Tuy nhiên, không phải tổ chức nào do nhà nước lập ra hoặc thừa nhận cũng tư cách pháp nhân. Pháp
nhân là khái niệm pháp lý phản ánh địa vị pháp lý của một tổ chức. Theo điều 84 Bộ luật dân sự 2005, một
tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau:
lOMoARcPSD| 58583460
1. Được thành lập hợp pháp. Tức là, tổ chức đó phải do nhà nước thành lập, thừa nhận hoặc cho
phépthành lập và phải có tên gọi riêng.
2. cấu tổ chức chặt chẽ. cấu tổ chức thống nhất của pháp pháp nhân thể hiện sự tồn tại của
cơquan lãnh đạo và các bphận cấu thành của nó có mối liên hệ tổ chức chặt chẽ.
3. Có tài sản độc lập với nhân, tổ chức khác và tchịu trách nhiệm bằng tài sản đó. Tài sản riêng là cơsở
vật chất cho hoạt động của một tổ chức. Bằng tài sản riêng, pháp nhân thực hiện các quyền nghĩa vụ
tài sản của mình.
4. Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Cũng như các cá nhân (công dân, người nước ngoài, người không quốc tịch), pháp nhân chthquan
hệ pháp luật. Tuy nhiên, pháp nhân không tham gia tất cả các loại quan hệ pháp luật. Căn cứ vào nh chất,
đặc điểm và nội dung của mình, mỗi nhóm quan hệ pháp luật chỉ thừa nhận một cấu chủ thnhất định.
Pháp nhân không thể là chủ thcủa quan hệ pháp luật hình sự, quan hệ hôn nhân. Như các nhân, pháp
nhân cũng mang quốc tịch của một quốc gia nhất định.
Theo điều 75, 76 Bộ luật dân sự 2015 các loại pháp nhân bao gồm:
- Pháp nhân thương mại: Các loại hính doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác
- Pháp nhân phi thương mại: bao gồm quan nhà ớc, đơn vị trang nhân dân, tổ chức chính trị,
tổchức chính trị - hội, tổ chức chính trị hội - nghề nghiệp, tổ chức hội, tổ chức hội - nghề
nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, doanh nghiệp xã hội và các tổ chức phi thương mại khác
Ngoài các thực thể nhân tạo pháp nhân, còn có những thực thể nhân tạo khác tuy không phải là pháp
nhân song vẫn các chthcủa quan hpháp luật như các doanh nghiệp nhân, các thành viên của
một công ty… Những chủ thể này khi tham gia c quan hệ pháp luật thường phải tuân theo một số điu
kiện chặt chẽ hơn.
2.2. Nội dung của quan hệ pháp luật
Một trong những cấu thành cơ bản của quan h pháp luật là nội dung của nó. Nội dung của quan hệ pháp
luật bao gồm quyền và nghĩa vụ chthể.
- Quyền chủ th
Quyền chủ thcách xử sự pháp luật cho phép chủ thđược ến hành. Nói cách khác, quyền chủ
thể là khả năng của chủ thể xử sự theo cách thức nhất định được pháp luật cho phép. Nói là khả năng có
nghĩa chủ ththể lựa chọn giữa việc sử sự theo cách thức được phép ến hành hoặc không
xử sự như vậy.
dụ: Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo. Họ thể thực hiện việc đó song cũng thể không nếu xét
thấy không có lợi cho mình.
lOMoARcPSD| 58583460
Quyền chủ thể có những đặc nh sau:
+ Khả năng của chủ th xử sự theo cách thức nhất định mà pháp luật cho phép.
+ Khnăng yêu cầu các chủ thkhác chấm dứt các hành động cản trở thực hiện quyền nghĩa vụ hoc
yêu cầu chúng tôn trọng các nghĩa vụ tương ứng phát sinh từ quyền và nghĩa vụ này.
+ Khả năng của chủ th yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ lợi ích của mình.
- Nghĩa vụ chth
Nghĩa vụ chthể là cách xử sự mà nhà nước bắt buộc chthphải ến hành nhằm đáp ứng việc thực hiện
quyn của chủ thkhác.
Nghĩa vụ pháp lý bao gồm những sự cần thiết phải xử sự như sau:
+ Cần phải ến hành một số hoạt động nhất định.
+ Cần kiềm chế không thực hiện một số hoạt động nhất định.
+ Cần phải chịu trách nhiệm pháp lý khi xử sự không đúng với những quy định của pháp luật.
Quyền và nghĩa vụ chthể là hai hiện tượng pháp lý không thể thiếu trong một quan hệ pháp luật cụ th.
Không có quyền nằm ngoài mối liên hệ với nghĩa vụ và ngược lại không có nghĩa vụ pháp nằm ngoài mối
liên hệ với quyền chủ th.
Trong quan hệ pháp luật, quyền nghĩa vụ chthluôn thống nhất, phù hợp với nhau. Nội dung, số
lượng và các biện pháp bo đảm thực hiện chúng đều do nhà ớc quy định hoặc do các bên xác lập trên
cơ sở các quy định đó.
2.3. Khách thể quan hệ pháp luật
nhân, tổ chức khi tham gia vào một quan hệ pháp luật nào đó đều nhằm thoả mãn những nhu cầu nhất
định về vật chất, chính trị, văn hoá, nh thần. Có thể đó những lợi ích vật chất, hoặc các lợi ích phi vật
chất, cũng có thể là các nhu cầu về hot động chính trị, xã hội.
Tuy nhiên, nhà nước với mục đích bảo vệ lợi ích của mỗi cá nhân và xã hội nên trong quy phạm pháp luật
cũng xác định rõ một số lợi ích vật chất, nh thần mà các chủ thể không được phép thực hiện dưới bất cứ
hình thức nào, ngoại trừ những trường hợp mà pháp luật cho phép.
thể hiểu khách thcủa quan hệ pháp luật những lợi ích vật chất, nh thần và những lợi ích hội
khác có thể thoả mãn những nhu cầu, đòi hỏi của các tổ chức hoặc cá nhân khi họ tham gia vào quan h
pháp luật, nghĩa là vì chúng mà họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ chthể của mình.
Khách thể cái thúc đẩy các tổ chức hoặc nhân tham gia vào quan hệ pháp luật. Khách thể của quan
hệ pháp luật cần được phân biệt với đối tượng điều chỉnh của pháp luật là những quan hệ xã hội mà pháp
luật tác động đến.
lOMoARcPSD| 58583460
dụ: Trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa khách thể quan hpháp luật hợp đồng không phải hàng
hóa mà là sự vận chuyển hàng hóa. Hay trong quan hệ tranh chấp về quyền tác giả của một sản phẩm lao
động sáng tạo thì khách thể quan hệ pháp luật là quyền tác giả.
Khách thể của quan hệ pháp luật nêu lên vị trí, ý nghĩa của quan hệ pháp luật được pháp luật bảo vệ. Thái
độ xử lý của nhà nước có căn cứ vào khách thể của quan hệ pháp luật khi một quan hệ pháp luật bị xâm
hại.
3. Sự kiện pháp lý
3.1. Khái niệm sự kiện pháp lý
Một quan hệ hội chỉ thể trthành một quan hệ pháp luật khi được một quy phạm pháp luật điều
chỉnh. Dó đó, để có các quan hệ pháp luật đương nhiên phải có các quy phạm pháp luật phù hợp. Nhưng
nếu chỉ có các quy phạm pháp luật thì cũng chưa thể làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một quan hệ
pháp luật cụ thể. Mỗi quy phạm pháp luật, do đặc điểm của nó, chỉ mới nêu lên những nh huống chung,
những điều kiện chung mà thôi. Một quan hệ pháp luật cụ thchphát sinh, thay đổi, chấm dứt khi xảy ra
những sự việc cụ thtrong đời sống, phù hợp với những điều kiện, hoàn cảnh một quy phạm pháp
luật đã giả định trước. Khoa học pháp lý gọi đó là các skiện pháp lý.
