lOMoARcPSD| 45469857
CHƢƠNG 4. QUẢN TRỊ LOGISTICS TRONG CHUỖI CUNG ỨNG
MỤC ĐÍCH VÀ YÊU CẦU
Sau khi nghiên cứu chương này, sinh viên cần nắm được:
- Các nội dung về hoạt động Logistics như: khái niệm, phân loại, các hoạt động
Logistics chức năng.
- Phân tích được các tình huống thực tế về Logistics
4.1. Khái niệm, vị trí, phân loại các hoạt động Logistics trong chuỗi cung ứng
4.1.1. Khái niệm, vị trí logistics trong chuỗi cung ứng:
4.1.1.1. Khái niệm logistics
Logistics là một thuật ngữ có nguồn gốc Hilạp - logistikos - phản ánh môn khoa học
nghiên cứu tính quy luật của các hoạt động cung ứng đảm bảo các yếu tố tổ chức, vật
chất và kỹ thuật (do vậy, một số từ điển định nghĩa là hậu cần) để cho quá trình chính yếu
được tiến hành đúng mục tiêu.
Công việc logistics hoàn toàn không phải lĩnh vực mới mẻ. Từ thủa xa xưa, sau
mùa thu hoạch người ta đã biết cách cất giữ lương thực để dùng cho những lúc giáp hạt.
lụa từ Trung Quốc đã tìm được đường đến với khắp nơi trên thế giới. Nhưng do giao
thông vận tải các hệ thống bảo quản chưa phát triển, nên các hoạt động giao thương
còn hạn chế. Thậm chí, ngày nay ở một vài nơi trên thế giới vẫn còn những cộng đồng sống
theo kiểu tự cung tự cấp, không trao đổi hàng hoá với bên ngoài. do chính
đó thiếu một hệ thống hậu cần phát triển hợp hiệu quả (lack of well-developed and
inexpensive logistics system). Theo từ điển Oxford t logistics trước tiên “Khoa
học của sự di chuyển, cung ứng duy trì c lực lượng quân đội các chiến trường”.
Napoleon đã từng định nghĩa: Hậu cần là hoạt động để duy trì lực lượng quân đội, nhưng
cũng chính do hoạt động hậu cần sơ sài đã dẫn đến sự thất bại của vị tướng tài ba này trên
đường tới Moscow đã căng hết mức đường dây cung ứng của nh. Cho đến nay, khái
niệm logistics đã mở rộng sang lĩnh vực kinh tế, mau chóng phát triển mang lại thành
công cho nhiều công ty và tập đoàn đa quốc gia nổi tiếng trên thế giới.
Logistics hiện đại (modern business logistics) là một môn khoa học ơng đối trẻ so
với những ngành chức năng truyền thống như marketing, tài chính, hay sản xuất. Cuốn
sách đầu tiên về logistics ra đời năm 1961, bằng tiếng Anh, với tựa đề
“Physical distribution management”, từ đó đến nay đã có nhiều định nghĩa khác nhau được
đưa ra để khái quát vlĩnh vực này, mỗi khái niệm thể hiện một góc độ tiếp cận nội
dung khác nhau.
lOMoARcPSD| 45469857
Trước những năm 1950 công việc logistics chỉ đơn thuần một hoạt động chức
năng đơn lẻ. Trong khi các lĩnh vực marketing quản trị sản xuất đã những chuyển
biến rất lớn lao thì vẫn chưa hình thành một quan điểm khoa học về quản trị logistics một
cách hiệu quả. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ và quản lý cuối thế kỷ
20 đã đưa logistics lên một tầm cao mới, thể gọi đó giai đoạn phục hưng của
logistics (logistical renaissance).
4.1.1.2. Vai trò của logistics
Quá trình sản xuất quá trình con người sử dụng liệu lao động để tác động vào
đối tượng lao động làm thay đổi hình dáng, ch thước, tính chất lý hcủa đối tượng lao
động để tạo ra những sản phẩm với chất lượng ngày càng cao, thoả mãn đầy đủ nhu cầu đa
dạng của con người, Qtrình sản xuất của doanh nghiệp luôn đòi hỏi phải c yếu tố
của sản xuất, trong đó có vật tư kỹ thuật. Thiếu vật tư thì không thể có hoạt động sản xuất
ra của cải vật chất. Khi vật đóng vai trò là liệu lao động bộ phận chủ yếu máy
móc thiết bị, thể hiện trình độ trang bị kỹ thuật cho sản xuất, thì nó là nhân tố cực kỳ quan
trọng để nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, tăng quy mô sản xuất, tạo điều
kiện sử dụng hợp sức lao động nguyên, nhiên vật liệu, tiết kiệm các yêu tố vật chất
trong sản xuất. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển
một phần phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật của sản xuất, sự nhanh chóng đổi mới công nghệ
và do đó phụ thuộc vào vật tư kỹ thuật với tư cách là tư liệu lao động.
Khi vật đóng vai trò đối tượng lao động chủ yếu nguyên vật liệu, vật sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm nguyên vật liệu và do đó đến hiệu
quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Nguyên vật liệu được bảo đảm đầy đủ,
đồng bộ, đúng chất lượng là điều kiện quyết định khả năng tái sản xuất mở rộng. Trong quá
trình sản xuất, nguyên vật liệu là bộ phận trực tiếp tạo nên sản phẩm, nó chiếm
60% đến 70% trong cơ cấu giá thành sản phẩm do đó nguyên vật liệu có vai trò quan trọng
trong việc giảm chi phí sản xuất kinh doanh và giá cả sản phẩm.
Từ vai trò trên đây của vật tư cho thấy ý nghĩa to lớn của hoạt động cung ứng vật tư
cho sản xuất, của hoạt động Logistics đầu vào ở doanh nghiệp. Việc bảo đảm vật đầy đủ,
đồng bộ, kịp thời điều kiện tiền đề cho sự liên tục của quá trình sản xuất, cho sự nhịp
nhàng đều đặn của quá trình sản xuất. Bất cứ một sự không đầy đủ, kịp thời và đồng bộ nào
của vật đều thể gây ra sự ngừng trệ sản xuất, gây ra sự vi phạm các quan hệ kinh tế
đã được thiết lập giữa các doanh nghiệp với nhau, gây ra sự tổn thất trong sản xuất kinh
doanh.
lOMoARcPSD| 45469857
Đảm bảo tốt vật cho sản xuất đáp ng c yêu cầu về slượng, chất ợng, đúng về
quy cách, chủng loại kịp về thời gian đồng bộ. Điều này ảnh hưởng đến năng suất của
doanh nghiệp, đến chất lượng sản phẩm, đến việc sử dụng hợp tiết kiệm vật tư, đến
tình hình tài chính của doanh nghiệp, đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và sự tồn tại, phát
triển của doanh nghiệp. Vai trò của quản trị hoạt động Logistics doanh nghiệp được thế
hiện:
(1) Dịch vụ Logistics góp phần nâng cao trình độ kỹ thuật của sản xuất, sử dụng
hợp lý và tiết kiệm các nguồn lực, giảm thiếu chi phí trong quá trình sản xuất, tăng cường
sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Chi phí Logistics chiếm tỷ trọng lớn, khoảng 21%
doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. gốc độ mô, chi phí cho hoạt động
Logistics chiếm khoảng 10 13% GDP ở các nước phát triển, ở các ớc đang phát triển thì
cao hơn, khoảng 15 20%. Với nguồn lực có giới hạn, Logistics luôn được các quốc gia trên
thế giới đặc biệt quan tâm nghiên cứu, phát triển và ứng dụng.
(2) Dịch vụ Logistics đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm yếu tố đúng
thời gian, đúng địa điểm (JIT), nhờ đó đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra
theo nhịp độ đã định, góp phần nâng cao chất lượng hạ giá thành sản phẩm, sử dụng
hiệu quả vốn kinh doanh của các doanh nghiệp. Quá trình toàn cầu hóa kinh tế đã làm cho
hàng hóa sự vận động của chúng phong phú phức tạp hơn nhiều lần so với thời kỳ
trước đây, đòi hỏi sự quản chặt chẽ, đặt ra yêu cầu mới đối với dịch vụ vận tải giao
nhận. Đồng thời, để tránh hàng tồn kho, ứng dụng doanh nghiệp phải tính toán để lượng
hàng tồn kho luôn nhỏ nhất. Kết quhoạt động lưu thông nói chung hoạt động
Logistics nói riêng phải bảo đảm yêu cầu giao hàng đúng lúc, kịp thời, mặt khác phải bảo
đảm mục tiêu khống chế lượng hàng tồn kho mức tối thiểu. Sự phát triển mạnh mẽ của tin
học cho phép kết hợp chặt chẽ quá trình cung ứng, sản xuất, lưu kho hàng hóa, tiêu thụ với
vận tải giao nhận, làm cho cả quá trình này trở nên hiệu quả hơn, nhanh chóng hơn, nhưng
đồng thời cũng phức tạp hơn.
(3) Dịch vụ Logistics hỗ trợ nhà quản lý ra quyết định chính xác trong hoạt động
sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp luôn phải giải quyết nhiều bài toán khó về nguồn
nguyên liệu cung ng, số lượng thời điểm để bổ sung hiệu quả nguồn nguyên liệu,
phương tiện hành trình vận tải, địa điểm, thời gian giao nhận kho bãi chứa thành
phẩm, bán thành phẩm,... Để giải quyết những vấn đề này một cách hiệu quả không thể
thiếu vai trò của dịch vLogistics cho phép nhà quản kiểm soát ra quyết định
chính xác về các vấn đề nêu trên để giảm tối đa chi phí phát sinh, bảo đảm hiệu quả trong
hoạt động sản xuất kinh doanh.
lOMoARcPSD| 45469857
(4) Dịch vụ Logistics góp phần gia tăng giá trị kinh doanh của các doanh nghiệp
thông qua việc thực hiện các dịch vụ u thông bổ sung các dịch vụ tiếp tục quá trình sản
xuất trong khâu phân phối lưu thông. Logistics là loại hình dịch vụ có quy mô mở rộng và
phức tạp hơn nhiều so với hoạt động vận tải giao nhận thuần túy. Trước kia, người kinh
doanh dịch vụ vận tải giao nhận chỉ cung cấp cho khách hàng những dịch vụ đơn giản,
thuần túy và đon lẻ. Ngày nay, do sự phát triển của sản xuất, lưu thông, các chi tiết của một
sản phẩm thể do nhiều quốc gia cung ng ngược lại một loại sản phẩm của doanh
nghiệp thể tiêu thụ tại nhiều quốc gia, nhiều thị trường khác nhau, vậy dịch vụ
khách hàng yêu cầu từ các nhà phân phối, các doanh nghiệp kinh doanh vận tải giao nhận
phải đa dạng và rất phong phú. Người vận tải giao nhận ngày nay phải triển khai thực hiện
nhiều dịch vụ nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế ngày càng tăng của khách hàng. Họ trở thành
người cung cấp Logistics (Logistics service providers) Logistics đã góp phần làm gia
tăng giá trị kinh doanh của các doanh nghiệp Logistics.
4.1.2. Phân loại các hoạt động logistics trong chuỗi cung ứng
Thế kỷ 21, logistics đã phát triển mrộng sang nhiều lĩnh vực phạm vi khác nhau.
Dưới đây là một số cách phân loại thường gặp:
4.1.2.1. Theo phạm vi và mức độ quan trọng:
-Logistics kinh doanh (Bussiness logistics) là một phần của quá trình chuỗi cung
ứng, nhằm hoạch định thực thi và kiểm soát một cách hiệu quả và hiệu lực các dòng vận
động và dự trữ sản phẩm, dịch vụ và thông tin có liên quan từ các điểm khởi đầu đến
điểm tiêu dùng nhằm thoả mãn những yêu cầu của khách hàng.
-Logistics quân đội (Military Logistics) việc thiết kế phối hợp các phương
diện hỗ trợ và các thiết bị cho các chiến dịch và trận đánh của lực lượng quân đội. Đảm bảo
sự sẵn sàng, chính xác và hiệu quả cho các hoạt động này.
-Logistics sự kiện (Event logistics) tập hợp các hoạt động, các phương tiện vật
chất kỹ thuật con người cần thiết để tổ chức, sắp xếp lịch trình, nhằm triển khai các
nguồn lực cho một sự kiện được diễn ra hiệu quả và kết thúc tốt đẹp.
-Dịch vụ logistics (Service logistics) bao gồm các hoạt động thu nhận, lập chương
trình, quản trị các điều kiện sở vật chất/ tài sản, con người, vật liệu nhằm hỗ trợ
và duy trì cho các quá trình dịch vụ hoặc các hoạt động kinh doanh doanh
lOMoARcPSD| 45469857
4.1.2.2. Theo vị trí của các bên tham gia
- Logistics n thứ nhất (1PL- First Party Logistics): hoạt động
logistics do người chủ sở hữu sản phẩm/ hàng hoá tự mình tổ chức và thực hiện để đáp ứng
nhu cầu của bản thân doanh nghiệp.
- Logistics bên thứ hai (2PL -Second Party Logistics): chỉ hoạt động logistics
do người cung cấp dịch vụ logistics cho một hoạt động đơn lẻ trong chuỗi cung ứng để đáp
ứng nhu cầu của chủ hàng.
- Logistics n thứ ba (3PL - Third Party Logistics): người thay mặt chủ
hàng tổ chức thực hiện và quản lí các dịch vụ logistics cho từng bộ phận chức năng.
4.1.2.3. Theo quá trình nghiệp vụ (logistical operations) chia thành 3 nhóm cơ bản:
- Hoạt động mua ( Procurement) các hoạt động liên quan đến đến việc tạo
ra các sản phẩm nguyên vật liệu từ các nhà cung cấp bên ngoài. Mục tiêu chung của
mua là hỗ trợ các nhà sản xuất hoặc thương mại thực hiện tốt các hoạt động mua hàng với
chi phí thấp.
- Hoạt động hỗ trợ sản xuất ( Manufacturing support) tập trung vào hoạt
động quản trị dòng dự trữ một cách hiệu quả giữa các bước trong quá trình sản xuất. Hỗ trợ
sản xuất không trả lời câu hỏi phải sản xuất như thế nào i gì, khi nào đâu
sản phẩm sẽ được tạo ra.
- Hoạt động phân phối ra thị trường (Market distribution) liên quan đến viêc
cung cấp các dịch vụ khách hàng. Mục tiêu bản của phân phối hỗ trợ tạo ra doanh
thu qua việc cung cấp mức độ dịch vụ khách hàng mong đợi có tính chiến lược mức chi
phí thấp nhất.
4.1.2.4. Theo hướng vận động vật chất
- Logistic đầu vào ( Inbound logistics) Toàn bộ các hoạt động hỗ trợ dòng
nguyên liệu đầu vào từ nguồn cung cấp trực tiếp cho tới các tổ chức.
- Logistic đầu ra ( Outbound logistics) Toàn bộ các hoạt động hỗ trdòng sản
phẩm đầu ra cho tới tay khách hàng tại các tổ chức.
- Logistic ngược ( Logistics reverse) Bao gồm các dòng sản phẩm, hàng hóa
hỏng, kém chất lượng, dòng chu chuyển ngược của bao bì đi ngược chiều trong kênh
logistics.
4.1.2.5. Theo đối tượng hàng hóa
Các hoạt động logistics cụ thể gắn liền với đặc trưng vật chất của các loại sản phẩm.