Vậy, sự kiện pháp là những sự kiện thực tế mà sự xuất hiện hay mất đi của chúng được pháp luật gắn
với việc hình thành, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật.
Thực chất, sự kiện pháp là những sự kin trong số các sự kiện xảy ra trong thực tế. Sự khác nhau giữa
sự kiện pháp lý với các sự kiện thực tế khác là ý nghĩa của chúng đối với pháp luật. Điều này có nghĩa là
những sự kiện thực tế không có ý nghĩa gì lắm đối với pháp luật (như mây, gió, nói chuyện…) nhưng cũng
có những sự kiện có ý nghĩa lớn đối với pháp luật như lụt, động đất, cái chết của một người, việc giao
kết hợp đồng…
Sự kiện thực tế chtrở thành sự kiện pháp chỉ khi nào pháp luật xác định rõ điều đó. Mỗi nhà nước
những quy định khác nhau về sự kiện pháp lý. Việc thừa nhận một sự kiện thực tế là sự kiện pháp lý xuất
phát từ lợi ích của xã hội và của giai cấp cầm quyền trong xã hội.
3.2. Phân loại skiện pháp lý
Sự kiện pháp trong hội rất đa dạng. được phân loại theo nhiều sở khác nhau song phổ biến
nhất là theo êu chuẩn ý chí. Vi êu chuẩn này sự kiện pháp lý được chia thành sự biến và hành vi. - Sự
biến những hiện tượng tự nhiên trong những trường hợp nhất định, pháp luật gn việc xuất hin
của chúng với sự hình thành các chủ thquyền nghĩa vụ pháp . Ví dụ, một vụ tai nạn, những biến
cố trong thiên nhiên cũng làm phát sinh các quan hệ pháp luật về bảo hiểm.
lOMoARcPSD| 58583460
- Hành vi (hành động hoặc không hành động) những sự kiện xảy ra theo ý chí của con người, hình
thức biểu thị ý chí của chthể pháp luật. Hành động là cách xử sự chủ động còn không hành động là cách
xử sự thụ động của chủ thể. Sự hành động và không hành động đều có thể tr thành sự kiện pháp lý. Việc
kết hôn, việc ký kết hợp đồng…là những hành động. Sự im lặng (trong hợp đồng dân sự); sự bỏ mặc (Điều
107 Bộ lụât hình sự) là những hành vi không hành động.
Hành vi được chia thành hành vi hợp pháp (phù hợp với pháp luật) và hành vi bất hợp pháp (trái với pháp
luật: như gây thương ch cho người khác, trộm cắp, trốn thuế….).
Nếu một quy phạm pháp luật điều kiện cần thì sự kiện pháp điều kiện đủ để áp dụng quy
phạm pháp luật cho một mối quan hxã hội để có một quan hpháp luật cụ th. Dựa vào nội dung của
sự kiện pháp lý, người ta lựa chọn quy phạm pháp luật thích hợp để áp dụng, từ đó có một quan hệ pháp
luật cụ thể với những chủ thể, khách thể và nội dung cụ thể của các chủ thể trong đó.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58583460
QUY PHẠM PHÁP LUẬT VÀ QUAN HỆ PHÁP LUẬT
I. Quy phạm pháp luật.
1. Khái niệm, đặc điểm.
1.1 Khái niệm quy phạm pháp luật
Trong đời sống xã hội, mỗi người luôn phải tuân theo những quy tắc chung nhất định trong các quan hệ
giữa con người với nhau. Khoa học pháp lý gọi quy tắc xử sự chung đó là các quy phạm. Các quy phạm đó
có thể là: quy phạm đạo đức, quy phạm tôn giáo, quy phạm của một tổ chức xã hội, quy phạm pháp luật.
Do vậy, quy phạm pháp luật là một trong số những quy phạm xã hội. Từ đó có thể đưa ra khái niệm về quy phạm pháp luật.
Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh
quan hệ xã hội theo những định hướng và nhằm đạt được những mục đíc h nhất định.
Pháp luật của một nhà nước là sự thống nhất của một hệ thống các quy phạm pháp luật. Mỗi quy phạm
có thể xem như một “đơn vị pháp luật”, một tế bào của một cơ thể thống nhất là toàn bộ nền pháp luật nói chung.
1.2. Đặc điểm quy phạm pháp luật
Quy phạm pháp luật là một loại quy phạm xã hội. Vì vậy nó vừa mang đầy đủ những thuộc tính chung của
các quy phạm xã hội vừa có những thuộc tính của riêng mình. Quy phạm pháp luật có những đặc điểm cơ bản sau đây:
- Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự. Với tư cách là quy tắc xử sự, quy phạm pháp luật luôn là khuônmẫu
cho hành vi con người, nó chỉ dẫn cho mọi người cách xử sự (nên hay không nên làm gì hoặc làm như
thế nào) trong những hoàn cảnh, điều kiện nhất định. Điều này cũng có nghĩa là quy phạm pháp luật đã
chỉ ra cách xử sự và xác định các phạm vi xử sự của con người, cũng như những hậu quả bất lợi gì nếu
như không thực hiện đúng hoặc vi phạm chúng.
- Quy phạm pháp luật là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá hành vi con người.
Không chỉ là khuôn mẫu cho hành vi, quy phạm pháp luật còn là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh
giá hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ mà nó điều chỉnh.
Thông qua quy phạm pháp luật mới biết được hoạt động nào của các chủ thể có ý nghĩa pháp lý, hoạt
động nào không có ý nghĩa pháp lý, hoạt động nào phù hợp với pháp luật, hoạt động nào trái pháp luật…
Chẳng hạn, để biết được đâu là hoạt động tình cảm, đâu là hoạt động pháp luật của cá nhân chúng ta phải
căn cứ vào các quy phạm pháp luật hay để đánh giá hành vi nào là vi phạm hành chính, hành vi nào là vi
phạm hình sự (tội phạm) thì phải căn cứ vào các quy phạm của pháp luật hành chính và pháp luật hình sự. lOMoAR cPSD| 58583460
- Quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện. Quy phạm pháp luật
docác cơ quan nhà nước có thẩm quyền đặt ra, thừa nhận hoặc phê chuẩn, do vậy bản chất của chúng
trùng với bản chất của pháp luật. Quy phạm pháp luật thể hiện ý chí nhà nước, chúng chứa đựng trong
mình những tư tưởng, quan điểm chính trị - pháp lý của nhà nước, của lực lượng cầm quyền trong việc
điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nhà nước áp đặt ý chí của mình trong quy phạm pháp luật bằng cách xác
định những đối tượng (tổ chức, cá nhân) nào? trong những hoàn cảnh, điều kiện nào thì phải chịu sự tác
động của quy phạm pháp luật, những quyền và nghĩa vụ pháp lý mà họ có và những biện pháp cưỡng
chế nào? mà họ buộc phải gánh chịu. Thuộc tính do các cơ quan nhà nước ban hành và bảo đảm thực
hiện là thuộc tính thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa quy phạm pháp luật với các loại quy phạm xã hội khác.
- Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung. Quy phạm pháp luật được ban hành không phải cho mộttổ
chức hay cá nhân cụ thể mà cho tất cả các tổ chức và cá nhân tham gia quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh.
Mọi tổ chức, cá nhân ở vào những hoàn cảnh, điều kiện mà quy phạm pháp luật đã quy định đều xử sự
thống nhất như nhau. Tuy nhiên, tính chất chung của các quy phạm pháp luật khác nhau thì khác nhau.
Ví dụ, quy phạm pháp luật Hiến pháp thì có liên quan đến mọi tổ chức và cá nhân trong đất nước, nhưng
quy phạm pháp luật hình sự thì chỉ liên quan đến những người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự mà thôi.
- Quy phạm pháp luật là công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội, mà nội dung của nó thường thể hiện hai mặtlà
cho phép và bắt buộc, nghĩa là, quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự trong đó chỉ ra các quyền và nghĩa
vụ pháp lý của các bên tham gia quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh.
- Quy phạm pháp luật có tính hệ thống. Mỗi quy phạm pháp luật được nhà nước ban hành không tồn tạivà
tác động một cách biệt lập, riêng rẽ mà giữa chúng luôn có sự liên hệ mật thiết và thống nhất với nhau
tạo nên những chỉnh thể lớn nhỏ khác nhau cùng điều chỉnh các quan hệ xã hội vì sự ổn định và phát triển xã hội.
Quy phạm pháp luật của các nhà nước hiện đại chủ yếu là quy phạm pháp luật thành văn, chúng được
chứa đựng trong các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước. Do nhu cầu điều chỉnh xã hội mà số lượng
các quy phạm pháp luật của nhà nước được ban hành ngày một nhiều hơn và phạm vi các đối tượng mà
chúng tác động cũng ngày càng rộng hơn, trật tự ban hành, áp dụng và bảo vệ chúng ngày càng dân chủ
hơn với sự tham gia của các thành viên trong xã hội. Nội dung các quy phạm pháp luật ngày càng chính
xác, chặt chẽ, rõ ràng thống nhất và có tính khả thi cao.
2. Cấu trúc, phương pháp diễn đạt, vai trò của quy phạm pháp luật.
2.1. Cấu trúc của quy phạm pháp luật. lOMoAR cPSD| 58583460
Cấu trúc của quy phạm pháp luật chính là những thành phần tạo nên quy phạm có liên quan mật thiết với
nhau. Cũng như các quy phạm xã hội khác quy phạm pháp luật chứa trong nó những câu hỏi: Ai (tổ chức,
cá nhân nào)? Trong những tình huống nào (khi nào)? thì sẽ xử sự như thế nào hoặc hậu quả gì cần phải gánh chịu?
Vì vậy, các quy phạm pháp luật được trình bày theo một cơ cấu nhất định, gồm những bộ phận cấu thành.
Nhìn chung, cấu thành của một quy phạm pháp luật bao gồm 3 bộ phận: Giả định, quy định, chế tài. 2.1.1. Giả định
Là một phần của quy phạm pháp luật trong đó nêu ra những tình huống (hoàn cảnh, điều kiện) có thể xảy
ra trong đời sống xã hội mà quy phạm pháp luật sẽ tác động đối với những chủ thể (tổ chức, cá nhân) nhất
định. Nói cách khác, giả định nêu lên phạm vi tác động của quy phạm pháp luật đối với các cá nhân hay tổ
chức nào? Trong những hoàn cảnh, điều kiện nào?
Ví dụ: Khoản 1 Điều 102 Bộ luật hình sự Việt Nam quy định: “Người nào thấy người khác đang ở trong tình
trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì
bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”. Hoàn cảnh
ở đây là: bất kỳ “Người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng”, nhưng
chủ thể chịu sự tác động của quy phạm này không phải tất cả những người trong hoàn cảnh đó mà chỉ
gồm những người “tuy có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết”. Như vậy, trong
cùng một hoàn cảnh nhưng không phải mọi tổ chức hay cá nhân ở vào hoàn cảnh ấy cũng chịu sự tác động
của quy phạm đó mà chỉ những chủ thể có liên quan đến phần chỉ dẫn của quy phạm mới chịu sự tác động
của quy phạm (chủ thể được, buộc phải thực hiện quy phạm đó hoặc bị áp dụng quy phạm đó).
Những tình huống (hoàn cảnh, điều kiện) được nêu ra trong phần giả định của quy phạm pháp luật là vô
cùng phong phú. Về hoàn cảnh có thể là những sự kiện: liên quan đến hành vi của con người (tham gia
giao thông, gây thương tích cho người khác…); liên quan đến sự biến (sự sinh, tử…); liên quan đến thời
gian; liên quan đến không gian (phạm vi lãnh thổ áp dụng như miền núi hay đồng bằng…). Về điều kiện có
thể là: điều kiện về không gian (địa điểm xảy ra sự kiện như nơi tội phạm xảy ra…); điều kiện về chủ thể
(độ tuổi, giới tính, dân tộc…); và rất nhiều những điều kiện khác, tùy theo hoàn cảnh mà nhà nước quy
định về điều kiện đối với chủ thể.
Những hoàn cảnh, điều kiện được dự liệu trong phần giả định của các quy phạm pháp luật là những tình
huống đã, đang hoặc sẽ xảy ra trong cuộc sống.
Như vậy, phần giả định của quy phạm pháp luật trả lời cho câu hỏi: Tổ chức, cá nhân nào? Trong những
tình huống (hoàn cảnh, điều kiện) nào? Thông qua phần giả định của quy phạm pháp luật chúng ta biết
được tổ chức tổ chức, cá nhân nào? khi ở vào những hoàn cảnh, điều kiện nào? thì chịu sự tác động của lOMoAR cPSD| 58583460
quy phạm pháp luật đó. Việc xác định tổ chức, cá nhân nào và những hoàn cảnh, điều kiện nào để tác
động là phụ thuộc vào ý chí của nhà nước. 2.1.2. Quy định
Là một phần của quy phạm pháp luật nêu lên những cách xử sự mà các chủ thể có thể hoặc buộc phải
thực hiện gắn với những tình huống đã nêu ở phần giả định của quy phạm pháp luật. Tức là, khi xảy ra
những hoàn cảnh, điều kiện đã nêu ở phần giả định của quy phạm pháp luật thì nhà nước đưa ra những
chỉ dẫn có tính chất mệnh lệnh (các cách xử sự) để các chủ thể thực hiện.
Phần quy định là phần cốt lõi của quy phạm pháp luật, nó thể hiện ý chí của nhà nước đối với các tổ chức
hay cá nhân khi xảy ra những tình huống đã được nêu trong phần giả định của quy phạm pháp luật. Phần
quy định của quy phạm pháp luật thường được nêu ở dạng mệnh lệnh như: Cấm, không được, phải, thì,
có, được…Thông qua phần quy định của quy phạm pháp luật các chủ thể pháp luật mới biết được là nếu
như họ ở vào những tình huống đã nêu trong phần giả định của quy phạm pháp luật thì họ phải làm gì?
được (không được) làm gì? và thậm chí làm như thế nào?.
Ví dụ: "Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật" (Điều 57 Hiến pháp 1992). Phần
quy định của quy phạm này là: "có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật".
Hay tại Khoản 3 Điều 141 Luật doanh nghiệp 2005 quy định: "Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một
doanh nghiệp tư nhân". Phần quy định của quy phạm này là: "chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân".
Phần quy định của quy phạm pháp luật thường chỉ ra các quyền (lợi ích) mà các chủ thể được hưởng hoặc
các nghĩa vụ pháp lý mà họ phải thực hiện, mặc dù không phải khi nào thuật ngữ quyền và nghĩa vụ pháp
lý cũng trực tiếp thể hiện trong lời văn của quy phạm.