Do đó các sản phẩm có tính chất, đặc điểm khác nhau đòi hỏi các hoạt động logistics
lOMoARcPSD| 45469857
không giống nhau. Điều này cho phép các ngành hàng khác nhau thể y dựng các
chương trình, các hoạt động đầu tư, hiện đại hóa hoạt động logistics theo đặc trưng riêng
của loại sản phẩm tùy vào mức độ chuyên môn hóa, hình thành nên c hoạt động logistics
đặc thù với các đối tượng hàng hóa khác nhau như:
-Logistic hàng tiêu dùng ngắn ngày
-Logistic ngành ô tô
-Logistic ngành hóa chất
-Logistic hàng điện tử
-Logistic ngành dầu khí
-……
4.2. Các hoạt động logistics chức năng
4.2.1. Dịch vụ khách hàng
4.2.1.1. Khái niệm
Hiện nay đang nhiều khái niệm khác nhau về dịch vkhách hàng (DVKH), tuy
nhiên, trong hầu hết các tổ chức, dịch vụ khách hàng thường được xem xét dưới 3 góc độ:
(1) một hoạt động hoặc một chức năng được quản lý, (2) những kết quả đạt được đánh giá
trên một số tiêu thức (chẳng hạn như khả năng thể cung cấp 98% lượng hàng đặt trong
vòng 24 giờ) hoặc (3) một phần của toàn bộ phương châm hoạt động của doanh nghiệp.
Nhìn chung, dịch vụ khách hàng thể được nhìn nhận như một quá trình giữa
người mua, người bán bên trung gian. Kết qủa quá trình này tạo ra những giá trị gia
tăng vào sản phẩm hoặc dịch vụ được trao đổi. Giá trị gia tăng này thể chtrong ngắn
hạn như trong các quá trình trao đổi đơn lẻ, nhưng cũng thể dài hạn như trong các mối
quan hệ hợp đồng lâu dài. Giá trị gia tăng cũng được chia sẻ cho các chủ thể tham gia quá
trình trao đổi, hay nói cách khác, các đơn vị tham gia này được hưởng một lượng giá trị
nhiều hơn trước quá trình trao đổi. Như vậy, nếu xét trên quan điểm một quá trình, dịch vụ
khách hàng góp phần nâng cao hiệu quả của quá trình trao đổi.
Theo quan điểm marketing về dịch vụ khách hàng, thì nhiệm vụ đặt ra đối với c
doanh nghiệp phải thu hút giữ được khách hàng. rất nhiều người nhấn mạnh tới
khía cạnh thu hút càng nhiều khách hàng mới càng tốt, nhưng lại ít chú ý tới khía cạnh giữ
khách hàng ở lại với doanh nghiệp. Đây chỉ là một cách nhìn hạn chế. Khẩu hiệu “mục tiêu
hàng đầu của doanh nghiệp là lợi nhuận” đã thay đổi. Mục tiêu của doanh nghiệp hiện nay
vẫn là lợi nhuận, nhưng trước đó doanh nghiệp cần phải thiết lập c chính sách về dịch vụ
lOMoARcPSD| 45469857
các chương trình m thỏa mãn u cầu của khách hàng đưa ra các chương trình đó
tới khách hàng một cách ít tốn kém nhất. Đó chính là dịch vụ khách hàng.
4.2.1.2. Phân loại dịch vụ khách hàng
a. Theo các giai đoạn trong quá trình giao dịch
Dịch vụ khách hàng chia thành 3 nhóm: Trước, trong và sau khi bán hàng.
- Trước khi bán : Gồm c dịch vụ về thông tin, giới thiệu, quảng cáo chào hàng, chuẩn
bị hàng hóa, bao bì, đóng gói hàng hóa theo yêu cầu của khách hàng, nhận đặt hàng trước,
ký kết các hợp đồng mua bán hàng hóa, triển lãm trưng bày, các hoạt động này thường tạo
ra môi trường thuận lợi cho giao dịch được thực hiện tốt.
- Trong khi bán: Gồm các hoạt động tác động trực tiếp tác động tới quá trình trao đổi
sản phẩm với khách hàng, như tính toán mức dự trữ, dịch vụ giới thiệu, tư vấn, hướng dẫn
khách hàng lựa chọn hàng hóa, thanh toán tiền hàng, đóng gói hàng hóa, lựa chọn phương
tiện vận chuyển, bốc xếp, vận chuyển, giao nhận….
- Sau khi bán: còn gọi là các dịch vụ hậu mãi bao gồm các loại dịch vđể hỗ trợ sản
phẩm sau khi khách hàng đã mua sản phẩm như lắp đặt hàng hóa tại nơi khách hàng yêu
cầu, hướng dẫn sử dụng thiết bị, vận hành máy móc, góp ý về các giải pháp kinh tế kỹ
thuật trong sử dụng vật hàng hóa, sửa chữa, bảo dưỡng, bán thay thế phụ tùng; Các
dịch vụ gia công, thay thế, mua lại hàng cũ, đổi hàng mới, tổ chức tái chế và chế biến hàng
hóa; hội nghị khách hàng; bảo hành; sửa chỉnh.
Cách phân loại này thường thích hợp với các doanh nghiệp thương mại, nơi quá trình
mua bán hoạt động chính yếu của loại hình này. b. Theo mức độ quan trọng của dịch
vụ khách hàng
- Dịch vụ khách hàng chính yếu nhóm những dịch vụ doanh nghiệp cung cấp
thường xuyên cho khách hàng, thường những dịch vụ doanh nghiệp ưu thế về
nguồn lực và mang lại nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Dịch vụ phụ nhóm những dịch vụ không được doanh nghiệp cung cấp thường
xuyên, hạn chế về nguồn lực, được sử dụng để tăng tính linh hoạt hơn nhằm vào lợi
nhuận trước mắt.
Kiểu phân loại y hay sử dụng tại các doanh nghiệp sản xuất nhằm thích nghi các
nguồn lực hữu hạn để tập trung cho quá trình sản xuất.
c. Theo đặc trưng tính chất
- Dịch vụ kỹ thuật (hoàn thiện sản phẩm) là loại dịch vụ đòi hỏi người thực hiện phải
kiến thức chuyên môn về tính chất vật lý, hóa học của hàng hóa, hiểu biết về công dụng,
lOMoARcPSD| 45469857
cách thức sử dụng, vận hành các sản phẩm n cho khách hàng. Bao gồm: Dịch vụ chuẩn
bị hàng hóa, phân loại, chọn lọc, ghép đồng bộ, đóng gói và gửi hàng; dịch vụ sửa chữa, tu
chỉnh, hiệu chỉnh, hoàn thiện máy móc thiết bị; dịch vụ lắp đặt, hướng dẫn sử dụng và vận
hành tại đơn vị sử dụng; Dịch vụ thay thế, phục hồi gía trị sử dụng; Dịch vụ kiểm tra kỹ
thuật, xác định chất lượng ký thuật và cố vấn kỹ thuật. Để hỗ trợ các dịch vụ này cần đến
các yếu tố cơ sở hạ tầng kỹ thuật như mặt bằng nhà xưởng, máy móc thiêt bị chuyên dùng,
nguyên vật liệu và phụ tùng phù hợp với đặc điểm tính chất của từng dịch vụ.
- Dịch vụ tổ chức kinh doanh như: dịch vụ gửi hàng hóa, ủy thác mua bán hàng
hóa, nhận bảo quản thuê hàng hóa, cho thuê kho hàng, quầy hàng, cửa hàng, các trang thiết
bị chuyên dùng chưa sử dụng hết công suất, môi giới giao nhận, vận chuyển; bốc dỡ thuê….
- Dịch vụ bốc xếp, vận chuyển và gửi hàng. Liên quan đến việc vận chuyển hàng hóa
đến nơi khách hàng u cầu. Để thực hiên các dịch vụ này doanh nghiệp có thể tổ chức các
đơn vị sản xuất bao bì, các nghiệp vận chuyển, đóng gói hàng hóa phù hợp vơi các loại
phương tiện vận chuyển, tổ chức các dịch vụ giao nhận, bốc xếp ng hóa từ phương tiện
vận chuyển xuống chất xếp hàng hóa lên phương tiện, gửi hàng đến đúng địa chỉ cho
khách hàng …
Ngoài ra có thể phân loại dịch vụ theo chủ thể thực hiện dịch vụ (thứ nhất, thứ hai,
thứ ba) hoặc theo địa điểm thực hiện dịch vụ (Tại doanh nghiệp dịch vụ hoặc tại nơi khách
hàng yêu cầu).Việc phân loại dịch vụ theo các tiêu thức khác nhau cho phép doanh nghiệp
có thể nhận thức được mức độ quan trọng và vị trí của dịch vụ trong việc thỏa mãn nhu cầu
khách hàng, từ đó có chính sách lựa chọn, đầu tư và phối hợp cung ứng dịch vụ khách
hàng phù hợp.
4.2.1.3. Thành phần dịch vụ khách hàng
a. Các yếu tố trước quá trình giao dịch: Các yếu tố này liên quan tới chính sách của
tổ chức về dịch vụ khách hàng, có thể tác động đáng kể tới quan niệm của khách hàng về
tổ chức cũng như sự thoả mãn của họ.
- Chính sách dịch vụ khách hàng: Chính sách dịch vụ khách hàng quy định
ràng về các tiêu chuẩn dịch vụ gắn với nhu cầu của khách hàng. Chính sách dịch vụ khách
hàng sở để theo dõi hoạt động dịch vụ, quy định tần số của các báo cáo hoạt động
thực tế và đảm bảo cho các dịch vụ khách hàng có thể đo được và có tính khả thi.
- Công bố chính sách dịch vụ cho khách hàng: Chính sách dịch vụ cho phép
khách hàng biết được các dịch vụ tiêu chuẩn thể có, tránh được các kỳ vọng không
hợp lý. Việc công bố chính sách dịch vụ giúp khách hàng biết được họ nên làm gì nếu như
các tiêu chuẩn dịch vụ không được đáp ứng.
lOMoARcPSD| 45469857
- Cấu trúc doanh nghiệp: Cấu trúc của tổ chức phải phù hợp để đảm bảo sự
thành công của các mục tiêu dịch vụ. Người quản về thương mại cần được đảm nhận
chức vụ cao và phải năm được các thông tin của doanh nghiệp. Cấu trúc của doanh nghiệp
phải hỗ trợ cả các luồng thông tin bên trong và bên ngoài, hỗ trợ các hoạt động và các hành
động mang tính điều chỉnh nếu cần thiết. Khách hàng cần được dễ dàng tiếp cận các nhân
viên trong tổ chức, người mà có thể thỏa mãn những nhu cầu của họ trả lời các câu hỏi
cần thiết. Nếu khách hàng có ấn tượng xấu về sản phẩm hay dịch vụ, họ sẽnhững hình
ảnh không tốt về doanh nghiệp.
- Mức độ linh hoạt của hệ thống: Mức độ linh hoạt kế hoạch thích ứng nên
được xây dựng trong hệ thông doanh nghiệp, cho phép doanh nghiệp có thể giải quyết một
cách hữu hiệu những tình huông không thể lường trước như thiếu nguyên vật liệu, thiên tại.
đ. Dịch vụ quản lý: Hỗ trợ khách hàng trong việc mua bán hàng, củng cố hoạt động quản
lý kho là những dịch vụ mà một doanh nghiệp có thể cung ứng cho khách hàng.
Những dịch vụ này thể cung ứng cho khách hàng dưới dang các khoá đào tạo,
các cuộc hội thảo khách hàng hay các vấn riêng lẻ. Các dịch vthể thu phí hoặc
miễn phí. Những quyết định trước khi mua ng thường tương đối n định, lâu dài, ít khi
thay đổi chịu ảnh lớn bởi các yếu tố trước quá trình giao dịch thông qua ảnh hưởng tới
kỳ vọng của khách hàng khi mua hàng.
b. Các yếu tố trong quá trình giao dịch.
- Mức độ tồn kho: Mức độ tồn kho thể hiện mức độ sẵn có các sản phẩm trước
yêu cầu của khách hàng. Mức độ tồn kho cần được theo dõi trên cơ sở sản phẩm và khách
hàng để tránh hiện tượng thừa thiếu hàng hoá thể xảy ra. Khi tình trạng hết hàng diễn
ra, doanh nghiệp cần nỗ lực duy trì sự thiện cảm của khách hàng bằng những thay đổi hợp
lý, như chuyển hàng tnơi khác đến cho khách hàng nếu như thể, hoặc chuyển hàng
ngay cho khách hàng ngay sau khi hàng được nhập.
- Thông tin về đơn hàng: Kỳ vọng của khách hàng về các thông tin liên quan
tới đơn hàng tăng lên nhanh chóng trong tình hình hiện nay, khi sự ra đời của các
phương tiện thông tin hiện đại đã làm cho quá trình trao đổi thông tin diễn ra nhanh chóng.
Những thông tin cần thiết thường tình hình dự trữ, tình hình xử đơn hàng, thời gian
đưa hàng lên phương tiện vận tải dự kiến. Theo dõi những thông tin này đối với khách hàng
rất cần thiết , khách hàng luôn muốn theo dõi những vấn đề thể xảy ra trong quá
trình giao hàng để có thể giải quyết các vấn đề phát sinh một cách kịp thời.
- Tính chính xác của hệ thống: Bên cạnh tính nhanh nhậy khi nắm bắt được các
luồng thông tin, khách hàng luôn đòi hỏi các thông tin họ cần phải chính xác. Các vấn đề
lOMoARcPSD| 45469857
phát sinh có thể gây tổn thất về chi phí cho khách hàng cũng như người cung cấp, làm mất
thời gian giấy tờ. Vì vậy, những sai sót cần được ghi lại sửa chữa càng nhanh càng
tốt. Những vấn đề kéo dài cần phải quan tâm và khắc phục kịp thời.
- Sự nhất quán của chu kỳ đặt hàng: Chu kỳ đặt hàng tổng thời gian từ khi
khách hàng bắt đầu đặt hàng đến khi nhận hàng của khách. Như vậy, nếu người bán hàng
nhận được một đơn đặt hàng của khách giữ trong ng năm ngày trước khi nhập lệnh,
thì năm ngày đó cũng được cộng vào chu trình đặt hàng, mặc dù năm ngày này không được
biết tới bởi trung tâm phân phối. Thành phần của chu kỳ đặt hàng bao gồm: đặt hàng, nhập
lệnh đặt hàng, xử lý lệnh đặt, nhận lệnh của các bên liên quan và đưa hàng lên phương tiện
vận tải, thời gian vận chuyển, thời gian tiếp nhận. Khách hàng dường như quan tâm nhiều
hơn tới sự nhất quán của thời gian chu kỳ đặt hàng hơn thời gian đó kéo dài bao nhiều
lâu. Như vậy, điều cần thiết là phải có sự kiểm tra, kiếm soát các hoạt động bán hàng và có
các hành động cần thiết.
- Giao hàng đặc biệt: Đây là những lệnh đặt hàng không thể thực hiện theo các
hệ thống đặt hàng đơn thuần, vì nó cần được tiến hành hoặc có những yêu cầu về xếp hàng
đặc biệt. Chi phí cho xếp hàng đặc biệt này cao hơn chi phi bình thường. Tuy vậy, chi phí
của việc mất khách hàng thể còn cao hơn. Doanh nghiệp nên xác định những khách hàng
nào hoặc những tình huống nào nên thực hiện lệnh giao hàng đặc biệt.
- Chuyển tài: Sự chuyển tải liên quan tới di chuyển các hàng hoá giữa các địa
điểm khác nhau để tránh hết ng. Với những doanh nghiệp có nhiều địa điểm xếp dỡ ng
khác nhau, một số chính sách về chuyển tàu thể được đặt ra thay đặt hàng lại hoặc
phải chuyển hàng từ nơi khác đến.