Như vậy, những mệnh lệnh của nhà nước được nêu trong phần quy định của quy phạm pháp luật đối với
các chủ thể có thể là:
+ Những cách xử sự (hành vi) mà chủ thể được phép hoặc không được phép thực hiện;
+ Những quyền và lợi ích mà chủ thể được hưởng;
+ Những cách xử sự (hành vi) mà chủ thể buộc phải thực hiện, thậm chí là phải thực hiện như thế nào? 2.1.3. Chế tài
Là một phần của quy phạm pháp luật chỉ ra các biện pháp mang tính chất trừng phạt mà các chủ thể có
thẩm quyền áp dụng quy phạm có thể áp dụng đối với các chủ thể vi phạm pháp luật, không thực hiện
đúng những mệnh lệnh đã được nêu trong phần quy định của quy phạm pháp luật. Do đó, chế tài là bộ
phận bảo đảm tính cưỡng chế của pháp luật trong thực tế. lOMoAR cPSD| 58583460
Phần chế tài của quy phạm pháp luật thường trả lời cho câu hỏi: Các chủ thể có thẩm quyền áp dụng quy
phạm có thể áp dụng những biện pháp nào đối với các chủ thể đã vi phạm pháp luật, không thực hiện
đúng những mệnh lệnh đã được nêu trong phần quy định của quy phạm pháp luật. Còn đối với các chủ
thể được nêu ở phần giả định của quy phạm pháp luật thì nhà nước gián tiếp thông báo hoặc cảnh báo
cho họ biết là nếu như họ ở vào những tình huống như đã nêu ở phần giả định của quy phạm pháp luật
thì họ phải chịu những hậu quả bất lợi, bị trừng phạt bằng những biện pháp gì?
Ví dụ: Khoản 1 Điều 100 Bộ luật Hình sự 1999 quy định: “Người nào đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp,
ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình làm người đó tự sát, thì bị phạt tù từ hai đến bảy năm”.
Phần giả định nêu chủ thể chịu sự tác động của quy phạm này là: “Người nào đối xử tàn ác, thường xuyên
ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình làm người đó tự sát”. Phần chế tài được chỉ dẫn
cho chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật đối với chủ thể đã thực hiện hành vi nêu ở phần giả định
của quy phạm này là: “phạt tù từ hai đến bảy năm”. Còn phần quy định đã không trực tiếp thể hiện trong
quy phạm pháp luật này. Tuy nhiên, với quy phạm pháp luật này thì phần quy định được hiểu là: không
được đối xử tàn ác, không được thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình làm
cho người lệ thuộc mình tự sát.
Hay "Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông
đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người
khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm
hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm". (Điều 202 Bộ luật hình sự 1999). Phần chế tài ở quy phạm này là:
"bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt
tù từ sáu tháng đến ba năm".
Theo các ngành luật thì chế tài được chia thành: Chế tài hình sự, chế tài hành chính, chế tài kỷ luật, chế tài dân sự ...v.v.
2.2. Phương pháp diễn đạt quy phạm pháp luật
Để đảm bảo tính logic, chặt chẽ đòi hỏi các quy phạm pháp luật phải được trình bày theo một kết cấu là:
Nếu một tổ chức hay cá nhân nào đó ở vào những hoàn cảnh, điều kiện nhất định nào đó (giả định); thì
được phép hay buộc phải xử sự theo một cách thức nhất định (quy định); hoặc các chủ thể có thẩm quyền
có thể sẽ áp dụng những biện pháp cưỡng chế nào đối với các chủ thể vi phạm pháp luật (phần chế tài)
Quy phạm pháp luật được thể hiện thành các điều luật trong các văn bản quy phạm pháp luật, quy phạm
pháp luật là nội dung, còn điều luật là hình thức biểu hiện của các quy phạm pháp luật. Trong nhiều trường
hợp quy phạm pháp luật trùng với các điều luật. Nhưng cũng không ít trường hợp, trong một điều luật
của văn bản, bao gồm một số quy phạm pháp luật khác nhau cùng điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lOMoAR cPSD| 58583460
một lĩnh vực nhất định. Có ba phương pháp diễn đạt quy phạm pháp luật thành các điều luật trong các
văn bản quy phạm pháp luật: phương pháp diễn đạt trực tiếp; phương pháp diễn đạt tham khảo; phương
pháp diễn đạt theo mẫu.
Phương pháp diễn đạt trực tiếp, theo phương pháp này, trong một điều luật trình bày (diễn đạt) một quy
phạm pháp luật trọn vẹn, có đủ các yếu tố: giả định, quy định, chế tài. Phương pháp này có ưu điểm là dễ
hiểu, dễ vận dụng, phù hợp với trình độ dân trí chưa cao. Nhưng có nhược điểm là thường lặp đi lặp lại
nhiều lần một nội dung nào đó.
Phương pháp diễn đạt tham khảo, theo phương pháp này, tại một điều luật, chỉ trình bày một hoặc hai bộ
phận của quy phạm pháp luật, phần còn lại phải tham khảo ở một điều luật khác. Ưu điểm của phương
pháp này là khắc phục được nhược điểm của phương pháp trên, khắc phục được sự trùng lặp. Nhưng
nhược điểm là khó vận dụng, đòi hỏi trình độ dân trí cao.
Phương pháp diễn đạt theo bản mẫu, là phương pháp diễn đạt ở một điều luật chỉ trình bày một vài bộ
phận của quy phạm như ở phương pháp tham khảo, phần còn lại không giới thiệu ở một điều luật cụ thể
nào, mà chỉ đề ra một phương hướng chung để tham khảo ở một luật nào đó đang hiện hành (tham khảo
tại một văn bản quy phạm pháp luật khác).
Qua ba phương pháp diễn đạt trên, phương pháp nào là tốt nhất? Mỗi phương pháp đều có những ưu
điểm, nhược điểm của nó. Tùy theo tính chất của quan hệ xã hội do quy phạm pháp luật điều chỉnh, tùy
theo trình độ dân trí của dân cư mà các nhà làm luật chọn phương pháp thích hợp. Tuy nhiên, dù sử dụng
phương pháp nào cũng phải tuân theo một yêu cầu chung là phải diễn đạt chính xác, rõ ràng, dễ hiểu, dễ
vận dụng. Cần phải diễn đạt sao cho cùng một vấn đề mà mọi người đều hiểu thống nhất, vận dụng thống
nhất. Không thể có một quy định của quy phạm pháp luật mà hiểu nhiều cách khác nhau.
4. Vai trò của quy phạm pháp luật
Quy phạm pháp luật là yếu tố đầu tiên, cơ bản trong cơ chế điều chỉnh pháp luật và xây dựng hệ thống
pháp luật. Không có quy phạm pháp luật, không có thước đo, thì không thể có sự điều chỉnh pháp luật, và
do đó, không có cơ chế điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội. Thông qua quy phạm pháp luật
nhà nước quản lý xã hội. Quản lý xã hội, theo góc độ pháp lý, là việc nhà nước dùng quy phạm pháp luật
để điều chỉnh hành vi của các thành viên trong xã hội, sao cho khi họ tham gia các quan hệ xã hội phải xử
sự thống nhất theo một quy tắc chung, theo ý chí của nhà nước đã được thể hiện trong quy phạm pháp
luật. Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật. Quy phạm pháp luật được coi là “tế bào”
của hệ thống pháp luật, là yếu tố cơ bản để xây dựng hệ thống pháp luật của một nhà nước. Pháp luật của
một nhà nước là hệ thống các quy phạm pháp luật. lOMoAR cPSD| 58583460
Quy phạm pháp luật là cơ sở pháp lý đảm bảo sự hoạt động của Bộ máy nhà nước. Các cơ quan nhà nước
đều phải hoạt động trong phạm vi thẩm quyền được quy định cụ thể bằng những quy phạm pháp luật.
Các nhà chức trách, các nhân viên nhà nước phải dựa vào quy phạm pháp luật để thực thi công vụ của
mình. Có như vậy họ mới đủ lòng tin để thực hiện đúng chức trách một cách có hiệu quả.
Quy phạm pháp luật là cơ sở pháp lý đối với quyền tự do, quyền dân chủ của công dân, đối với hành vi
hợp pháp của con người trong xã hội. Các quy phạm pháp luật tác động lên con người trong quan hệ xã
hội trên hai mặt, tác động giáo dục tư tưởng và tác động pháp lý. Tác động giáo dục tư tưởng của quy
phạm pháp luật thể hiện tương tự như các biện pháp giáo dục tư tưởng khác. Khi con người biết được
những quy định của pháp luật về quyền tự do, quyền dân chủ thì trình độ nhận thức, trình độ văn hóa của
họ được nâng cao. Tác động pháp lý của quy phạm pháp luật tạo cho con người sự hiểu biết cần thiết về
pháp luật, đồng thời khẳng định những quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ. Để tạo cho con người có kiến
thức pháp luật và hiểu biết quyền và nghĩa vụ pháp lý, ngoài việc tiến hành trên ý thức, còn phải thông
qua sự điều chỉnh bằng pháp luật đối với quan hệ xã hội. Dựa vào quy phạm pháp luật, nhà nước có khả
năng bảo vệ các quan hệ xã hội đã có, tạo điều kiện cho các quan hệ xã hội mới phát sinh có điều kiện
phát triển, góp phần thanh toán, loại bỏ các quan hệ xã hội đối lập với xã hội mới. II. Quan hệ pháp luật
1. Khái niệm, đặc điểm 1.1. Khái niệm
Nhu cầu tồn tại và phát triển đã buộc con người phải liên kết với nhau thành những cộng đồng. Giữa các
thành viên của cộng đồng luôn nảy sinh những sự liên hệ về vật chất, về tinh thần với nhau và những mối
liên hệ này luôn có giới hạn nên người ta gọi chúng là các “quan hệ”. Những quan hệ xuất hiện trong quá
trình sản xuất và phân phối của cải vật chất, trong việc thoả mãn các nhu cầu văn hoá, tinh thần cũng như
trong việc bảo vệ lợi ích của xã hội thì được gọi là “quan hệ xã hội”.
Quan hệ xã hội tồn tại khách quan không lệ thuộc vào ý chí của con người. Tính khách quan của chúng thể
hiện ở chỗ con người sống trong xã hội không thể tự đặt mình ngoài những mối liên hệ xã hội đang tồn
tại. Xã hội không thể tồn tại thiếu con người và con người cũng không thể tồn tại ngoài xã hội. Tính tổ
chức của đời sống cộng đồng đòi hỏi các quan hệ xã hội phải được điều chỉnh. Điều này có thể thực hiện
được bằng cách đặt ra những quy tắc xử sự buộc mọi người phải tuân theo.
Quan hệ xã hội rất đa dạng và phong phú. Đó có thể là quan hệ gia đình, quan hệ lao động, quan hệ tài
sản…Tính đa dạng của quan hệ xã hội dẫn đến sự phong phú của các hình thức tác động đến chúng. Chúng
có thể là quy phạm pháp luật, quy phạm đạo đức, các tín đồ tôn giáo, phong tục tập quán v.v… Tuy nhiên,
hiệu quả tác động của mỗi loại quy phạm xã hội có sự khác nhau rất lớn. Trong hệ thống các quy phạm xã
hội, quy phạm pháp luật có vị trí đặc biệt quan trọng. Do vậy, có thể xác định quan hệ pháp luật là quan lOMoAR cPSD| 58583460
hệ xã hội được điều chỉnh bằng quy phạm pháp luật, làm cho các bên tham gia quan hệ đó có quyền và nghĩa vụ pháp lý
Như vậy, quan hệ pháp luật là những quan hệ xã hội được các qui phạm pháp luật điều chỉnh trong đó
quyền và nghĩa vụ của chủ thể được nhà nước quy định và bảo đảm thực hiện.
Quan hệ pháp luật là hình thức đặc biệt của quan hệ xã hội. Nó tồn tại trong hầu hết các lĩnh vực quan
trọng của đời sống xã hội và có liên hệ mật thiết với các loại hình quan hệ xã hội khác.
1.2. Đặc điểm của quan hệ pháp luật
Quan hệ pháp luật có những đặc điểm cơ bản sau đây: -
Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội có ý chí: Quan hệ pháp luật xuất hiện do ý chí của con người.
Cácquan hệ này không ngẫu nhiên hình thành mà phải qua hành vi có ý chí của một hoặc nhiều chủ thể.
Có những quan hệ pháp luật mà sự hình thành đòi hỏi thể hiện ý chí của hai bên tham gia. Chẳng hạn, hợp
đồng lao động (quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động); hợp đồng mua bán tài sản (quan
hệ giữa người bán tài sản và người mua tài sản).
Cũng có những loại quan hệ pháp luật mà sự hình thành trên cơ sở ý chí của nhà nước. Chẳng hạn, quan
hệ pháp luật hình sự hình thành không phải xuất phát từ ý chí của người phạm tội, mà xuất phát từ ý chí của nhà nước. -
Quan hệ pháp luật xuất hiện trên cơ sở các quy phạm pháp luật: Pháp luật điều chỉnh các quan hệ
xãhội, các quan hệ sản xuất bằng việc tác động trực tiếp vào quan hệ ý chí, biến các quan hệ ý chí đó thành
các quan hệ pháp luật, buộc các bên trong quan hệ ý chí đó có cách xử sự phù hợp với ý chí của của giai
cấp thống trị thể hiện trong pháp luật. Do đó, việc lựa chọn quan hệ xã hội nào để điều chỉnh bằng pháp
luật phụ thuộc vào ý chí nhà nước.
Ví dụ: Hành vi tạo ra, lan truyền và phát tán các chương trình virus tin học nhưng nếu như hành vi đó được
thực hiện trước khi Bộ luật hình sự 1999 có hiệu lực (trước 1/7/2000) thì không bị coi là tội phạm. Nhưng
cũng chính hành vi đó mà thực hiện sau ngày Bộ luật hình sự 1999 có hiệu lực (từ 1/7/2000) thì hành vi
đó bị xem là phạm vào tội "tạo ra, lan truyền và phát tán các chương trình virus tin học " được quy định
tại Điều 224 Bộ luật hình sự 1999. Do đó, hành vi đó bị xem là tội phạm khi nó được điều chỉnh bởi quy
phạm pháp luật như đã nêu.
Một ví dụ khác, ở nước ta hoạt động mại dâm bị pháp luật nghiêm cấm, mọi hành vi vi phạm đều bị nghiêm
trị. Tuy nhiên, ở một số nước tư bản (Thái Lan, Hà Lan…) hoạt động này được xem như một nghề được
pháp luật công nhận và bảo vệ. Hay quan hệ giữa hai người đàn ông cùng chung sống với nhau, cùng sinh
hoạt bằng những thu nhập có được là một dạng quan hệ bạn bè, thuộc phạm trù đạo đức. Nhưng ở một lOMoAR cPSD| 58583460
số nước tư bản, khi pháp luật cho phép có hôn nhân giữa người cùng giới tính thì quan hệ như vậy lại trở
thành quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình. -
Nội dung của quan hệ pháp luật luôn được cấu thành bởi các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các
bêntham gia quan hệ pháp luật. Các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia quan hệ pháp luật
có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Thông thường, quyền của bên này lại là nghĩa vụ của mỗi bên khác và
ngược lại. Vì vậy, việc thực hiện nghĩa vụ của một bên là sự đảm bảo cho việc thực hiện quyền của một bên khác.