- Sự thuận lợi của đơn đặt hàng: Sự thuận lợi của đơn đặt hàng được hiểu
khách hàng có dễ dàng đặt hàng hay không. Khách hàng thường quan tâm tới các nhà cung
cấp thân thiện. Nếu như các đơn đặt hàng quá phức tạp, những điều khoản không được tiêu
chuẩn hoá hoặc khách hàng phải đợi nhiều khi gọi điện thoại đến tkhách hàng thể
không hài lòng. Những trường hợp như vậy cần phải được giám sát và xác định qua liên hệ
trực tiếp với khách hàng. Trong một số trường hợp, doanh nghiệp cần làm việc với khách
hàng để phát triển một số phương án thay thế cần thiết thông báo kịp thời cho khách
hàng về những phương án này. Việc trao đổi với khách hàng cần được thực hiện trước khi
sử dụng các sản phẩm thay thế.
Các yếu tố trong quá trình trao đổi đóng vai trò quan trong đối với dịch vụ khách
hàng vì nó chính là bộ mặt tiếp của doanh nghiệp. Trong một cuộc điều tra tại 1300 doanh
lOMoARcPSD| 45469857
nghiệp, tới 80% người được hỏi trả lời rằng giao hàng cũng quan trọng như với chất
lượng sản phẩm.
c. Các yếu tố sau quá trình giao dịch
Các yếu tố sau quá trình giao dịch của dịch vụ khách hàng nhằm hỗ trcác sản phẩm
dịch vụ sau khi khách hàng đã nhận được. Trước đây, các thành phần này thường bị lãng
quên, bởi nó chỉ chiếm một phần rất nhnhững lời phàn nàn của khách hàng về chất
lượng phục vụ. Tuy vậy, việc duy trì và làm thoã mãn các khách hàng có thể đem lại nhiều
lợi ích hơn là tìm kiếm khách hàng mới.
Các yếu tố sau giao dịch gồm:
- Lắp đặt, bảo hành, sửa chữa và dịch vụ phụ tùng: Dịch vụ này rất quan trọng
trong hoạt động mua bán, đặc biệt mua bán các hàng hoá giá trị cao, khi chi phí
bảo hành sửa chữa nhiều khi lớn hơn chi phí mua.
- Kiểm định sản phẩm.
- Khiếu nại hoàn trả sản phẩm của khách hàng: Để giải quyết các khiếu nại
của khách hàng, một hthống thông tin cần được thiết lập nhằm xử các thông tin từ
khách hàng, giám sát các xu thế, cung cấp cho khách hàng những thông tin mới nhất. Quá
trình cung cấp cũng cần được thiết lập thích ứng với các yêu cầu khiếu nại và hoàn trả của
khách hàng nhằm giải quyết các khiếu nại một cách hiệu quả nhất.
- Thay thế sản phẩm: Tuỳ theo từng loại sản phẩm mà các sản phẩm dự trữ cần
được xác định. dụ, một số nhà cung cấp ô dịch vụ cho thuê ô không mất tiền
cho các khách hàng khi mà ô tô của họ bị hỏng. Dịch vụ như vậy làm giảm thiểu sự không
hài lòng của khách hàng. Vai trò của dịch vụ khách hàng trong việc tạo ra lợi thế cạnh tranh.
Dịch vụ khách hàng sản phẩm của các hoạt động thương mại cầu nối quan trọng
giữa chức năng thương mại với các chức năng khác của doanh nghiệp. Đặc biệt, dịch vụ
khách hàng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển duy trì lòng tin cũng như sự
thoả mãn cuả khách hàng. Thông thường, sản phẩm dịch vụ tương đối dễ dàng cho đối
thủ cạnh tranh bắt chước, vậy, một dịch vụ khách hàng hoàn hảo, một giải pháp giải
quyết các khiếu nại của khách hàng toàn diện sẽ giúp cho doanh nghiệp vượt lên đối th
cạnh tranh. Như vậy, dịch vụ khách ng đóng vai trò quan trọng trong xác định lợi thế
cạnh tranh của doanh nghiệp bằng cách đưa ra các dịch vụ khách hàng hoàn hảo.
4.2.1.4. Hoàn thiện hoạt động dịch vụ khách hàng
Chất lượng dịch vụ khách hàng thể được nâng cao thông qua những biện pháp:
(1) nghiên cứu nhu cầu của khách hàng, (2) thiết lập các mức độ dịch vụ khách hàng nhằm
lOMoARcPSD| 45469857
thoả mãn yêu cầu về doanh thu trên chi phí bra, (3) sử dụng công nghệ mới trong quá
trình xử lý thông tin, (4) đánh giá và đo lường mức độ hoạt động thương mại.
Chiến lược dịch vụ khách hàng có hiệu quả, nhất thiết phải dựa trên sự hiểu biết về
dịch vụ khách hàng. Những công cụ kiểm soát nội bộ và bên ngoài là rất cần thiết cho việc
đánh giá tìm ra những nhân tố quan trọng trong xây dựng chiến ợc, kế hoạch các
chương trình dịch vụ khách hàng.
Một khi doanh nghiệp đã xác định được quan điểm dịch vụ, thì doanh nghiệp một
mặt cần chọn chiến lược dịch vụ khách hàng phù hợp, thỏa mãn mục tiêu lâu dài của doanh
nghiệp về lợi nhuận, tỷ lệ thu hồi vốn hoặc các yêu cầu kinh doanh khác, mặt khác doanh
nghiệp cần xác định mức dịch vụ khách hàng tôi ưu. tối
Hệ thống xử lệnh đặt hàng một trong những lựa chọn hiện nay của các doanh
nghiệp khi muốn nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng trong công tác hậu cần. Nhiều
doanh nghiệp thay đổi và áp dụng công nghệ mới như tự động hoá trong công tác xử đơn
đặt hàng. ràng, tự động hoá thể nâng cao được chất lượng dịch vụ khách hàng, như
tăng khả năng đáp ứng, chính xác hoá đơn, giảm thiểu chi phí kho bãi và xử lý thông tin.
Sự phát triển các chương trình dịch vụ khách hàng đòi hỏi phải thiết lập các tiêu
chuẩn dịch vụ, và các tiêu chuẩn này phải đảm bảo:
- Phản ánh các quan điểm của khách hàng
- Cung cấp các tiêu chuẩn để đánh giá hoạt động và mục tiêu của dịch vụ
- Cung cấp cho lãnh đạo những phương án để giải quyết vấn đề kinh doanh.
Doanh nghiệp cũng cần đánh giá sự tác động của các hoạt động hậu cần cụ thể như
vận tải, kho bãi, quản lý kho, kế hoạch sản xuất, mua bán và xử lý đơn đặt hàng. Nhân viên
cần báo cáo thường xuyên các kết quả thu được cho các cấp quản lý, đồng thời các cấp
quản cũng cần phải so sánh thực tế hoạt động với các tiêu chuẩn để các biện pháp
điều chỉnh kịp thời.
Như vậy, thành công của doanh nghiệp không chỉ khâu bán sản phẩm, còn
trong các hoạt động dịch vụ tạo ra c giá trị gia tăng tạo ra các lợi thế cạnh tranh. Do
đó, hoạt động thương mại dịch vụ, một trong những thành tố quan trọng tạo nên khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp.
4.2.2. Hệ thống thông tin
4.2.2.1. Khái quát về công nghệ thông tin trong logistics
Công nghệ thông tin (CNTT) một thành phần quan trọng trong htầng mềm của
lĩnh vực Logistics với nhiều giá trị gia tăng. ng nghệ Logistics mới dựa trên sự phát triển
lOMoARcPSD| 45469857
nhanh chóng của tin học trong thập kỷ qua. Các công nghệ này đã được áp dụng triển
khai các doanh nghiệp Logistics trong hầu hết các lĩnh vực như: Dịch vụ khách hàng;
Kênh tiếp thị, Điều chỉnh thông tin; Hoạt động tài chính; Các liên minh chiến lược; Mua
sắm điện tử; Truyền thông; Quản lý nhân sự, Tin học hóa công việc của nhân viên thương
mại. Việc triển khai các công nghệ trong Logistics mang lại nhiều lợi ích như:
Tăng hiệu suất; Tăng lợi thế cạnh tranh; Tăng khả năng đáp ứng; Đảm bảo tuân thủ đáp
ứng nhu cầu phân tích báo cáo.
(*) Các công nghệ sử dụng trong Logistics:
Trên thế giới, các quốc gia như Singapore, Hồng Kông đã rất thành công trong việc
ứng dụng CNTT vào một số hoạt động: xử lý giao dịch, trao đổi dữ liệu, quản lý cảng biển,
sử dụng công nghệ trong xếp dỡ, giám sát, ...Các công nghệ đang trở nên phổ biến trong
hoạt động Logistics có thể kể đến là:
vạch (Barcode): Là công nghệ nhận dạng tự động thông dụng nhất. Tính nhất
quán của công nghệ y yếu tố quan trọng đối với năng suất hiệu quả. vạch lưu
dữ liệu theo chuỗi các thanh màu đen trắng song song với các chiều rộng và khoảng
cách khác nhau. Chúng thể được đọc bởi các máy quét quang học được gọi đầu đọc
mã vạch hoặc quét từ một hình ảnh bằng phần mềm đặc biệt.
Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI - Electronic Data Interchange): Trao đổi dữ liệu điện
tử EDI được hiểu "việc trao đổi điện tử của các tài liệu kinh doanh như đơn đặt hàng,
hóa đơn, ... từ máy tính của một tổ chức này tới tổ chức khác theo một định dạng chuẩn”.
EDI ra đời với mục tiêu giảm thiếu chi phí xvăn bản giấy tờ đạt được các lợi thế
cạnh tranh tạo ra bằng cách rút ngắn thời gian trong chu trình xử lý. Hình 9.1 tả quá
trình trao đổi dữ liệu bằng EDI so với các phương pháp truyền thống.
Công nghệ RFID (Radio Frequency Identification): RFID công nghệ nhận dạng
đối tượng bằng sóng vô tuyến. Công nghệ này cho phép nhận biết các đối tượng thông qua
hệ thống thu phát sóng radio, từ đó thể giám sát, quản hoặc u vết từng đối ợng.
RFID là một phương pháp nhận dạng tự động dựa trên việc lưu trữ dữ liệu từ xa, sừ dụng
thiết bị the RFID một đầu dọc RFID. Các hệ thống RFID thể được sử dụng mọi
Môi trƣ
ng
logistics
-
Ho
t
đ
ng
kinh doanh
-
Qu
n tr
logistics
-
Ho
t đ
ng
cs
logisti
H
th
ng thông tin logistics
H
th
ng
p k
ế
ho
ch
H
th
ng
nghiên c
u
và thu th
p
thông tin
H
th
ng
th
c thi
H
th
ng
báo cáo k
ế
t
u
q
Các ch
c
năng qu
n tr
logistics
-
L
p k
ế
ho
ch
-
Th
c thi
-
Ki
m soát
lOMoARcPSD| 45469857
nơi, từ thẻ gắn trên quần áo đến tên lửa, từ các thẻ trên vật nuôi cho đến thực phẩm - bất cứ
nơi đâu cần hệ thống nhận dạng duy nhất. Với ưu điểm về mặt công nghệ là sự bảo mật và
độ an toàn của các thiết bị, công nghệ RFID được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực như quản
lý bán hàng, quản lý kho, quản lý tài sản, kiểm soát ra vào, tổ chức sự kiện...
4.2.2.2. Hệ thống thông tin Logistics (Logistics Information System – LIS)
Hệ thống thông tin Logistics(LIS) được hiểu một cấu trúc tương tác giữa con người, thiết
bị, các phương pháp và quy trình nhằm cung cấp các thông tin thích hợp cho các nhà quản
trị logistics với mục tiêu lập kế hoạch, thực thi và kiểm soát logistics hiệu quả.
LIS giúp nắm vững thông tin về biến động của nhu cầu, thị trường nguồn cung ứng, giúp
cho các nhà quản trị chủ động được kế hoạch mua hàng, giao hàng, dự trữ, thuê dịch v
vận tải… một cách hợp lí thoả mãn yêu cầu của khách ng với mức chi phí thấp nhất. LIS
góp phần đảm bảo việc sử dụng linh hoạt các nguồn lực logistics, y dựng chương trình
logistics hiệu quả, chỉ thời gian, không gian phương pháp vận hành các chu kỳ hoạt
động trong logistics. Tại các doanh nghiệp phát triển, mô hình cấu trúc của LIS được
chuyên môn hóa theo một số hoạt động chủ đạo (hình 4.4)
Hình 4.4: Hệ thống thông tin Logistics
Hình cho thấy mối quan hệ trong hệ thống thông tin logistics bao gồm các yếu tố về môi
trường Logictisc, quá trình ra quyết định Logictisc, 4 hệ thống con chủ yếu cấu tạo nên hệ
thống thông tin Logictisc hệ thống hoạch định, hệ thống thực thi, hệ thống nghiên cứu
thu thập tin tức, hệ thống báo cáo kết quả. Các hệ thống đó sẽ phối hợp cung cấp cho
nhà quản logistics những thông tin chính xác kịp thời để lên kế hoạch, thực thi
điều chỉnh các hoạt động logistics của doanh nghiệp.
Hệ thống lập kế hoạch: Bao gồm một loạt các kỹ thuật liên quan đến việc thiết kế các kế
hoạch tầm chiến ợc như thiết kế mạng ới, lập kế hoạch dự đoán nhu cầu, phối hợp
các nguồn lực, kế hoạch hóa cung ứng, sắp xếp lên kế hoạch sản xuất, kế hoạch phân
phối, các kế hoạch tầm chiến thuật như quản trị dự trữ, vận tải, các tác nghiệp như nghiệp
vụ kho, quá trình đặt hàng và các sự kiện xảy ra hàng ngày
lOMoARcPSD| 45469857
Hệ thống thực thi: Hthống thực thi logistics bao gồm các kỹ thuật đảm nhiệm các chức
năng triển khai logistics trong thời gian ngắn hoặc hàng ngày về quản nhà kho, vận tải,
mua sắm, dự trữ, quản lý hiệu quả các đơn hàng của khách.
Hệ thống nghiên cứu và thu thập thông tin: Để thích nghi với các nhân tố môi trường vĩ
mô, môi trường kênh nguồn lực bên trong công ty. Hệ thống nghiên cứu thu thập
thông tin vai trò quan sát môi trường, thu thập thông tin bên ngoài, thông tin sẵn trong
lĩnh vực logistics và trong nội bộ công ty
Hệ thống báo cáo kết quả: Hệ thống báo cáo là thành phần cuối cùng trong LIS. Nếu các
báo cáo và kết quả không được truyền đạt hiệu quả thì các tư ởng, nghiên cứu hữu ích và
giải pháp quản sẽ không thể đạt được. Các báo cáo hỗ trợ quyết định quản trị logistics
tập trung vào 3 loại.
(1) Báo cáo để lập kế hoạch gồm các thông tin tính lịch sử thông tin trong tương
lai như thông tin về xu hướng bán, khuynh hướng dự báo, các thông tin thị trường, các yếu
tố chi phí của dự án kinh doanh;
(2) Báo cáo hoạt động cung cấp những thông tin sẵn có cho nhà quản lýngười giám
sát về hoạt động thực tế như việc nắm giữ hàng tồn kho, thu mua, đơn hàng vận tải, kế
hoạch sản xuất và kiểm soát, vận chuyển;
(3) Báo cáo kiểm soát cụ thể tổng kết chi phí và thông tin họat động các giai đoạn thích
hợp, so sánh ngân sách chi phí hiện tại, chúng tạo ra nền tảng cho việc tiếp cận chiến
lược họat động và các sách lược.