Ví dụ: Trong quan hệ hợp đồng mua – bán tài sản bên bán có nghĩa vụ chuyển giao tài sản và có quyền
nhận một khoản tiền theo sự thoả thuận, còn bên mua có nghĩa vụ chuyển giao khoản tiền nói trên và có
quyền được nhận tài sản. Trong mối quan hệ này, chúng ta thấy việc thực hiện nghĩa vụ của một bên là
việc thực hiện quyền của bên khác và ngược lại. -
Việc thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia quan hệ pháp luật được đảm bảo
bằngsự cưỡng chế nhà nước. Đặc điểm này thể hiện ở chỗ nếu các bên tham gia quan hệ pháp luật không
tự giác thực hiện nghĩa vụ của mình Nhà nước có thể dùng biện pháp cưỡng chế thực hiện. Các cá nhân
hay tổ chức vi phạm pháp luật thì phải gánh chịu các trách nhiệm pháp lý thể hiện trong các chế tài pháp luật.
2. Phân loại quan hệ pháp luật
Sự đa dạng và phong phú của quan hệ xã hội cũng như các quy phạm pháp luật điều chỉnh chúng dẫn đến
sự hình thành các quan hệ pháp luật khác nhau. Việc phân loại các quan hệ pháp luật được tiến hành dựa
theo nhiều căn cứ khác nhau. -
Căn cứ vào đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh, chúng ta có thể phân chia các quan
hệpháp luật theo các ngành luật thành quan hệ pháp luật hình sự, quan hệ pháp luật dân sự, quan hệ
pháp luật hành chính, quan hệ pháp luật kinh tế…cách phân loại này phổ biến và được thừa nhận rộng
rãi. - Căn cứ vào tính chất độc lập của các quyền của chủ thể tham gia quan hệ pháp luật ta có thể phân
chia các quan hệ pháp luật thành quan hệ pháp luật tuyệt đối và quan hệ pháp luật tương đối -
Căn cứ vào việc thực hiện nghĩa vụ trong quan hệ pháp luật là đơn phương hay song phương người
tacó chia quan hệ pháp luật thành quan hệ pháp luật đơn vụ và pháp luật song vụ -
Căn cứ vào tính chất tác động của quy phạm pháp luật trong mỗi quan hệ pháp luật người ta chia
quanhệ pháp luật thành quan hệ pháp luật điều chỉnh và quan hệ pháp luật bảo vệ.
2. Các yếu tố cấu thành của quan hệ pháp luật.
Mỗi quan hệ pháp luật được cấu thành bởi 3 yếu tố đó là: - Chủ thể, lOMoAR cPSD| 58583460 - Khách thể
- Nội dung của quan hệ pháp luật.
2.1. Chủ thể của quan hệ pháp luật.
2.1.1. Khái niệm chủ thể quan hệ pháp luật.
Chủ thể quan hệ pháp luật là những cá nhân hay tổ chức dựa trên cơ sở của các quy phạm pháp luật mà
tham gia vào các quan hệ pháp luật, trở thành người mang các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể. Các tổ
chức, cá nhân hoặc các chủ thể khác thỏa mãn những điều kiện theo quy định của pháp luật cho mỗi loại
quan hệ thì có thể trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật đó. Khi các chủ thể có đủ những điều kiện
theo quy định của pháp luật cho mỗi loại quan hệ thì được coi là có năng lực chủ thể (tư cách chủ thể).
Năng lực chủ thể bao gồm: Năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
Năng lực pháp luật là khả năng có quyền và nghĩa vụ pháp lý được nhà nước quy định cho các tổ chức, cá
nhân nhất định. Năng lực pháp luật có thể được coi là phần tối thiểu trong năng lực chủ thể của cá nhân và pháp nhân.
Với năng lực pháp luật, các chủ thể chỉ tham gia thụ động vào các quan hệ pháp luật hoặc được pháp luật
bảo vệ trong các quan hệ nhất định. Tính thụ động của chủ thể ở chỗ là không tự tạo ra được cho mình
các quyền và nghĩa vụ pháp lý. Các quyền và nghĩa vụ pháp lý mà họ có được trong mối quan hệ pháp luật
cụ thể là do ý chí của nhà nước, ý chí của người thứ ba.
Ví dụ: Một đứa trẻ được thừa kế khi bố, mẹ chết. Quan hệ thừa kế này phát sinh do ý chí của người để lại
thừa kế (nếu có di chúc) hoặc theo ý chí của nhà nước (nếu không có di chúc). Trong quan hệ thừa kế này
thì đứa trẻ là chủ thể có năng lực pháp luật và nhà nước bảo vệ các quyền hợp pháp của đứa trẻ này.
Năng lực hành vi là khả năng mà nhà nước thừa nhận cho tổ chức, cá nhân bằng những hành vi của chính
bản thân mình có thể xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý. Đây được coi là phần quan trọng
đối với các hoạt động tích cực của chủ thể quan hệ pháp luật. Tổ chức hoặc cá nhân có năng lực hành vi
sẽ được tham gia với tư cách là chủ thể quan hệ pháp luật, bằng hành vi của mình có thể độc lập xác lập
và thực hiện các quyền, nghĩa vụ pháp lý cũng như độc lập chịu trách nhiệm về những hành vi của mình.
Năng lực pháp luật và năng lực hành vi là những thuộc tính không tách rời của mỗi cá nhân nhưng không
phải là những thuộc tính tự nhiên, không phải sẵn có khi người đó sinh ra mà là những thuộc tính pháp lý.
Chúng đều do nhà nước thừa nhận cho mỗi tổ chức hoặc cá nhân. Chỉ thông qua quy phạm pháp luật mới
biết được tổ chức, cá nhân nào có năng lực chủ thể pháp luật để tham gia vào những quan hệ pháp luật nhất định.
Đối với cá nhân, năng lực pháp luật xuất hiện kể từ cá nhân sinh ra và chỉ mất đi khi người đó chết. Trong
một số lĩnh vực, năng lực pháp luật được mở rộng dần từng bước phụ thuộc vào sự phát triển về thể lực lOMoAR cPSD| 58583460
và trí lực của cá nhân. Sự mở rộng dần năng lực pháp luật của chủ thể căn cứ vào độ tuổi. Dĩ nhiên, độ
tuổi không phải là tiêu chuẩn chính xác tuyệt đối để xác định lý trí, khả năng nhận thức của chủ thể. Song
dù sao độ tuổi phản ánh ở một mức độ cao những điều kiện tâm - sinh lý của chủ thể. Vì vậy pháp luật
nước ta cũng như pháp luật của các nước lấy độ tuổi làm tiêu chí xác định năng lực pháp luật và năng lực
hành vi. Trẻ em ít tuổi, những người mất trí không được nhà nước cho phép tham gia vào những quan hệ pháp luật quan trọng.
Trong một số trường hợp, thông qua các cơ quan có thẩm quyền nhà nước có thể tước quyền tham gia
vào một số quan hệ pháp luật, hạn chế năng lực pháp luật của một tổ chức, cá nhân nào đó.
Khác với năng lực pháp luật, năng lực hành vi chỉ xuất hiện khi cá nhân đã đến độ tuổi nhất định và đạt
được những điều kiện nhất định. Phần lớn pháp luật các nước đều lấy độ tuổi 18 và tiêu chuẩn lý trí (khả
năng nhận thức được hậu quả của việc mình làm) làm điều kiện công nhận năng lực hành vi cho chủ thể
của đa số các nhóm quan hệ pháp luật. Tuy nhiên, đó không phải là những điều kiện duy nhất và thống
nhất cho tất cả các loại quan hệ pháp luật. Mặt khác, năng lực hành vi ở mỗi nhóm quan hệ pháp luật khác
nhau xuất hiện ở công dân ở những độ tuổi khác nhau.
Ví dụ, Ở nước ta, năng lực kết hôn được pháp luật quy định là 20 tuổi (đối với nam), 18 tuổi (đối với nữ);
năng lực bầu cử (18 tuổi tròn). Nhưng năng lực hành vi trong quan hệ pháp luật lao động lại xuất hiện
sớm hơn (tuổi 16). Năng lực pháp luật hình sự cũng xuất hiện ở cá nhân vào độ tuổi 16. Việc xuất hiện
năng lực hành vi ở các chủ thể của mỗi loại quan hệ pháp luật khác nhau phụ thuộc vào tính chất và đặc
điểm của loại quan hệ xã hội mà pháp luật điều chỉnh.
Năng lực pháp luật và năng lực hành vi tạo thành năng lực chủ thể pháp luật. Vì thế, chúng có mối liên hệ
chặt chẽ với nhau. Một chủ thể pháp luật chỉ đơn thuần có năng lực pháp luật thì không thể tham gia tích
cực vào các quan hệ pháp luật, tức không thể tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ chủ thể. Ngược
lại, năng lực pháp luật là tiền đề của năng lực hành vi. Không thể có chủ thể quan hệ pháp luật không có
năng lực pháp luật mà lại có năng lực hành vi. Giữa năng lực pháp luật và năng lực hành vi có giới hạn rõ
nét khi chủ thể quan hệ pháp luật là cá nhân vì trong trường hợp này sự xuất hiện năng lực hành vi của
chủ thể xảy ra muộn hơn so với năng lực pháp luật. Còn đối với chủ thể quan hệ pháp luật là pháp nhân
thì ranh giới này khó nhận thấy nếu không phân tích sâu sắc hoạt động của chủ thể. Năng lực pháp luật và
năng lực hành vi của pháp nhân xuất hiện cùng lúc, từ khi pháp nhân ra đời.
Năng lực hành vi của chủ thể quan hệ pháp luật có những biến dạng nhất định tùy theo tính chất của quan
hệ pháp luật mà chủ thể tham gia. Trong một số quan hệ pháp luật ở chủ thể có năng lực hành vi hạn chế
còn ở những quan hệ pháp luật khác thì chủ thể lại có năng lực hành vi từng phần. Năng lực hành vi đầy
đủ chỉ có ở những chủ thể đáp ứng đầy đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Việc xác định chủ thể nào lOMoAR cPSD| 58583460
có năng lực hành vi đầy đủ, năng lực hành vi hạn chế hay năng lực hành vi từng phần không thể thống
nhất cho mọi quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh. Điều này hoàn toàn tùy thuộc vào các đặc điểm
của mỗi ngành luật, chế định luật.
Ví dụ, Điều 22 Bộ luật dân sự Việt Nam quy định về mất năng lực hành vi dân sự của một cá nhân: "Khi
một người bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi
của mình thì theo yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố mất năng
lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định". Và Điều 23 quy định về hạn chế năng lực
hành vi dân sự cá nhân thì:"Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản
của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố
là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự".
Năng lực chủ thể pháp luật là hình thức thể hiện địa vị pháp lý của cá nhân và tổ chức trong xã hội.
2.1.2. Chủ thể là cá nhân
Chủ thể là cá nhân gồm có công dân, người nước ngoài và người không quốc tịch.
Công dân là chủ thể cá nhân phổ biến và chủ yếu của các quan hệ pháp luật. Công dân là chủ thể của quan
hệ pháp luật khi theo quy định của pháp luật họ có năng lực chủ thể (năng lực pháp luật và năng lực hành
vi). Không ai ngoài những cơ quan nhà nước có thẩm quyền và trong những điều kiện, trình tự nghiêm
ngặt do pháp luật quy định, mới có thể hạn chế năng lực chủ thể của công dân. Công dân là chủ thể của
hầu hết các ngành luật.
Người nước ngoài và người không quốc tịch có thể trở thành chủ thể quan hệ pháp luật theo các điều kiện
áp dụng đối với công dân. Tuy nhiên, trong một số lĩnh vực nhất định, năng lực chủ thể của người nước
ngoài và người không quốc tịch bị hạn chế.
2.1.3. Chủ thể là pháp nhân
Pháp nhân là tổ chức được nhà nước thừa nhận là chủ thể của quan hệ pháp luật. Pháp nhân là một thực
thể nhân tạo được các cá nhân hoặc nhà nước dựng lên. Dù được thành lập bởi các cá nhân hay bởi nhà
nước, pháp nhân vẫn tồn tại độc lập đối với những thực thể lập ra nó.
Trong đời sống pháp lý, kinh tế, pháp nhân đóng vai trò khá quan trọng. Chế định pháp nhân là hình thức
pháp lý chủ yếu của các hoạt động chung mà con người tiến hành: kinh doanh, quản lý; hoạt động công
ích; hoạt động nghiên cứu.v.v…
Pháp nhân chỉ xuất hiện khi được nhà nước cho phép, tức là được nhà nước thừa nhận hoặc thành lập.
Tuy nhiên, không phải tổ chức nào do nhà nước lập ra hoặc thừa nhận cũng có tư cách pháp nhân. Pháp
nhân là khái niệm pháp lý phản ánh địa vị pháp lý của một tổ chức. Theo điều 84 Bộ luật dân sự 2005, một
tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau: lOMoAR cPSD| 58583460
1. Được thành lập hợp pháp. Tức là, tổ chức đó phải do nhà nước thành lập, thừa nhận hoặc cho
phépthành lập và phải có tên gọi riêng.
2. Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Cơ cấu tổ chức thống nhất của pháp pháp nhân thể hiện sự tồn tại của
cơquan lãnh đạo và các bộ phận cấu thành của nó có mối liên hệ tổ chức chặt chẽ.
3. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó. Tài sản riêng là cơsở
vật chất cho hoạt động của một tổ chức. Bằng tài sản riêng, pháp nhân thực hiện các quyền và nghĩa vụ tài sản của mình.
4. Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Cũng như các cá nhân (công dân, người nước ngoài, người không quốc tịch), pháp nhân là chủ thể quan
hệ pháp luật. Tuy nhiên, pháp nhân không tham gia tất cả các loại quan hệ pháp luật. Căn cứ vào tính chất,
đặc điểm và nội dung của mình, mỗi nhóm quan hệ pháp luật chỉ thừa nhận một cơ cấu chủ thể nhất định.
Pháp nhân không thể là chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự, quan hệ hôn nhân. Như các cá nhân, pháp
nhân cũng mang quốc tịch của một quốc gia nhất định.
Theo điều 75, 76 Bộ luật dân sự 2015 các loại pháp nhân bao gồm:
- Pháp nhân thương mại: Các loại hính doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác
- Pháp nhân phi thương mại: bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị,
tổchức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, doanh nghiệp xã hội và các tổ chức phi thương mại khác
Ngoài các thực thể nhân tạo là pháp nhân, còn có những thực thể nhân tạo khác tuy không phải là pháp
nhân song vẫn là các chủ thể của quan hệ pháp luật như các doanh nghiệp tư nhân, các thành viên của
một công ty… Những chủ thể này khi tham gia các quan hệ pháp luật thường phải tuân theo một số điều kiện chặt chẽ hơn.
2.2. Nội dung của quan hệ pháp luật
Một trong những cấu thành cơ bản của quan hệ pháp luật là nội dung của nó. Nội dung của quan hệ pháp
luật bao gồm quyền và nghĩa vụ chủ thể. - Quyền chủ thể
Quyền chủ thể là cách xử sự mà pháp luật cho phép chủ thể được tiến hành. Nói cách khác, quyền chủ
thể là khả năng của chủ thể xử sự theo cách thức nhất định được pháp luật cho phép. Nói là khả năng có
nghĩa là chủ thể có thể lựa chọn giữa việc sử sự theo cách thức mà nó được phép tiến hành hoặc không xử sự như vậy.
Ví dụ: Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo. Họ có thể thực hiện việc đó song cũng có thể không nếu xét
thấy không có lợi cho mình. lOMoAR cPSD| 58583460
Quyền chủ thể có những đặc tính sau:
+ Khả năng của chủ thể xử sự theo cách thức nhất định mà pháp luật cho phép.