4.2.2.3. Dòng thông tin logistics trong doanh nghiệp
Hệ thống thông tin logistics bao gồm 2 dòng chính, đó sự kết hợp chặt chẽ của
các hoạt động kế hoạch - phối hợp các hoạt động tác nghiệp. Những hoạt động chính
của hai dòng được thể hiện trong hình. Dòng phối hợp bao gồm những thông tin liên quan
tới việc lập kế hoạch và xuyên suốt quá trình hoạt động của công ty.
lOMoARcPSD| 45469857
Hình 4.5: Liên kết của LIS ở hai mức độ hoạch định và tác nghiệp.
Dòng tác nghiệp liên quan tới những nghiệp vụ cơ bản liên quan đến thực hiện các đơn
hàng nhận được như ấn định dự trữ, vận chuyển, các đơn hàng bổ sung và những đơn hàng
của khách hàng. Đơn hàng bổ sung việc cung cấp hàng cho những trung tâm phân phối
từ nơi sản xuất; còn đơn hàng của khách hàng liên quan tới việc cung cấp hàng từ các trung
tâm phân phối tới địa điểm của khách hàng. Vai trò của bộ phận quản trị dự trữ là để đảm
bảo rằng các hoạt động của dòng tác nghiệp được chỉ đạo trong sự thống nhất phù hợp với
các hoạt động của dòng phối hợp. Điều này đòi hỏi sự đồng bộ hoá của cả sản phẩm
dòng thông tin 2 chiều trong chu trình đơn hàng hoàn chỉnh.
a. Dòng thông tin hoạch định-phối hợp
-Kế hoạch chiến lược: Kế hoạch chiến lược kim chỉ nam, thông tin định hướng cho
các nhà doanh nghiệp xây dựng kế hoạch & tổ chức thực thi ở các bộ phận chức năng. Kế
hoạch chiến lược tập trung vào hai mục tiêu marketing và tài chính.
- Kế hoạch nguồn lực: Đây bước khởi đầu xác định khả năng các nguồn lực đáp ứng
logistics. Kế hoạch nguồn lực cần được xác định các yếu tố bao gồm nguồn hàng, kho hàng,
vốn dự trữ, phương tiện vận chuyển & nhân sự. Kế hoạch này giúp quản trị các nguồn lực
có hiệu quả để đáp ứng nhu cầu thị trường. Với mỗi mặt hàng kinh doanh, kế hoạch nguồn
lực phải xác định được vị trí (ở đâu?) thời gian (khi nào?) và số lượng (bao nhiêu?) để thu
mua, dự trữ và vận chuyển.
- Kế hoạch logistics: Kế hoạch này phối hợp sở vật chất, thiết bị, lao động, nguồn
dự trữ cần thiết để thực hiện nhiệm vụ logistics. Kế hoạch logistics bị ràng buộc bởi kế
hoạch nguồn lực, thông tin dự báo về nhu cầu thị trường. Kế hoạch này bao gồm việc xác
K
ế
ho
ch
chi
ế
n lư
c
K
ế
ho
ch
ngu
n l
c
K
ế
ho
ch
logistics
K
ế
ho
ch
s
n xu
t
K
ế
ho
ch
mua
Qu
n lý
đơn hàng
Đáp
ng
đơn hàng
Ho
t đ
ng
phân ph
i
V
n
chuy
n
Mua
hàng
Qu
n tr
d
tr
lOMoARcPSD| 45469857
định rõ mục tiêu & quá trình tác nghiệp cho các hoạt động bản (dự trữ, vận chuyển) &
hoạt động bổ trợ (kho, bao bì, LIS).
- Quản trị dự trữ: Đây giao điểm giữa dòng hoạch định - phối hợp và dòng nghiệp
vụ, chỉ thời điểm vị trí tạo nên dự trữ. Tđiều kiện thông tin, hình thành dự trữ chỉ
rõ cái gì, ở đâu và khi nào của quá trình logistics tổng thể.
b. Dòng thông tin nghiệp vụ
- Quản đơn đặt hàng thực hiện đơn hàng: Hoạt động này liên quan đến việc
chuyển thông tin về nhu cầu giữa các thành viên tham gia phân phối hàng hoá. Hoạt động
chủ yếu của quản trị đơn đặt hàng là tiếp nhận chính xác và đáp ứng yêu cầu đơn đặt hàng
của khách hàng. Công cụ chuyển tin: điện thoại, fax, Internet,...Xử lý đơn hàng là các công
việc để chuẩn bị thực hiện đơn đặt ng của khách. Thời gian đáp ứng đơn hàng chịu ảnh
hưởng nhiều của năng lực xửthông tin của LIS. Trên cơ sở những thông tin về tình nhu
cầu và dự báo bán, quyết định về trình độ dịch vụ khách hàng, doanh nghiệp đưa ra những
quyết định vdự trữ, bao gồm quyết định về hệ thống dự trữ, hình kiểm tra dự trữ,
hàng nhập, và dự trữ bảo hiểm.
- Hoạt động phân phối: Quá trình này tạo điều kiện để tiến hành cung cấp hàng hoá
dịch vụ cho khách hàng. Quá trình này đòi hỏi cung cấp thông tin để tạo thuận lợi
phối hợp các hoạt động kho để cung ứng hàng hoá thoả mãn đơn hàng. Vấn để phải
thoả mãn yêu cầu của khách hàng trong điều kiện dự trữ ở kho phải thấp.
- Nghiệp vụ vận chuyển & giao hàng: Khả năng tích hợp hệ thống thông tin trong công
tác vận chuyển & giao hàng đem lại tiện ích đáng kể & nâng cao khả năng kiểm soát hành
trình lô hàng cho cả doanh nghiệp & khách hàng.
- Nghiệp vụ mua và nhập hàng: Trên cơ sở những thông tin về kế hoạch mua, về nhu
cầu của khách hàng tình hình dự trữ hàng hoá, doanh nghiệp đưa ra những quyết định
mua và nhập hàng vào cơ sở logistics (kho hoặc cơ sở sản xuất). Cùng với sự phát triển của
công nghệ thông tin, máy vi tính ngày càng nhiều tiện ích, Internet ngày càng lan rộng
và bao phủ khắp toàn cầu, các phần mềm chuyên dụng ngày càng nhiều thêm… Các công
ty logistics tập trung đầu tư xây dựng hệ thống thông tin hiện đại, hiệu quả, hỗ trợ đắc lực
hoạt động của họ.
4.2.3. Quản trị dự trữ
4.2.3.1. Khái niệm và chức năng của dự trữ
Dự trữ các hình thái kinh tế của sự vận động các sản phẩm hữu hình vật tư,
nguyên liệu, bán thành phẩm, sản phẩm,… - trong hệ thống logistics nhằm thỏa mãn nhu
cầu của sản xuất và tiêu dùng với chi phí thấp nhất.
lOMoARcPSD| 45469857
Dự trữ trong thương mại thực hiện 3 chức năng cơ bản:
- Chức năng cân đối cung - cầu: Đảm bảo cho sự phù hợp giữa nhu cầu
nguồn cung ứng về số lượng, không gian và thời gian.
- Chức năng điều hoà những biến động: Dự trđể đề phòng những biến động
ngắn hạn do sự biến động của nhu cầu và chu kỳ nhập hàng. Thực hiện chức năng này, cần
phải có dự trữ bảo hiểm.
- Chức năng giảm chi phí: Dự trữ nhằm giảm những chi phí trong quá trình sản
xuất phân phối. Chẳng hạn nhờ dự trữ tập trung, thể vận chuyển những hàng lớn
để giảm chi phí vận chuyển, và, tuy phải tăng dự trữ do đó ng chi phí dự trữ, nhưng
tổng phí vận chuyển và dự trữ giảm đi đáng kể.
4.2.3.2. Phân loại dự trữ
a. Phân loại theo các yếu tố cấu thành dự trữ trung bình -
Dự trữ chu kỳ :
dự trữ để đảm bảo cho việc tiêu thụ sản phẩm (sản xuất hoặc bán hàng) được tiến
hành liên tục giữa hai kỳ đặt hàng (mua hàng) liên tiếp - Dự trữ bảo hiểm:
Dự trữ chu kỳ chỉ có thể đảm bảo cho quá trình tiêu thụ sản phẩm được liên tục khi
lượng cầu (m) thời gian cung ứng/ chu kỳ đặt hàng (Tdh) không đổi. Một khi m hoặc
Tdh hoặc cả hai yếu tố này thay đổi, dự trữ chu kỳ không thể đảm bảo cho quá trình diễn
ra liên tục, mà cần có dự trữ dự phòng, hay dự trữ bảo hiểm.
- Dự trữ trên đường:
Dự trữ sản phẩm trên đường được xem một bộ phận cấu thành nên dự trữ trung
bình, bao gồm: dự trữ hàng hoá được chuyên chở trên các phương tiện vận tải, trong
quá trình xếp dỡ, chuyển tải, lưu kho tại các đơn vị vận tải.
Dự trữ trên đường phthuộc vào thời gian sản phẩm nằm trên đường cường độ
tiêu thụ hàng hóa, bên đảm bảo dự trữ trên đường bên sở hữu sản phẩm trong q
trình vận chuyển.
c. Phân loại theo mục đích của dự trữ - Dự trữ thường xuyên:
Dự trữ thường xuyên nhằm đảm bảo thỏa mãn nhu cầu hàng ngày. Dự trữ thường
xuyên phụ thuộc vào cường độ và sự biến đổi của nhu cầu và khoảng thời gian giữa 2 thời
kỳ nhập hàng. Dự trữ thường xuyên bao gồm dự trữ chu kỳ và dự trữ bảo hiểm.
- Dự trữ thời vụ:
Có những loại hàng hoá tiêu thụ quanh năm, nhưng sản xuất có tính thời vụ như:
lOMoARcPSD| 45469857
nông sản, ngược lại những sản phẩm chỉ tiêu dùng theo mùa vụ nhưng thể sản xuất
quanh năm như : quần áo thời trang.
Để đáp ứng những nhu cầu nêu trên thì phải có dạng dự trữ theo mùa vụ. Một số
dụ về dạng dự trữ này, như: xứ lạnh người ta dự trữ rau để phục vcho mùa đông; các
công ty thiết bị trường học dự trữ sách, vở, dụng cụ học sinh để phục vụ cho ngày khai
trường.
d. Phân loại theo giới hạn của dự trữ:
Theo tiêu thức này có các loại dự trữ:
- Dự trữ tối đa: Là mức dự trữ sản phẩm lớn nhất cho phép công ty kinh doanh
hiệu quả. Nếu dự trữ vượt quá mức dự trữ tối đa sẽ dẫn đến hiện tượng hàng hóa bị
đọng, vòng quay vốn chậm, kinh doanh không hiệu quả.
- Dự trữ tối thiểu:mức dự trữ sản phẩm thấp nhất đủ cho phép công ty hoạt
dộng liên tục. Nếu dự trữ sản phẩm dưới mức này sẽ không đủ nguyên vật liệu cung cấp
cho sản xuất, không đủ hàng hóa cung cấp cho khách ng, m gián đoạn quá trình sản
xuất cung ứng.
- Dự trữ bình quân:mức dự trữ sản phẩm bình quân của công ty trong một
kỳ định (Thường là một năm).
4.2.3.3. Các yêu cầu quản trị dự trữ,
Quản trị dự trữ trong doanh nghiệp phải đảm bảo 2 yêu cầu: Yêu cầu trình độ dịch
vụ, và yêu cầu giảm chi phí dự trữ.
- Yêu cầu trình độ dịch vụ
Trình độ dịch vụ là việc xác định các mục tiêu hoạt động dự trữ phải có khả năng
thực hiện. Trình độ dịch vụ được xác định bằng thời gian thực hiện đơn đặt hàng; hệ số
thoả mãn mặt hàng, nhóm hàng đơn đặt hàng (sản xuất, bán buôn); hệ số ổn định mặt
hàng kinh doanh hệ số thoả mãn nhu cầu mua hàng của khách (bán lẻ). Những chỉ tiêu trình
độ dịch vụ khách hàng trên đây phụ thuộc khá lớn vào việc quản trị dự trữ.
Trình độ dịch vụ do
dự trữ thực hiện được tính toán theo công thức sau:
mtd- Trình độ dịch vụ (một loại sản phẩm)
d 1
M
c
mt- Lượng sản phẩm không thỏa mãn yêu cầu tiêu thụ
Mc- Nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của cả kỳ
lOMoARcPSD| 45469857
Trường hợp một đối ợng tiêu thụ nhiều loại sản phẩm thì trình độ dịch vụ chung
được tính như sau:
n
d
c
- Trình độ dịch vụ chung cho một đối tượng tiêu thụ sản phẩm
dc di di- Trình độ dịch vụ của mặt hàng i i 1 n- Số
sản phẩm cung cấp
Để nâng cao trình độ dịch vụ của dự trữ, có thể sử dụng những giải pháp sau:
- Thứ nhất giải pháp truyền thống: tăng ờng dự trữ. Giải pháp này thể
đạt đến trình độ dịch vnhất định, nhưng thể làm tăng chi phí dự trữ cả hệ thống
logistics.
- Thứ hai giải pháp cải tiến: vận chuyển sản phẩm nhanh, chọn nguồn hàng
tốt n quản trị thông tin hiệu quả hơn. Giải pháp này nhằm chọn phương án tối ưu trong
quản trị dự trữ.
- Yêu cầu về giảm chi phí có liên quan đến dự trữ
Có nhiều loại chi phí có liên quan đến quản trị dự trữ. Tổng chi phí có liên quan đến dự trữ
bao gồm:
∑F = Fm + Fd + Fv + Fdh
Trong đó: Fm: Chi phí giá trị sản phẩm mua
Fd: Chi phí dự trữ
Fv: Chi phí vận chuyển
Fdh: Chi phí đặt hàng
Các loại chi phí này đều liên quan đến một thông số của dự trữ, đó là qui mô lô hàng
mua. Khi thay đổi qui hàng mua, các loại chi phí này biến đổi theo chiều hướng
ngược chiều nhau, cụ thể chi phí dự trữ biến đổi ngược chiều với c chi phí: giá trị sản
phẩm mua, chi phí vận chuyển, chi phí đặt hàng.
Một số chi phí cấu thành nên chi phí đảm bảo dự trữ:
- Chi phí vốn: chi phí bằng tiền do đầu tư vốn cho dự trữ, và thuộc vào chi phí
cơ hội. Chi phí vốn phụ thuộc vào giá trị dự trữ trung bình, thời gian hạch toán và suất thu
hồi vốn đầu tư. Thông thường trên thị trường tiền tệ, tỷ lệ chi phí vốn được tính theo lãi
suất tiền vay ngân hàng. Tỷ lệ chi phí vốn trung bình là 15%, dao động từ 8-40%.
- Chi phí công nghệ kho, thường gọi là chi phí bảo quản sản phẩm dự trữ kho.
Trung bình chi phí này là 2%, dao động từ 0-4%.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45469857
CHƢƠNG 4. QUẢN TRỊ LOGISTICS TRONG CHUỖI CUNG ỨNG
MỤC ĐÍCH VÀ YÊU CẦU
Sau khi nghiên cứu chương này, sinh viên cần nắm được: -
Các nội dung về hoạt động Logistics như: khái niệm, phân loại, các hoạt động Logistics chức năng. -
Phân tích được các tình huống thực tế về Logistics
4.1. Khái niệm, vị trí, phân loại các hoạt động Logistics trong chuỗi cung ứng
4.1.1. Khái niệm, vị trí logistics trong chuỗi cung ứng:
4.1.1.1. Khái niệm logistics
Logistics là một thuật ngữ có nguồn gốc Hilạp - logistikos - phản ánh môn khoa học
nghiên cứu tính quy luật của các hoạt động cung ứng và đảm bảo các yếu tố tổ chức, vật
chất và kỹ thuật (do vậy, một số từ điển định nghĩa là hậu cần) để cho quá trình chính yếu
được tiến hành đúng mục tiêu.

Công việc logistics hoàn toàn không phải là lĩnh vực mới mẻ. Từ thủa xa xưa, sau
mùa thu hoạch người ta đã biết cách cất giữ lương thực để dùng cho những lúc giáp hạt.
Tơ lụa từ Trung Quốc đã tìm được đường đến với khắp nơi trên thế giới. Nhưng do giao
thông vận tải và các hệ thống bảo quản chưa phát triển, nên các hoạt động giao thương
còn hạn chế. Thậm chí, ngày nay ở một vài nơi trên thế giới vẫn còn những cộng đồng sống
theo kiểu tự cung tự cấp, mà không có trao đổi hàng hoá với bên ngoài. Lý do chính là ở
đó thiếu một hệ thống hậu cần phát triển hợp lý và hiệu quả (lack of well-developed and
inexpensive logistics system). Theo từ điển Oxford thì logistics trước tiên là “Khoa
học của sự di chuyển, cung ứng và duy trì các lực lượng quân đội ở các chiến trường”.
Napoleon đã từng định nghĩa: Hậu cần là hoạt động để duy trì lực lượng quân đội, nhưng
cũng chính do hoạt động hậu cần sơ sài đã dẫn đến sự thất bại của vị tướng tài ba này trên
đường tới Moscow vì đã căng hết mức đường dây cung ứng của mình. Cho đến nay, khái
niệm logistics đã mở rộng sang lĩnh vực kinh tế, mau chóng phát triển và mang lại thành
công cho nhiều công ty và tập đoàn đa quốc gia nổi tiếng trên thế giới.
Logistics hiện đại (modern business logistics) là một môn khoa học tương đối trẻ so
với những ngành chức năng truyền thống như marketing, tài chính, hay sản xuất. Cuốn
sách đầu tiên về logistics ra đời năm 1961, bằng tiếng Anh, với tựa đề
“Physical distribution management”, từ đó đến nay đã có nhiều định nghĩa khác nhau được
đưa ra để khái quát về lĩnh vực này, mỗi khái niệm thể hiện một góc độ tiếp cận và nội dung khác nhau. lOMoAR cPSD| 45469857
Trước những năm 1950 công việc logistics chỉ đơn thuần là một hoạt động chức
năng đơn lẻ. Trong khi các lĩnh vực marketing và quản trị sản xuất đã có những chuyển
biến rất lớn lao thì vẫn chưa hình thành một quan điểm khoa học về quản trị logistics một
cách hiệu quả. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ và quản lý cuối thế kỷ
20 đã đưa logistics lên một tầm cao mới, có thể gọi đó là giai đoạn phục hưng của
logistics (logistical renaissance).
4.1.1.2. Vai trò của logistics
Quá trình sản xuất là quá trình con người sử dụng tư liệu lao động để tác động vào
đối tượng lao động làm thay đổi hình dáng, kích thước, tính chất lý hoá của đối tượng lao
động để tạo ra những sản phẩm với chất lượng ngày càng cao, thoả mãn đầy đủ nhu cầu đa
dạng của con người, Quá trình sản xuất của doanh nghiệp luôn đòi hỏi phải có các yếu tố
của sản xuất, trong đó có vật tư kỹ thuật. Thiếu vật tư thì không thể có hoạt động sản xuất
ra của cải vật chất. Khi vật tư đóng vai trò là tư liệu lao động mà bộ phận chủ yếu là máy
móc thiết bị, thể hiện trình độ trang bị kỹ thuật cho sản xuất, thì nó là nhân tố cực kỳ quan
trọng để nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, tăng quy mô sản xuất, tạo điều
kiện sử dụng hợp lý sức lao động và nguyên, nhiên vật liệu, tiết kiệm các yêu tố vật chất
trong sản xuất. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển
một phần phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật của sản xuất, sự nhanh chóng đổi mới công nghệ
và do đó phụ thuộc vào vật tư kỹ thuật với tư cách là tư liệu lao động.
Khi vật tư đóng vai trò là đối tượng lao động chủ yếu là nguyên vật liệu, vật tư sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm nguyên vật liệu và do đó đến hiệu
quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Nguyên vật liệu được bảo đảm đầy đủ,
đồng bộ, đúng chất lượng là điều kiện quyết định khả năng tái sản xuất mở rộng. Trong quá
trình sản xuất, nguyên vật liệu là bộ phận trực tiếp tạo nên sản phẩm, nó chiếm
60% đến 70% trong cơ cấu giá thành sản phẩm do đó nguyên vật liệu có vai trò quan trọng
trong việc giảm chi phí sản xuất kinh doanh và giá cả sản phẩm.
Từ vai trò trên đây của vật tư cho thấy ý nghĩa to lớn của hoạt động cung ứng vật tư
cho sản xuất, của hoạt động Logistics đầu vào ở doanh nghiệp. Việc bảo đảm vật tư đầy đủ,
đồng bộ, kịp thời là điều kiện tiền đề cho sự liên tục của quá trình sản xuất, cho sự nhịp
nhàng đều đặn của quá trình sản xuất. Bất cứ một sự không đầy đủ, kịp thời và đồng bộ nào
của vật tư đều có thể gây ra sự ngừng trệ sản xuất, gây ra sự vi phạm các quan hệ kinh tế
đã được thiết lập giữa các doanh nghiệp với nhau, gây ra sự tổn thất trong sản xuất kinh doanh. lOMoAR cPSD| 45469857
Đảm bảo tốt vật tư cho sản xuất là đáp ứng các yêu cầu về số lượng, chất lượng, đúng về
quy cách, chủng loại kịp về thời gian và đồng bộ. Điều này ảnh hưởng đến năng suất của
doanh nghiệp, đến chất lượng sản phẩm, đến việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm vật tư, đến
tình hình tài chính của doanh nghiệp, đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và sự tồn tại, phát
triển của doanh nghiệp. Vai trò của quản trị hoạt động Logistics doanh nghiệp được thế hiện:
(1) Dịch vụ Logistics góp phần nâng cao trình độ kỹ thuật của sản xuất, sử dụng
hợp lý và tiết kiệm các nguồn lực, giảm thiếu chi phí trong quá trình sản xuất, tăng cường
sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Chi phí Logistics chiếm tỷ trọng lớn, khoảng 21%
doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Ở gốc độ vĩ mô, chi phí cho hoạt động
Logistics chiếm khoảng 10 13% GDP ở các nước phát triển, ở các nước đang phát triển thì
cao hơn, khoảng 15 20%. Với nguồn lực có giới hạn, Logistics luôn được các quốc gia trên
thế giới đặc biệt quan tâm nghiên cứu, phát triển và ứng dụng.
(2) Dịch vụ Logistics đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm yếu tố đúng
thời gian, đúng địa điểm (JIT), nhờ đó đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra
theo nhịp độ đã định, góp phần nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, sử dụng
hiệu quả vốn kinh doanh của các doanh nghiệp. Quá trình toàn cầu hóa kinh tế đã làm cho
hàng hóa và sự vận động của chúng phong phú và phức tạp hơn nhiều lần so với thời kỳ
trước đây, đòi hỏi sự quản lý chặt chẽ, đặt ra yêu cầu mới đối với dịch vụ vận tải và giao
nhận. Đồng thời, để tránh hàng tồn kho, ứng dụng doanh nghiệp phải tính toán để lượng
hàng tồn kho luôn là nhỏ nhất. Kết quả là hoạt động lưu thông nói chung và hoạt động
Logistics nói riêng phải bảo đảm yêu cầu giao hàng đúng lúc, kịp thời, mặt khác phải bảo
đảm mục tiêu khống chế lượng hàng tồn kho mức tối thiểu. Sự phát triển mạnh mẽ của tin
học cho phép kết hợp chặt chẽ quá trình cung ứng, sản xuất, lưu kho hàng hóa, tiêu thụ với
vận tải giao nhận, làm cho cả quá trình này trở nên hiệu quả hơn, nhanh chóng hơn, nhưng
đồng thời cũng phức tạp hơn.
(3) Dịch vụ Logistics hỗ trợ nhà quản lý ra quyết định chính xác trong hoạt động
sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp luôn phải giải quyết nhiều bài toán khó về nguồn
nguyên liệu cung ứng, số lượng và thời điểm để bổ sung hiệu quả nguồn nguyên liệu,
phương tiện và hành trình vận tải, địa điểm, thời gian giao nhận và kho bãi chứa thành
phẩm, bán thành phẩm,... Để giải quyết những vấn đề này một cách hiệu quả không thể
thiếu vai trò của dịch vụ Logistics vì nó cho phép nhà quản lý kiểm soát và ra quyết định
chính xác về các vấn đề nêu trên để giảm tối đa chi phí phát sinh, bảo đảm hiệu quả trong
hoạt động sản xuất kinh doanh. lOMoAR cPSD| 45469857
(4) Dịch vụ Logistics góp phần gia tăng giá trị kinh doanh của các doanh nghiệp
thông qua việc thực hiện các dịch vụ lưu thông bổ sung các dịch vụ tiếp tục quá trình sản
xuất trong khâu phân phối lưu thông. Logistics là loại hình dịch vụ có quy mô mở rộng và
phức tạp hơn nhiều so với hoạt động vận tải giao nhận thuần túy. Trước kia, người kinh
doanh dịch vụ vận tải giao nhận chỉ cung cấp cho khách hàng những dịch vụ đơn giản,
thuần túy và đon lẻ. Ngày nay, do sự phát triển của sản xuất, lưu thông, các chi tiết của một
sản phẩm có thể do nhiều quốc gia cung ứng và ngược lại một loại sản phẩm của doanh
nghiệp có thể tiêu thụ tại nhiều quốc gia, nhiều thị trường khác nhau, vì vậy dịch vụ mà
khách hàng yêu cầu từ các nhà phân phối, các doanh nghiệp kinh doanh vận tải giao nhận
phải đa dạng và rất phong phú. Người vận tải giao nhận ngày nay phải triển khai thực hiện
nhiều dịch vụ nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế ngày càng tăng của khách hàng. Họ trở thành
người cung cấp Logistics (Logistics service providers) và Logistics đã góp phần làm gia
tăng giá trị kinh doanh của các doanh nghiệp Logistics.
4.1.2. Phân loại các hoạt động logistics trong chuỗi cung ứng
Thế kỷ 21, logistics đã phát triển mở rộng sang nhiều lĩnh vực và phạm vi khác nhau.
Dưới đây là một số cách phân loại thường gặp:
4.1.2.1. Theo phạm vi và mức độ quan trọng:
-Logistics kinh doanh (Bussiness logistics) là một phần của quá trình chuỗi cung
ứng, nhằm hoạch định thực thi và kiểm soát một cách hiệu quả và hiệu lực các dòng vận
động và dự trữ sản phẩm, dịch vụ và thông tin có liên quan từ các điểm khởi đầu đến
điểm tiêu dùng nhằm thoả mãn những yêu cầu của khách hàng.
-Logistics quân đội (Military Logistics) là việc thiết kế và phối hợp các phương
diện hỗ trợ và các thiết bị cho các chiến dịch và trận đánh của lực lượng quân đội. Đảm bảo
sự sẵn sàng, chính xác và hiệu quả cho các hoạt động này.
-Logistics sự kiện (Event logistics) là tập hợp các hoạt động, các phương tiện vật
chất kỹ thuật và con người cần thiết để tổ chức, sắp xếp lịch trình, nhằm triển khai các
nguồn lực cho một sự kiện được diễn ra hiệu quả và kết thúc tốt đẹp.
-Dịch vụ logistics (Service logistics) bao gồm các hoạt động thu nhận, lập chương
trình, và quản trị các điều kiện cơ sở vật chất/ tài sản, con người, và vật liệu nhằm hỗ trợ
và duy trì cho các quá trình dịch vụ hoặc các hoạt động kinh doanh doanh lOMoAR cPSD| 45469857
4.1.2.2. Theo vị trí của các bên tham gia -
Logistics bên thứ nhất (1PL- First Party Logistics): là hoạt động
logistics do người chủ sở hữu sản phẩm/ hàng hoá tự mình tổ chức và thực hiện để đáp ứng
nhu cầu của bản thân doanh nghiệp. -
Logistics bên thứ hai (2PL -Second Party Logistics): chỉ hoạt động logistics
do người cung cấp dịch vụ logistics cho một hoạt động đơn lẻ trong chuỗi cung ứng để đáp
ứng nhu cầu của chủ hàng. -
Logistics bên thứ ba (3PL - Third Party Logistics): là người thay mặt chủ
hàng tổ chức thực hiện và quản lí các dịch vụ logistics cho từng bộ phận chức năng.
4.1.2.3. Theo quá trình nghiệp vụ (logistical operations) chia thành 3 nhóm cơ bản: -
Hoạt động mua ( Procurement) là các hoạt động liên quan đến đến việc tạo
ra các sản phẩm và nguyên vật liệu từ các nhà cung cấp bên ngoài. Mục tiêu chung của
mua là hỗ trợ các nhà sản xuất hoặc thương mại thực hiện tốt các hoạt động mua hàng với chi phí thấp. -
Hoạt động hỗ trợ sản xuất ( Manufacturing support) tập trung vào hoạt
động quản trị dòng dự trữ một cách hiệu quả giữa các bước trong quá trình sản xuất. Hỗ trợ
sản xuất không trả lời câu hỏi phải là sản xuất như thế nào mà là cái gì, khi nào và ở đâu
sản phẩm sẽ được tạo ra. -
Hoạt động phân phối ra thị trường (Market distribution) liên quan đến viêc
cung cấp các dịch vụ khách hàng. Mục tiêu cơ bản của phân phối là hỗ trợ tạo ra doanh
thu qua việc cung cấp mức độ dịch vụ khách hàng mong đợi có tính chiến lược ở mức chi phí thấp nhất.
4.1.2.4. Theo hướng vận động vật chất -
Logistic đầu vào ( Inbound logistics) Toàn bộ các hoạt động hỗ trợ dòng
nguyên liệu đầu vào từ nguồn cung cấp trực tiếp cho tới các tổ chức. -
Logistic đầu ra ( Outbound logistics) Toàn bộ các hoạt động hỗ trợ dòng sản
phẩm đầu ra cho tới tay khách hàng tại các tổ chức. -
Logistic ngược ( Logistics reverse) Bao gồm các dòng sản phẩm, hàng hóa
hư hỏng, kém chất lượng, dòng chu chuyển ngược của bao bì đi ngược chiều trong kênh logistics.
4.1.2.5. Theo đối tượng hàng hóa
Các hoạt động logistics cụ thể gắn liền với đặc trưng vật chất của các loại sản phẩm.