+ Khả năng yêu cầu các chủ thể khác chấm dứt các hành động cản trở nó thực hiện quyền và nghĩa vụ hoạc
yêu cầu chúng tôn trọng các nghĩa vụ tương ứng phát sinh từ quyền và nghĩa vụ này.
+ Khả năng của chủ thể yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ lợi ích của mình. - Nghĩa vụ chủ thể
Nghĩa vụ chủ thể là cách xử sự mà nhà nước bắt buộc chủ thể phải tiến hành nhằm đáp ứng việc thực hiện
quyền của chủ thể khác.
Nghĩa vụ pháp lý bao gồm những sự cần thiết phải xử sự như sau:
+ Cần phải tiến hành một số hoạt động nhất định.
+ Cần kiềm chế không thực hiện một số hoạt động nhất định.
+ Cần phải chịu trách nhiệm pháp lý khi xử sự không đúng với những quy định của pháp luật.
Quyền và nghĩa vụ chủ thể là hai hiện tượng pháp lý không thể thiếu trong một quan hệ pháp luật cụ thể.
Không có quyền nằm ngoài mối liên hệ với nghĩa vụ và ngược lại không có nghĩa vụ pháp lý nằm ngoài mối
liên hệ với quyền chủ thể.
Trong quan hệ pháp luật, quyền và nghĩa vụ chủ thể luôn thống nhất, phù hợp với nhau. Nội dung, số
lượng và các biện pháp bảo đảm thực hiện chúng đều do nhà nước quy định hoặc do các bên xác lập trên
cơ sở các quy định đó.
2.3. Khách thể quan hệ pháp luật
Cá nhân, tổ chức khi tham gia vào một quan hệ pháp luật nào đó đều nhằm thoả mãn những nhu cầu nhất
định về vật chất, chính trị, văn hoá, tinh thần. Có thể đó là những lợi ích vật chất, hoặc các lợi ích phi vật
chất, cũng có thể là các nhu cầu về hoạt động chính trị, xã hội.
Tuy nhiên, nhà nước với mục đích bảo vệ lợi ích của mỗi cá nhân và xã hội nên trong quy phạm pháp luật
cũng xác định rõ một số lợi ích vật chất, tinh thần mà các chủ thể không được phép thực hiện dưới bất cứ
hình thức nào, ngoại trừ những trường hợp mà pháp luật cho phép.
Có thể hiểu khách thể của quan hệ pháp luật là những lợi ích vật chất, tinh thần và những lợi ích xã hội
khác có thể thoả mãn những nhu cầu, đòi hỏi của các tổ chức hoặc cá nhân khi họ tham gia vào quan hệ
pháp luật, nghĩa là vì chúng mà họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ chủ thể của mình.
Khách thể là cái thúc đẩy các tổ chức hoặc cá nhân tham gia vào quan hệ pháp luật. Khách thể của quan
hệ pháp luật cần được phân biệt với đối tượng điều chỉnh của pháp luật là những quan hệ xã hội mà pháp luật tác động đến. lOMoAR cPSD| 58583460
Ví dụ: Trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa khách thể quan hệ pháp luật hợp đồng không phải là hàng
hóa mà là sự vận chuyển hàng hóa. Hay trong quan hệ tranh chấp về quyền tác giả của một sản phẩm lao
động sáng tạo thì khách thể quan hệ pháp luật là quyền tác giả.
Khách thể của quan hệ pháp luật nêu lên vị trí, ý nghĩa của quan hệ pháp luật được pháp luật bảo vệ. Thái
độ xử lý của nhà nước có căn cứ vào khách thể của quan hệ pháp luật khi một quan hệ pháp luật bị xâm hại.
3. Sự kiện pháp lý
3.1. Khái niệm sự kiện pháp lý
Một quan hệ xã hội chỉ có thể trở thành một quan hệ pháp luật khi được một quy phạm pháp luật điều
chỉnh. Dó đó, để có các quan hệ pháp luật đương nhiên phải có các quy phạm pháp luật phù hợp. Nhưng
nếu chỉ có các quy phạm pháp luật thì cũng chưa thể làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một quan hệ
pháp luật cụ thể. Mỗi quy phạm pháp luật, do đặc điểm của nó, chỉ mới nêu lên những tình huống chung,
những điều kiện chung mà thôi. Một quan hệ pháp luật cụ thể chỉ phát sinh, thay đổi, chấm dứt khi xảy ra
những sự việc cụ thể trong đời sống, phù hợp với những điều kiện, hoàn cảnh mà một quy phạm pháp
luật đã giả định trước. Khoa học pháp lý gọi đó là các sự kiện pháp lý.
Vậy, sự kiện pháp lý là những sự kiện thực tế mà sự xuất hiện hay mất đi của chúng được pháp luật gắn
với việc hình thành, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật.
Thực chất, sự kiện pháp lý là những sự kiện trong số các sự kiện xảy ra trong thực tế. Sự khác nhau giữa
sự kiện pháp lý với các sự kiện thực tế khác là ý nghĩa của chúng đối với pháp luật. Điều này có nghĩa là có
những sự kiện thực tế không có ý nghĩa gì lắm đối với pháp luật (như mây, gió, nói chuyện…) nhưng cũng
có những sự kiện có ý nghĩa lớn đối với pháp luật như lũ lụt, động đất, cái chết của một người, việc giao kết hợp đồng…
Sự kiện thực tế chỉ trở thành sự kiện pháp lý chỉ khi nào pháp luật xác định rõ điều đó. Mỗi nhà nước có
những quy định khác nhau về sự kiện pháp lý. Việc thừa nhận một sự kiện thực tế là sự kiện pháp lý xuất
phát từ lợi ích của xã hội và của giai cấp cầm quyền trong xã hội.
3.2. Phân loại sự kiện pháp lý
Sự kiện pháp lý trong xã hội rất đa dạng. Nó được phân loại theo nhiều cơ sở khác nhau song phổ biến
nhất là theo tiêu chuẩn ý chí. Với tiêu chuẩn này sự kiện pháp lý được chia thành sự biến và hành vi. - Sự
biến là những hiện tượng tự nhiên mà trong những trường hợp nhất định, pháp luật gắn việc xuất hiện
của chúng với sự hình thành ở các chủ thể quyền và nghĩa vụ pháp lý. Ví dụ, một vụ tai nạn, những biến
cố trong thiên nhiên cũng làm phát sinh các quan hệ pháp luật về bảo hiểm. lOMoAR cPSD| 58583460
- Hành vi (hành động hoặc không hành động) là những sự kiện xảy ra theo ý chí của con người, là hình
thức biểu thị ý chí của chủ thể pháp luật. Hành động là cách xử sự chủ động còn không hành động là cách
xử sự thụ động của chủ thể. Sự hành động và không hành động đều có thể trở thành sự kiện pháp lý. Việc
kết hôn, việc ký kết hợp đồng…là những hành động. Sự im lặng (trong hợp đồng dân sự); sự bỏ mặc (Điều
107 Bộ lụât hình sự) là những hành vi không hành động.
Hành vi được chia thành hành vi hợp pháp (phù hợp với pháp luật) và hành vi bất hợp pháp (trái với pháp
luật: như gây thương tích cho người khác, trộm cắp, trốn thuế….).
Nếu có một quy phạm pháp luật là có điều kiện cần thì sự kiện pháp lý là điều kiện đủ để áp dụng quy
phạm pháp luật cho một mối quan hệ xã hội để có một quan hệ pháp luật cụ thể. Dựa vào nội dung của
sự kiện pháp lý, người ta lựa chọn quy phạm pháp luật thích hợp để áp dụng, từ đó có một quan hệ pháp
luật cụ thể với những chủ thể, khách thể và nội dung cụ thể của các chủ thể trong đó.