Do đó các sản phẩm có tính chất, đặc điểm khác nhau đòi hỏi các hoạt động logistics lOMoAR cPSD| 45469857
không giống nhau. Điều này cho phép các ngành hàng khác nhau có thể xây dựng các
chương trình, các hoạt động đầu tư, hiện đại hóa hoạt động logistics theo đặc trưng riêng
của loại sản phẩm tùy vào mức độ chuyên môn hóa, hình thành nên các hoạt động logistics
đặc thù với các đối tượng hàng hóa khác nhau như:
-Logistic hàng tiêu dùng ngắn ngày -Logistic ngành ô tô -Logistic ngành hóa chất -Logistic hàng điện tử -Logistic ngành dầu khí -……
4.2. Các hoạt động logistics chức năng
4.2.1. Dịch vụ khách hàng 4.2.1.1. Khái niệm
Hiện nay đang có nhiều khái niệm khác nhau về dịch vụ khách hàng (DVKH), tuy
nhiên, trong hầu hết các tổ chức, dịch vụ khách hàng thường được xem xét dưới 3 góc độ:
(1) một hoạt động hoặc một chức năng được quản lý, (2) những kết quả đạt được đánh giá
trên một số tiêu thức (chẳng hạn như khả năng có thể cung cấp 98% lượng hàng đặt trong
vòng 24 giờ) hoặc (3) một phần của toàn bộ phương châm hoạt động của doanh nghiệp.
Nhìn chung, dịch vụ khách hàng có thể được nhìn nhận như là một quá trình giữa
người mua, người bán và bên trung gian. Kết qủa là quá trình này tạo ra những giá trị gia
tăng vào sản phẩm hoặc dịch vụ được trao đổi. Giá trị gia tăng này có thể chỉ trong ngắn
hạn như trong các quá trình trao đổi đơn lẻ, nhưng cũng có thể dài hạn như trong các mối
quan hệ hợp đồng lâu dài. Giá trị gia tăng cũng được chia sẻ cho các chủ thể tham gia quá
trình trao đổi, hay nói cách khác, các đơn vị tham gia này được hưởng một lượng giá trị
nhiều hơn trước quá trình trao đổi. Như vậy, nếu xét trên quan điểm một quá trình, dịch vụ
khách hàng góp phần nâng cao hiệu quả của quá trình trao đổi.
Theo quan điểm marketing về dịch vụ khách hàng, thì nhiệm vụ đặt ra đối với các
doanh nghiệp là phải thu hút và giữ được khách hàng. Có rất nhiều người nhấn mạnh tới
khía cạnh thu hút càng nhiều khách hàng mới càng tốt, nhưng lại ít chú ý tới khía cạnh giữ
khách hàng ở lại với doanh nghiệp. Đây chỉ là một cách nhìn hạn chế. Khẩu hiệu “mục tiêu
hàng đầu của doanh nghiệp là lợi nhuận” đã thay đổi. Mục tiêu của doanh nghiệp hiện nay
vẫn là lợi nhuận, nhưng trước đó doanh nghiệp cần phải thiết lập các chính sách về dịch vụ lOMoAR cPSD| 45469857
và các chương trình làm thỏa mãn yêu cầu của khách hàng và đưa ra các chương trình đó
tới khách hàng một cách ít tốn kém nhất. Đó chính là dịch vụ khách hàng.
4.2.1.2. Phân loại dịch vụ khách hàng
a. Theo các giai đoạn trong quá trình giao dịch
Dịch vụ khách hàng chia thành 3 nhóm: Trước, trong và sau khi bán hàng.
- Trước khi bán : Gồm các dịch vụ về thông tin, giới thiệu, quảng cáo chào hàng, chuẩn
bị hàng hóa, bao bì, đóng gói hàng hóa theo yêu cầu của khách hàng, nhận đặt hàng trước,
ký kết các hợp đồng mua bán hàng hóa, triển lãm trưng bày, các hoạt động này thường tạo
ra môi trường thuận lợi cho giao dịch được thực hiện tốt.
- Trong khi bán: Gồm các hoạt động tác động trực tiếp tác động tới quá trình trao đổi
sản phẩm với khách hàng, như tính toán mức dự trữ, dịch vụ giới thiệu, tư vấn, hướng dẫn
khách hàng lựa chọn hàng hóa, thanh toán tiền hàng, đóng gói hàng hóa, lựa chọn phương
tiện vận chuyển, bốc xếp, vận chuyển, giao nhận….
- Sau khi bán: còn gọi là các dịch vụ hậu mãi bao gồm các loại dịch vụ để hỗ trợ sản
phẩm sau khi khách hàng đã mua sản phẩm như lắp đặt hàng hóa tại nơi khách hàng yêu
cầu, hướng dẫn sử dụng thiết bị, vận hành máy móc, góp ý về các giải pháp kinh tế – kỹ
thuật trong sử dụng vật tư hàng hóa, sửa chữa, bảo dưỡng, bán và thay thế phụ tùng; Các
dịch vụ gia công, thay thế, mua lại hàng cũ, đổi hàng mới, tổ chức tái chế và chế biến hàng
hóa; hội nghị khách hàng; bảo hành; sửa chỉnh.
Cách phân loại này thường thích hợp với các doanh nghiệp thương mại, nơi mà quá trình
mua bán là hoạt động chính yếu của loại hình này. b. Theo mức độ quan trọng của dịch vụ khách hàng
- Dịch vụ khách hàng chính yếu là nhóm những dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp
thường xuyên cho khách hàng, thường là những dịch vụ mà doanh nghiệp có ưu thế về
nguồn lực và mang lại nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Dịch vụ phụ là nhóm những dịch vụ không được doanh nghiệp cung cấp thường
xuyên, hạn chế về nguồn lực, được sử dụng để tăng tính linh hoạt hơn là nhằm vào lợi
nhuận trước mắt.
Kiểu phân loại này hay sử dụng tại các doanh nghiệp sản xuất nhằm thích nghi các
nguồn lực hữu hạn để tập trung cho quá trình sản xuất.
c. Theo đặc trưng tính chất
- Dịch vụ kỹ thuật (hoàn thiện sản phẩm) là loại dịch vụ đòi hỏi người thực hiện phải
có kiến thức chuyên môn về tính chất vật lý, hóa học của hàng hóa, hiểu biết về công dụng, lOMoAR cPSD| 45469857
cách thức sử dụng, vận hành các sản phẩm bán cho khách hàng. Bao gồm: Dịch vụ chuẩn
bị hàng hóa, phân loại, chọn lọc, ghép đồng bộ, đóng gói và gửi hàng; dịch vụ sửa chữa, tu
chỉnh, hiệu chỉnh, hoàn thiện máy móc thiết bị; dịch vụ lắp đặt, hướng dẫn sử dụng và vận
hành tại đơn vị sử dụng; Dịch vụ thay thế, phục hồi gía trị sử dụng; Dịch vụ kiểm tra kỹ
thuật, xác định chất lượng ký thuật và cố vấn kỹ thuật. Để hỗ trợ các dịch vụ này cần đến
các yếu tố cơ sở hạ tầng kỹ thuật như mặt bằng nhà xưởng, máy móc thiêt bị chuyên dùng,
nguyên vật liệu và phụ tùng phù hợp với đặc điểm tính chất của từng dịch vụ.
- Dịch vụ tổ chức kinh doanh như: dịch vụ ký gửi hàng hóa, ủy thác mua bán hàng
hóa, nhận bảo quản thuê hàng hóa, cho thuê kho hàng, quầy hàng, cửa hàng, các trang thiết
bị chuyên dùng chưa sử dụng hết công suất, môi giới giao nhận, vận chuyển; bốc dỡ thuê….
- Dịch vụ bốc xếp, vận chuyển và gửi hàng. Liên quan đến việc vận chuyển hàng hóa
đến nơi khách hàng yêu cầu. Để thực hiên các dịch vụ này doanh nghiệp có thể tổ chức các
đơn vị sản xuất bao bì, các xí nghiệp vận chuyển, đóng gói hàng hóa phù hợp vơi các loại
phương tiện vận chuyển, tổ chức các dịch vụ giao nhận, bốc xếp hàng hóa từ phương tiện
vận chuyển xuống và chất xếp hàng hóa lên phương tiện, gửi hàng đến đúng địa chỉ cho khách hàng …
Ngoài ra có thể phân loại dịch vụ theo chủ thể thực hiện dịch vụ (thứ nhất, thứ hai,
thứ ba) hoặc theo địa điểm thực hiện dịch vụ (Tại doanh nghiệp dịch vụ hoặc tại nơi khách
hàng yêu cầu).Việc phân loại dịch vụ theo các tiêu thức khác nhau cho phép doanh nghiệp
có thể nhận thức được mức độ quan trọng và vị trí của dịch vụ trong việc thỏa mãn nhu cầu
khách hàng, từ đó mà có chính sách lựa chọn, đầu tư và phối hợp cung ứng dịch vụ khách hàng phù hợp.
4.2.1.3. Thành phần dịch vụ khách hàng a.
Các yếu tố trước quá trình giao dịch: Các yếu tố này liên quan tới chính sách của
tổ chức về dịch vụ khách hàng, có thể tác động đáng kể tới quan niệm của khách hàng về
tổ chức cũng như sự thoả mãn của họ. -
Chính sách dịch vụ khách hàng: Chính sách dịch vụ khách hàng quy định rõ
ràng về các tiêu chuẩn dịch vụ gắn với nhu cầu của khách hàng. Chính sách dịch vụ khách
hàng là cơ sở để theo dõi hoạt động dịch vụ, quy định tần số của các báo cáo hoạt động
thực tế và đảm bảo cho các dịch vụ khách hàng có thể đo được và có tính khả thi. -
Công bố chính sách dịch vụ cho khách hàng: Chính sách dịch vụ cho phép
khách hàng biết được các dịch vụ và tiêu chuẩn có thể có, tránh được các kỳ vọng không
hợp lý. Việc công bố chính sách dịch vụ giúp khách hàng biết được họ nên làm gì nếu như
các tiêu chuẩn dịch vụ không được đáp ứng. lOMoAR cPSD| 45469857 -
Cấu trúc doanh nghiệp: Cấu trúc của tổ chức phải phù hợp để đảm bảo sự
thành công của các mục tiêu dịch vụ. Người quản lý về thương mại cần được đảm nhận
chức vụ cao và phải năm được các thông tin của doanh nghiệp. Cấu trúc của doanh nghiệp
phải hỗ trợ cả các luồng thông tin bên trong và bên ngoài, hỗ trợ các hoạt động và các hành
động mang tính điều chỉnh nếu cần thiết. Khách hàng cần được dễ dàng tiếp cận các nhân
viên trong tổ chức, người mà có thể thỏa mãn những nhu cầu của họ và trả lời các câu hỏi
cần thiết. Nếu khách hàng có ấn tượng xấu về sản phẩm hay dịch vụ, họ sẽ có những hình
ảnh không tốt về doanh nghiệp. -
Mức độ linh hoạt của hệ thống: Mức độ linh hoạt và kế hoạch thích ứng nên
được xây dựng trong hệ thông doanh nghiệp, cho phép doanh nghiệp có thể giải quyết một
cách hữu hiệu những tình huông không thể lường trước như thiếu nguyên vật liệu, thiên tại.
đ. Dịch vụ quản lý: Hỗ trợ khách hàng trong việc mua bán hàng, củng cố hoạt động quản
lý kho là những dịch vụ mà một doanh nghiệp có thể cung ứng cho khách hàng.
Những dịch vụ này có thể cung ứng cho khách hàng dưới dang các khoá đào tạo,
các cuộc hội thảo khách hàng hay là các tư vấn riêng lẻ. Các dịch vụ có thể thu phí hoặc
miễn phí. Những quyết định trước khi mua hàng thường tương đối ổn định, lâu dài, ít khi
thay đổi và chịu ảnh lớn bởi các yếu tố trước quá trình giao dịch thông qua ảnh hưởng tới
kỳ vọng của khách hàng khi mua hàng. b.
Các yếu tố trong quá trình giao dịch. -
Mức độ tồn kho: Mức độ tồn kho thể hiện mức độ sẵn có các sản phẩm trước
yêu cầu của khách hàng. Mức độ tồn kho cần được theo dõi trên cơ sở sản phẩm và khách
hàng để tránh hiện tượng thừa thiếu hàng hoá có thể xảy ra. Khi tình trạng hết hàng diễn
ra, doanh nghiệp cần nỗ lực duy trì sự thiện cảm của khách hàng bằng những thay đổi hợp
lý, như chuyển hàng từ nơi khác đến cho khách hàng nếu như có thể, hoặc chuyển hàng
ngay cho khách hàng ngay sau khi hàng được nhập. -
Thông tin về đơn hàng: Kỳ vọng của khách hàng về các thông tin liên quan
tới đơn hàng tăng lên nhanh chóng trong tình hình hiện nay, khi mà sự ra đời của các
phương tiện thông tin hiện đại đã làm cho quá trình trao đổi thông tin diễn ra nhanh chóng.
Những thông tin cần thiết thường là tình hình dự trữ, tình hình xử lý đơn hàng, thời gian
đưa hàng lên phương tiện vận tải dự kiến. Theo dõi những thông tin này đối với khách hàng
là rất cần thiết , vì khách hàng luôn muốn theo dõi những vấn đề có thể xảy ra trong quá
trình giao hàng để có thể giải quyết các vấn đề phát sinh một cách kịp thời. -
Tính chính xác của hệ thống: Bên cạnh tính nhanh nhậy khi nắm bắt được các
luồng thông tin, khách hàng luôn đòi hỏi các thông tin họ cần phải chính xác. Các vấn đề lOMoAR cPSD| 45469857
phát sinh có thể gây tổn thất về chi phí cho khách hàng cũng như người cung cấp, làm mất
thời gian và giấy tờ. Vì vậy, những sai sót cần được ghi lại và sửa chữa càng nhanh càng
tốt. Những vấn đề kéo dài cần phải quan tâm và khắc phục kịp thời. -
Sự nhất quán của chu kỳ đặt hàng: Chu kỳ đặt hàng là tổng thời gian từ khi
khách hàng bắt đầu đặt hàng đến khi nhận hàng của khách. Như vậy, nếu người bán hàng
nhận được một đơn đặt hàng của khách và giữ trong vòng năm ngày trước khi nhập lệnh,
thì năm ngày đó cũng được cộng vào chu trình đặt hàng, mặc dù năm ngày này không được
biết tới bởi trung tâm phân phối. Thành phần của chu kỳ đặt hàng bao gồm: đặt hàng, nhập
lệnh đặt hàng, xử lý lệnh đặt, nhận lệnh của các bên liên quan và đưa hàng lên phương tiện
vận tải, thời gian vận chuyển, thời gian tiếp nhận. Khách hàng dường như quan tâm nhiều
hơn tới sự nhất quán của thời gian chu kỳ đặt hàng hơn là thời gian đó kéo dài bao nhiều
lâu. Như vậy, điều cần thiết là phải có sự kiểm tra, kiếm soát các hoạt động bán hàng và có
các hành động cần thiết. -
Giao hàng đặc biệt: Đây là những lệnh đặt hàng không thể thực hiện theo các
hệ thống đặt hàng đơn thuần, vì nó cần được tiến hành hoặc có những yêu cầu về xếp hàng
đặc biệt. Chi phí cho xếp hàng đặc biệt này cao hơn chi phi bình thường. Tuy vậy, chi phí
của việc mất khách hàng có thể còn cao hơn. Doanh nghiệp nên xác định những khách hàng
nào hoặc những tình huống nào nên thực hiện lệnh giao hàng đặc biệt. -
Chuyển tài: Sự chuyển tải liên quan tới di chuyển các hàng hoá giữa các địa
điểm khác nhau để tránh hết hàng. Với những doanh nghiệp có nhiều địa điểm xếp dỡ hàng
khác nhau, một số chính sách về chuyển tàu có thể được đặt ra thay vì đặt hàng lại hoặc
phải chuyển hàng từ nơi khác đến. -
Sự thuận lợi của đơn đặt hàng: Sự thuận lợi của đơn đặt hàng được hiểu là
khách hàng có dễ dàng đặt hàng hay không. Khách hàng thường quan tâm tới các nhà cung
cấp thân thiện. Nếu như các đơn đặt hàng quá phức tạp, những điều khoản không được tiêu
chuẩn hoá hoặc khách hàng phải đợi nhiều khi gọi điện thoại đến thì khách hàng có thể
không hài lòng. Những trường hợp như vậy cần phải được giám sát và xác định qua liên hệ
trực tiếp với khách hàng. Trong một số trường hợp, doanh nghiệp cần làm việc với khách
hàng để phát triển một số phương án thay thế cần thiết và thông báo kịp thời cho khách
hàng về những phương án này. Việc trao đổi với khách hàng cần được thực hiện trước khi
sử dụng các sản phẩm thay thế.
Các yếu tố trong quá trình trao đổi đóng vai trò quan trong đối với dịch vụ khách
hàng vì nó chính là bộ mặt tiếp của doanh nghiệp. Trong một cuộc điều tra tại 1300 doanh lOMoAR cPSD| 45469857
nghiệp, có tới 80% người được hỏi trả lời rằng giao hàng cũng quan trọng như với chất lượng sản phẩm.
c. Các yếu tố sau quá trình giao dịch
Các yếu tố sau quá trình giao dịch của dịch vụ khách hàng nhằm hỗ trợ các sản phẩm
và dịch vụ sau khi khách hàng đã nhận được. Trước đây, các thành phần này thường bị lãng
quên, bởi vì nó chỉ chiếm một phần rất nhỏ những lời phàn nàn của khách hàng về chất
lượng phục vụ. Tuy vậy, việc duy trì và làm thoã mãn các khách hàng có thể đem lại nhiều
lợi ích hơn là tìm kiếm khách hàng mới.
Các yếu tố sau giao dịch gồm: -
Lắp đặt, bảo hành, sửa chữa và dịch vụ phụ tùng: Dịch vụ này rất quan trọng
trong hoạt động mua bán, đặc biệt là mua bán các hàng hoá có giá trị cao, khi mà chi phí
bảo hành sửa chữa nhiều khi lớn hơn chi phí mua. - Kiểm định sản phẩm. -
Khiếu nại và hoàn trả sản phẩm của khách hàng: Để giải quyết các khiếu nại
của khách hàng, một hệ thống thông tin cần được thiết lập nhằm xử lý các thông tin từ
khách hàng, giám sát các xu thế, cung cấp cho khách hàng những thông tin mới nhất. Quá
trình cung cấp cũng cần được thiết lập thích ứng với các yêu cầu khiếu nại và hoàn trả của
khách hàng nhằm giải quyết các khiếu nại một cách hiệu quả nhất. -
Thay thế sản phẩm: Tuỳ theo từng loại sản phẩm mà các sản phẩm dự trữ cần
được xác định. Ví dụ, một số nhà cung cấp ô tô có dịch vụ cho thuê ô tô không mất tiền
cho các khách hàng khi mà ô tô của họ bị hỏng. Dịch vụ như vậy làm giảm thiểu sự không
hài lòng của khách hàng. Vai trò của dịch vụ khách hàng trong việc tạo ra lợi thế cạnh tranh.
Dịch vụ khách hàng là sản phẩm của các hoạt động thương mại và là cầu nối quan trọng
giữa chức năng thương mại với các chức năng khác của doanh nghiệp. Đặc biệt, dịch vụ
khách hàng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển và duy trì lòng tin cũng như sự
thoả mãn cuả khách hàng. Thông thường, sản phẩm và dịch vụ tương đối dễ dàng cho đối
thủ cạnh tranh bắt chước, vì vậy, một dịch vụ khách hàng hoàn hảo, một giải pháp giải
quyết các khiếu nại của khách hàng toàn diện sẽ giúp cho doanh nghiệp vượt lên đối thủ
cạnh tranh. Như vậy, dịch vụ khách hàng đóng vai trò quan trọng trong xác định lợi thế
cạnh tranh của doanh nghiệp bằng cách đưa ra các dịch vụ khách hàng hoàn hảo.
4.2.1.4. Hoàn thiện hoạt động dịch vụ khách hàng
Chất lượng dịch vụ khách hàng có thể được nâng cao thông qua những biện pháp:
(1) nghiên cứu nhu cầu của khách hàng, (2) thiết lập các mức độ dịch vụ khách hàng nhằm lOMoAR cPSD| 45469857
thoả mãn yêu cầu về doanh thu trên chi phí bỏ ra, (3) sử dụng công nghệ mới trong quá
trình xử lý thông tin, (4) đánh giá và đo lường mức độ hoạt động thương mại.
Chiến lược dịch vụ khách hàng có hiệu quả, nhất thiết phải dựa trên sự hiểu biết về
dịch vụ khách hàng. Những công cụ kiểm soát nội bộ và bên ngoài là rất cần thiết cho việc
đánh giá và tìm ra những nhân tố quan trọng trong xây dựng chiến lược, kế hoạch và các
chương trình dịch vụ khách hàng.
Một khi doanh nghiệp đã xác định được quan điểm dịch vụ, thì doanh nghiệp một
mặt cần chọn chiến lược dịch vụ khách hàng phù hợp, thỏa mãn mục tiêu lâu dài của doanh
nghiệp về lợi nhuận, tỷ lệ thu hồi vốn hoặc các yêu cầu kinh doanh khác, mặt khác doanh
nghiệp cần xác định mức dịch vụ khách hàng tôi ưu. tối
Hệ thống xử lý lệnh đặt hàng là một trong những lựa chọn hiện nay của các doanh
nghiệp khi muốn nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng trong công tác hậu cần. Nhiều
doanh nghiệp thay đổi và áp dụng công nghệ mới như tự động hoá trong công tác xử lý đơn
đặt hàng. Rõ ràng, tự động hoá có thể nâng cao được chất lượng dịch vụ khách hàng, như
tăng khả năng đáp ứng, chính xác hoá đơn, giảm thiểu chi phí kho bãi và xử lý thông tin.
Sự phát triển các chương trình dịch vụ khách hàng đòi hỏi phải thiết lập các tiêu
chuẩn dịch vụ, và các tiêu chuẩn này phải đảm bảo:
- Phản ánh các quan điểm của khách hàng
- Cung cấp các tiêu chuẩn để đánh giá hoạt động và mục tiêu của dịch vụ
- Cung cấp cho lãnh đạo những phương án để giải quyết vấn đề kinh doanh.
Doanh nghiệp cũng cần đánh giá sự tác động của các hoạt động hậu cần cụ thể như
vận tải, kho bãi, quản lý kho, kế hoạch sản xuất, mua bán và xử lý đơn đặt hàng. Nhân viên
cần báo cáo thường xuyên các kết quả thu được cho các cấp quản lý, đồng thời các cấp
quản lý cũng cần phải so sánh thực tế hoạt động với các tiêu chuẩn để có các biện pháp điều chỉnh kịp thời.
Như vậy, thành công của doanh nghiệp không chỉ ở khâu bán sản phẩm, mà còn
trong các hoạt động dịch vụ tạo ra các giá trị gia tăng và tạo ra các lợi thế cạnh tranh. Do
đó, hoạt động thương mại dịch vụ, là một trong những thành tố quan trọng tạo nên khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp.
4.2.2. Hệ thống thông tin
4.2.2.1. Khái quát về công nghệ thông tin trong logistics
Công nghệ thông tin (CNTT) là một thành phần quan trọng trong hạ tầng mềm của
lĩnh vực Logistics với nhiều giá trị gia tăng. Công nghệ Logistics mới dựa trên sự phát triển lOMoAR cPSD| 45469857
nhanh chóng của tin học trong thập kỷ qua. Các công nghệ này đã được áp dụng và triển
khai ở các doanh nghiệp Logistics trong hầu hết các lĩnh vực như: Dịch vụ khách hàng;
Kênh tiếp thị, Điều chỉnh thông tin; Hoạt động tài chính; Các liên minh chiến lược; Mua
sắm điện tử; Truyền thông; Quản lý nhân sự, Tin học hóa công việc của nhân viên thương
mại. Việc triển khai các công nghệ trong Logistics mang lại nhiều lợi ích như:
Tăng hiệu suất; Tăng lợi thế cạnh tranh; Tăng khả năng đáp ứng; Đảm bảo tuân thủ đáp
ứng nhu cầu phân tích báo cáo.
(*) Các công nghệ sử dụng trong Logistics:
Trên thế giới, các quốc gia như Singapore, Hồng Kông đã rất thành công trong việc
ứng dụng CNTT vào một số hoạt động: xử lý giao dịch, trao đổi dữ liệu, quản lý cảng biển,
sử dụng công nghệ trong xếp dỡ, giám sát, ...Các công nghệ đang trở nên phổ biến trong
hoạt động Logistics có thể kể đến là:
Mã vạch (Barcode): Là công nghệ nhận dạng tự động thông dụng nhất. Tính nhất
quán của công nghệ này là yếu tố quan trọng đối với năng suất và hiệu quả. Mã vạch lưu
dữ liệu theo chuỗi các thanh màu đen và trắng song song với các chiều rộng và khoảng
cách khác nhau. Chúng có thể được đọc bởi các máy quét quang học được gọi là đầu đọc
mã vạch hoặc quét từ một hình ảnh bằng phần mềm đặc biệt.
Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI - Electronic Data Interchange): Trao đổi dữ liệu điện
tử EDI được hiểu là "việc trao đổi điện tử của các tài liệu kinh doanh như đơn đặt hàng,
hóa đơn, ... từ máy tính của một tổ chức này tới tổ chức khác theo một định dạng chuẩn”.
EDI ra đời với mục tiêu giảm thiếu chi phí xử lý văn bản giấy tờ và đạt được các lợi thế
cạnh tranh tạo ra bằng cách rút ngắn thời gian trong chu trình xử lý. Hình 9.1 mô tả quá
trình trao đổi dữ liệu bằng EDI so với các phương pháp truyền thống.
Công nghệ RFID (Radio Frequency Identification): RFID là công nghệ nhận dạng
đối tượng bằng sóng vô tuyến. Công nghệ này cho phép nhận biết các đối tượng thông qua
hệ thống thu phát sóng radio, từ đó có thể giám sát, quản lý hoặc lưu vết từng đối tượng.
RFID là một phương pháp nhận dạng tự động dựa trên việc lưu trữ dữ liệu từ xa, sừ dụng
thiết bị the RFID và một đầu dọc RFID. Các hệ thống RFID có thể được sử dụng ở mọi
H th ng thông tin logistics H ệ th ố ng H ệ th ố ng Các ch l c ậ p k ế nghiên c ứ u
Môi trƣ ng ho
năng qu n tr ạ ch và thu th ậ p logistics logistics thông tin - Ho ạ t đ ộ ng - L ậ p k ế kinh doanh ho ạ ch - Qu ả n tr ị - Th ự c thi logistics H ệ th ố ng H ệ - Ki ể m soát - th ố ng Ho ạ t đ ộ ng th ự c thi báo cáo k ế t logis cs ti qu ả lOMoAR cPSD| 45469857
nơi, từ thẻ gắn trên quần áo đến tên lửa, từ các thẻ trên vật nuôi cho đến thực phẩm - bất cứ
nơi đâu cần hệ thống nhận dạng duy nhất. Với ưu điểm về mặt công nghệ là sự bảo mật và
độ an toàn của các thiết bị, công nghệ RFID được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực như quản
lý bán hàng, quản lý kho, quản lý tài sản, kiểm soát ra vào, tổ chức sự kiện...
4.2.2.2. Hệ thống thông tin Logistics (Logistics Information System – LIS)
Hệ thống thông tin Logistics(LIS) được hiểu là một cấu trúc tương tác giữa con người, thiết
bị, các phương pháp và quy trình nhằm cung cấp các thông tin thích hợp cho các nhà quản
trị logistics với mục tiêu lập kế hoạch, thực thi và kiểm soát logistics hiệu quả.
LIS giúp nắm vững thông tin về biến động của nhu cầu, thị trường và nguồn cung ứng, giúp
cho các nhà quản trị chủ động được kế hoạch mua hàng, giao hàng, dự trữ, thuê dịch vụ
vận tải… một cách hợp lí thoả mãn yêu cầu của khách hàng với mức chi phí thấp nhất. LIS
góp phần đảm bảo việc sử dụng linh hoạt các nguồn lực logistics, xây dựng chương trình
logistics hiệu quả, chỉ rõ thời gian, không gian và phương pháp vận hành các chu kỳ hoạt
động trong logistics. Tại các doanh nghiệp phát triển, mô hình cấu trúc của LIS được
chuyên môn hóa theo một số hoạt động chủ đạo (hình 4.4)
Hình 4.4: Hệ thống thông tin Logistics
Hình cho thấy mối quan hệ trong hệ thống thông tin logistics bao gồm các yếu tố về môi
trường Logictisc, quá trình ra quyết định Logictisc, 4 hệ thống con chủ yếu cấu tạo nên hệ
thống thông tin Logictisc là hệ thống hoạch định, hệ thống thực thi, hệ thống nghiên cứu
và thu thập tin tức, hệ thống báo cáo kết quả. Các hệ thống đó sẽ phối hợp cung cấp cho
nhà quản lý logistics những thông tin chính xác và kịp thời để lên kế hoạch, thực thi và
điều chỉnh các hoạt động logistics của doanh nghiệp.
Hệ thống lập kế hoạch: Bao gồm một loạt các kỹ thuật liên quan đến việc thiết kế các kế
hoạch tầm chiến lược như thiết kế mạng lưới, lập kế hoạch và dự đoán nhu cầu, phối hợp
các nguồn lực, kế hoạch hóa cung ứng, sắp xếp và lên kế hoạch sản xuất, kế hoạch phân
phối, các kế hoạch tầm chiến thuật như quản trị dự trữ, vận tải, và các tác nghiệp như nghiệp
vụ kho, quá trình đặt hàng và các sự kiện xảy ra hàng ngày lOMoAR cPSD| 45469857
Hệ thống thực thi: Hệ thống thực thi logistics bao gồm các kỹ thuật đảm nhiệm các chức
năng triển khai logistics trong thời gian ngắn hoặc hàng ngày về quản lý nhà kho, vận tải,
mua sắm, dự trữ, quản lý hiệu quả các đơn hàng của khách.
Hệ thống nghiên cứu và thu thập thông tin: Để thích nghi với các nhân tố môi trường vĩ
mô, môi trường kênh và nguồn lực bên trong công ty. Hệ thống nghiên cứu và thu thập
thông tin có vai trò quan sát môi trường, thu thập thông tin bên ngoài, thông tin có sẵn trong
lĩnh vực logistics và trong nội bộ công ty
Hệ thống báo cáo kết quả: Hệ thống báo cáo là thành phần cuối cùng trong LIS. Nếu các
báo cáo và kết quả không được truyền đạt hiệu quả thì các tư tưởng, nghiên cứu hữu ích và
giải pháp quản lý sẽ không thể đạt được. Các báo cáo hỗ trợ quyết định quản trị logistics tập trung vào 3 loại.
(1) Báo cáo để lập kế hoạch gồm các thông tin có tính lịch sử và thông tin trong tương
lai như thông tin về xu hướng bán, khuynh hướng dự báo, các thông tin thị trường, các yếu
tố chi phí của dự án kinh doanh;
(2) Báo cáo hoạt động cung cấp những thông tin sẵn có cho nhà quản lý và người giám
sát về hoạt động thực tế như việc nắm giữ hàng tồn kho, thu mua, đơn hàng vận tải, kế
hoạch sản xuất và kiểm soát, vận chuyển;
(3) Báo cáo kiểm soát cụ thể tổng kết chi phí và thông tin họat động ở các giai đoạn thích
hợp, so sánh ngân sách và chi phí hiện tại, chúng tạo ra nền tảng cho việc tiếp cận chiến
lược họat động và các sách lược.
4.2.2.3. Dòng thông tin logistics trong doanh nghiệp
Hệ thống thông tin logistics bao gồm 2 dòng chính, đó là sự kết hợp chặt chẽ của
các hoạt động kế hoạch - phối hợp và các hoạt động tác nghiệp. Những hoạt động chính
của hai dòng được thể hiện trong hình. Dòng phối hợp bao gồm những thông tin liên quan
tới việc lập kế hoạch và xuyên suốt quá trình hoạt động của công ty. lOMoAR cPSD| 45469857
K ế ho ạ ch K ế ho ạ ch K ế ho ạ ch K ế ho ạ ch K ế ho ạ ch chi ế n lư ợ c ngu ồ n l ự c logistics s ả n xu ấ t mua Qu ả n tr ị d ự tr ữ Qu Ho ả n lý Đáp ứ ng ạ t đ ộ ng V ậ n Mua đơn hàng đơn hàng phân ph ố i chuy ể n hàng
Hình 4.5: Liên kết của LIS ở hai mức độ hoạch định và tác nghiệp.
Dòng tác nghiệp liên quan tới những nghiệp vụ cơ bản liên quan đến thực hiện các đơn
hàng nhận được như ấn định dự trữ, vận chuyển, các đơn hàng bổ sung và những đơn hàng
của khách hàng. Đơn hàng bổ sung là việc cung cấp hàng cho những trung tâm phân phối
từ nơi sản xuất; còn đơn hàng của khách hàng liên quan tới việc cung cấp hàng từ các trung
tâm phân phối tới địa điểm của khách hàng. Vai trò của bộ phận quản trị dự trữ là để đảm
bảo rằng các hoạt động của dòng tác nghiệp được chỉ đạo trong sự thống nhất phù hợp với
các hoạt động của dòng phối hợp. Điều này đòi hỏi sự đồng bộ hoá của cả sản phẩm và
dòng thông tin 2 chiều trong chu trình đơn hàng hoàn chỉnh.
a. Dòng thông tin hoạch định-phối hợp
-Kế hoạch chiến lược: Kế hoạch chiến lược là kim chỉ nam, là thông tin định hướng cho
các nhà doanh nghiệp xây dựng kế hoạch & tổ chức thực thi ở các bộ phận chức năng. Kế
hoạch chiến lược tập trung vào hai mục tiêu marketing và tài chính.
- Kế hoạch nguồn lực: Đây là bước khởi đầu xác định khả năng các nguồn lực đáp ứng
logistics. Kế hoạch nguồn lực cần được xác định các yếu tố bao gồm nguồn hàng, kho hàng,
vốn dự trữ, phương tiện vận chuyển & nhân sự. Kế hoạch này giúp quản trị các nguồn lực
có hiệu quả để đáp ứng nhu cầu thị trường. Với mỗi mặt hàng kinh doanh, kế hoạch nguồn
lực phải xác định được vị trí (ở đâu?) thời gian (khi nào?) và số lượng (bao nhiêu?) để thu
mua, dự trữ và vận chuyển.
- Kế hoạch logistics: Kế hoạch này phối hợp cơ sở vật chất, thiết bị, lao động, và nguồn
dự trữ cần thiết để thực hiện nhiệm vụ logistics. Kế hoạch logistics bị ràng buộc bởi kế
hoạch nguồn lực, thông tin dự báo về nhu cầu thị trường. Kế hoạch này bao gồm việc xác lOMoAR cPSD| 45469857
định rõ mục tiêu & quá trình tác nghiệp cho các hoạt động cơ bản (dự trữ, vận chuyển) &
hoạt động bổ trợ (kho, bao bì, LIS).
- Quản trị dự trữ: Đây là giao điểm giữa dòng hoạch định - phối hợp và dòng nghiệp
vụ, chỉ rõ thời điểm và vị trí tạo nên dự trữ. Từ điều kiện thông tin, hình thành dự trữ chỉ
rõ cái gì, ở đâu và khi nào của quá trình logistics tổng thể.
b. Dòng thông tin nghiệp vụ
- Quản lý đơn đặt hàng và thực hiện đơn hàng: Hoạt động này liên quan đến việc
chuyển thông tin về nhu cầu giữa các thành viên tham gia phân phối hàng hoá. Hoạt động
chủ yếu của quản trị đơn đặt hàng là tiếp nhận chính xác và đáp ứng yêu cầu đơn đặt hàng
của khách hàng. Công cụ chuyển tin: điện thoại, fax, Internet,...Xử lý đơn hàng là các công
việc để chuẩn bị thực hiện đơn đặt hàng của khách. Thời gian đáp ứng đơn hàng chịu ảnh
hưởng nhiều của năng lực xử lí thông tin của LIS. Trên cơ sở những thông tin về tình nhu
cầu và dự báo bán, quyết định về trình độ dịch vụ khách hàng, doanh nghiệp đưa ra những
quyết định về dự trữ, bao gồm quyết định về hệ thống dự trữ, mô hình kiểm tra dự trữ, lô
hàng nhập, và dự trữ bảo hiểm.
- Hoạt động phân phối: Quá trình này tạo điều kiện để tiến hành cung cấp hàng hoá
và dịch vụ cho khách hàng. Quá trình này đòi hỏi cung cấp thông tin để tạo thuận lợi và
phối hợp các hoạt động ở kho để cung ứng hàng hoá thoả mãn đơn hàng. Vấn để là phải
thoả mãn yêu cầu của khách hàng trong điều kiện dự trữ ở kho phải thấp.
- Nghiệp vụ vận chuyển & giao hàng: Khả năng tích hợp hệ thống thông tin trong công
tác vận chuyển & giao hàng đem lại tiện ích đáng kể & nâng cao khả năng kiểm soát hành
trình lô hàng cho cả doanh nghiệp & khách hàng.
- Nghiệp vụ mua và nhập hàng: Trên cơ sở những thông tin về kế hoạch mua, về nhu
cầu của khách hàng và tình hình dự trữ hàng hoá, doanh nghiệp đưa ra những quyết định
mua và nhập hàng vào cơ sở logistics (kho hoặc cơ sở sản xuất). Cùng với sự phát triển của
công nghệ thông tin, máy vi tính ngày càng có nhiều tiện ích, Internet ngày càng lan rộng
và bao phủ khắp toàn cầu, các phần mềm chuyên dụng ngày càng nhiều thêm… Các công
ty logistics tập trung đầu tư xây dựng hệ thống thông tin hiện đại, hiệu quả, hỗ trợ đắc lực hoạt động của họ.
4.2.3. Quản trị dự trữ
4.2.3.1. Khái niệm và chức năng của dự trữ
Dự trữ là các hình thái kinh tế của sự vận động các sản phẩm hữu hình – vật tư,
nguyên liệu, bán thành phẩm, sản phẩm,… - trong hệ thống logistics nhằm thỏa mãn nhu
cầu của sản xuất và tiêu dùng với chi phí thấp nhất.
lOMoAR cPSD| 45469857
Dự trữ trong thương mại thực hiện 3 chức năng cơ bản: -
Chức năng cân đối cung - cầu: Đảm bảo cho sự phù hợp giữa nhu cầu và
nguồn cung ứng về số lượng, không gian và thời gian. -
Chức năng điều hoà những biến động: Dự trữ để đề phòng những biến động
ngắn hạn do sự biến động của nhu cầu và chu kỳ nhập hàng. Thực hiện chức năng này, cần
phải có dự trữ bảo hiểm. -
Chức năng giảm chi phí: Dự trữ nhằm giảm những chi phí trong quá trình sản
xuất và phân phối. Chẳng hạn nhờ dự trữ tập trung, có thể vận chuyển những lô hàng lớn
để giảm chi phí vận chuyển, và, tuy phải tăng dự trữ và do đó tăng chi phí dự trữ, nhưng
tổng phí vận chuyển và dự trữ giảm đi đáng kể.
4.2.3.2. Phân loại dự trữ
a. Phân loại theo các yếu tố cấu thành dự trữ trung bình - Dự trữ chu kỳ :
Là dự trữ để đảm bảo cho việc tiêu thụ sản phẩm (sản xuất hoặc bán hàng) được tiến
hành liên tục giữa hai kỳ đặt hàng (mua hàng) liên tiếp - Dự trữ bảo hiểm:
Dự trữ chu kỳ chỉ có thể đảm bảo cho quá trình tiêu thụ sản phẩm được liên tục khi
lượng cầu (m) và thời gian cung ứng/ chu kỳ đặt hàng (Tdh) không đổi. Một khi m hoặc
Tdh hoặc cả hai yếu tố này thay đổi, dự trữ chu kỳ không thể đảm bảo cho quá trình diễn
ra liên tục, mà cần có dự trữ dự phòng, hay dự trữ bảo hiểm.
- Dự trữ trên đường:
Dự trữ sản phẩm trên đường được xem là một bộ phận cấu thành nên dự trữ trung
bình, nó bao gồm: dự trữ hàng hoá được chuyên chở trên các phương tiện vận tải, trong
quá trình xếp dỡ, chuyển tải, lưu kho tại các đơn vị vận tải.
Dự trữ trên đường phụ thuộc vào thời gian sản phẩm nằm trên đường và cường độ
tiêu thụ hàng hóa, và bên đảm bảo dự trữ trên đường là bên sở hữu sản phẩm trong quá trình vận chuyển.
c. Phân loại theo mục đích của dự trữ - Dự trữ thường xuyên:
Dự trữ thường xuyên nhằm đảm bảo thỏa mãn nhu cầu hàng ngày. Dự trữ thường
xuyên phụ thuộc vào cường độ và sự biến đổi của nhu cầu và khoảng thời gian giữa 2 thời
kỳ nhập hàng. Dự trữ thường xuyên bao gồm dự trữ chu kỳ và dự trữ bảo hiểm. -
Dự trữ thời vụ:
Có những loại hàng hoá tiêu thụ quanh năm, nhưng sản xuất có tính thời vụ như: lOMoAR cPSD| 45469857
nông sản, ngược lại có những sản phẩm chỉ tiêu dùng theo mùa vụ nhưng có thể sản xuất
quanh năm như : quần áo thời trang.
Để đáp ứng những nhu cầu nêu trên thì phải có dạng dự trữ theo mùa vụ. Một số ví
dụ về dạng dự trữ này, như: ở xứ lạnh người ta dự trữ rau để phục vụ cho mùa đông; các
công ty thiết bị trường học dự trữ sách, vở, dụng cụ học sinh để phục vụ cho ngày khai trường.
d. Phân loại theo giới hạn của dự trữ:
Theo tiêu thức này có các loại dự trữ: -
Dự trữ tối đa: Là mức dự trữ sản phẩm lớn nhất cho phép công ty kinh doanh
có hiệu quả. Nếu dự trữ vượt quá mức dự trữ tối đa sẽ dẫn đến hiện tượng hàng hóa bị ứ
đọng, vòng quay vốn chậm, kinh doanh không hiệu quả. -
Dự trữ tối thiểu: Là mức dự trữ sản phẩm thấp nhất đủ cho phép công ty hoạt
dộng liên tục. Nếu dự trữ sản phẩm dưới mức này sẽ không đủ nguyên vật liệu cung cấp
cho sản xuất, không đủ hàng hóa cung cấp cho khách hàng, làm gián đoạn quá trình sản xuất cung ứng. -
Dự trữ bình quân: Là mức dự trữ sản phẩm bình quân của công ty trong một
kỳ định (Thường là một năm).
4.2.3.3. Các yêu cầu quản trị dự trữ,
Quản trị dự trữ trong doanh nghiệp phải đảm bảo 2 yêu cầu: Yêu cầu trình độ dịch
vụ, và yêu cầu giảm chi phí dự trữ.
- Yêu cầu trình độ dịch vụ
Trình độ dịch vụ là việc xác định các mục tiêu hoạt động mà dự trữ phải có khả năng
thực hiện. Trình độ dịch vụ được xác định bằng thời gian thực hiện đơn đặt hàng; hệ số
thoả mãn mặt hàng, nhóm hàng và đơn đặt hàng (sản xuất, bán buôn); hệ số ổn định mặt
hàng kinh doanh hệ số thoả mãn nhu cầu mua hàng của khách (bán lẻ). Những chỉ tiêu trình
độ dịch vụ khách hàng trên đây phụ thuộc khá lớn vào việc quản trị dự trữ. Trình độ dịch vụ do
dự trữ thực hiện được tính toán theo công thức sau: mtd- Trình
độ dịch vụ (một loại sản phẩm) d 1
M cmt- Lượng sản phẩm không thỏa mãn yêu cầu tiêu thụ
Mc- Nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của cả kỳ lOMoAR cPSD| 45469857
Trường hợp một đối tượng tiêu thụ nhiều loại sản phẩm thì trình độ dịch vụ chung được tính như sau:
ndc- Trình độ dịch vụ chung cho một đối tượng tiêu thụ sản phẩm dc
di di- Trình độ dịch vụ của mặt hàng i i 1 n- Số sản phẩm cung cấp
Để nâng cao trình độ dịch vụ của dự trữ, có thể sử dụng những giải pháp sau: -
Thứ nhất là giải pháp truyền thống: tăng cường dự trữ. Giải pháp này có thể
đạt đến trình độ dịch vụ nhất định, nhưng có thể làm tăng chi phí dự trữ và cả hệ thống logistics. -
Thứ hai là giải pháp cải tiến: vận chuyển sản phẩm nhanh, chọn nguồn hàng
tốt hơn và quản trị thông tin hiệu quả hơn. Giải pháp này nhằm chọn phương án tối ưu trong quản trị dự trữ.
- Yêu cầu về giảm chi phí có liên quan đến dự trữ
Có nhiều loại chi phí có liên quan đến quản trị dự trữ. Tổng chi phí có liên quan đến dự trữ bao gồm: ∑F = Fm + Fd + Fv + Fdh
Trong đó: Fm: Chi phí giá trị sản phẩm mua Fd: Chi phí dự trữ Fv: Chi phí vận chuyển Fdh: Chi phí đặt hàng
Các loại chi phí này đều liên quan đến một thông số của dự trữ, đó là qui mô lô hàng
mua. Khi thay đổi qui mô lô hàng mua, các loại chi phí này biến đổi theo chiều hướng
ngược chiều nhau, cụ thể chi phí dự trữ biến đổi ngược chiều với các chi phí: giá trị sản
phẩm mua, chi phí vận chuyển, chi phí đặt hàng.
Một số chi phí cấu thành nên chi phí đảm bảo dự trữ: -
Chi phí vốn: chi phí bằng tiền do đầu tư vốn cho dự trữ, và thuộc vào chi phí
cơ hội. Chi phí vốn phụ thuộc vào giá trị dự trữ trung bình, thời gian hạch toán và suất thu
hồi vốn đầu tư. Thông thường trên thị trường tiền tệ, tỷ lệ chi phí vốn được tính theo lãi
suất tiền vay ngân hàng. Tỷ lệ chi phí vốn trung bình là 15%, dao động từ 8-40%. -
Chi phí công nghệ kho, thường gọi là chi phí bảo quản sản phẩm dự trữ ở kho.
Trung bình chi phí này là 2%, dao động từ 0-4%.